BA
HÀNH VI THÍCH NGHI ĐỂ SỐNG SÓT VÀ SINH SẢN
Cá thể đầu tiên
Không có cái gọi là xã hội. Chỉ có những cá
nhân đàn ông và đàn bà, và có những gia đình.
-
Margaret Thatcher (Cựu Thủ tướng Anh)
Con người làm những gì họ cho là mang lại lợi
ích tốt nhất cho họ?
Đúng vậy, một đặc
điểm cơ bản mà tất cả cá thể đều giống nhau đó là tư lợi. Chúng ta đều mong muốn
bảo vệ gia đình và bản thân. Tại sao?
Vì chọn lọc tự
nhiên là để sống sót và sinh sản, các cá thể cũng phải sống sót hoặc chết và
sinh sản hoặc không, họ dễ hành động theo các cách thức để khuyến khích niềm tự
hào bản thân vì đã sống sót và sinh sản. Môi trường tổ tiên chúng ta chỉ có các
tài nguyên hữu hạn – gồm các tài nguyên tái sinh và cạnh tranh khốc liệt. Tính
tư lợi đến rất tự nhiên.
Chuyện gì nếu tổ
tiên chúng ta có lòng vị tha – các cá thể giúp đỡ người khác bằng chi phí của
chính họ? Các cá thể vị tha là một bất lợi. Họ luôn đầy sơ hở trước những kẻ đột
biến với nhiều lợi thế hơn họ. Hành vi vị tha không thể tiến hóa theo con đường
chọn lọc tự nhiên vì chọn lọc tự nhiên yêu thích những cá thể tốt nhất trong
công cuộc kiếm tìm sự sống sót và sinh sản thành công. Chỉ hành vi ích kỷ hay
tương trợ vì tư lợi sẽ được ưu tiên bởi chọn lọc tự nhiên. Vài hành vi trong một
số điều kiện có thể giống như vị tha, nhưng thường phải giải thích theo tính tư
lợi. Nhận thức xã hội, kiêu hãnh, sợ hãi xã hội không chấp nhận, xấu hổ, cứu rỗi
khỏi nỗi đau, tránh những điều tội lỗi, kỳ vọng về cuộc sống sau khi chết tốt
hơn và một xã hội tốt hơn là những lý do đằng sau các hành động “vị tha”.
Nhưng những phẩm
chất đạo đức xã hội đã phát triển như thế nào? Charles Darwin đã viết trong
chương bốn của cuốn The Descent of Man
(Nguồn gốc loài người): “Tại sao một con người nên cảm thấy anh ta phải tuân
theo mong muốn bản năng hơn những thứ khác? Tại sao anh ta hối tiếc và cay đắng
nếu thể hiện ý thức tự bảo vệ mạnh mẽ, và không thấy rủi ro cho tính mạng của
mình khi cứu một đồng loại khác; hoặc tại sao anh ta nuối tiếc khi ăn trộm thức
ăn từ một người đói khát hơn?” Trong chương năm của cuốn sách, Darwin đã viết
đó là một “kích thích mạnh mẽ để phát triển đức hạnh xã hội, cụ thể là, khen và
chê của đồng loại.”
Tình yêu với sự thừa nhận và nỗi sợ hãi sự ô
nhục, cũng như sự ban cấp lời khen chê chính là do … bản năng thông cảm; và bản
năng này không nghi ngờ đã được yêu cầu chân thật, giống như các bản năng xã hội
khác, qua con đường chọn lọc tự nhiên… Chúng ta có thể sẽ kết luận rằng, người
nguyên thủy, ở một thời điểm rất xa xôi trong quá khứ, có thể đã từng bị tác động
của lời khen chê từ đồng loại. Thoạt tiên, các thành viên trong cùng bộ lạc chấp
nhận hành vi xuất hiện trước mắt họ vì cái thiện rất chung chung, và có thể cho
rằng ma quỉ xuất hiện. Để làm việc thiện với người khác và làm cho người khác
cũng thấy họ nên làm với bạn – là những tảng đá đầu tiên hình thành nên đạo đức.
Thế nên rất khó có thể phóng đại tầm quan trọng trong suốt thời kỳ thô sơ với
lòng yêu mến được ngợi khen và sợ hãi bị chê cười. Con người không bị xô đẩy bởi
bất kỳ cảm xúc sâu sắc hay bản năng nào, để hi sinh tính mạng vì việc thiện cho
người khác, thậm chí còn bị chọc tức bởi những hành động có ý nghĩa vinh quang,
ví dụ như kích thích mong muốn vinh quang ở người khác, và tăng cường luyện tập
để có cảm giác cao quí vì được ngưỡng mộ. Con người có lẽ sẽ làm việc thiện nhiều
hơn nữa cho bộ lạc của mình, hơn nữa sinh con đẻ cháu với khuynh hướng kế thừa
các đặc điểm cao quí.
Chuẩn mực đạo đức
cao cũng có lợi với bộ lạc. Darwin tiếp tục:
Đừng quên rằng dù chuẩn mực đạo đức cao đã
được ra đời, nhưng một phần nhỏ hoặc không có lợi với mỗi cá nhân và con cháu
anh ta so với người khác trong cùng bộ lạc, tuy nhiên lợi ích của chuẩn mực đạo
đức và sự gia tăng số lượng những người quyên góp chắc chắn sẽ tạo ra một lợi
ích to lớn cho bộ lạc so với những bộ lạc khác.
Hợp tác thường xuyên là lợi ích cao nhất
Nếu con người không vị tha như bản chất tự
nhiên, họ có thể hợp tác không?
Trợ giúp lẫn
nhau có giá trị sống còn to lớn. Nhưng con người đã cộng tác với nhau trong
hoàn cảnh nào? Trò chơi Prisoner’s Dilemma (Bài toán Tù Nhân) có lẽ sẽ mở ra
tia sáng cho vấn đề: Giả sử bạn và đối tác cùng nhau đi ăn trộm. Cả hai bạn bị
cảnh sát bắt và hỏi cung từng người một. Không đủ bằng chứng để kết tội bạn, trừ
khi đối tác của bạn thú nhận. Điều tra viên cho các bạn lựa chọn hợp tác hoặc
không.
“Nếu cả hai từ chối phạm tội, vẫn đủ bằng chứng
đưa cả hai vào tù một năm.”
“Nếu cả hai thú nhận, cả hai cùng vào tù 3
năm.”
“Nếu bạn thú nhận nhưng đối tác của bạn từ
chối, bạn được tự do còn đối tác của bạn sẽ đi tù 10 năm.”
“Nếu bạn từ chối nhưng đối tác của bạn thú
nhận, bạn sẽ vào tù 10 năm.”
Bạn nên làm gì? Kết
quả của bạn đều phụ thuộc vào những gì đối tác của bạn làm. Từ quan điểm của một
người ngoài cuộc, có vẻ như tốt nhất là cả hai cùng chối tội (chỉ bị tù 1 năm).
Nhưng từ quan điểm cá nhân của chính bạn, có vẻ như tốt nhất là thừa nhận (tự
do). Vấn đề là bạn không biết đối tác của bạn sẽ làm gì. Nếu anh ta phản bội bạn,
tốt hơn là bạn cũng phản bội anh ta và cùng nhận 3 năm tù, thay cho 10 năm nếu
bạn chối tội còn anh ta thừa nhận. Nếu anh ta từ chối nhận tội, cũng vẫn tốt
hơn là bạn nên thừa nhận vì bạn sẽ được tự do, hơn là 1 năm tù nếu bạn cũng
không thừa nhận.
