Chương Hai Mươi Ba: Bình đại loạn, Dựng đại nghiệp
Cường giả nghịch thế, dời núi lấp bể
dựng cơ đồ
Hoa Lư.
Lĩnh gặp được con trai duy nhất sau
15 năm xa cách thì vô cùng xúc động, nghe con thuật lại mọi chuyện ở kinh thành
thì rất vui mừng. Lĩnh bảo con trai:
-
Con
ơi, thời cơ của Đinh gia ta đã tới rồi. Ta chờ ngày này đã hơn hai mươi năm trời.
Nay con dẹp được Xử Bình là có công rất lớn. Người này mưu sâu kế hiểm. Gầm trời
này hắn chỉ đứng sau Dương Tam Kha. Ta đang lo chưa biết vào Cổ Loa thế nào, giờ
ta không cần phải nghĩ về Cổ Loa nữa.
Liễn bảo cha:
-
Con
nghe Dương lão tướng nói, Chương Dương Công Dương Tam Kha có lòng ưu ái cha.
Nay thế cuộc loạn như vầy, bá tánh lầm than, người có tâm không thể yên lòng.
Cha có nên cầu ngài ấy giúp?
-
Con
ơi, - Lĩnh than – Điều con nghĩ ta đã nghĩ từ mấy năm trước. Ta tới tận nơi mời,
nhưng người đó từ chối. Ta cũng tiếc lắm thay. Người tài thế mà đứng ra, thiên
hạ này tất yên trở lại.
-
Cha
nên mừng mới phải. Vì ngài ấy không đứng ra, nên cơ hội cho Đinh gia ta sẽ lớn
hơn. Con nghe nói cha đã thảo phạt phương Nam. Nay có thể lấy cớ này đến gặp
ngài ấy xin chỉ giáo.
-
Phương
Nam chỉ có vài chục sứ quân nhỏ lẻ, tổng cộng không bằng một nửa binh của ta.
Những sứ quân mạnh đều ở mạn Giao châu, Phong châu, Ái châu. Những kẻ này đa số
đều là hào kiệt, chí hướng dã tâm đều không thua ta. Có đánh bại thì chúng cũng
lại nổi dậy tiếp. Tâm chúng còn thì mối họa vẫn còn. Nên ta phải có cách thu phục
được những kẻ này. Đúng là ta phải tới Giao Thủy một chuyến.
Sau đó Lĩnh cho con làm bổ tướng, sai
đi châu Ái và châu Hoan chiêu mộ binh mã, thăm dò các sứ quân ở đó.
Tháng 10 năm Bính Dần (966), Đinh Bộ
Lĩnh tới yết kiến Chương Dương Công Dương Tam Kha lần thứ hai ở Giao Thủy. Lĩnh
thành tâm hỏi Kha:
-
Nay
ta đã thu được ba châu phương Nam. Nhưng các sứ quân mạnh nhất ta đều chưa động
tới. Họ cũng chưa để mắt đến ta. Thế cuộc này, nên làm thế nào cho trọn vẹn?
Kha mỉm cười, bảo Lĩnh:
-
Ông
hỏi thế, tất đã có cách. Chỉ là lo lắng chênh lệch hơn thua mà tới đây thôi. Ta
là lão già thôn dã, ở nhà chăm vợ dạy con, không màng thời cuộc, nên không thể
chỉ giáo gì được. Tuy vậy, ta cũng có thể cho ông biết một chút quan điểm của
ta. Hào kiệt nổi dậy, vì mộng nghiệp lớn, đều giống ông. Nhưng xét từ gốc rễ,
có chút khác nhau. Có người vốn trung thần ái tướng, có kẻ nghịch tâm bừng bừng.
Bỏ ai, dụng ai, hẳn ông tự biết. Với con cháu Ngô gia, chỉ là không cam lòng, mờ
mắt vì địa vị mà quên thời cuộc, hẳn nên khôn khéo hơn, đừng đánh vào tự tôn và
địa vị trong tâm tưởng bọn họ, sẽ khiến bọn họ oán hờn không thôi. Ngô Nhật
Khánh là kẻ nguy hiểm nhất. Dã tâm lớn, thủ đoạn lại tàn nhẫn. Người này phải lấy
sức khiến y bại, sau lại lấy tình khiến y phục, lấy lợi khiến y lung lạc mà quy
thuận.
-
Đa
tạ, đa tạ. Lời ngài rất hợp với ý ta.
Lúc được Kha tiễn ra về, Lĩnh bắt gặp
con gái nuôi của Kha, tiểu thư Vân Nga hái hoa đi qua. Nga nay đã gần 20, xinh
đẹp động lòng người, mắt phượng mày ngài long lanh đầy tình tứ.
Ðồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàng
Suối trong tựa ánh nguyệt tràn
Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây
Chim kề mỏ, bướm xỏ mày
Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm
Lĩnh
nhìn mê mệt, quên hết cả cảnh quan. Tam Kha e hèm, gọi Vân Nga ra chào khách.
-
Vân
Nga xin bái kiến đại nhân. – Giọng trong vắt và êm đềm như gió.
Thấy Lĩnh vẫn say mê chưa dứt, Kha
đành vỗ vai bảo:
-
Đây
là con gái ta, Dương Thị Vân Nga. Nay đã gần 20 tuổi mà không chịu lấy chồng, cứ
ở nhà đòi phụng dưỡng cha mẹ.
Lúc này Lĩnh mới hoàn hồn, vội chắp
tay bái lạy Tam Kha và bảo:
-
Không
dấu gì Chương Dương Công, ta đã có một vợ, một con trai và bốn con gái. Vợ ta mất
đã lâu. Bao năm qua ta chỉ mải binh đao, thê thất vẫn chưa nạp thêm ai. Tiểu
thư nhà ngài như hoa như ngọc. Ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, muốn xin hỏi
cưới làm vợ, có được hay chăng?
Tam Kha gật gù, mỉm cười nói:
-
Con
rể như ngài rất hợp ý ta. Nhưng chuyện đại sự của nữ nhi, ta phải hỏi qua phu
nhân và dưỡng nữ nhà ta mới trả lời ngài được.
Lĩnh tức thì quay ra nói với Vân Nga:
-
Ta
là Đinh Bộ Lĩnh, ở Hoa Lư, năm nay 43 tuổi. Ta là con trai lão tướng Đinh Công
Trứ, từng là dưỡng giả tử của Dương lão tướng quân Dương Đình Nghệ. Cha ta cùng
đánh trận và hành binh với cha nàng bao năm. Gia sự của ta nàng đã rõ. Ta một
lòng chí thú công danh, mưu dựng nghiệp lớn. Nàng có muốn cùng ta kết nghĩa
trăm năm, cùng hưởng bá nghiệp?
Vân Nga e lệ cúi đầu, khẽ thưa:
-
Đa
tạ tấm lòng mến mộ của Đinh thủ lĩnh. Tên tuổi của ngài, Trường châu này ai chẳng
hay. Được ngài đoái thương là phúc phận của Vân Nga. Tất cả tùy thuộc phụ mẫu.
Ta đâu dám trái lời.
-
Có
lời của nàng, ta rất hả lòng hả dạ. Lĩnh này tuyệt đối sẽ không bao giờ bạc đãi
nàng. – Lĩnh cười ha hả, quay sang Tam Kha - Vậy phu nhân ở đâu, có thể hay
chăng cho ta câu trả lời?
Thấy Lĩnh nóng vội, Kha vui vẻ dẫn
quay lại chính sảnh, rồi gọi phu nhân Đỗ Nhâm Phi ra. Nghe Kha kể rõ sự tình, lại
nhìn thấy con gái bên cạnh mắt lúng liếng liếc nhìn Lĩnh, Đỗ phu nhân ẩn ý nhìn
phu quân nhà mình, rồi từ tốn bảo:
-
Con
gái ta như hoa như ngọc, được cha yêu mẹ chiều như báu vật. Nay được Đinh thủ
lĩnh là một anh hùng hào kiệt mến thương, đúng là Dương gia ta có phúc. Nhưng
ngài bận việc binh mưu nghiệp lớn, nay đây mai đó. Hôn sự này, chẳng hay Đinh
gia dự liệu thế nào?
Lĩnh sảng khoái thưa:
-
Chí
làm trai đã quyết, nhất định vì nghiệp lớn mà phấn đấu cả đời. Ta quyết không để
nàng theo quân khổ sở. Ta nghĩ, trước đưa lễ cầu thân. Chờ tới khi thiên hạ yên
ổn hoặc không quá ba năm, Lĩnh này sẽ đem kiệu tám người khiêng rước nàng về
thành Hoa Lư.
Phu thê Tam Kha gật đầu hài lòng.
Lĩnh vội quì xuống, bái lạy hai người làm phụ mẫu, rồi trao cho Vân Nga ngọc bội
phòng thân làm tín vật đính ước. Trước khi lên đường trở về, Lĩnh còn dặn lại với
phu thê Tam Kha:
-
Thê
tử của con, nhờ phụ mẫu chăm sóc. Con đi phen này, nhất định phải dành được
giang sơn, đón nàng về làm hậu.
Lĩnh vừa đi khỏi, Lê Hoàn đã chạy tới
chặn đường phu thê Tam Kha, giọng đầy phẫn nộ:
-
Tam
gia, năm xưa người từng hứa sẽ gả tiểu thư cho ta. Khi nàng 16 tuổi, ta cầu thân,
ngài lấy lý do phu nhân sức khỏe không tốt, muốn ở bên tiểu thư thêm một thời
gian. Khi nàng 18, ta lại tới cầu ngài, ngài bảo thiên hạ loạn lạc, chờ một thời
gian. Nay Đinh Bộ Lĩnh vừa tới hỏi, ngài đã đồng ý ngay. Phải chăng ngài khinh
thường Hoàn ta nghèo hèn, thân phận không xứng với tiểu thư và Dương gia ngài?
Nhâm Phi nghe tiếng oán thán của người
thanh niên mà xúc động bật ho liên tục. Kha sai Vân Nga và nha hoàn đưa thê tử
vào trong nghỉ ngơi, còn mình dẫn Lê Hoàn tới thư phòng. Kha hỏi Hoàn:
-
Ngươi
năm nay bao nhiêu tuổi? Đã làm được những gì?
-
Ta…
- Hoàn ngạc nhiên nhìn Kha, rồi ngập ngừng bảo – Ta 25 tuổi. Đã làm được gì là
sao?
-
Ngươi
có biết khi 25 tuổi, ta đã làm được những gì không? – Tam Kha nghiêm khắc nhìn
Hoàn – Ta đi đánh phỉ rợ, dẹp loạn dân từ khi 7 tuổi. Cùng cha ta và các tướng
sĩ đánh Lý Tiến, diệt Trình Bảo khi chưa đầy 17 tuổi. Thống lĩnh hơn vạn binh
thành Đại La khi chưa đầy 18. Chém Công Tiễn trả thù cho cha và người nhà khi
24. Cùng Ngô Vương đánh bại Nam Hán trên Bạch Đằng giang, phục dựng quốc thống,
dựng nên nhà Ngô khi 25. Còn ngươi, ngươi làm được những gì? Ngoài việc ngày
ngày tìm cớ tới đây chạy theo sau tán tỉnh Vân Nga?
Thấy Hoàn im lặng cúi đầu, Tam Kha lại
nói tiếp:
-
Ta
đúng là đã từng nói với ngươi, sẽ gả con cho ngươi. Lúc đó ngươi nói thế nào?
Ngươi nhất định làm vua, để nàng làm hậu. Khi đó ngươi quần áo rách tả tơi,
không bằng khất cái, nhưng khí phách của ngươi khiến ta cũng thấy mến mộ. Sau
này, ta tiếp tục chỉ dạy ngươi rất nhiều, vì thấy ngươi có tố chất tốt, lại bền
bỉ, kiên gan, bạo dạn, liều lĩnh hơn người. Ta mong ngươi có thể dùng những gì
ta dạy để giúp xã tắc. Nhưng càng lúc ngươi càng làm ta thất vọng. Nam tử phải
đầu đội trời chân đạp đất. Ngươi sức dài vai rộng, tài trí không thua ai, vậy
mà suốt ngày trốn ở nơi thâm sơn cùng cốc này tơ tưởng giai nhân. Ta nói cho
ngươi biết, Bộ Lĩnh đã hỏi cưới, ta không cho cũng không được, vì hắn có đủ
năng lực khiến ta không thể chối từ. Còn ngươi? Ngươi có khả năng đó không?
Ngươi có thể bảo vệ cho Vân Nga một đời yên bình vui vẻ với nhan sắc khuynh
thành tuyệt diễm dường kia? Ngươi có thể khiến bao kẻ động tâm với con bé không
dám gây chuyện? Con trai ạ, con bé chỉ có thể an toàn bên một kẻ thực sự mạnh.
Chỉ như thế ta và Nhâm Phi mới có thể yên lòng nhắm mắt xuôi tay. Ta biết tình
cảm thanh mai trúc mã của hai đứa. Ta đã cho ngươi cơ hội. Ta đã chờ đợi ngươi.
Nhưng ngươi đến giờ vẫn tay trắng. Ngươi đã không làm gì cả. Ngươi nên trách
chính mình, chớ trách ta.
Hoàn khóc hu hu, ôm chân Tam Kha, thống
thiết kêu:
-
Tam
gia, con biết con sai rồi. Là con nông cạn. Con phải làm sao bây giờ? Con muốn
cưới nàng. Con thực sự muốn cưới nàng.
-
Vậy
thì phải xem bản lĩnh của ngươi thế nào. – Tam Kha lạnh lùng hất tay Lê Hoàn ra
– Ngoài kia trăm họ đang than khóc vì loạn lạc. Đi đi! Đi đi, con trai. Đã đến
lúc con phải làm việc gì đó.
Nói rồi Tam Kha bỏ ra ngoài. Lê Hoàn
khóc thống thiết một hồi lâu, tới tận tối, khi bụng réo rắt vì đói mới đứng dậy.
Hoàn đi ra ngoài sân, nhìn vào phòng ăn ấm cúng với ba con người đang vui vẻ,
tâm trí càng trở nên lạnh lẽo. Ngay đêm đó, Hoàn một mình một ngựa phi về châu
Ái, không một lời từ biệt phu thê Dương tam gia và Vân Nga.
Tháng 11 năm Bính Dần (966), Lê Hoàn
gia nhập đội quân của Đinh Liễn ở châu Ái. Hơn một tháng Liễn đã mộ được gần
3.000 người. Liễn cùng đám tân binh đánh trận đầu tiên với Ngô Nhật Khánh đã thắng
lợi.
Trận này, Hoàn lập công to, một mình
diệt được gần trăm lính của Khánh, khiến toàn quân đều nể phục và sợ hãi. Liễn
cũng kinh sợ không kém. Chưa bao giờ y thấy người nào hung hãn, tàn nhẫn và liều
lĩnh đến thế, một mình xộc thẳng vào kẻ địch chém giết như giữa chốn không người.
Liễn cho vời Hoàn tới hỏi gia sự. Lại cho người đi tìm hiểu thêm bên ngoài, thấy
người này đáng tin, Liễn lập tức phong Hoàn làm bổ tướng bên mình.
Tháng giêng năm Đinh Mão (967), Liễn
cùng Hoàn ba lần đánh bại Ngô Nhật Khánh. Từ đó, cứ thấy Hoàn, Khánh liền cố thủ
không ra. Cuối tháng, đội quân chiêu được lên gần vạn người. Liễn đưa quân về
Hoa Lư hợp với binh của cha.
Đinh Bộ Lĩnh lúc này có cả thảy gần
hai vạn binh, chỉ kém Kiều Tri Hựu ở Cổ Loa.
Tháng 2 năm Đinh Mão (967), Bộ Lĩnh
tiến đánh Tây Phù Liệt. Suốt bảy ngày đêm Hoàn bày mưu tính kế, khiến Nguyễn
Siêu đại bại. Siêu tâm phục khẩu phục lui binh. Trận này mưu kế và tiên phong đều
do Lê Hoàn hiến. Đinh Bộ Lĩnh và các tướng tá khâm phục không dứt. Lĩnh hỏi con
trai về Hoàn, biết chàng trai này mồ côi, lại nghèo khổ, được cha nuôi là quan
án sát dạy dỗ nên người, rất lấy làm ngưỡng mộ và tin tưởng. Lĩnh phong Hoàn
làm bổ tướng dưới trướng của mình, trực tiếp tham gia mưu sự với hai cha con Bộ
Lĩnh cùng vài ba người thân cận khác.
Tháng 3, Lĩnh cho Hoàn và con trai đi
đánh Đằng Châu. Nhìn khí thế hừng hực của đoàn quân và tài múa thương kinh người
của Hoàn, Phạm Phòng Át biết gặp được trang hào kiệt đích thực, đánh qua tay
vài chục chiêu đều bại dưới thương Hoàn. Phòng Át xin hàng.
Cuối tháng 3, Hoàn một mình dùng chưa
đến 3.000 quân đã đánh bại được Lã Đường, thu phục Tế Giang. Thừa thắng xông
lên Siêu Loại, Hoàn và Liễn cầm chân Lý Khuê hơn một tháng trời. Tới khi Lĩnh
đem đại quân tới, Lý Khuê bị diệt, quân Khuê một nửa chạy, một nửa xin hàng phục,
đầu nhập vào quân của Lĩnh.
Tháng 5, Lĩnh chia binh làm ba. Lê
Hoàn dẫn một cánh đi đánh Nguyễn Thủ Tiệp ở Vũ Ninh Châu. Lĩnh đánh Đỗ Cảnh Thạc
ở Đỗ Động Giang. Đinh Liễn dẫn toán quân còn lại tiến lên quét sạch đám loạn
dân ở Lục châu.
Tháng 10, ba cánh quân hợp nhau ở Cổ
Loa, cùng đánh thẳng vào thành. Kiều Tri Hựu đại bại, phải hàng phục. Bộ Lĩnh
tiến vào Cổ Loa, ngồi lên ghế rồng, xưng Vạn Thắng Vương. Bá quan ai nấy đều
tâm phục khẩu phục.
Tháng 11, Lĩnh kéo quân tới Phong
châu, đánh bại các sứ quân ở đất này. Chỉ còn cánh quân Hồi Hồ của Kiều Thuận
đánh hai tháng trời vẫn không phục. Hoàn hiến kế, lừa Thuận xuống núi, rồi vây
giết. Thuận chết, quân hắn tự nhiên tan. Một số chạy tới đầu phục làm binh của
Lĩnh.
Đến mùa xuân năm Mậu Thìn (968), chỉ
còn hai sứ quân họ Ngô là chưa thần phục. Lĩnh cho Lê Hoàn làm tướng tiên
phong, liên tục công thành Đường Lâm. Quân Ngô Nhật Khánh thua tan tác, nhưng y
kiên quyết không hàng phục. Lĩnh lại cho đánh tiếp, dùng mưu cắt đường lương bạc
tới Đường Lâm, ngăn nước chảy vào kênh mương. Tới cuối tháng 5, sức cùng lực kiệt,
thương tích và đói khát, đám binh nổi loạn phản chủ. Nhật Khánh đành hàng phục,
nhưng trong lòng thầm oán hận thấu xương cha con họ Đinh.
Còn với Ngô Xương Xí, Lĩnh biết không
thể dùng binh, sẽ mang tiếng phản nghịch ngàn đời không gột rửa được. Lĩnh lại
cho người tới hỏi Kha ‘làm sao chiêu hàng Xí’, Kha bảo:
-
Lấy
thân phận con rể ta.
Tháng 7 năm Mậu Thìn (968), Lĩnh đích
thân tới gặp Xí với thân phận con rể Dương Tam Kha. Lĩnh đưa thư Kha viết.
Xương Xí đọc thư xong, khóc thống thiết một hồi, nói với Lĩnh cho mình suy nghĩ
ba ngày. Ba ngày sau, Xí tới gặp Lĩnh, xin hàng phục. Nhà Ngô chính thức chấm dứt.
Tới tháng 8 năm đó, đại quân của Đinh
Bộ Lĩnh lên tới hơn bốn vạn người, đánh đâu thắng đó, không ai không phục. Đại
loạn Tĩnh Hải chấm dứt. Lĩnh thu quân về Hoa Lư. Sau lại lệnh cho người chuyển
toàn bộ những thứ cần thiết cùng văn võ bá quan đương triều, gia quyến của họ ở
Cổ Loa tới Hoa Lư.
Tháng 9, Lĩnh cho một đoàn kiệu lộng
lẫy tới rước tiểu thư Dương Thị Vân Nga về Hoa Lư trong sự ngưỡng mộ và hoan hỉ
của mọi tầng lớp bá tánh. Tiệc linh đình bảy ngày bảy đêm ở cả Trường châu.
Lê Hoàn định âm mưu cướp dâu, nhưng bị
Dương Tam Kha phát hiện, ngăn lại. Kha nhốt Hoàn tạm thời trong mật thất suốt một
tuần diễn ra lễ vu quy. Khi thả Hoàn ra, Kha ôn tồn bảo:
-
Nếu
đã nhẫn được tới hôm nay thì tiếp tục nhẫn. Bây giờ không được.
-
Tại
sao không? Ta đã gắng hết sức. Vì ta không làm vua?
-
Đúng.
Hắn làm vua. Ngươi chỉ bắt đầu chậm hơn hắn.
Nhìn Hoàn thất thểu rời đi, Tam Kha
khẽ lắc đầu. Một người từ sau mật thất đi ra.
-
Ngươi
tiếc cho hắn?
-
Không.
Ta tiếc cho Đinh gia. Hắn là một thanh kiếm sắc. Vân Nga là một con dao. Họ
Đinh kia có ngồi trên ngai được lâu hay chăng, đành phải cầu trời.
Hai người nhìn nhau gật đầu.
Người đó có thân hình lòng khòng, da
xanh tái như vừa trải qua thương thế cực nặng, tóc đã bạc trắng, mặc bộ đồ nông
dân thô sơ rộng thùng thình, bên tay phải trống không. Khuôn mặt y dù tái nhợt
và nhăn nheo, nhưng đường nét vẫn còn rất sắc sảo, đặc biệt đôi mắt. Đó là Lã Xử
Bình. Sau khi bị Liễn đâm ở đại điện, Bình được Tô Đồng – lúc này là một quản sự
nội cung – cứu mạng. Đồng thấy gia quyến họ Lã đã bỏ chạy hết, lại thấy Cổ Loa
cũng không thể trú chân được nữa, đành giả làm người đánh xe bán rượu, bí mật
mang theo Bình đến Giao Thủy nương nhờ Dương Tam Kha. Nơi này phong cảnh hữu
tình, thương thế của Bình cũng chóng dưỡng tốt. Hắn quyết chí học Tam Kha,
buông bỏ tất cả thế sự, làm một nông gia cần mẫn.
Tháng 10 năm Đinh Tiên Hoàng thứ 1
(968), Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt. Vua thoạt tiên muốn
đóng đô ở thôn Đàm, nhưng Lê Hoàn nói nơi này chật hẹp, không có thế hiểm trở,
nên đành lấy Hoa Lư làm kinh đô. Lại đặt vạc dầu trước điện, nuôi hổ báo trong
vườn, ai phạm tội bỏ vạc dầu hoặc vất cho hổ báo ăn. Dân kinh hãi, không ai dám
gây loạn, Đại Cồ Việt cứ thế mà dần yên.
Lịch sử Ngô triều đã hết, sử mới sang
trang từ đây.
*
* *
Tháng 12 năm Đinh Tiên Hoàng thứ 1
(968), bá quan dâng tôn hiệu cho vua, là Đại Thắng Minh hoàng đế, sử sách vẫn gọi
Đinh Tiên Hoàng.
Mùa xuân năm Đinh Tiên Hoàng thứ 2
(969), vua cưới thêm bốn người vợ nữa để hàng phục các tướng soái đã qui thuận,
ràng buộc khiến họ không dám mang tâm phản nghịch. Đó là các bà Lý Trinh Thục -
trưởng nữ của Lý Khuê đất Siêu Loại; Dương Nguyệt Nương – em gái của Dương Huy ở
Vũ Ninh; Nguyễn Thị Sen – con gái Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt; Hoàng Thị Liên
Hoa – mẹ Ngô Nhật Khánh. Duy có mối liên hôn với Nguyệt Nương còn được vua coi
là thành ý với cả nhà lão tướng Dương Cát Lợi và Dương Huy, báo đáp họ Dương đã
cưu mang, dạy dỗ Đinh Liễn 15 năm làm con tin ở Cổ Loa.
Tháng 5, vua lập Đinh Liễn làm Nam Việt
Vương, lại cho cưới em gái Ngô Nhật Khánh, và gả công chúa Phất Kim cho Khánh.
Nhưng lòng Khánh vẫn không nguôi hận.
Tháng giêng năm Đinh Tiên Hoàng thứ 3
(970), vua đặt niên hiệu Thái Bình, sai sứ sang Tống.
Tháng 6, vua ra chiếu lập năm hoàng hậu:
đệ nhất hoàng hậu Đan Gia Dương Thị Vân Nga, đệ nhị hoàng hậu Trinh Minh Lý
Trinh Thục, đệ tam hoàng hậu Kiểu Quốc Dương Nguyệt Nương, đệ tứ hoàng hậu Cồ
Quốc Nguyễn Thị Sen, đệ ngũ hoàng hậu Ca Ông Hoàng Thị Liên Hoa.
Tháng 7, phu nhân Đỗ Nhâm Phi của Chương
Dương Công Dương Tam Kha mất vì bệnh tật, an táng tại Giao Thủy. Vua sai tướng
quân Lê Hoàn mang lễ viếng tới Chương Dương phủ, đồng thời bảo vệ Đan Gia hoàng
hậu Vân Nga về chịu tang mẹ.
Tháng 8, Dương Tam Kha mất vì buồn
thương thê tử, hưởng thọ 58 tuổi, an táng tại Giao Thủy. Sau bài vị cả hai phu
thê Tam Kha được đưa về Dương gia ở làng Giàng, châu Ái. Quá nửa bá quan đều
thương khóc. Đan Gia hoàng hậu và Lê Hoàn ở lại Giao Thủy thêm hai tháng chịu
tang cha. Nhà vua và Nam Việt Vương đích thân tới viếng. (*)
Năm Đinh Tiên Hoàng thứ 4 (971), vua đặt
phẩm cấp cho bá quan và phong tước cho các tướng đi theo mình. Bạn nối khố Nguyễn
Bặc làm Định Quốc Công. Bạn nối khố Lưu Cơ làm Đô Hộ phủ sĩ sư. Lê Hoàn làm Thập
đạo tướng quân, thống lĩnh toàn bộ quân đội. Một số tướng soái thời Ngô đầu phục
cũng được tin dùng, như Phạm Phòng Át, Kiều Tri Hựu… Vua nghe danh tiếng và tài
năng của thiền sư Ngô Chân Lưu – con trưởng Thiên Sách Vương, bèn ban hiệu
Khuông Việt thái sư cho tăng thống Ngô Chân Lưu, hòng cho bá tánh tỏ tường triều
đình rất coi trọng Phật giáo.
Năm Đinh Tiên Hoàng thứ 11 (978), Nhật
Khánh bảo mẹ mình Ca Ông – sủng phi của hoàng đế - tìm cách lập em trai làm
thái tử. Vua yêu chiều Ca Ông hoàng hậu và hoàng tử Đinh Hạng Lang vô cùng, liền
đồng ý. Sau lại lập Đinh Toàn – con trai Đan Gia hoàng hậu Dương Thị Vân Nga
làm Vệ Vương.
Mùa xuân năm Đinh Tiên Hoàng thứ 12
(979), Nam Việt Vương Đinh Liễn giết chết Thái tử Đinh Hạng Lang. Vua giận lắm,
nhưng không trách phạt. Ngô Nhật Khánh oán hận, bỏ trốn sang Chiêm Thành.
Tháng 10 năm đó, Lê Hoàn cùng Đan Gia
hoàng hậu lập mưu, dùng hoạn quan Đỗ Thích giết chết vua và Nam Việt Vương Đinh
Liễn. Đinh Tiên Hoàng ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi, an táng ở Sơn lăng Trường
Yên, Hoa Lư. Sau sử sách phong kiến cho lan truyền rằng, Lê Hoàn và Vân Nga tư
thông từ trước - điều này thực ra khó xảy ra với một người hung hãn, ngạo mạn
và dứt khoát như Lê Hoàn.
Bọn Nguyễn Bặc bắt Đỗ Thích giết đi,
đưa Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi, hiệu Đinh Phế Đế, phong mẹ làm
Dương Thái hậu. Lê Hoàn tự xưng Phó vương.
Tháng 11, Ngô Nhật Khánh đưa quân
Chiêm thành vào cướp ngôi, bị bão biển đánh chìm.
Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Lê Hoàn
xưng đế - đời sau gọi Lê Đại Hành hoàng đế. Đinh Toàn hưởng ngôi được 8 tháng
thì bị truất trở lại làm Vệ vương, sau này bị vua Lê Hoàn bày kế hại chết khi mới
18. Gia quyến Đinh Liễn bị truy đuổi khỏi kinh. Nhà Đinh chính thức sụp đổ sau
13 năm cầm quyền với hai đời vua.
Năm Lê Đại Hành thứ 3 (982), vua lập
Dương Thị Vân Nga làm hậu, đặt hiệu Đại Thắng Minh hoàng hậu – để trút nỗi oán
hận bao năm với Đại Thắng Minh hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh. Sau lập thêm bốn hoàng hậu
nữa vì mục đích chính trị.
Suốt 24 năm trị vì, vua công minh,
siêng năng hết mực, chiêu hiền đãi sĩ, phá Tống, diệt Chiêm, đập tan bạo loạn; hung
hãn can trường, “có chí vác cả núi ngăn cả bể”(1), thân kinh bách chiến bách thắng, lên ngôi vài năm giang
sơn đã định yên, mở mang bang giao, khai phá bờ cõi rộng thêm; “sứ thần phương
Bắc phải tôn sùng, tù trưởng sơn đông hết lòng làm phản” (2), công đức với xã tắc như trời bể.
Lê Đại Hành ví như một vị cường giả
tuyệt đại, có một không hai trong lịch sử Việt Nam hơn bốn ngàn năm qua. Lân
bang từ Tống đến Chiêm ai nấy đều kinh sợ, khâm phục. Trong nước bá tánh đời đời
không ai không ngợi ca, thờ phụng.
Nhà Lê hưởng được ba đời, kéo dài 29
năm.
*
* *
Sự vụ nhà Ngô kể đến đây đã hơi quá lời.
Gần 100 năm đầu giành tự chủ là thời
buổi chuyển giao rồi kiến thiết, có loạn cũng tất yếu. Sơ khai thì ấu trĩ, dĩ động
thì trưởng thành. Từ Ngô tới Đinh, từ Đinh tới Lê, công đức cứ lớn dần, chính sự
ngày càng trôi chảy.
Sông rộng trời cao, anh hùng lớp lớp.
Hào kiệt như Ngô Vương, vua Đinh, vua Lê, ai dám chối? Bị sử sách phỉ báng như
Dương Tam Kha, ai bảo không phải anh hùng?
Luận bàn đôi lời, kể ra cho thiên hạ
cùng tỏ.
------HẾT-------
(1) Trích trong Sử nhà Tống - lời
Tống Cảo, sứ thần đi sứ sang Đại Cồ Việt.
(2) Trích trong Lịch triều hiến chương
loại chí – Phan Huy Chú
(*) Cuộc đời sau khi rời khỏi Cổ Loa của Dương Bình Vương Dương Tam Kha không được sử sách hay bất kỳ tài liệu nào ghi lại rõ ràng. Theo họ Dương (trên trang web của họ Dương Việt nam) cho rằng, Bình Vương sau khi khai hoang ở Giao Thủy thì trở về làng Giàng châu Ái, ông có ba bà vợ, mười người con trai, chín người con gái. Tuy nhiên các thông tin này không có bằng chứng hay dữ liệu cụ thể, chỉ là lời đồn đoán, nên không được công nhận trong chính sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét