Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Tìm Kiếm Sự Khôn Ngoan Từ Darwin Tới Munger: BA


BA


HÀNH VI THÍCH NGHI ĐỂ SỐNG SÓT VÀ SINH SẢN


Cá thể đầu tiên
Không có cái gọi là xã hội. Chỉ có những cá nhân đàn ông và đàn bà, và có những gia đình.
-                   Margaret Thatcher (Cựu Thủ tướng Anh)

Con người làm những gì họ cho là mang lại lợi ích tốt nhất cho họ?
Đúng vậy, một đặc điểm cơ bản mà tất cả cá thể đều giống nhau đó là tư lợi. Chúng ta đều mong muốn bảo vệ gia đình và bản thân. Tại sao?
Vì chọn lọc tự nhiên là để sống sót và sinh sản, các cá thể cũng phải sống sót hoặc chết và sinh sản hoặc không, họ dễ hành động theo các cách thức để khuyến khích niềm tự hào bản thân vì đã sống sót và sinh sản. Môi trường tổ tiên chúng ta chỉ có các tài nguyên hữu hạn – gồm các tài nguyên tái sinh và cạnh tranh khốc liệt. Tính tư lợi đến rất tự nhiên.
Chuyện gì nếu tổ tiên chúng ta có lòng vị tha – các cá thể giúp đỡ người khác bằng chi phí của chính họ? Các cá thể vị tha là một bất lợi. Họ luôn đầy sơ hở trước những kẻ đột biến với nhiều lợi thế hơn họ. Hành vi vị tha không thể tiến hóa theo con đường chọn lọc tự nhiên vì chọn lọc tự nhiên yêu thích những cá thể tốt nhất trong công cuộc kiếm tìm sự sống sót và sinh sản thành công. Chỉ hành vi ích kỷ hay tương trợ vì tư lợi sẽ được ưu tiên bởi chọn lọc tự nhiên. Vài hành vi trong một số điều kiện có thể giống như vị tha, nhưng thường phải giải thích theo tính tư lợi. Nhận thức xã hội, kiêu hãnh, sợ hãi xã hội không chấp nhận, xấu hổ, cứu rỗi khỏi nỗi đau, tránh những điều tội lỗi, kỳ vọng về cuộc sống sau khi chết tốt hơn và một xã hội tốt hơn là những lý do đằng sau các hành động “vị tha”.
Nhưng những phẩm chất đạo đức xã hội đã phát triển như thế nào? Charles Darwin đã viết trong chương bốn của cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người): “Tại sao một con người nên cảm thấy anh ta phải tuân theo mong muốn bản năng hơn những thứ khác? Tại sao anh ta hối tiếc và cay đắng nếu thể hiện ý thức tự bảo vệ mạnh mẽ, và không thấy rủi ro cho tính mạng của mình khi cứu một đồng loại khác; hoặc tại sao anh ta nuối tiếc khi ăn trộm thức ăn từ một người đói khát hơn?” Trong chương năm của cuốn sách, Darwin đã viết đó là một “kích thích mạnh mẽ để phát triển đức hạnh xã hội, cụ thể là, khen và chê của đồng loại.”
Tình yêu với sự thừa nhận và nỗi sợ hãi sự ô nhục, cũng như sự ban cấp lời khen chê chính là do … bản năng thông cảm; và bản năng này không nghi ngờ đã được yêu cầu chân thật, giống như các bản năng xã hội khác, qua con đường chọn lọc tự nhiên… Chúng ta có thể sẽ kết luận rằng, người nguyên thủy, ở một thời điểm rất xa xôi trong quá khứ, có thể đã từng bị tác động của lời khen chê từ đồng loại. Thoạt tiên, các thành viên trong cùng bộ lạc chấp nhận hành vi xuất hiện trước mắt họ vì cái thiện rất chung chung, và có thể cho rằng ma quỉ xuất hiện. Để làm việc thiện với người khác và làm cho người khác cũng thấy họ nên làm với bạn – là những tảng đá đầu tiên hình thành nên đạo đức. Thế nên rất khó có thể phóng đại tầm quan trọng trong suốt thời kỳ thô sơ với lòng yêu mến được ngợi khen và sợ hãi bị chê cười. Con người không bị xô đẩy bởi bất kỳ cảm xúc sâu sắc hay bản năng nào, để hi sinh tính mạng vì việc thiện cho người khác, thậm chí còn bị chọc tức bởi những hành động có ý nghĩa vinh quang, ví dụ như kích thích mong muốn vinh quang ở người khác, và tăng cường luyện tập để có cảm giác cao quí vì được ngưỡng mộ. Con người có lẽ sẽ làm việc thiện nhiều hơn nữa cho bộ lạc của mình, hơn nữa sinh con đẻ cháu với khuynh hướng kế thừa các đặc điểm cao quí.
Chuẩn mực đạo đức cao cũng có lợi với bộ lạc. Darwin tiếp tục:
Đừng quên rằng dù chuẩn mực đạo đức cao đã được ra đời, nhưng một phần nhỏ hoặc không có lợi với mỗi cá nhân và con cháu anh ta so với người khác trong cùng bộ lạc, tuy nhiên lợi ích của chuẩn mực đạo đức và sự gia tăng số lượng những người quyên góp chắc chắn sẽ tạo ra một lợi ích to lớn cho bộ lạc so với những bộ lạc khác.

Hợp tác thường xuyên là lợi ích cao nhất
Nếu con người không vị tha như bản chất tự nhiên, họ có thể hợp tác không?
Trợ giúp lẫn nhau có giá trị sống còn to lớn. Nhưng con người đã cộng tác với nhau trong hoàn cảnh nào? Trò chơi Prisoner’s Dilemma (Bài toán Tù Nhân) có lẽ sẽ mở ra tia sáng cho vấn đề: Giả sử bạn và đối tác cùng nhau đi ăn trộm. Cả hai bạn bị cảnh sát bắt và hỏi cung từng người một. Không đủ bằng chứng để kết tội bạn, trừ khi đối tác của bạn thú nhận. Điều tra viên cho các bạn lựa chọn hợp tác hoặc không.
“Nếu cả hai từ chối phạm tội, vẫn đủ bằng chứng đưa cả hai vào tù một năm.”
“Nếu cả hai thú nhận, cả hai cùng vào tù 3 năm.”
“Nếu bạn thú nhận nhưng đối tác của bạn từ chối, bạn được tự do còn đối tác của bạn sẽ đi tù 10 năm.”
“Nếu bạn từ chối nhưng đối tác của bạn thú nhận, bạn sẽ vào tù 10 năm.”
Bạn nên làm gì? Kết quả của bạn đều phụ thuộc vào những gì đối tác của bạn làm. Từ quan điểm của một người ngoài cuộc, có vẻ như tốt nhất là cả hai cùng chối tội (chỉ bị tù 1 năm). Nhưng từ quan điểm cá nhân của chính bạn, có vẻ như tốt nhất là thừa nhận (tự do). Vấn đề là bạn không biết đối tác của bạn sẽ làm gì. Nếu anh ta phản bội bạn, tốt hơn là bạn cũng phản bội anh ta và cùng nhận 3 năm tù, thay cho 10 năm nếu bạn chối tội còn anh ta thừa nhận. Nếu anh ta từ chối nhận tội, cũng vẫn tốt hơn là bạn nên thừa nhận vì bạn sẽ được tự do, hơn là 1 năm tù nếu bạn cũng không thừa nhận.
Vì cả hai cùng theo đuổi logic như thế và đều nhận tội, cả hai bạn sẽ đi tù 3 năm. Làm những gì bạn tin là tốt nhất sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ hơn nếu hai bạn cùng hợp tác và từ chối. Nhưng đây là một tình thế khó khăn. Bạn không biết liệu bạn có nên tin tưởng đối tác của mình hay không. Hợp tác chỉ có thể vận hành nếu bạn và đối tác của bạn tin tưởng lẫn nhau.
Các thử nghiệm cho thấy, nếu người ta chơi game thua lên thua xuống, họ học được một điều, sẽ có lợi hơn nếu hợp tác. Việc lặp đi lặp lại sẽ kiểm tra độ tin cậy. Tin tưởng là chìa khóa và rất mong manh. Nó có thể biến mất lúc nào đó. Tổng thống Mỹ thế kỷ 19 Abraham Lincoln đã viết: “Nếu bạn làm mất lòng tin của quần chúng, bạn không bao giờ có thể dành lại sự tôn trọng và yêu mến của họ. “
Cách khác tạo ra sự hợp tác là để cho các đối tác giao tiếp trong suốt trò chơi. Nói chuyện sẽ khích lệ việc cộng tác. Vì con người là động vật xã hội, họ có thể thay đổi hành vi của mình để người khác có lợi thế. Cuối cùng, vấn đề lòng tin và trao cho các cá nhân lời khích lệ hợp tác.
Trong chương ba cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người), Charles Darwin viết:
Vào thời điểm hành động, con người không nghi ngờ nữa, sẽ hành động theo sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn; và dù đôi khi điều đó cũng có lẽ nhắc nhở anh ta hướng tới những hành vi cao quý nhất, nói chung nó vẫn dẫn dắt anh ta đi tới thỏa mãn các mong muốn cá nhân của chính anh ta nhiều hơn là chi phí cho người khác. Nhưng sau khi đã thỏa mãn bản thân, khi quá khứ và các ấn tượng trở nên yếu ớt hơn đối lập với những bản năng xã hội bất tận, việc trừng phạt chắc chắn sẽ đến. Con người khi đó sẽ cảm thấy bất mãn với bản thân, và sẽ giải quyết bằng ít hoặc nhiều nỗ lực hơn nữa để hành động khác đi trong tương lai. Đó gọi là lương tâm; khi lương tâm nhìn lại và phán xét quá khứ, trong đó có cả những loại bất mãn kia, nếu yếu, chúng ta sẽ gọi lên sự nuối tiếc, và nếu nghiêm trọng, sẽ ăn năn hối hận.
Nhưng chúng ta cũng phải nhận thấy giao tiếp có thể lừa phỉnh. Con người cũng giả dối. Cũng như vậy, giao tiếp trò chuyện không phải hoàn hảo – có thể có lỗi hay hiểu nhầm.
Chiến lược được sử dụng hiệu quả trong một thời gian dài là một phiên bản hiện đại của “ăn miếng trả miếng” hay TIT – FOR – TAT. Nó cho rằng, chúng ta nên hợp tác ngay từ lần gặp đầu tiên và sau đó làm bất kỳ những cái gì mà “đối thủ” của chúng ta đã làm trong quá khứ. Khi đối thủ của bạn hợp tác, chúng ta nên hợp tác. Khi đối thủ không hợp tác, chúng ta nên trả đũa. Rồi sau đó hãy tha thứ và quay lại hợp tác lần kế tiếp. Nó tưởng thưởng sự hợp tác đã qua và trừng phạt việc bỏ đi trước đây. Nó giả sử rằng trò chơi được lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác. Thực tế chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu chúng ta có gặp lại đối thủ đó trong tương lai hay không. Cũng như đối thủ, chúng ta cũng không biết khi nào trò chơi kết thúc, có vẻ công bằng. Tất nhiên, trò Prisoner’s Dilemma chỉ là trò chơi hai người. Thực tế thường là sự tương tác của rất nhiều người.
Có một nhóm các nhà khoa học nói rằng, chúng ta cư xử tốt hơn người khác – các con cháu họ hàng gần về mặt di truyền với chúng ta. Đó là sự chọn lọc nhân thân. Chúng ta hành xử vị tha với thân nhân mình vì họ chia sẻ các gene chung với ta. Các nghiên cứu chỉ ra rằng trong các loài có tính xã hội, họ hàng thường giúp nhau nhiều nhất. Hai cá thể càng gần gũi nhau về mặt di truyền, họ càng có khuynh hướng đối xử với nhau tốt hơn. Nếu bạn hy sinh điều gì cho con cái bạn, có lẽ sẽ tổn hại bản thân bạn, nhưng vì con cái của bạn chia sẻ các gene của bạn, hiệu ứng nói chung là vẫn tích cực. Các nhà khoa học cho rằng một thử nghiệm chọn lọc thân nhân là những gì chúng ta có thể làm nếu một người họ hàng và một người bạn tốt cùng sắp bị chết đuối. Chúng ta chỉ có thể cứu được một trong số họ. Điều gì xảy ra nếu một trong số họ là anh em họ hàng xa mà bạn chỉ gặp 2 lần, còn người bạn kia ngày nào cũng cùng bạn chơi đùa? Bạn sẽ cứu ai?
Hành xử nào là phù hợp với tổ tiên của chúng ta?

Xu hướng sợ hãi
Những nỗi sợ hãi của chúng ta luôn luôn nhiều hơn số lượng nguy hiểm.
-          Lucius Annaeus Seneca (Nhà triết học La Mã, 4 TCN-65)

Các hành khách lên chuyến bay 651 đi Chicago. Hai giờ sau khi cất cánh, người phục vụ chuyến bay nghe thấy tiếng ồn khả nghi từ phòng vệ sinh. Các hành khách bắt đầu truyền nhau. Sự hoảng loạn tràn ra.
Chúng ta đều sợ hãi những sự kiện bi đát và đe dọa chúng ta. Ta sợ mất sức khỏe, gia đình, bạn bè, an toàn, tiền bạc, địa vị xã hội, quyền lực, hay công việc. Chúng ta cũng sợ hãi bạo lực, tội phạm, trừng phạt, từ chối, thất bại, không biết, sự cố bất thình lình, những gì không thể tiên đoán trước hay những gì không thể điều khiển được. Các nghiên cứu chỉ ra rằng ngay khi chứng kiến một sự kiện gây chấn thương cũng có thể sinh ra những phản ứng sợ hãi giống như chính bạn bị chấn thương vậy.
Nỗi sợ hãi là cảm xúc cơ bản nhất của chúng ta. Sợ hãi tiến hóa để giúp chúng ta dự đoán nguy hiểm và tránh đau đớn. Nhà văn khoa học Rush Dozier đã viết trong cuốn Fear itself (Bản chất nỗi sợ hãi): “Nỗi sợ hãi là cơ bản, vì sự sống là cơ bản. Nếu chúng ta chết, mọi thứ đều trở nên vô giá trị.”
Nhân loại đã phát triển cảm xúc mạnh mẽ về nỗi sợ hãi. Môi trường của tổ tiên chúng ta đầy hiểm nguy. Nỗi sợ hãi với những nguy hiểm vật lý, sự không thừa nhận của xã hội, thiếu thức ăn, không bạn tình, thú dữ, v.v… Tự tồn tại là một sự khuyến khích mạnh mẽ. Các sai lầm có thể phải trả giá cực đắt. Giả sử hai cá thể cùng nghe thấy một âm thanh lạ sau bụi rậm. Một người nhìn ra phía sau bụi rậm và bị một con rắn độc cắn rồi chết. Người kia nhìn những gì đã xảy ra, chạy trốn và sống sót. Luôn giả thiết có mối đe dọa sau những bụi cây và chạy trốn có thể cứu mạng ta. Chi phí của sai lầm và chạy khi không có con rắn nào là rất nhỏ. Nhưng cái giá của việc ở lại quanh quẩn khi có một con rắn có thể là chính mạng sống. Thất bại trong việc phát hiện ra các mối đe dọa tiềm tàng thường phải trả giá đắt hơn một cảnh báo sai. Tổ tiên chúng ta đã học thông qua việc thử và sai trong một thời gian dài, đau khổ có thể tránh được nếu họ sợ hãi. Họ sống sót thoát khỏi các hiểm nguy vì họ đã học được phải đáp trả như thế nào.
Nếu đau khổ và sung sướng là những chỉ dẫn hướng chúng ta tới sống sót và sinh sản, nỗi sợ hãi là dấu hiệu cảnh báo sinh học của chúng ta để tránh khỏi nỗi đau.  Sợ hãi cảnh báo chúng ta những đe dọa tiềm tàng và giữ chúng ta không hành động theo những con đường dẫn đến tự diệt. Nó giúp chúng ta tránh khỏi những đe dọa và khiến chúng ta hành động để ngăn chặn những tổn thương lớn hơn. Sợ hãi chỉ dẫn ta tránh khỏi những gì đã không làm việc trong quá khứ. Sợ hãi gây ra lo lắng và băn khoăn, một phản ứng bình thường trước các hiểm nguy vật lý. Nó kích hoạt các hormone như adrenaline và cortisol, chúng khiến chúng ta luôn chú ý các nguy cơ vì chúng ta đang cần tập trung trọn vẹn vào việc thoát ra khỏi mối đe dọa.
Mức độ sợ hãi mà chúng ta cảm nhận phụ thuộc vào việc biên dịch nguy cơ và nhận thức cách điều khiển. Chúng ta càng cảm thấy vô dụng và dễ bị tổn thương bao nhiêu, cảm xúc sợ hãi càng mạnh bấy nhiêu.
Giả sử bạn đang đi dạo một mình lúc đêm khuya trên một con phố hoang ở thành phố New York. Bỗng nhiên bạn nghe thấy những bước chân phía sau bạn. Chuyện gì xảy ra? Ngay lập tức bạn cảm thấy đang rơi vào tình trạng tồi tệ nhất – cướp, cưỡng hiếp, v.v… Hệ thống thần kinh tự trị của bạn sẽ chuyển giao và chuẩn bị cho bạn chiến đấu hoặc chạy trốn. Phản ứng của bạn bắt đầu hình thành trong bộ não và kích hoạt một quá trình hóa sinh học. Nhịp tim, nhịp thở, áp suất máu, xung thần kinh và lượng đường trong máu bạn đều tăng lên. Hành vi thông thường khi bạn là nạn nhân của stress, cũng được nhận thức tương tự. Bạn phản ứng với nỗi sợ hãi trên một con phố hoang vì tiến hóa đã đóng gói vào trong não bạn và đăng ký nỗi đau khổ này cần nhạy cảm hơn bất kỳ cảm xúc nào khác. Bạn đã sử dụng “bộ nhớ” của quá khứ các tổ tiên của bạn – hệ thống sợ hãi nguyên thủy của bạn để chiến đấu hoặc chạy trốn.
Những gì chúng ta sợ hãi và cường độ phản ứng của chúng ta phụ thuộc vào các gene, kinh nghiệm sống, và tình huống cụ thể. Thoạt tiên bạn sẽ phản ứng theo bản năng, nhưng nếu tình huống này bạn đã có kinh nghiệm trước đó (vì não bạn đã được nối dây liên tục với các kinh nghiệm sống), phản ứng cuối cùng có thể bình tĩnh hơn. Bạn nhìn quanh và thấy một bà già đang dắt chó đi dạo. Hoặc bạn có lẽ sẽ chạy mất, vì bạn muốn tránh những tình huống như trong quá khứ khiến bạn đau đớn. Bạn càng được tiếp xúc với một kích thích càng nhiều, dù là thứ rất kinh khủng đi chăng nữa, ngưỡng chịu đựng sợ hãi của bạn càng cao. Nếu bạn đã từng đi dạo trên cùng con phố hoang này rất nhiều lần trước đó và nhận ra mỗi lần tiếng ồn đều từ bà già dắt chó đi dạo kia, bạn có lẽ sẽ không sợ hãi nữa. Trừ khi một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra.
Thường thường các cảm xúc mang thông tin cảm tính giúp chúng ta ra quyết định tốt hơn. Ví dụ, tội lỗi có thể làm chúng ta ăn năn hối hận khi gây ra những việc sai trái, và ta sẽ sửa chữa. Nó cũng có thể khiến ta hợp tác. Sự thù ghét có vẻ cũng là một phản ứng với nguy hiểm bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật và nguy cơ bị làm hại. Xấu hổ cũng giúp ta tránh vài cám dỗ hay giảm rủi ro đối đầu trong nhóm. Người không thể trải nghiệm với các đáp ứng cảm xúc do não bị thương tổn, sẽ có thể không có khả năng học từ sai lầm hay lựa chọn một cách thức mạch lạc.

Tìm kiếm những lời giải thích
Tôi đã ăn một loại cây và giờ tôi bị ốm. Do đó, tôi tin rằng loại cây đó không tốt cho tôi.” Trong chương hai cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người), Charles Darwin đã viết: “Ngay khi những năng lực quan trọng như tưởng tượng, tự hỏi và tính tò mò, cùng với vài sức mạnh suy luận khác, bắt đầu được phát triển từng bước, con người đã thèm khát được hiểu hết những gì đang xảy ra xung quanh họ một cách tự nhiên.”
Chúng ta không thích những thứ không chắc chắn hoặc vô danh. Chúng ta cần phân loại, chia nhóm, tổ chức và xây dựng cấu trúc thế giới. Việc phân loại các ý tưởng và các đối tượng giúp chúng ta nhận diện, phân biệt và hiểu biết. Nó đơn giản hóa cuộc sống. Hiểu và điều khiển được môi trường giúp chúng ta phản ứng tốt với tương lai. Chúng ta muốn biết những thứ đó đã xảy ra như thế nào và tại sao, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Hiểu được một sự kiện xảy ra như thế nào giúp chúng ta tiên đoán được nó có thể xảy ra lại như thế nào. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta luôn tìm kiếm các mô hình và quan hệ nhân quả giữa các đối tượng, hành động, và tình huống. Việc này giúp xác định và hiểu biết mọi thứ dễ dàng hơn, và tiên đoán dựa trên sự tương tự giữa các mô hình cũng dễ dàng hơn. Phát hiện và nhận diện các kết nối giữa mọi thứ và sự kiện trong môi trường giúp chúng ta học được điều gì đang và không hoạt động. Các mô hình mẫu cũng giúp chúng ta tiện nghi hơn, làm cho nhu cầu tìm ra chúng càng trở nên quan trọng hơn.
Để học được những gì làm việc và không, những gì tốt và tồi tệ, chúng ta phải khám phá. Khám phá môi trường thành công cho phép chúng ta sống sót và sinh sản.
Ghi nhớ nơi chốn, mẫu vật và các sự kiện rất quan trọng. Nhưng thi thoảng, bộ não có thể bị thu hút đặc biệt bởi những thông tin mới hay những kinh nghiệm lạ. Những nghiên cứu gần đây cho rằng bộ não phản ứng với những điều mới lạ. Cái không biết sẽ có khả năng được tưởng thưởng, do đó sẽ khích lệ chúng ta khám phá môi trường và học hỏi cho tương lai.
Chúng ta phải linh hoạt đối với những thay đổi liên tục và những điều không đoán được. Ta thường xuyên khám phá những cái không biết trong tình trạng ngẫu nhiên. Ví dụ, nhiều động vật, khi tìm kiếm thức ăn, sẽ bắt đầu tìm kiếm ngẫu nhiên, và chỉ thay đổi hành vi của chúng khi chúng nhìn thấy một kích thích được tưởng thưởng. Sau đó chúng sẽ hướng tới nó.
Linh hoạt và học hỏi vô số lựa chọn để chọn ra cái thích hợp nhờ tương tác với thế giới, là một giá trị lớn. Nó ám chỉ rằng việc tìm ra những cách thức mới để tương tác với thế giới được ưu tiên hơn so với luyện tập quá sức trong những mô hình cũ. Ví dụ, các nghiên cứu về ong mật cho thấy chúng định hướng theo một tổ chức bộ nhớ không gian giống như bản đồ. Khi những con ong được đào tạo hết sức để tìm ra một nơi có mật hoa, chúng rất dễ dàng tìm được đường trở về tổ từ nơi đó, nhưng lại không dễ dàng lắm nếu từ những nơi khác. Nhưng khi vẫn những con ong đó được đào tạo hướng tới nhiều nơi có mật, chúng sẽ tìm đường về nhà tốt hơn dù từ nhiều vị trí khác nhau. Các nghiên cứu sâu hơn cũng cho thấy chúng ta học tốt hơn khi chúng ta trộn lẫn nhiều thông tin với những gì ta đã biết.

Phân loại nhanh
Câu chuyện về một người tới nhà thăm vị giáo sư. Bên ngoài căn nhà, một con chó đang chơi đùa trên bãi cỏ. Khi giáo sư mở cửa cho người đó vào nhà, con chó cũng chạy vào. Sau đó giáo sư hỏi người này: “Anh thường đi du lịch với con chó của mình à?” Người đó trả lời, “Đó không phải con chó của tôi. Tôi đã nghĩ đó là chó của ngài.”
Não chúng ta được nối dây để nhận thức trước khi nghĩ – sử dụng cảm xúc trước khi suy luận. Giống như hậu quả của xu hướng sợ hãi, việc phân loại nhanh đến rất tự nhiên. Thời gian và kiến thức giới hạn trong một môi trường nguy hiểm và đáng sợ làm cho việc khái quát hóa vội vàng và rập khuôn trở thành quan trọng để sinh tồn. Chờ đợi và cân nhắc các bằng chứng có nghĩa là chết. Có phải chúng ta thường xuyên vẽ nhanh ra các kết luận, hành động bốc đồng và sử dụng cảm xúc để tạo ra ấn tượng và đánh giá một cách nhanh chóng không?
Chúng ta đặc biệt đề phòng những gì chuyển động. Có lẽ nó ám chỉ sự nguy hiểm. Đó là lý do tại sao chúng ta tự giác nắm lấy một vị trí – hay ai đó có trách nhiệm – khi chúng ta phát hiện sự di chuyển. An toàn hơn là phải hối tiếc.

Nam và nữ có những ưu tiên khác nhau
“Bộ não để làm gì?” Giáo sư thần kinh học Michael Gazzaniga đã hỏi trong The Mind’s Past (Quá khứ của trí tuệ), “Câu trả lời thông minh cho câu hỏi đó là quan hệ tình dục. Nói một cách đầy đủ hơn, bộ não tồn tại để ra các quyết định tốt hơn về việc làm thế nào tăng cường khả năng sinh sản thành công.” Sinh sản là hoạt động trung tâm trong cuộc đời của mọi sinh vật sống. Khi một cá thể sống sót mà qua tuổi sinh sản, cá thể đó vô dụng về mặt tiến hóa.
Cuộc đấu tranh để sinh sản đôi lúc có thể có những hiệu ứng đặc biệt. Trong tự nhiên, mọi thứ không phải luôn luôn là những gì chúng có vẻ như thế.
Một con kiến trèo lên đầu một ngọn cỏ, ngã xuống, rồi lại cố thử đi thử lại… cho đến khi một con cừu đến và xơi luôn ngọn cỏ (và cả con kiến). TẠI SAO con kiến cứ mãi cố chấp trèo lên ngọn cỏ? Con kiến có lợi gì?
Không có lợi gì đối với con kiến. Đây là hành vi được thao tác bởi một loại sâu bọ ký sinh có nhu cầu đi vào ruột cừu để sinh sản. Bằng cách trưng dụng vật chủ tức thời là con kiến để trèo lên các ngọn cỏ, ký sinh trùng sẽ làm tăng cơ hội con kiến bị động vật ăn cỏ ăn thịt. Lợi ích ở đây là sự thành công về mặt sinh sản của ký sinh trùng, chứ không phải con kiến. Một loại ký sinh trùng khác, Toxoplasma, chỉ có thể sinh sản trong cơ thể mèo. Nó làm cho con chuột mất đi nỗi sợ hãi được kế thừa với loài mèo (mùi mèo) và sau đó khiến cho con chuột kết thúc trong bữa tối của một con mèo. Một loại ký sinh trùng khác làm cho cá bơi trong những vùng nước nông khiến chim có thể bắt được chúng, vật chủ cuối cùng của loại ký sinh trùng này.
Hầu hết động vật (gồm cả con người) làm vài việc để thu hút giới tính đối lập. Do chọn lọc tự nhiên tuyệt đối chỉ dành cho sinh sản trong một thế giới hữu hạn bạn tình, vài cá thể có năng lực tìm kiếm bạn tình tốt hơn những cá thể khác. Những cá thể có lợi thế trong thu hút bạn tình tiềm năng sẽ được “chọn lọc”. Những đặc điểm nào khiến chúng có lợi thế? Những đặc trưng giải phẫu hay hành vi nào sẽ thu hút được bạn tình khác giới hay đe dọa các đối thủ?
Darwin nhận thấy rằng nhiều đặc điểm giải phẫu và hành vi không có bất kỳ giá trị sống sót nào nhưng có thể đóng vai trò quan trọng trong thu hút bạn tình. Sức mạnh và vẻ đẹp là những dấu hiệu như vậy. Ông gọi cơ chế này là chọn lọc giới tính. Ví dụ, màu sắc phát sáng tạo ra sức hút giới tính giữa các con bướm. Và gà mái thích những con gà trống có đuôi to và đầy màu sắc.
Trong cuốn Parental Investment and Sexual Selection (Đầu tư của cha mẹ và chọn lọc giới tính), nhà sinh học Robert Trivers nói rằng sức mạnh đằng sau chọn lọc giới tính là đầu tư của cha mẹ, hay “một loại đầu tư nào đó của cha mẹ cho một cá thể của thế hệ con cháu để gia tăng cơ hội sống sót của con cháu (và do đó cả khả năng sinh sản thành công) với cái giá là khả năng đầu tư của cha mẹ cho một cá thể con cháu khác.”
Nam cần thu hút nữ. Nhưng họ cũng cần phải làm cho những người đàn ông khác tránh xa khỏi người phụ nữ “của họ”. Một phụ nữ phải đầu tư vào mỗi một trong các con của cô ấy. Đó là chín tháng mang thai và nhiều năm sau đó nữa để chăm con. Cô ấy đầu tư thời gian, năng lượng và làm tăng khả năng chết sớm của cô ấy. Có vài giới hạn trong việc có bao nhiêu đứa con cô ấy có thể sinh trong suốt cuộc đời. Một người đàn ông có ít chi phí hơn trong sinh sản. Anh ta có thể tương tác với nhiều phụ nữ và tạo ra một số lượng con khổng lồ. Anh ta không cần phải ở bên chúng suốt ngày. Nhiều phụ nữ có thể nuôi lớn con mà không cần trợ giúp.
Vì mục tiêu của tiến hóa là sinh sản, người đàn ông sẽ muốn quan hệ tình dục với càng nhiều phụ nữ càng tốt. Điều này gây ra sự cạnh tranh giữa đàn ông vì phụ nữ. Làm thế nào một người đàn ông trừ bỏ được cuộc cạnh tranh này? Anh ta phải làm bản thân cuốn hút hơn với phái nữ hoặc anh ta có thể bị loại khỏi cuộc cạnh tranh.
Thành công sinh sản của phụ nữ không phụ thuộc vào việc cô ta quan hệ với bao nhiêu đàn ông, mà là khả năng cô ta có cơ hội sử dụng các tài nguyên (như thức ăn, nơi trú ẩn, và sự bảo vệ) cho bản thân và các con của cô ta. Phụ nữ do đó phân biệt đối xử hơn đàn ông. Cô ta không thể lấy ngay anh chàng đầu tiên. Điều này làm cô ấy phải cạnh tranh với những người khác để sử dụng tài nguyên. Một người đàn ông được công nhận là giàu có và địa vị là một lợi thế. Vì thế các lựa chọn bạn tình (thể hiện như những ưu đãi vô thức) sẽ bị tác động bởi thực tế rằng phụ nữ gặp nhiều đe dọa hơn đàn ông.
Năm 1989, Giáo sư tâm lý học David Buss xuất bản một nghiên cứu với hàng nghìn đàn ông và phụ nữ từ 37 nền văn hóa trên thế giới, chỉ ra xếp hạng các chỉ tiêu quan trọng nhất khi lựa chọn ai đó để hẹn hò hay kết hôn. Phụ nữ nhấn mạnh vào triển vọng tài chính của bạn tình tiềm năng. Phụ nữ cùng thích những người đàn ông có tham vọng và siêng năng hơn. Phụ nữ thích đàn ông già hơn mình. Đàn ông thích phụ nữ trẻ hơn mình. Đàn ông xếp hạng cho sức hấp dẫn cơ thể cao hơn phụ nữ. Nghiên cứu cũng cho thấy đàn ông cảm thấy ghen tuông nhất khi người phụ nữ của anh ta quan hệ tình dục với bất kỳ ai khác. Phụ nữ cảm thấy ghen tuông nhất khi người đàn ông của cô ta bị cuốn hút về mặt cảm xúc từ bất kỳ ai khác.
Các nghiên cứu đã cho thấy sự khác nhau giữa các giới tính. Phụ nữ ít có khuynh hướng chấp nhận rủi ro. Họ bị tác động nhiều hơn nếu mất mát xảy ra. Họ ít cạnh tranh hơn và có ý thức về địa vị. Những nghiên cứu khác cũng cho thấy đàn ông và phụ nữ khác nhau trong hành vi và khả năng nhận thức. Vài khả năng trong số này phản ánh sự biến đổi hormone tác động đến sự phát triển của bộ não. Giống như hầu hết những thứ khác, điều này phụ thuộc hoàn cảnh.

Động vật xã hội
Chúng ta không quan tâm tới danh tiếng bản thân ở những nơi chúng ta chỉ ghé qua. Nhưng khi chúng ta phải ở lại một thời gian, chúng ta sẽ quan tâm. Điều đó mất bao lâu? Thời gian tương đương với sự tồn tại vô ích và nhỏ nhoi của chúng ta.
-          Blaise Pascal (Nhà toán học và triết học người Pháp, 1623 – 1662)

Liệu danh tiếng tốt, địa vị, tài nguyên và được xã hội chấp nhận có giúp tổ tiên chúng ta sống sót, có bạn tình và sinh sản không?
Trong xã hội săn bắn hái lượm nhỏ bé, những gì tốt đẹp với cả nhóm bao giờ cũng được đền đáp cho cá nhân. Sự hợp tác là quan trọng trong một môi trường hữu hạn tài nguyên, các cá nhân yếu đuối và nhiều nguy hiểm. Sự cô lập khỏi một nhóm hay xã hội có nghĩa là hủy diệt. Chỉ an toàn trong đám đông. Một nhóm lớn sẽ bảo vệ cá nhân chống lại thú dữ, săn bắn cùng nhau, trao đổi thông tin về nơi có thức ăn, hợp tác bảo vệ thức ăn khỏi kẻ thù, và là nguồn quan trọng để kiếm bạn tình, trợ giúp trẻ em. Tập hợp thành một nhóm có may mắn sống sót lớn hơn.
Nếu ta giúp thành viên xã hội khác, anh ta có lẽ sẽ giúp ta khi cần. Nếu anh ta không giúp, chúng ta sẽ không bao giờ giúp anh ta nữa. Hành vi này gọi là sự hồi đáp – ý tưởng của “Tôi làm trầy lưng anh thì anh cũng làm trầy lưng tôi.” Danh tiếng được tin tưởng và có giá trị quan trọng vì chúng ta đã làm như thế nào trong quá khứ là chỉ dẫn duy nhất để biết ta sẽ làm như thế nào trong tương lai. Nếu ta lừa gạt ai đó, anh ta sẽ nói với bạn bè anh ta, phá hủy các cơ hội hợp tác trong tương lai của ta với những người khác. Lý do chúng ta tin tưởng bạn bè nhưng cẩn trọng với người lạ không phải là như vậy sao?
Chúng ta có sự quan tâm mạnh mẽ đến công bằng. Ta buồn khi mọi thứ bất công. Đôi khi ta trừng phạt người khác với cái giá của chính mình. Có lẽ ta không muốn xuất hiện yếu đuối hay dễ dàng dành lợi thế. Vì chúng ta phát triển trong những cộng đồng nhỏ với các tương tác lặp đi lặp lại, nên sẽ có ý nghĩa hơn nếu xây dựng danh tiếng để không bị coi là yếu đuối. Chúng ta muốn khuyến khích mọi người đối xử với chúng ta tốt hơn trong thời gian tới.
Điều gì xảy ra nếu chúng ta giúp ai đó nhưng lần tới chúng ta cần giúp đỡ, người đó biến mất có chủ đích? Đối với những người không ưu ái chúng ta thì sao? Sự hồi đáp thực sự làm việc nếu (1) chúng ta sống trong một xã hội rất nhỏ để ai cũng có thể nhận ra nhau, lưu giữ được thông tin các “dịch vụ” đã cho và nhận, và có cơ hội tương tác trong tương lai, và (2) cái giá cho hành động đó gần giống như đặc ân người nhận nhận được trong tương lai. Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi khích lệ tính ích kỷ, Giáo sư sinh học Lee Alan Dugatkin kể:
Trong một bữa tối nhỏ quây quần bên nhau… một vị khách nói rằng khi tìm một thợ cơ khí, anh ta luôn tránh xa các gara trên đường cao tốc lớn và gần đường băng. Những người thợ này, anh ta bảo, đều biết rằng họ sẽ không bao giờ gặp lại chúng ta nữa nên là những kẻ chặt chém khét tiếng. Hãy tới gara nhà hàng xóm, nơi mà phục vụ đúng như quảng cáo, và họ biết bạn sẽ là khách hàng lâu dài.

“Hãy làm điều thiện khi người khác có thể nhìn thấy nó.”
Đây là vấn đề danh tiếng. Chúng ta cư xử khác đi khi chúng ta bị quan sát hay khi tên tuổi chúng ta được công khai chứ? Phải trả giá khi xuất hiện tốt đẹp trước mặt người khác. Một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng, người ta sẽ làm từ thiện nhiều hơn đáng kể khi bị quan sát bởi những hình ảnh robot. Thiết lập mô hình như trong thế giới thực, con người gần như đóng góp gấp ba lần vào một hộp cà phê do tâm lý khi họ bị quan sát bởi một cặp mắt trên tấm áp phích, so với áp phích chỉ có một hình ảnh hoa lá khác. Những nghiên cứu sâu hơn cho thấy chúng ta làm từ thiện nhiều hơn khi việc làm tốt của chúng ta được nhận ra công khai và rộng rãi. Nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Henry Louis Mencken đã nói: “Lương tâm là tiếng nói bên trong bảo chúng ta rằng, có lẽ ai đó đang nhìn.”
Các đặc điểm như sợ thất bại, mất địa vị xã hội hay danh tiếng rất quan trọng vì chúng ảnh hưởng tới chỗ đứng của một cá nhân trong xã hội săn bắn hái lượm. Xâm nhập được vào nguồn thức ăn và tình dục hay không phụ thuộc vào nó. Khả năng sống sót và sinh sản có thể bị đe dọa. Trừng phạt của xã hội rất nguy hiểm. Có thể dẫn đến lưu vong. Theo Giáo sư môi sinh Garrett Hardin, ngày nay cũng tương tự:
Sợ không được công nhận là sức mạnh chính giữ cho sự toàn vẹn xã hội: sợ Chúa, sợ cảnh sát, và sợ đánh giá của hàng xóm. Chính quyền tôn giáo muốn nỗi sợ Chúa là thứ điều khiển chủ yếu. Chính quyền dân sự muốn sợ cảnh sát và tòa án trở thành thống trị. Nhưng, Locke [John] nói, quan điểm của hàng xóm nhà bạn sẽ lấn át tất cả những người khác.
Cung cấp tài nguyên là một hành vi khác gia tăng cơ may sống sót và tìm được bạn tình. Khả năng cung cấp của chúng ta càng tốt, địa vị chúng ta trong cộng đồng càng cao.
Như ta đã thấy trước đây, có cạnh tranh giữa những người đàn ông vì phụ nữ. Phụ nữ cạnh tranh với nhau để xâm nhập các nguồn tài nguyên. Phụ nữ muốn đàn ông có thể chăm sóc con cái. Các tài nguyên như thức ăn, nhà ở, và địa vị lôi cuốn họ. Phấn đấu vì quyền lực, thống trị, sự yêu mến, vị trí, và sự tôn kính là những quảng cáo cho của cải. Charles Darwin nói: “Đàn ông đam mê và thường cố gắng phóng đại bất kỳ đặc điểm tự nhiên nào có thể có lợi cho anh ta.”
Có bằng chứng khác về việc con người là động vật xã hội không? Một nghiên cứu về nhóm nam giới có vợ đang đau đớn vì ung thư phổi cho thấy những người góa vợ có hoạt động hệ thống miễn dịch thấp hơn. Nghiên cứu khác chỉ ra đàn ông bị cô lập xã hội thường chết nhanh hơn những người được tương tác trong xã hội. Nó cũng cho thấy sự chối bỏ của xã hội cũng giống gây đau khổ về thể xác. Sự chối bỏ làm chúng ta đau đớn!
Tuân thủ trật tự cũng là vấn đề. Khi ta phấn đấu cho địa vị, các hệ thống phân cấp xuất hiện. Nhà động vật học người Na uy Thorleif Schjelderup – Ebbe phát hiện ra rằng trong thế giới của gà mái có một hệ thống phân cấp tuyến tính trong đó mọi con gà mái đều biết vị trí của nó. Nhà văn khoa học Robert Wright nói trong cuốn The Moral Animal (Động vật có đạo đức): “Ném một nhóm gà mái vào cùng với nhau, và, sau một thời gian hỗn loạn, trong đó có đánh nhau, mọi thứ sẽ ổn định. Những cuộc tranh chấp … từ bây giờ sẽ ngắn gọn và quyết định, khi một con gà mái đơn giản mổ đầu con khác, đưa ra sự trì hoãn nhanh chóng.”
Tuân thủ trật tự quyết định ai có cơ hội ăn trước, và con gà mái nào phải tuân theo con nào. Mỗi con gà mái đều biết ai nó có thể thống trị, và tới lượt mình, nó sẽ thống trị ai.
Hệ thống phân cấp địa vị không chỉ có ý nghĩa với gà mái. Các nghiên cứu cũng cho thấy khi ta đưa một nhóm trẻ con vào cùng với nhau, chúng sẽ nhanh chóng rơi vào các phân lớp khác nhau. Vài đứa top đầu được yêu thích nhất, hầu hết thường bị bắt chước, và được đa số nghe theo. Cũng rất đau khổ khi đạt được địa vị rồi lại bị đánh mất.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nơi chúng ta đứng trong bậc thang xã hội có ảnh hưởng đến sức khỏe, hạnh phúc và tuổi thọ của chúng ta. Địa vị càng cao, có vẻ như chúng ta sẽ càng khỏe mạnh.
Chúng ta phải cẩn trọng không mang các giải thích về tiến hóa dùng cho mọi hành vi không thích hợp. Có rất nhiều nguyên nhân đối với một hành vi. Chúng ta không thể ngoại suy các điều kiện trong môi trường của tổ tiên để giải thích mọi hành vi. Không ai biết môi trường cổ xưa trông như thế nào. Không giống như xương và mô, không có bằng chứng hóa thạch về hành vi. Cũng không có bất kỳ bằng chứng thần kinh học hay di truyền trước những giả định hành vi nào đó. Và các lý giải theo thuyết tiến hóa về bộ não không thể kiểm tra bằng thí nghiệm được. Một đặc điểm có ở mọi nơi không nhất thiết phải được chỉ định cho di truyền. Nhưng nhiều hành vi được mô tả phù hợp với các bằng chứng chúng tôi có từ các tổ chức sống khác và từ các tài liệu lịch sử loài người.
Chúng ta hãy quay lại một triệu năm trước và giả sử bạn đang sống trong một cộng đồng nhỏ với khoảng 150 người, mọi người đều biết nhau, các cơ hội kết bạn tình là hữu hạn. Môi trường đầy hiểm nguy và thử thách. Chìa khóa là để tránh nguy hiểm, có thức ăn và lôi cuốn đối tác. Hành vi nào là quan trọng để sống sót và sinh sản?
Không được tưởng thưởng khi đánh giá nhanh chóng? – “Nếu có tiếng động sau bụi cây, thì phải chạy”. Xu hướng tự nhiên là hành động bốc đồng – sử dụng cảm xúc trước khi lập luận. Hành vi sống còn cho tồn tại và sinh sản trong lịch sử tiến hóa vẫn áp dụng tới tận ngày nay. Sợ hãi không thể giúp bạn sống sót ư? Thất bại xã hội phải trả giá đắt chứ? Bảo toàn địa vị, tài nguyên và được xã hội chấp nhận giúp bạn sống sót và có bạn tình không?
Bạn thể thiện bản thân là người trung thực, tốt đẹp và giá trị nên người khác sẽ hợp tác với bạn đúng không? Có đe dọa chung hay mục đích chung nào khiến mọi người không hợp tác? Theo đuổi các chuẩn mực xã hội có ý nghĩa gì không? Bạn không có ác cảm mạnh mẽ với mất mát và rủi ro lớn khi bạn bị đe dọa à? Bạn không quan tâm đến lợi ích ngắn hạn của bản thân và những người bạn yêu quí ư?

Hầu như tâm lý chúng ta là kết quả của các tác động văn hóa
Xã hội loài người không chỉ được định hình bởi sự tiến hóa gene, mà còn bởi cách mạng văn hóa. Thực hành, phương pháp, công cụ, bí quyết, đạo đức, và chuẩn mực xã hội đều quan trọng trong sự tiến hóa hành vi của chúng ta. Các thói quen chúng ta học từ kinh nghiệm của cha mẹ và người khác – hoặc qua dạy và quan sát.
Sự phát triển văn hóa nhanh hơn tiến hóa di truyền vì nó cho phép nhiều thứ ta học được truyền đi và kết hợp với những thứ mọi người xung quanh ta đã học được. Không giống như tiến hóa sinh học, cuộc tiến hóa về văn hóa không được kế thừa. Chúng ta không kế thừa thói quen của cha mẹ chúng ta. Chúng ta chỉ học hỏi từ nó.
Nói cách khác, tiến hóa di truyền và văn hóa tương tác với nhau. Sinh học tác động đến văn hóa của chúng ta. Lấy ngôn ngữ làm ví dụ. Chúng ta đồng bộ với một cơ thể giải phẫu học, sinh lý học và sinh hóa – tạo cho chúng ta khả năng học một ngôn ngữ. Nhưng chúng ta không sinh ra đã nói được ngay một ngôn ngữ. Ngôn ngữ chúng ta nói là một sản phẩm của văn hóa.
Văn hóa cũng tác động tới sinh học cơ thể qua việc tạo ra một môi trường và chọn lọc tự nhiên được kiểm tra. Nếu một hành vi cụ thể được chứng minh là có lợi từ thế hệ này sang thế hệ khác, hành vi đó sẽ được ưu tiên trong chọn lọc tự nhiên. Giả sử các cá nhân theo thời gian đều có vài lựa chọn hành vi xã hội. Những lựa chọn này được truyền đi thông qua học tập và văn hóa. Theo thời gian, chúng được chọn lọc tự nhiên ưu ái vì chúng ảnh hưởng tích cực đến sống sót và sinh sản.

Đặc điểm tự nhiên cơ bản của chúng ta
Đặc điểm tự nhiên của con người là như nhau; chính những thói quen làm chúng ta khác nhau.
-          Khổng Tử
Đặc điểm tự nhiên cơ bản của chúng ta là gì?
Đặc điểm tự nhiên của chúng ta là một sản phẩm của lịch sử sinh lý và văn hóa. Tiến hóa giải thích chúng ta được định hình như thế nào và bị ràng buộc về mặt sinh lý ra sao. Giống như xương, thận, mắt, và chân, bộ não của chúng ta được định hình bằng chọn lọc tự nhiên. Chọn lọc tự nhiên trang bị cho chúng ta những đặc điểm làm tăng khả năng sống sót và sinh sản. Do đó nó cho phép ta cư xử có ý thức và vô thức theo những gì ta nhận thức là có lợi nhất với mình. Đó là đặc điểm tự nhiên cơ bản về mặt sinh lý của chúng ta. Nó mạnh lên hay bị làm yếu đi phụ thuộc vào kinh nghiệm sống. Giả sử mọi người đều hành động tư lợi, chúng ta sẽ ít bị thất vọng hơn so với giả thiết mọi người nói chung đều hành động vị tha. Nó không có nghĩa là chúng ta không thể làm mọi thứ tốt hơn. Đưa ra những yêu cầu như vậy để trước tiên chúng ta hiểu tại sao chúng ta lại là những gì như chúng ta đang có. Richard Dawkins đã nói trong cuốn The Selfish Gene (Gene ích kỷ): “Cảnh báo rằng nếu bạn mong ước, giống như tôi, xây dựng một xã hội trong đó mọi cá nhân đều hợp tác hào phóng và không vị kỷ hướng tới điều thiện, thì bạn cũng đừng nên hy vọng sẽ có trợ giúp gì nhiều từ tự nhiên. Hãy để chúng ta cố gắng dạy nhau tính khoan dung và lòng vị tha, vì chúng ta đều sinh ra ích kỷ.”
Hãy cùng tóm tắt những lực lượng tác động và đặt ra các giới hạn cho việc phán xét của chúng ta nhé.
Gene – kích thích môi trường gây ra các xu hướng phản ứng lại từ các gene của chúng ta. Các gene đã tiến hóa và chức năng của chúng cơ bản dựa trên những gì có lợi trong môi trường săn bắn hái lượm – môi trường mà con người đã sử dụng hầu hết thời gian. Để sống sót, chúng ta phải tránh tất cả những đe dọa tiềm tàng tới sự sống và sinh sản. Tiến hóa đã phát triển một hệ thống giá trị dựa trên đau khổ và vui sướng giúp chúng ta ứng đối với môi trường. Do môi trường cổ xưa chỉ có hữu hạn tài nguyên và nguy hiểm, chúng ta đã hình thành một ác cảm mạnh mẽ với mất mát và có khuynh hướng sợ hãi. Chúng ta đưa ra các nhận xét nhanh chóng và trở thành động vật xã hội. Chúng ta dễ mắc phải việc đánh giá tình huống khi đang sợ hãi. Nhưng không phản ứng bằng sự sợ hãi có thể phải trả giá đắt hơn việc sợ hãi và sai lầm. Chúng ta cũng hành động theo những cách thức mà khen thưởng là quan trọng và chi phí là tối thiểu.
Kinh nghiệm sống – dạy dỗ, dinh dưỡng, giáo dục, dấu ấn của xã hội, thể chất, các yếu tố văn hóa xã hội tạo ra một số niềm tin, thói quen, giá trị, thái độ và đặc điểm tính cách. Điều này, đến lượt nó, lại tạo ra đức tin và những giả thuyết cá nhân. Việc đánh giá phán xét của chúng ta bị tác động bởi trạng thái trí tuệ.
Môi trường hiện tại – những nhân tố bên ngoài như môi trường, ngữ cảnh hay tình huống, hay một hoàn cảnh cụ thể nào đó.
Yếu tố ngẫu nhiên – chúng ta đã được chuẩn bị để mở rộng tâm trí với những kinh nghiệm mới vì môi trường biến động liên tục; điều khiển được những thách thức mới là một cách để thích nghi.
Kết quả của các hành động làm tăng cường một số hành vi. Nếu kết quả này được khen thưởng, hành vi của chúng ta có lẽ sẽ lặp đi lặp lại. Cái mà chúng ta quan tâm tới việc khen thưởng là khác biệt đối với mỗi cá nhân. Phần thưởng có thể là bất kỳ cái gì từ sức khỏe, tiền, công việc, danh tiếng, gia đình, địa vị, hay quyền lực. Trong tất cả những hoạt động này, chúng ta làm những gì đang vận hành. Đó là cách chúng ta thích nghi. Môi trường chọn lọc hành vi tương lai của chúng ta.
Nhưng nó không chỉ là những gì xảy ra mà chúng ta đã đếm được. Đó là những thứ chúng ta nghĩ nó sẽ xảy ra. Khi ta đối mặt với một tình huống, bộ não tạo ra một mong muốn. Ta có thể hành động theo những cách đi ngược lại lợi ích bản thân nếu ta không hiểu hậu quả.
Hành vi tạo ra các phản hồi từ môi trường. Nếu ta làm những điều dại dột và chịu thống khổ với hậu quả của nó, có lẽ ta vẫn làm những điều dại dột trong tương lai ngay cả khi nó làm ta đau đớn. Bởi vì ta không hiểu nguyên nhân của sai lầm, hay nỗi đau đó ít khổ sở hơn những hành vi khác.
Các kinh nghiệm được lưu trong bộ não và tác động đến chúng ta trong tương lai. Các mẫu liên kết mới giữa các neuron được tạo ra.

Một số quyết định không mang lại lợi ích tốt nhất
Chắc chắn phải có một lượng lớn sự ngu ngốc trong bản chất tự nhiên con người, nếu không loài người đã không thể bị lừa gạt như thế này, hàng nghìn lần đã xảy ra, bởi cùng một tấm lưới, và trong khi họ vẫn còn nhớ những bất hạnh quá khứ, tiếp tục ra tòa và khích lệ nguyên nhân của những gì họ đang mắc nợ, và những thứ đó sẽ lại sản sinh ra chúng.
-          Marcus Porcius Cato (Nhà văn và chính khách La Mã, 234 – 149 TCN)

Nếu chúng ta thường xuyên hành động không dựa trên tính tư lợi, làm sao ta ra quyết định mà rõ ràng chúng không mang lại lợi ích tốt nhất cho bản thân?
Có sự ngắt kết nối giữa thế giới tổ tiên với những gì bộ não chúng ta đã thích nghi và thế giới ngày nay. Nhiều đặc điểm của chúng ta đã thích nghi tốt hơn với những yêu cầu của thế giới tổ tiên xưa như: tránh xa khỏi thú dữ, rủi ro khi bị xã hội loại trừ, tìm kiếm bạn đời, kiếm đủ thức ăn, duy trì các mối quan hệ, đòi hỏi địa vị và nơi an toàn để sống, và chăm sóc con cái.
Tiến hóa di truyền và văn hóa trang bị cho ta những khuynh hướng hành vi (như khuynh hướng sợ hãi, hợp tác đối ứng, phân loại nhanh, quan tâm đến sự thừa nhận của xã hội, v.v…) giúp ta tương tác với môi trường. Những khuynh hướng này nói chung có nhiều hữu ích hơn là không (ngược lại chúng ta không thể ở đây hôm nay). Đôi khi chúng dẫn ta lạc lối và khiến ta đánh giá sai lầm.
Ví dụ, chúng ta có thể bị thiên kiến do một khuynh hướng tự động tin tưởng những ai chúng ta thích. Thích thường dựa trên ấn tượng đầu tiên. Chúng ta được trang bị tuyệt vời để đọc người khác nhằm tìm ra những dấu hiệu tin tưởng. Ta nhìn vào trạng thái cảm xúc của họ - giọng điệu và cách biểu đạt nói chung. Tuy nhiên, thường rất khó nhận ra sự khác biệt giữa tốt và xấu. Một cá nhân có thể bí ẩn và thù địch, hoặc ấm áp và cởi mở. Những hành vi khác biệt này gây hậu quả gì với nhận thức của chúng ta về mỗi cá nhân? Chúng ta đã quên cần phải nghĩ đến các nhân tố khác quan trọng trong đánh giá một con người hay một tình huống. Vẻ bề ngoài có thể là lừa dối. Kẻ hóa trang giỏi nhất luôn cư xử như thể hắn không hành động vì lợi ích cao nhất của bản thân. Nhà triết học và chính trị người Ý thế kỷ 16 Niccolo Machiavelli đã nói trong cuốn The Prince (Hoàng tử): “Các hoàng tử đã đạt được những điều tuyệt vời là những người cho đi thế giới của họ một cách nhẹ nhàng, là những người biết lừa gạt người khác một cách xảo quyệt, và cuối cùng, là những người vượt qua luật lệ của họ bằng những nguyên tắc thành thật.”
Trong Phần Một chúng ta đã học về đặc điểm tự nhiên và những giới hạn của chúng ta. Với nền tảng cơ bản này, giờ hãy cùng nhìn xem các khả năng tâm lý sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định như thế nào.
Warren Buffett đưa cho chúng ta vài ghi chú về lý do tại sao ngay cả người thông minh cũng nhận những kết quả tồi tệ:
Đó là cái tôi. Đó là sự tham lam. Đó là sợ hãi. Đó là sự bắt chước người khác mà không suy nghĩ. Tôi muốn nói, có vô số nhân tố khiến công suất của trí óc giảm đi đáng kể trước khi đầu ra xuất hiện. Và tôi muốn nói nếu Charlie và tôi có bất kỳ lợi thế gì, đó không phải vì chúng tôi quá thông minh, đó là vì chúng tôi hợp lý và chúng tôi rất hiếm khi để các nhân tố không liên quan can thiệp vào suy nghĩ của mình. Chúng tôi không để quan điểm của người khác can thiệp vào nó… chúng tôi cố gắng sợ hãi khi người khác tham lam. Chúng tôi cố tham lam khi người khác sợ hãi. Chúng tôi cố gắng tránh bất kỳ hình thức nào bắt chước hành vi của người khác. Và đó là những yếu tố khiến người thông minh cũng nhận những kết quả tồi tệ.
Tôi luôn luôn nhìn IQ và tài năng dưới dạng biểu hiện của công suất động cơ, nhưng theo nghĩa của đầu ra, hiệu suất động cơ làm việc, phụ thuộc vào tính hợp lý. Nhiều người bắt đầu với động cơ 400 mã lực và thu được đầu ra 100 mã lực. Tốt hơn là có một động cơ 200 mã lực và một đầu ra cũng tương ứng thế. Vậy tại sao những người thông minh làm nhiều thứ can thiệp vào việc nhận được đầu ra họ có thể thu được? Đó là do thói quen, tính cách, khí chất, và cư xử hợp lý. Chứ không phải là theo cách riêng của bạn.
Trong Phần Hai, Ba và Bốn, chúng ta sẽ có hai nhân vật tưởng tượng là John và Mary. 40 tuổi, John là quản lý lâu năm của TransCorp; một công ty Mỹ có nhiều nghiệp vụ kinh doanh rộng rãi. John cưới Mary, một giáo viên bán thời gian.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...