Vì cả hai cùng
theo đuổi logic như thế và đều nhận tội, cả hai bạn sẽ đi tù 3 năm. Làm những
gì bạn tin là tốt nhất sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ hơn nếu hai bạn cùng hợp tác
và từ chối. Nhưng đây là một tình thế khó khăn. Bạn không biết liệu bạn có nên
tin tưởng đối tác của mình hay không. Hợp tác chỉ có thể vận hành nếu bạn và đối
tác của bạn tin tưởng lẫn nhau.
Các thử nghiệm
cho thấy, nếu người ta chơi game thua lên thua xuống, họ học được một điều, sẽ
có lợi hơn nếu hợp tác. Việc lặp đi lặp lại sẽ kiểm tra độ tin cậy. Tin tưởng
là chìa khóa và rất mong manh. Nó có thể biến mất lúc nào đó. Tổng thống Mỹ thế
kỷ 19 Abraham Lincoln đã viết: “Nếu bạn làm mất lòng tin của quần chúng, bạn
không bao giờ có thể dành lại sự tôn trọng và yêu mến của họ. “
Cách khác tạo ra
sự hợp tác là để cho các đối tác giao tiếp trong suốt trò chơi. Nói chuyện sẽ khích
lệ việc cộng tác. Vì con người là động vật xã hội, họ có thể thay đổi hành vi của
mình để người khác có lợi thế. Cuối cùng, vấn đề lòng tin và trao cho các cá
nhân lời khích lệ hợp tác.
Trong chương ba
cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc
loài người), Charles Darwin viết:
Vào thời điểm hành động, con người không
nghi ngờ nữa, sẽ hành động theo sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn; và dù đôi khi điều đó
cũng có lẽ nhắc nhở anh ta hướng tới những hành vi cao quý nhất, nói chung nó vẫn
dẫn dắt anh ta đi tới thỏa mãn các mong muốn cá nhân của chính anh ta nhiều hơn
là chi phí cho người khác. Nhưng sau khi đã thỏa mãn bản thân, khi quá khứ và
các ấn tượng trở nên yếu ớt hơn đối lập với những bản năng xã hội bất tận, việc
trừng phạt chắc chắn sẽ đến. Con người khi đó sẽ cảm thấy bất mãn với bản thân,
và sẽ giải quyết bằng ít hoặc nhiều nỗ lực hơn nữa để hành động khác đi trong
tương lai. Đó gọi là lương tâm; khi lương tâm nhìn lại và phán xét quá khứ,
trong đó có cả những loại bất mãn kia, nếu yếu, chúng ta sẽ gọi lên sự nuối tiếc,
và nếu nghiêm trọng, sẽ ăn năn hối hận.
Nhưng chúng ta
cũng phải nhận thấy giao tiếp có thể lừa phỉnh. Con người cũng giả dối. Cũng
như vậy, giao tiếp trò chuyện không phải hoàn hảo – có thể có lỗi hay hiểu nhầm.
Chiến lược được
sử dụng hiệu quả trong một thời gian dài là một phiên bản hiện đại của “ăn miếng
trả miếng” hay TIT – FOR – TAT. Nó cho rằng, chúng ta nên hợp tác ngay từ lần gặp
đầu tiên và sau đó làm bất kỳ những cái gì mà “đối thủ” của chúng ta đã làm
trong quá khứ. Khi đối thủ của bạn hợp tác, chúng ta nên hợp tác. Khi đối thủ
không hợp tác, chúng ta nên trả đũa. Rồi sau đó hãy tha thứ và quay lại hợp tác
lần kế tiếp. Nó tưởng thưởng sự hợp tác đã qua và trừng phạt việc bỏ đi trước
đây. Nó giả sử rằng trò chơi được lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác. Thực
tế chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu chúng ta có gặp lại đối thủ đó trong
tương lai hay không. Cũng như đối thủ, chúng ta cũng không biết khi nào trò
chơi kết thúc, có vẻ công bằng. Tất nhiên, trò Prisoner’s Dilemma chỉ là trò
chơi hai người. Thực tế thường là sự tương tác của rất nhiều người.
Có một nhóm các
nhà khoa học nói rằng, chúng ta cư xử tốt hơn người khác – các con cháu họ hàng
gần về mặt di truyền với chúng ta. Đó là sự chọn lọc nhân thân. Chúng ta hành xử
vị tha với thân nhân mình vì họ chia sẻ các gene chung với ta. Các nghiên cứu
chỉ ra rằng trong các loài có tính xã hội, họ hàng thường giúp nhau nhiều nhất.
Hai cá thể càng gần gũi nhau về mặt di truyền, họ càng có khuynh hướng đối xử với
nhau tốt hơn. Nếu bạn hy sinh điều gì cho con cái bạn, có lẽ sẽ tổn hại bản
thân bạn, nhưng vì con cái của bạn chia sẻ các gene của bạn, hiệu ứng nói chung
là vẫn tích cực. Các nhà khoa học cho rằng một thử nghiệm chọn lọc thân nhân là
những gì chúng ta có thể làm nếu một người họ hàng và một người bạn tốt cùng sắp
bị chết đuối. Chúng ta chỉ có thể cứu được một trong số họ. Điều gì xảy ra nếu
một trong số họ là anh em họ hàng xa mà bạn chỉ gặp 2 lần, còn người bạn kia
ngày nào cũng cùng bạn chơi đùa? Bạn sẽ cứu ai?
Hành xử nào là
phù hợp với tổ tiên của chúng ta?
Xu hướng sợ hãi
Những nỗi sợ hãi của chúng ta luôn luôn nhiều
hơn số lượng nguy hiểm.
-
Lucius Annaeus Seneca (Nhà triết học La Mã, 4
TCN-65)
Các hành khách lên chuyến bay 651 đi
Chicago. Hai giờ sau khi cất cánh, người phục vụ chuyến bay nghe thấy tiếng ồn
khả nghi từ phòng vệ sinh. Các hành khách bắt đầu truyền nhau. Sự hoảng loạn
tràn ra.
Chúng ta đều sợ
hãi những sự kiện bi đát và đe dọa chúng ta. Ta sợ mất sức khỏe, gia đình, bạn
bè, an toàn, tiền bạc, địa vị xã hội, quyền lực, hay công việc. Chúng ta cũng sợ
hãi bạo lực, tội phạm, trừng phạt, từ chối, thất bại, không biết, sự cố bất
thình lình, những gì không thể tiên đoán trước hay những gì không thể điều khiển
được. Các nghiên cứu chỉ ra rằng ngay khi chứng kiến một sự kiện gây chấn
thương cũng có thể sinh ra những phản ứng sợ hãi giống như chính bạn bị chấn
thương vậy.
Nỗi sợ hãi là cảm
xúc cơ bản nhất của chúng ta. Sợ hãi tiến hóa để giúp chúng ta dự đoán nguy hiểm
và tránh đau đớn. Nhà văn khoa học Rush Dozier đã viết trong cuốn Fear itself (Bản chất nỗi sợ hãi): “Nỗi
sợ hãi là cơ bản, vì sự sống là cơ bản. Nếu chúng ta chết, mọi thứ đều trở nên
vô giá trị.”
Nhân loại đã
phát triển cảm xúc mạnh mẽ về nỗi sợ hãi. Môi trường của tổ tiên chúng ta đầy
hiểm nguy. Nỗi sợ hãi với những nguy hiểm vật lý, sự không thừa nhận của xã hội,
thiếu thức ăn, không bạn tình, thú dữ, v.v… Tự tồn tại là một sự khuyến khích mạnh
mẽ. Các sai lầm có thể phải trả giá cực đắt. Giả sử hai cá thể cùng nghe thấy một
âm thanh lạ sau bụi rậm. Một người nhìn ra phía sau bụi rậm và bị một con rắn độc
cắn rồi chết. Người kia nhìn những gì đã xảy ra, chạy trốn và sống sót. Luôn giả
thiết có mối đe dọa sau những bụi cây và chạy trốn có thể cứu mạng ta. Chi phí
của sai lầm và chạy khi không có con rắn nào là rất nhỏ. Nhưng cái giá của việc
ở lại quanh quẩn khi có một con rắn có thể là chính mạng sống. Thất bại trong
việc phát hiện ra các mối đe dọa tiềm tàng thường phải trả giá đắt hơn một cảnh
báo sai. Tổ tiên chúng ta đã học thông qua việc thử và sai trong một thời gian
dài, đau khổ có thể tránh được nếu họ sợ hãi. Họ sống sót thoát khỏi các hiểm
nguy vì họ đã học được phải đáp trả như thế nào.
Nếu đau khổ và
sung sướng là những chỉ dẫn hướng chúng ta tới sống sót và sinh sản, nỗi sợ hãi
là dấu hiệu cảnh báo sinh học của chúng ta để tránh khỏi nỗi đau. Sợ hãi cảnh báo chúng ta những đe dọa tiềm
tàng và giữ chúng ta không hành động theo những con đường dẫn đến tự diệt. Nó
giúp chúng ta tránh khỏi những đe dọa và khiến chúng ta hành động để ngăn chặn
những tổn thương lớn hơn. Sợ hãi chỉ dẫn ta tránh khỏi những gì đã không làm việc
trong quá khứ. Sợ hãi gây ra lo lắng và băn khoăn, một phản ứng bình thường trước
các hiểm nguy vật lý. Nó kích hoạt các hormone như adrenaline và cortisol,
chúng khiến chúng ta luôn chú ý các nguy cơ vì chúng ta đang cần tập trung trọn
vẹn vào việc thoát ra khỏi mối đe dọa.
Mức độ sợ hãi mà
chúng ta cảm nhận phụ thuộc vào việc biên dịch nguy cơ và nhận thức cách điều
khiển. Chúng ta càng cảm thấy vô dụng và dễ bị tổn thương bao nhiêu, cảm xúc sợ
hãi càng mạnh bấy nhiêu.
Giả sử bạn đang
đi dạo một mình lúc đêm khuya trên một con phố hoang ở thành phố New York. Bỗng
nhiên bạn nghe thấy những bước chân phía sau bạn. Chuyện gì xảy ra? Ngay lập tức
bạn cảm thấy đang rơi vào tình trạng tồi tệ nhất – cướp, cưỡng hiếp, v.v… Hệ thống
thần kinh tự trị của bạn sẽ chuyển giao và chuẩn bị cho bạn chiến đấu hoặc chạy
trốn. Phản ứng của bạn bắt đầu hình thành trong bộ não và kích hoạt một quá
trình hóa sinh học. Nhịp tim, nhịp thở, áp suất máu, xung thần kinh và lượng đường
trong máu bạn đều tăng lên. Hành vi thông thường khi bạn là nạn nhân của
stress, cũng được nhận thức tương tự. Bạn phản ứng với nỗi sợ hãi trên một con
phố hoang vì tiến hóa đã đóng gói vào trong não bạn và đăng ký nỗi đau khổ này
cần nhạy cảm hơn bất kỳ cảm xúc nào khác. Bạn đã sử dụng “bộ nhớ” của quá khứ
các tổ tiên của bạn – hệ thống sợ hãi nguyên thủy của bạn để chiến đấu hoặc chạy
trốn.
Những gì chúng
ta sợ hãi và cường độ phản ứng của chúng ta phụ thuộc vào các gene, kinh nghiệm
sống, và tình huống cụ thể. Thoạt tiên bạn sẽ phản ứng theo bản năng, nhưng nếu
tình huống này bạn đã có kinh nghiệm trước đó (vì não bạn đã được nối dây liên
tục với các kinh nghiệm sống), phản ứng cuối cùng có thể bình tĩnh hơn. Bạn
nhìn quanh và thấy một bà già đang dắt chó đi dạo. Hoặc bạn có lẽ sẽ chạy mất,
vì bạn muốn tránh những tình huống như trong quá khứ khiến bạn đau đớn. Bạn
càng được tiếp xúc với một kích thích càng nhiều, dù là thứ rất kinh khủng đi
chăng nữa, ngưỡng chịu đựng sợ hãi của bạn càng cao. Nếu bạn đã từng đi dạo
trên cùng con phố hoang này rất nhiều lần trước đó và nhận ra mỗi lần tiếng ồn
đều từ bà già dắt chó đi dạo kia, bạn có lẽ sẽ không sợ hãi nữa. Trừ khi một điều
gì đó kinh khủng đã xảy ra.
Thường thường
các cảm xúc mang thông tin cảm tính giúp chúng ta ra quyết định tốt hơn. Ví dụ,
tội lỗi có thể làm chúng ta ăn năn hối hận khi gây ra những việc sai trái, và
ta sẽ sửa chữa. Nó cũng có thể khiến ta hợp tác. Sự thù ghét có vẻ cũng là một
phản ứng với nguy hiểm bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật và nguy cơ bị làm hại. Xấu
hổ cũng giúp ta tránh vài cám dỗ hay giảm rủi ro đối đầu trong nhóm. Người
không thể trải nghiệm với các đáp ứng cảm xúc do não bị thương tổn, sẽ có thể
không có khả năng học từ sai lầm hay lựa chọn một cách thức mạch lạc.
Tìm kiếm những lời giải thích
“Tôi đã ăn một loại cây và giờ tôi bị ốm. Do
đó, tôi tin rằng loại cây đó không tốt cho tôi.” Trong chương hai cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người),
Charles Darwin đã viết: “Ngay khi những năng lực quan trọng như tưởng tượng, tự
hỏi và tính tò mò, cùng với vài sức mạnh suy luận khác, bắt đầu được phát triển
từng bước, con người đã thèm khát được hiểu hết những gì đang xảy ra xung quanh
họ một cách tự nhiên.”
Chúng ta không
thích những thứ không chắc chắn hoặc vô danh. Chúng ta cần phân loại, chia
nhóm, tổ chức và xây dựng cấu trúc thế giới. Việc phân loại các ý tưởng và các
đối tượng giúp chúng ta nhận diện, phân biệt và hiểu biết. Nó đơn giản hóa cuộc
sống. Hiểu và điều khiển được môi trường giúp chúng ta phản ứng tốt với tương
lai. Chúng ta muốn biết những thứ đó đã xảy ra như thế nào và tại sao, điều gì
sẽ xảy ra trong tương lai. Hiểu được một sự kiện xảy ra như thế nào giúp chúng
ta tiên đoán được nó có thể xảy ra lại như thế nào. Đó cũng là lý do tại sao chúng
ta luôn tìm kiếm các mô hình và quan hệ nhân quả giữa các đối tượng, hành động,
và tình huống. Việc này giúp xác định và hiểu biết mọi thứ dễ dàng hơn, và tiên
đoán dựa trên sự tương tự giữa các mô hình cũng dễ dàng hơn. Phát hiện và nhận
diện các kết nối giữa mọi thứ và sự kiện trong môi trường giúp chúng ta học được
điều gì đang và không hoạt động. Các mô hình mẫu cũng giúp chúng ta tiện nghi
hơn, làm cho nhu cầu tìm ra chúng càng trở nên quan trọng hơn.
Để học được những
gì làm việc và không, những gì tốt và tồi tệ, chúng ta phải khám phá. Khám phá
môi trường thành công cho phép chúng ta sống sót và sinh sản.
Ghi nhớ nơi chốn,
mẫu vật và các sự kiện rất quan trọng. Nhưng thi thoảng, bộ não có thể bị thu
hút đặc biệt bởi những thông tin mới hay những kinh nghiệm lạ. Những nghiên cứu
gần đây cho rằng bộ não phản ứng với những điều mới lạ. Cái không biết sẽ có khả
năng được tưởng thưởng, do đó sẽ khích lệ chúng ta khám phá môi trường và học hỏi
cho tương lai.
Chúng ta phải
linh hoạt đối với những thay đổi liên tục và những điều không đoán được. Ta thường
xuyên khám phá những cái không biết trong tình trạng ngẫu nhiên. Ví dụ, nhiều động
vật, khi tìm kiếm thức ăn, sẽ bắt đầu tìm kiếm ngẫu nhiên, và chỉ thay đổi hành
vi của chúng khi chúng nhìn thấy một kích thích được tưởng thưởng. Sau đó chúng
sẽ hướng tới nó.
Linh hoạt và học
hỏi vô số lựa chọn để chọn ra cái thích hợp nhờ tương tác với thế giới, là một
giá trị lớn. Nó ám chỉ rằng việc tìm ra những cách thức mới để tương tác với thế
giới được ưu tiên hơn so với luyện tập quá sức trong những mô hình cũ. Ví dụ,
các nghiên cứu về ong mật cho thấy chúng định hướng theo một tổ chức bộ nhớ
không gian giống như bản đồ. Khi những con ong được đào tạo hết sức để tìm ra một
nơi có mật hoa, chúng rất dễ dàng tìm được đường trở về tổ từ nơi đó, nhưng lại
không dễ dàng lắm nếu từ những nơi khác. Nhưng khi vẫn những con ong đó được
đào tạo hướng tới nhiều nơi có mật, chúng sẽ tìm đường về nhà tốt hơn dù từ nhiều
vị trí khác nhau. Các nghiên cứu sâu hơn cũng cho thấy chúng ta học tốt hơn khi
chúng ta trộn lẫn nhiều thông tin với những gì ta đã biết.
Phân loại nhanh
Câu chuyện về một
người tới nhà thăm vị giáo sư. Bên ngoài căn nhà, một con chó đang chơi đùa
trên bãi cỏ. Khi giáo sư mở cửa cho người đó vào nhà, con chó cũng chạy vào.
Sau đó giáo sư hỏi người này: “Anh thường đi du lịch với con chó của mình à?”
Người đó trả lời, “Đó không phải con chó của tôi. Tôi đã nghĩ đó là chó của
ngài.”
Não chúng ta được
nối dây để nhận thức trước khi nghĩ – sử dụng cảm xúc trước khi suy luận. Giống
như hậu quả của xu hướng sợ hãi, việc phân loại nhanh đến rất tự nhiên. Thời
gian và kiến thức giới hạn trong một môi trường nguy hiểm và đáng sợ làm cho việc
khái quát hóa vội vàng và rập khuôn trở thành quan trọng để sinh tồn. Chờ đợi
và cân nhắc các bằng chứng có nghĩa là chết. Có phải chúng ta thường xuyên vẽ
nhanh ra các kết luận, hành động bốc đồng và sử dụng cảm xúc để tạo ra ấn tượng
và đánh giá một cách nhanh chóng không?
Chúng ta đặc biệt
đề phòng những gì chuyển động. Có lẽ nó ám chỉ sự nguy hiểm. Đó là lý do tại
sao chúng ta tự giác nắm lấy một vị trí – hay ai đó có trách nhiệm – khi chúng
ta phát hiện sự di chuyển. An toàn hơn là phải hối tiếc.
Nam và nữ có những ưu tiên khác nhau
“Bộ não để làm
gì?” Giáo sư thần kinh học Michael Gazzaniga đã hỏi trong The Mind’s Past (Quá khứ của trí tuệ), “Câu trả lời thông minh cho
câu hỏi đó là quan hệ tình dục. Nói một cách đầy đủ hơn, bộ não tồn tại để ra
các quyết định tốt hơn về việc làm thế nào tăng cường khả năng sinh sản thành
công.” Sinh sản là hoạt động trung tâm trong cuộc đời của mọi sinh vật sống.
Khi một cá thể sống sót mà qua tuổi sinh sản, cá thể đó vô dụng về mặt tiến
hóa.
Cuộc đấu tranh để
sinh sản đôi lúc có thể có những hiệu ứng đặc biệt. Trong tự nhiên, mọi thứ
không phải luôn luôn là những gì chúng có vẻ như thế.
Một con kiến trèo lên đầu một ngọn cỏ, ngã
xuống, rồi lại cố thử đi thử lại… cho đến khi một con cừu đến và xơi luôn ngọn
cỏ (và cả con kiến). TẠI SAO con kiến cứ mãi cố chấp trèo lên ngọn cỏ? Con kiến
có lợi gì?
Không có lợi gì
đối với con kiến. Đây là hành vi được thao tác bởi một loại sâu bọ ký sinh có
nhu cầu đi vào ruột cừu để sinh sản. Bằng cách trưng dụng vật chủ tức thời là
con kiến để trèo lên các ngọn cỏ, ký sinh trùng sẽ làm tăng cơ hội con kiến bị
động vật ăn cỏ ăn thịt. Lợi ích ở đây là sự thành công về mặt sinh sản của ký
sinh trùng, chứ không phải con kiến. Một loại ký sinh trùng khác, Toxoplasma,
chỉ có thể sinh sản trong cơ thể mèo. Nó làm cho con chuột mất đi nỗi sợ hãi được
kế thừa với loài mèo (mùi mèo) và sau đó khiến cho con chuột kết thúc trong bữa
tối của một con mèo. Một loại ký sinh trùng khác làm cho cá bơi trong những
vùng nước nông khiến chim có thể bắt được chúng, vật chủ cuối cùng của loại ký
sinh trùng này.
Hầu hết động vật
(gồm cả con người) làm vài việc để thu hút giới tính đối lập. Do chọn lọc tự
nhiên tuyệt đối chỉ dành cho sinh sản trong một thế giới hữu hạn bạn tình, vài
cá thể có năng lực tìm kiếm bạn tình tốt hơn những cá thể khác. Những cá thể có
lợi thế trong thu hút bạn tình tiềm năng sẽ được “chọn lọc”. Những đặc điểm nào
khiến chúng có lợi thế? Những đặc trưng giải phẫu hay hành vi nào sẽ thu hút được
bạn tình khác giới hay đe dọa các đối thủ?
Darwin nhận thấy
rằng nhiều đặc điểm giải phẫu và hành vi không có bất kỳ giá trị sống sót nào
nhưng có thể đóng vai trò quan trọng trong thu hút bạn tình. Sức mạnh và vẻ đẹp
là những dấu hiệu như vậy. Ông gọi cơ chế này là chọn lọc giới tính. Ví dụ, màu
sắc phát sáng tạo ra sức hút giới tính giữa các con bướm. Và gà mái thích những
con gà trống có đuôi to và đầy màu sắc.
Trong cuốn Parental Investment and Sexual Selection
(Đầu tư của cha mẹ và chọn lọc giới tính), nhà sinh học Robert Trivers nói rằng
sức mạnh đằng sau chọn lọc giới tính là đầu tư của cha mẹ, hay “một loại đầu tư
nào đó của cha mẹ cho một cá thể của thế hệ con cháu để gia tăng cơ hội sống
sót của con cháu (và do đó cả khả năng sinh sản thành công) với cái giá là khả
năng đầu tư của cha mẹ cho một cá thể con cháu khác.”
Nam cần thu hút
nữ. Nhưng họ cũng cần phải làm cho những người đàn ông khác tránh xa khỏi người
phụ nữ “của họ”. Một phụ nữ phải đầu tư vào mỗi một trong các con của cô ấy. Đó
là chín tháng mang thai và nhiều năm sau đó nữa để chăm con. Cô ấy đầu tư thời
gian, năng lượng và làm tăng khả năng chết sớm của cô ấy. Có vài giới hạn trong
việc có bao nhiêu đứa con cô ấy có thể sinh trong suốt cuộc đời. Một người đàn
ông có ít chi phí hơn trong sinh sản. Anh ta có thể tương tác với nhiều phụ nữ
và tạo ra một số lượng con khổng lồ. Anh ta không cần phải ở bên chúng suốt
ngày. Nhiều phụ nữ có thể nuôi lớn con mà không cần trợ giúp.
Vì mục tiêu của
tiến hóa là sinh sản, người đàn ông sẽ muốn quan hệ tình dục với càng nhiều phụ
nữ càng tốt. Điều này gây ra sự cạnh tranh giữa đàn ông vì phụ nữ. Làm thế nào
một người đàn ông trừ bỏ được cuộc cạnh tranh này? Anh ta phải làm bản thân cuốn
hút hơn với phái nữ hoặc anh ta có thể bị loại khỏi cuộc cạnh tranh.
Thành công sinh
sản của phụ nữ không phụ thuộc vào việc cô ta quan hệ với bao nhiêu đàn ông, mà
là khả năng cô ta có cơ hội sử dụng các tài nguyên (như thức ăn, nơi trú ẩn, và
sự bảo vệ) cho bản thân và các con của cô ta. Phụ nữ do đó phân biệt đối xử hơn
đàn ông. Cô ta không thể lấy ngay anh chàng đầu tiên. Điều này làm cô ấy phải cạnh
tranh với những người khác để sử dụng tài nguyên. Một người đàn ông được công
nhận là giàu có và địa vị là một lợi thế. Vì thế các lựa chọn bạn tình (thể hiện
như những ưu đãi vô thức) sẽ bị tác động bởi thực tế rằng phụ nữ gặp nhiều đe dọa
hơn đàn ông.
Năm 1989, Giáo
sư tâm lý học David Buss xuất bản một nghiên cứu với hàng nghìn đàn ông và phụ
nữ từ 37 nền văn hóa trên thế giới, chỉ ra xếp hạng các chỉ tiêu quan trọng nhất
khi lựa chọn ai đó để hẹn hò hay kết hôn. Phụ nữ nhấn mạnh vào triển vọng tài
chính của bạn tình tiềm năng. Phụ nữ cùng thích những người đàn ông có tham vọng
và siêng năng hơn. Phụ nữ thích đàn ông già hơn mình. Đàn ông thích phụ nữ trẻ
hơn mình. Đàn ông xếp hạng cho sức hấp dẫn cơ thể cao hơn phụ nữ. Nghiên cứu
cũng cho thấy đàn ông cảm thấy ghen tuông nhất khi người phụ nữ của anh ta quan
hệ tình dục với bất kỳ ai khác. Phụ nữ cảm thấy ghen tuông nhất khi người đàn
ông của cô ta bị cuốn hút về mặt cảm xúc từ bất kỳ ai khác.
Các nghiên cứu
đã cho thấy sự khác nhau giữa các giới tính. Phụ nữ ít có khuynh hướng chấp nhận
rủi ro. Họ bị tác động nhiều hơn nếu mất mát xảy ra. Họ ít cạnh tranh hơn và có
ý thức về địa vị. Những nghiên cứu khác cũng cho thấy đàn ông và phụ nữ khác
nhau trong hành vi và khả năng nhận thức. Vài khả năng trong số này phản ánh sự
biến đổi hormone tác động đến sự phát triển của bộ não. Giống như hầu hết những
thứ khác, điều này phụ thuộc hoàn cảnh.
Động vật xã hội
Chúng ta không quan tâm tới danh tiếng bản
thân ở những nơi chúng ta chỉ ghé qua. Nhưng khi chúng ta phải ở lại một thời
gian, chúng ta sẽ quan tâm. Điều đó mất bao lâu? Thời gian tương đương với sự tồn
tại vô ích và nhỏ nhoi của chúng ta.
-
Blaise Pascal (Nhà toán học và triết học người
Pháp, 1623 – 1662)
Liệu danh tiếng
tốt, địa vị, tài nguyên và được xã hội chấp nhận có giúp tổ tiên chúng ta sống
sót, có bạn tình và sinh sản không?
Trong xã hội săn
bắn hái lượm nhỏ bé, những gì tốt đẹp với cả nhóm bao giờ cũng được đền đáp cho
cá nhân. Sự hợp tác là quan trọng trong một môi trường hữu hạn tài nguyên, các
cá nhân yếu đuối và nhiều nguy hiểm. Sự cô lập khỏi một nhóm hay xã hội có
nghĩa là hủy diệt. Chỉ an toàn trong đám đông. Một nhóm lớn sẽ bảo vệ cá nhân
chống lại thú dữ, săn bắn cùng nhau, trao đổi thông tin về nơi có thức ăn, hợp
tác bảo vệ thức ăn khỏi kẻ thù, và là nguồn quan trọng để kiếm bạn tình, trợ
giúp trẻ em. Tập hợp thành một nhóm có may mắn sống sót lớn hơn.
Nếu ta giúp
thành viên xã hội khác, anh ta có lẽ sẽ giúp ta khi cần. Nếu anh ta không giúp,
chúng ta sẽ không bao giờ giúp anh ta nữa. Hành vi này gọi là sự hồi đáp – ý tưởng
của “Tôi làm trầy lưng anh thì anh cũng làm trầy lưng tôi.” Danh tiếng được tin
tưởng và có giá trị quan trọng vì chúng ta đã làm như thế nào trong quá khứ là
chỉ dẫn duy nhất để biết ta sẽ làm như thế nào trong tương lai. Nếu ta lừa gạt
ai đó, anh ta sẽ nói với bạn bè anh ta, phá hủy các cơ hội hợp tác trong tương
lai của ta với những người khác. Lý do chúng ta tin tưởng bạn bè nhưng cẩn trọng
với người lạ không phải là như vậy sao?
Chúng ta có sự
quan tâm mạnh mẽ đến công bằng. Ta buồn khi mọi thứ bất công. Đôi khi ta trừng
phạt người khác với cái giá của chính mình. Có lẽ ta không muốn xuất hiện yếu
đuối hay dễ dàng dành lợi thế. Vì chúng ta phát triển trong những cộng đồng nhỏ
với các tương tác lặp đi lặp lại, nên sẽ có ý nghĩa hơn nếu xây dựng danh tiếng
để không bị coi là yếu đuối. Chúng ta muốn khuyến khích mọi người đối xử với
chúng ta tốt hơn trong thời gian tới.
Điều gì xảy ra nếu
chúng ta giúp ai đó nhưng lần tới chúng ta cần giúp đỡ, người đó biến mất có chủ
đích? Đối với những người không ưu ái chúng ta thì sao? Sự hồi đáp thực sự làm
việc nếu (1) chúng ta sống trong một xã hội rất nhỏ để ai cũng có thể nhận ra
nhau, lưu giữ được thông tin các “dịch vụ” đã cho và nhận, và có cơ hội tương
tác trong tương lai, và (2) cái giá cho hành động đó gần giống như đặc ân người
nhận nhận được trong tương lai. Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi khích lệ tính ích kỷ,
Giáo sư sinh học Lee Alan Dugatkin kể:
Trong một bữa tối nhỏ quây quần bên nhau… một
vị khách nói rằng khi tìm một thợ cơ khí, anh ta luôn tránh xa các gara trên đường
cao tốc lớn và gần đường băng. Những người thợ này, anh ta bảo, đều biết rằng họ
sẽ không bao giờ gặp lại chúng ta nữa nên là những kẻ chặt chém khét tiếng. Hãy
tới gara nhà hàng xóm, nơi mà phục vụ đúng như quảng cáo, và họ biết bạn sẽ là
khách hàng lâu dài.
“Hãy làm điều thiện khi người khác có thể
nhìn thấy nó.”
Đây là vấn đề
danh tiếng. Chúng ta cư xử khác đi khi chúng ta bị quan sát hay khi tên tuổi
chúng ta được công khai chứ? Phải trả giá khi xuất hiện tốt đẹp trước mặt người
khác. Một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng, người ta sẽ làm từ thiện
nhiều hơn đáng kể khi bị quan sát bởi những hình ảnh robot. Thiết lập mô hình
như trong thế giới thực, con người gần như đóng góp gấp ba lần vào một hộp cà
phê do tâm lý khi họ bị quan sát bởi một cặp mắt trên tấm áp phích, so với áp
phích chỉ có một hình ảnh hoa lá khác. Những nghiên cứu sâu hơn cho thấy chúng
ta làm từ thiện nhiều hơn khi việc làm tốt của chúng ta được nhận ra công khai
và rộng rãi. Nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Henry Louis Mencken đã nói: “Lương tâm là tiếng
nói bên trong bảo chúng ta rằng, có lẽ ai đó đang nhìn.”
Các đặc điểm như
sợ thất bại, mất địa vị xã hội hay danh tiếng rất quan trọng vì chúng ảnh hưởng
tới chỗ đứng của một cá nhân trong xã hội săn bắn hái lượm. Xâm nhập được vào
nguồn thức ăn và tình dục hay không phụ thuộc vào nó. Khả năng sống sót và sinh
sản có thể bị đe dọa. Trừng phạt của xã hội rất nguy hiểm. Có thể dẫn đến lưu
vong. Theo Giáo sư môi sinh Garrett Hardin, ngày nay cũng tương tự:
Sợ không được công nhận là sức mạnh chính giữ
cho sự toàn vẹn xã hội: sợ Chúa, sợ cảnh sát, và sợ đánh giá của hàng xóm.
Chính quyền tôn giáo muốn nỗi sợ Chúa là thứ điều khiển chủ yếu. Chính quyền
dân sự muốn sợ cảnh sát và tòa án trở thành thống trị. Nhưng, Locke [John] nói,
quan điểm của hàng xóm nhà bạn sẽ lấn át tất cả những người khác.
Cung cấp tài
nguyên là một hành vi khác gia tăng cơ may sống sót và tìm được bạn tình. Khả
năng cung cấp của chúng ta càng tốt, địa vị chúng ta trong cộng đồng càng cao.
Như ta đã thấy
trước đây, có cạnh tranh giữa những người đàn ông vì phụ nữ. Phụ nữ cạnh tranh
với nhau để xâm nhập các nguồn tài nguyên. Phụ nữ muốn đàn ông có thể chăm sóc
con cái. Các tài nguyên như thức ăn, nhà ở, và địa vị lôi cuốn họ. Phấn đấu vì
quyền lực, thống trị, sự yêu mến, vị trí, và sự tôn kính là những quảng cáo cho
của cải. Charles Darwin nói: “Đàn ông đam mê và thường cố gắng phóng đại bất kỳ
đặc điểm tự nhiên nào có thể có lợi cho anh ta.”
Có bằng chứng
khác về việc con người là động vật xã hội không? Một nghiên cứu về nhóm nam giới
có vợ đang đau đớn vì ung thư phổi cho thấy những người góa vợ có hoạt động hệ
thống miễn dịch thấp hơn. Nghiên cứu khác chỉ ra đàn ông bị cô lập xã hội thường
chết nhanh hơn những người được tương tác trong xã hội. Nó cũng cho thấy sự chối
bỏ của xã hội cũng giống gây đau khổ về thể xác. Sự chối bỏ làm chúng ta đau đớn!
Tuân thủ trật tự
cũng là vấn đề. Khi ta phấn đấu cho địa vị, các hệ thống phân cấp xuất hiện.
Nhà động vật học người Na uy Thorleif Schjelderup – Ebbe phát hiện ra rằng
trong thế giới của gà mái có một hệ thống phân cấp tuyến tính trong đó mọi con
gà mái đều biết vị trí của nó. Nhà văn khoa học Robert Wright nói trong cuốn The Moral Animal (Động vật có đạo đức):
“Ném một nhóm gà mái vào cùng với nhau, và, sau một thời gian hỗn loạn, trong
đó có đánh nhau, mọi thứ sẽ ổn định. Những cuộc tranh chấp … từ bây giờ sẽ ngắn
gọn và quyết định, khi một con gà mái đơn giản mổ đầu con khác, đưa ra sự trì
hoãn nhanh chóng.”
Tuân thủ trật tự
quyết định ai có cơ hội ăn trước, và con gà mái nào phải tuân theo con nào. Mỗi
con gà mái đều biết ai nó có thể thống trị, và tới lượt mình, nó sẽ thống trị
ai.
Hệ thống phân cấp
địa vị không chỉ có ý nghĩa với gà mái. Các nghiên cứu cũng cho thấy khi ta đưa
một nhóm trẻ con vào cùng với nhau, chúng sẽ nhanh chóng rơi vào các phân lớp
khác nhau. Vài đứa top đầu được yêu thích nhất, hầu hết thường bị bắt chước, và
được đa số nghe theo. Cũng rất đau khổ khi đạt được địa vị rồi lại bị đánh mất.
Nhiều nghiên cứu
cho thấy nơi chúng ta đứng trong bậc thang xã hội có ảnh hưởng đến sức khỏe, hạnh
phúc và tuổi thọ của chúng ta. Địa vị càng cao, có vẻ như chúng ta sẽ càng khỏe
mạnh.
Chúng ta phải cẩn
trọng không mang các giải thích về tiến hóa dùng cho mọi hành vi không thích hợp.
Có rất nhiều nguyên nhân đối với một hành vi. Chúng ta không thể ngoại suy các
điều kiện trong môi trường của tổ tiên để giải thích mọi hành vi. Không ai biết
môi trường cổ xưa trông như thế nào. Không giống như xương và mô, không có bằng
chứng hóa thạch về hành vi. Cũng không có bất kỳ bằng chứng thần kinh học hay
di truyền trước những giả định hành vi nào đó. Và các lý giải theo thuyết tiến
hóa về bộ não không thể kiểm tra bằng thí nghiệm được. Một đặc điểm có ở mọi
nơi không nhất thiết phải được chỉ định cho di truyền. Nhưng nhiều hành vi được
mô tả phù hợp với các bằng chứng chúng tôi có từ các tổ chức sống khác và từ
các tài liệu lịch sử loài người.
Chúng ta hãy
quay lại một triệu năm trước và giả sử bạn đang sống trong một cộng đồng nhỏ với
khoảng 150 người, mọi người đều biết nhau, các cơ hội kết bạn tình là hữu hạn.
Môi trường đầy hiểm nguy và thử thách. Chìa khóa là để tránh nguy hiểm, có thức
ăn và lôi cuốn đối tác. Hành vi nào là quan trọng để sống sót và sinh sản?
Không được tưởng
thưởng khi đánh giá nhanh chóng? – “Nếu có tiếng động sau bụi cây, thì phải chạy”.
Xu hướng tự nhiên là hành động bốc đồng – sử dụng cảm xúc trước khi lập luận.
Hành vi sống còn cho tồn tại và sinh sản trong lịch sử tiến hóa vẫn áp dụng tới
tận ngày nay. Sợ hãi không thể giúp bạn sống sót ư? Thất bại xã hội phải trả
giá đắt chứ? Bảo toàn địa vị, tài nguyên và được xã hội chấp nhận giúp bạn sống
sót và có bạn tình không?
Bạn thể thiện bản
thân là người trung thực, tốt đẹp và giá trị nên người khác sẽ hợp tác với bạn
đúng không? Có đe dọa chung hay mục đích chung nào khiến mọi người không hợp
tác? Theo đuổi các chuẩn mực xã hội có ý nghĩa gì không? Bạn không có ác cảm mạnh
mẽ với mất mát và rủi ro lớn khi bạn bị đe dọa à? Bạn không quan tâm đến lợi
ích ngắn hạn của bản thân và những người bạn yêu quí ư?
Hầu như tâm lý chúng ta là kết quả của các
tác động văn hóa
Xã hội loài người
không chỉ được định hình bởi sự tiến hóa gene, mà còn bởi cách mạng văn hóa. Thực
hành, phương pháp, công cụ, bí quyết, đạo đức, và chuẩn mực xã hội đều quan trọng
trong sự tiến hóa hành vi của chúng ta. Các thói quen chúng ta học từ kinh nghiệm
của cha mẹ và người khác – hoặc qua dạy và quan sát.
Sự phát triển
văn hóa nhanh hơn tiến hóa di truyền vì nó cho phép nhiều thứ ta học được truyền
đi và kết hợp với những thứ mọi người xung quanh ta đã học được. Không giống
như tiến hóa sinh học, cuộc tiến hóa về văn hóa không được kế thừa. Chúng ta
không kế thừa thói quen của cha mẹ chúng ta. Chúng ta chỉ học hỏi từ nó.
Nói cách khác,
tiến hóa di truyền và văn hóa tương tác với nhau. Sinh học tác động đến văn hóa
của chúng ta. Lấy ngôn ngữ làm ví dụ. Chúng ta đồng bộ với một cơ thể giải phẫu
học, sinh lý học và sinh hóa – tạo cho chúng ta khả năng học một ngôn ngữ.
Nhưng chúng ta không sinh ra đã nói được ngay một ngôn ngữ. Ngôn ngữ chúng ta
nói là một sản phẩm của văn hóa.
Văn hóa cũng tác
động tới sinh học cơ thể qua việc tạo ra một môi trường và chọn lọc tự nhiên được
kiểm tra. Nếu một hành vi cụ thể được chứng minh là có lợi từ thế hệ này sang
thế hệ khác, hành vi đó sẽ được ưu tiên trong chọn lọc tự nhiên. Giả sử các cá
nhân theo thời gian đều có vài lựa chọn hành vi xã hội. Những lựa chọn này được
truyền đi thông qua học tập và văn hóa. Theo thời gian, chúng được chọn lọc tự
nhiên ưu ái vì chúng ảnh hưởng tích cực đến sống sót và sinh sản.
Đặc điểm tự nhiên cơ bản của chúng ta
Đặc điểm tự nhiên của con người là như nhau;
chính những thói quen làm chúng ta khác nhau.
-
Khổng Tử
Đặc điểm tự nhiên cơ bản của chúng ta là gì?
Đặc điểm tự
nhiên của chúng ta là một sản phẩm của lịch sử sinh lý và văn hóa. Tiến hóa giải
thích chúng ta được định hình như thế nào và bị ràng buộc về mặt sinh lý ra
sao. Giống như xương, thận, mắt, và chân, bộ não của chúng ta được định hình bằng
chọn lọc tự nhiên. Chọn lọc tự nhiên trang bị cho chúng ta những đặc điểm làm
tăng khả năng sống sót và sinh sản. Do đó nó cho phép ta cư xử có ý thức và vô
thức theo những gì ta nhận thức là có lợi nhất với mình. Đó là đặc điểm tự
nhiên cơ bản về mặt sinh lý của chúng ta. Nó mạnh lên hay bị làm yếu đi phụ thuộc
vào kinh nghiệm sống. Giả sử mọi người đều hành động tư lợi, chúng ta sẽ ít bị
thất vọng hơn so với giả thiết mọi người nói chung đều hành động vị tha. Nó
không có nghĩa là chúng ta không thể làm mọi thứ tốt hơn. Đưa ra những yêu cầu
như vậy để trước tiên chúng ta hiểu tại sao chúng ta lại là những gì như chúng
ta đang có. Richard Dawkins đã nói trong cuốn The Selfish Gene (Gene ích kỷ): “Cảnh báo rằng nếu bạn mong ước, giống
như tôi, xây dựng một xã hội trong đó mọi cá nhân đều hợp tác hào phóng và
không vị kỷ hướng tới điều thiện, thì bạn cũng đừng nên hy vọng sẽ có trợ giúp
gì nhiều từ tự nhiên. Hãy để chúng ta cố gắng dạy nhau tính khoan dung và lòng
vị tha, vì chúng ta đều sinh ra ích kỷ.”
Hãy cùng tóm tắt
những lực lượng tác động và đặt ra các giới hạn cho việc phán xét của chúng ta
nhé.
Gene
– kích thích môi trường gây ra các xu hướng phản ứng lại từ các gene của chúng
ta. Các gene đã tiến hóa và chức năng của chúng cơ bản dựa trên những gì có lợi
trong môi trường săn bắn hái lượm – môi trường mà con người đã sử dụng hầu hết
thời gian. Để sống sót, chúng ta phải tránh tất cả những đe dọa tiềm tàng tới sự
sống và sinh sản. Tiến hóa đã phát triển một hệ thống giá trị dựa trên đau khổ
và vui sướng giúp chúng ta ứng đối với môi trường. Do môi trường cổ xưa chỉ có
hữu hạn tài nguyên và nguy hiểm, chúng ta đã hình thành một ác cảm mạnh mẽ với
mất mát và có khuynh hướng sợ hãi. Chúng ta đưa ra các nhận xét nhanh chóng và
trở thành động vật xã hội. Chúng ta dễ mắc phải việc đánh giá tình huống khi
đang sợ hãi. Nhưng không phản ứng bằng sự sợ hãi có thể phải trả giá đắt hơn việc
sợ hãi và sai lầm. Chúng ta cũng hành động theo những cách thức mà khen thưởng
là quan trọng và chi phí là tối thiểu.
Kinh
nghiệm sống – dạy dỗ, dinh dưỡng, giáo dục, dấu ấn của xã hội, thể chất,
các yếu tố văn hóa xã hội tạo ra một số niềm tin, thói quen, giá trị, thái độ
và đặc điểm tính cách. Điều này, đến lượt nó, lại tạo ra đức tin và những giả
thuyết cá nhân. Việc đánh giá phán xét của chúng ta bị tác động bởi trạng thái
trí tuệ.
Môi
trường hiện tại – những nhân tố bên ngoài như môi trường, ngữ cảnh hay
tình huống, hay một hoàn cảnh cụ thể nào đó.
Yếu tố
ngẫu nhiên – chúng ta đã được chuẩn bị để mở rộng tâm trí với những
kinh nghiệm mới vì môi trường biến động liên tục; điều khiển được những thách
thức mới là một cách để thích nghi.
Kết quả của các
hành động làm tăng cường một số hành vi. Nếu kết quả này được khen thưởng, hành
vi của chúng ta có lẽ sẽ lặp đi lặp lại. Cái mà chúng ta quan tâm tới việc khen
thưởng là khác biệt đối với mỗi cá nhân. Phần thưởng có thể là bất kỳ cái gì từ
sức khỏe, tiền, công việc, danh tiếng, gia đình, địa vị, hay quyền lực. Trong tất
cả những hoạt động này, chúng ta làm những gì đang vận hành. Đó là cách chúng
ta thích nghi. Môi trường chọn lọc hành vi tương lai của chúng ta.
Nhưng nó không
chỉ là những gì xảy ra mà chúng ta đã đếm được. Đó là những thứ chúng ta nghĩ
nó sẽ xảy ra. Khi ta đối mặt với một tình huống, bộ não tạo ra một mong muốn.
Ta có thể hành động theo những cách đi ngược lại lợi ích bản thân nếu ta không
hiểu hậu quả.
Hành vi tạo ra
các phản hồi từ môi trường. Nếu ta làm những điều dại dột và chịu thống khổ với
hậu quả của nó, có lẽ ta vẫn làm những điều dại dột trong tương lai ngay cả khi
nó làm ta đau đớn. Bởi vì ta không hiểu nguyên nhân của sai lầm, hay nỗi đau đó
ít khổ sở hơn những hành vi khác.
Các kinh nghiệm
được lưu trong bộ não và tác động đến chúng ta trong tương lai. Các mẫu liên kết
mới giữa các neuron được tạo ra.
Một số quyết định không mang lại lợi ích tốt
nhất
Chắc chắn phải có một lượng lớn sự ngu ngốc
trong bản chất tự nhiên con người, nếu không loài người đã không thể bị lừa gạt
như thế này, hàng nghìn lần đã xảy ra, bởi cùng một tấm lưới, và trong khi họ vẫn
còn nhớ những bất hạnh quá khứ, tiếp tục ra tòa và khích lệ nguyên nhân của những
gì họ đang mắc nợ, và những thứ đó sẽ lại sản sinh ra chúng.
-
Marcus Porcius Cato (Nhà văn và chính khách La
Mã, 234 – 149 TCN)
Nếu chúng ta thường
xuyên hành động không dựa trên tính tư lợi, làm sao ta ra quyết định mà rõ ràng
chúng không mang lại lợi ích tốt nhất cho bản thân?
Có sự ngắt kết nối
giữa thế giới tổ tiên với những gì bộ não chúng ta đã thích nghi và thế giới
ngày nay. Nhiều đặc điểm của chúng ta đã thích nghi tốt hơn với những yêu cầu của
thế giới tổ tiên xưa như: tránh xa khỏi thú dữ, rủi ro khi bị xã hội loại trừ,
tìm kiếm bạn đời, kiếm đủ thức ăn, duy trì các mối quan hệ, đòi hỏi địa vị và
nơi an toàn để sống, và chăm sóc con cái.
Tiến hóa di truyền
và văn hóa trang bị cho ta những khuynh hướng hành vi (như khuynh hướng sợ hãi,
hợp tác đối ứng, phân loại nhanh, quan tâm đến sự thừa nhận của xã hội, v.v…)
giúp ta tương tác với môi trường. Những khuynh hướng này nói chung có nhiều hữu
ích hơn là không (ngược lại chúng ta không thể ở đây hôm nay). Đôi khi chúng dẫn
ta lạc lối và khiến ta đánh giá sai lầm.
Ví dụ, chúng ta
có thể bị thiên kiến do một khuynh hướng tự động tin tưởng những ai chúng ta
thích. Thích thường dựa trên ấn tượng đầu tiên. Chúng ta được trang bị tuyệt vời
để đọc người khác nhằm tìm ra những dấu hiệu tin tưởng. Ta nhìn vào trạng thái
cảm xúc của họ - giọng điệu và cách biểu đạt nói chung. Tuy nhiên, thường rất
khó nhận ra sự khác biệt giữa tốt và xấu. Một cá nhân có thể bí ẩn và thù địch,
hoặc ấm áp và cởi mở. Những hành vi khác biệt này gây hậu quả gì với nhận thức
của chúng ta về mỗi cá nhân? Chúng ta đã quên cần phải nghĩ đến các nhân tố
khác quan trọng trong đánh giá một con người hay một tình huống. Vẻ bề ngoài có
thể là lừa dối. Kẻ hóa trang giỏi nhất luôn cư xử như thể hắn không hành động
vì lợi ích cao nhất của bản thân. Nhà triết học và chính trị người Ý thế kỷ 16
Niccolo Machiavelli đã nói trong cuốn The
Prince (Hoàng tử): “Các hoàng tử đã đạt được những điều tuyệt vời là những
người cho đi thế giới của họ một cách nhẹ nhàng, là những người biết lừa gạt
người khác một cách xảo quyệt, và cuối cùng, là những người vượt qua luật lệ của
họ bằng những nguyên tắc thành thật.”
Trong Phần Một
chúng ta đã học về đặc điểm tự nhiên và những giới hạn của chúng ta. Với nền tảng
cơ bản này, giờ hãy cùng nhìn xem các khả năng tâm lý sẽ ảnh hưởng đến việc ra
quyết định như thế nào.
Warren Buffett
đưa cho chúng ta vài ghi chú về lý do tại sao ngay cả người thông minh cũng nhận
những kết quả tồi tệ:
Đó là cái tôi. Đó là sự tham lam. Đó là sợ
hãi. Đó là sự bắt chước người khác mà không suy nghĩ. Tôi muốn nói, có vô số
nhân tố khiến công suất của trí óc giảm đi đáng kể trước khi đầu ra xuất hiện.
Và tôi muốn nói nếu Charlie và tôi có bất kỳ lợi thế gì, đó không phải vì chúng
tôi quá thông minh, đó là vì chúng tôi hợp lý và chúng tôi rất hiếm khi để các
nhân tố không liên quan can thiệp vào suy nghĩ của mình. Chúng tôi không để
quan điểm của người khác can thiệp vào nó… chúng tôi cố gắng sợ hãi khi người
khác tham lam. Chúng tôi cố tham lam khi người khác sợ hãi. Chúng tôi cố gắng
tránh bất kỳ hình thức nào bắt chước hành vi của người khác. Và đó là những yếu
tố khiến người thông minh cũng nhận những kết quả tồi tệ.
Tôi luôn luôn nhìn IQ và tài năng dưới dạng
biểu hiện của công suất động cơ, nhưng theo nghĩa của đầu ra, hiệu suất động cơ
làm việc, phụ thuộc vào tính hợp lý. Nhiều người bắt đầu với động cơ 400 mã lực
và thu được đầu ra 100 mã lực. Tốt hơn là có một động cơ 200 mã lực và một đầu
ra cũng tương ứng thế. Vậy tại sao những người thông minh làm nhiều thứ can thiệp
vào việc nhận được đầu ra họ có thể thu được? Đó là do thói quen, tính cách,
khí chất, và cư xử hợp lý. Chứ không phải là theo cách riêng của bạn.
Trong Phần Hai,
Ba và Bốn, chúng ta sẽ có hai nhân vật tưởng tượng là John và Mary. 40 tuổi,
John là quản lý lâu năm của TransCorp; một công ty Mỹ có nhiều nghiệp vụ kinh
doanh rộng rãi. John cưới Mary, một giáo viên bán thời gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét