HAI
SỰ TIẾN HÓA ĐÃ CHỌN LỌC CÁC KẾT NỐI SINH RA NHỮNG HÀNH VI HỮU DỤNG ĐỂ SỐNG SÓT VÀ SINH SẢN
Tiến hóa nghĩa là gì?
Tiến hóa là sự
thay đổi (về mặt cấu trúc, sinh lý, hành vi) – nó xảy ra theo thời gian thông
qua tương tác với môi trường. Giáo sư cổ sinh vật học John Horner nói trong cuốn
Dinosaur Lives (Sự sống của khủng
long): “Khi bạn lật từng trang cuốn album của gia đình bạn đang chứng kiến một
cuộc tiến hóa đang diễn ra.”
Thuyết tiến hóa
cho rằng tất cả các cá thể sống ngày nay đều phát triển từ những dạng thức sống
đơn giản hơn và nguyên thủy hơn. Vì mỗi sinh vật sống đều sử dụng một bộ mã hóa
di truyền như nhau, nên có vẻ như sự sống đã rơi xuống từ một tổ tiên chung xa
xôi nào đó có bộ mã này. Nếu một con khỉ, chúng ta hay bất kỳ một tổ chức sống
nào khác lần dấu ngược lại các tổ tiên của mình đủ xa, chúng ta có lẽ sẽ tìm ra
vị tổ tiên chung.
Những cơ chế chủ
yếu nào chịu trách nhiệm cho sự tiến hóa và cho việc bộ não của chúng ta phát
triển như thế nào? Đột biến và chọn lọc tự nhiên.
Đột biến tạo ra các biến thể
Đột biến sinh ra
bởi một lỗi sao chép trong chuỗi với các phân tử A, C, G và T khi DNA được sao
chép. Lỗi đọc gene này có thể gây ra một thay đổi trong một protein dẫn đến việc
thay đổi trong cá thể kế thừa gene đó. Ví dụ, một lệnh chỉ dẫn mới có thể là
“hãy tạo ra Peter với một màu mắt khác.” Vì sự thay đổi là ngẫu nhiên và không
đoán được, không ai có thể nói gene hay những gene nào sẽ tiến hóa.
Chọn lọc tự nhiên
Tôi đã gọi nguyên tắc này là bảo tồn, đối với
những biến thể nhỏ được giữ lại nếu hữu ích, theo thuật ngữ của Chọn lọc Tự
nhiên.
-
Charles Darwin (nhà tự nhiên học người Anh, 1809
– 1882)
Charles Darwin,
và một nhà tự nhiên học người Anh độc lập khác – Alfred Russell Wallace, đã
khám phá ra thuyết tiến hóa theo con đường chọn lọc tự nhiên. Darwin đã gọi
công trình của ông, “Trong Nguồn gốc Các
loài theo nghĩa Chọn lọc Tự Nhiên, hoặc Bảo tồn những chủng được yêu thích
trong cuộc đấu tranh sinh tồn.”
Darwin đã lấy cảm
hứng từ cuốn “An Essay on the Principle
of Population” (Tiểu luận về Nguyên tắc Dân số) của mục sư Thomas Malthus,
trong đó Malthus viết: “ Dân số của loài người tăng trưởng theo cấp số nhân, giống
như lãi kép trong tài khoản ngân hàng, nhưng đầu ra của nông trại tăng theo tỷ
lệ số học chậm hơn; kết quả là, dân số chắc chắn sẽ vượt xa nguồn cung thức ăn
cho mình.” Malthus đã ghi chú rằng dân số có thể luôn vượt xa các tài nguyên,
nhưng cũng bị kìm lại bởi bệnh tật, chiến tranh, thú dữ và các nguồn tài nguyên
giới hạn như thức ăn.
Darwin đã tiến
hành ba quan sát như sau:
(1) Cạnh tranh và thay đổi môi trường. Trong
hầu hết các giống loài (một loài là một nhóm các cá thể có khả năng tạo ra con
cháu đông đúc; như rắn, sư tử, loài người) luôn luôn có các thế hệ con cháu được
sinh ra có thể sống sót tới trưởng thành và tiếp tục sinh sản. Darwin tìm ra
hai lý do cho điều này: (1) Vì có một lượng giới hạn tài nguyên (như thức ăn,
không gian, bạn đời) nên có sự cạnh tranh giữa các cá thể với những tài nguyên
đó, và (2) Vì môi trường thay đổi theo thời gian và từ vùng này sang vùng khác,
nên luôn có những mối đe dọa (các loài thú ăn thịt, biến đổi khí hậu, cô lập, bệnh
tật, biến đổi môi trường vật lý) tới sự sống sót của con cháu và khả năng tái
sinh sản thành công.
(2) Biến đổi cá thể. Trong một loài, có một
số lượng khổng lồ các biến thể cá thể. Không có hai cá thể nào của cùng một
loài giống nhau hoàn toàn về cấu trúc giải phẫu, sinh lý hay hành vi (chúng ta
không phải là bản sao y nguyên của bố mẹ chúng ta). Các cá thể này biến đổi
trong cấu trúc tế bào, khả năng đấu tranh và các kỹ năng xã hội. Các biến thể tạo
ra mỗi cá thể duy nhất và biến thể theo một cách nào đó, có khả năng được thừa
kế. Nói cách khác, con cháu có thể không giống bố mẹ chúng nhiều hơn so với việc
chúng giống các cá thể khác.
(3) Thế giới không cố định mà không ngừng tiến
hóa. Mọi giống loài đều đang thay đổi, vài loài mới xuất hiện và vài loài
khác tuyệt chủng.
Darwin gọi
nguyên lý đó là chọn lọc tự nhiên. Bất kì một biến thể nhỏ nào trong các đặc điểm
cũng sẽ mang lại lợi thế cho cá thể trong cuộc cạnh tranh với các cá thể khác của
cùng hoặc khác loài, hoặc trong việc thích nghi với những thay đổi trong môi
trường của chúng, tăng khả năng may mắn sống sót, tái sinh sản, và di truyền
các đặc điểm này cho thế hệ kế tiếp. Có lẽ chúng cũng có sức đề kháng lớn hơn với
bệnh tật, hoặc có thể chạy nhanh hơn, hoặc sống sót trong biến đổi khí hậu tốt
hơn.
Darwin dùng từ
“chọn lọc”, nhưng tự nhiên không quan tâm ai được chọn lọc để sống sót. Tiến
hóa không có chủ đích. Một cách khác để mô tả chọn lọc tự nhiên là giống như một
quá trình đào thải. Vài cá thể sống sót vì chúng có đặc điểm cấu trúc, sinh lý,
hành vi hay những cái khác giúp chúng tránh khỏi bị đào thải. Những cá thể
không có các đặc điểm này bị loại bỏ. Di truyền cải thiện khả năng các biến thể
không bị đào thải hay được chọn lọc sẽ được bảo tồn. Darwin không biết về di
truyền. Do đó ông cũng không thể biết rằng những đặc điểm này được gây ra bởi
các đột biến và chúng có thể được kế thừa qua gene.
Sau khi một đột
biến biến đổi một cá thể, môi trường sẽ quyết định liệu thay đổi đó có cho cá
thể đó lợi thế không. Nếu đặc điểm mới hữu ích, cá thể bị đột biến sẽ có nhiều
khả năng sống sót, tái sinh sản và truyền đặc điểm mới cho con cháu của nó.
Lấy một con nhện
độc làm ví dụ. Giả sử quần thể (một nhóm các cá thể cùng một loài chiếm giữ
cùng một khu vực địa lý hay sinh thái trong cùng một thời điểm) của các góa phụ
áo đen khác với nọc độc của chúng độc như thế nào. Nếu vài con nhện (đột biến)
được sinh ra với nhiều độc tố hơn các con khác, hai thứ có thể xảy ra theo thời
gian. Nếu nhiều độc hơn tạo lợi thế trong môi trường của lũ nhện, nhiều độc hơn
sẽ được chọn lọc và đặc điểm này sẽ được truyền cho con cháu. Nếu các nàng nhện
góa phụ áo đen với nhiều độc hơn sống sót và sinh sản tốt hơn những con có ít độc
hơn, thì tất cả các góa phụ áo đen theo thời gian sẽ phát triển theo hướng có
nhiều độc hơn. Nếu không phải là lợi thế, đặc điểm này sẽ biến mất và số lượng
con nhện ít độc hơn sẽ tăng lên.
Khi các cơ thể
chịu sự chọn lọc, vài đặc điểm có lẽ vẫn mang theo mà không được chọn lọc. Thậm
chí nếu một đặc điểm không tạo lợi thế có thể vẫn được mang theo, chỉ cần nó
không có hại, ví dụ, không được ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sống sót và
sinh sản. Nhưng tình huống có thể gia tăng trong tương lai khi đặc điểm đó trở
nên hữu dụng.
Điều gì xảy ra khi môi trường thay đổi?
Vì môi trường
thay đổi theo thời gian và địa lý, những biến số khác nhau cũng được chọn lọc
trong những điều kiện khác nhau. Các đặc điểm thành công trong một môi trường
có thể không thành công trong một môi trường khác. Điều này được mô tả rất hay
trong cuốn “Wonderful Life” (Cuộc sống
tươi đẹp) của nhà cổ sinh vật học người Mỹ sau này Stephen Jay Gould: “Ngay cả
khi cá trau dồi khả năng thích nghi của mình tới tột đỉnh của sự hoàn hảo đối với
loài sống dưới nước, chúng cũng sẽ chết hết nếu các ao hồ khô cạn.”
Các nghiên cứu
cho thấy các tổ chức cơ thể khác nhau sẽ phản ứng khác nhau khi căng thẳng môi
trường. Nhưng có vẻ như một cơ thể vẫn sống sót và sinh sản độc lập với biến đổi
và căng thẳng trong môi trường – loài gián. Nhà văn Richard Schweid nói trong
cuốn The Cockroach Papers (Nghiên cứu
về loài gián): “Nếu Thượng Đế đã tạo ra tất cả các hình dạng của sự sống, một lời
chúc đặc biệt tốt lành đã được ban cho loài gián, bởi đó là thiết kế tốt nhất
trong tất cả các giống loài.”
Gián là loài côn
trùng cổ nhất trên hành tinh chúng ta, các tiêu bản hóa thạch từ 325 triệu năm
trước đã chứng minh điều này. Nó có thể ăn hầu hết mọi thứ, sống 45 ngày không
cần thức ăn, và có một hệ thống sinh sản hiệu quả với con cái có khả năng lưu
trữ tinh trùng kéo dài suốt đời và một hệ thống bảo vệ vĩ đại. Gián có tổ chức
cơ thể giống như hàng triệu năm về trước vì các đặc điểm của nó đã thích nghi
hoàn hảo từ xưa tới nay.
Thường thường một
đặc điểm hay một thay đổi trong một cá thể không xảy ra theo một bước đơn giản,
mà qua một chuỗi các đột biến nhỏ tổng hợp dần dần được chọn lọc trong một thời
gian dài. Khi xem xét niên đại các thiên thạch, hầu hết các nhà khoa học đều
cho rằng Trái đất khoảng 4.6 tỉ năm tuổi. Các hóa thạch của vi khuẩn cổ xưa nhất
cách đây 3.5 tỉ năm. Với biến đổi và thời gian đủ dài, thậm chí cả những thứ phức
tạp như đôi mắt cũng dần dần phát triển.
Những thay đổi
trong tiến hóa có thể xảy ra rất nhanh. Những nghiên cứu về loài ruồi giấm cho
thấy sự khác nhau trong kích thước cánh có thể xảy ra chỉ trong một thập kỷ. Sự
thay đổi trong lãnh thổ của một loài (ví dụ khí hậu) cũng có thể dẫn tới những
thay đổi cấu trúc nhanh chóng (biến thể). Các nghiên cứu khác cũng cho thấy một
thay đổi trong vài gene có thể tới nhanh hơn (và gây nên những thay đổi hành vi
rộng lớn) so với phụ thuộc vào những thay đổi trong nhiều gene.
Đột biến không
phải là nguồn duy nhất gây ra biến dị di truyền. Các cơ chế khác (đôi khi là
tương tác) có thể là biến động di truyền, luồng gene, hay cộng sinh. Biến động
di truyền xảy ra khi những sự kiện ngẫu nhiên gây ra tần suất biến đổi gene
khác nhau giữa các thế hệ (quan trọng hơn trong quần thể nhỏ). Luồng gene hay sự
di cư là sự chuyển gene trong một loài từ quần thể này sang quần thể khác do
giao phối. Ví dụ, có bằng chứng về luồng gene giữa các giống cây được nuôi trồng
và các họ hàng hoang dã của chúng. Cộng sinh là sự tương tác phối hợp giữa các
tổ chức cơ thể khác nhau có thể sinh ra những thay đổi di truyền. Đó còn gọi là
đồng tiến hóa hay tiến hóa song song của hai loài. Một nguồn biến thể khác là sự
trùng lặp gene hay sự trùng lặp ngẫu nhiên toàn bộ các gene. Như vậy chọn lọc tự
nhiên không phải là cơ chế duy nhất làm thay đổi các tổ chức sống theo thời
gian. Nhưng nó là qui trình duy nhất được biết đến có vẻ làm các tổ chức sống
thích nghi theo thời gian.
Bằng chứng tiến hóa
Có bằng chứng
hóa thạch về giải phẫu học và phân tử cho tiến hóa. Mẫu hóa thạch cho thấy hình
thái đã bị sửa đổi như thế nào. Sự tương tự của các cơ quan trong các cơ thể sống
có họ hàng gần gũi cho thấy chúng có cội rễ chung. Cũng có những bằng chứng hóa
thạch DNA tương đối liên quan đến con người có thể đo bằng phân tích chuỗi DNA.
Một ví dụ tiến
hóa là chất thải công nghiệp. Trước cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, màu của
bướm hạt tiêu chủ yếu là màu sáng. Khi chưa có sự ô nhiễm công nghiệp, bướm tối
màu hơn đã xuất hiện do đột biến. Nhưng vì bướm tối màu hơn dễ nhận ra trên những
vỏ cây, lũ chim hung dữ chộp ngay được chúng. Chỉ khi môi trường thay đổi, bồ
hóng từ các nhà máy mới phủ đầy cành cây, màu tối trở thành lợi thế. Sự chọn lọc
bắt đầu ưu ái cho bướm tối màu. Những con bướm tối màu hơn được ngụy trang tốt
hơn trên cành cây phủ đầy muội khói. Những con sáng màu hơn bị ăn thịt và con tối
màu tăng dần về số lượng. Khoảng những năm 1950, môi trường bắt đầu thay đổi lại.
Việc cắt giảm sử dụng than và hệ thống lọc tốt hơn trong các nhà máy tạo ra môi
trường trong lành hơn, và bướm hạt tiêu lại quay dần trở về với màu sáng.
Vi khuẩn có khả
năng thích nghi rộng rãi nhất. Để chúng trong kháng sinh đủ lâu, chúng sẽ thích
nghi và tìm ra cách sống sót. Điều đó có nghĩa là chúng ta sử dụng càng nhiều
kháng sinh, sự kháng thuốc càng xảy ra nhanh hơn. Và bất cứ cách nào chúng ta
dùng để diệt sâu bọ, trừ khi nó hoàn toàn quét sạch một loài, còn không sẽ tạo
ra một quần thể sâu bọ có khả năng đề kháng.
Giống như chúng
ta không thể đổ lỗi cho một con vật khi nó ăn thịt con vật khác để sống sót,
chúng ta không thể đổ lỗi cho vi khuẩn đã làm chúng ta nhiễm dịch bệnh. Chúng
không có ý thức làm hại chúng ta. Vi khuẩn làm những việc rất tự nhiên như tất
cả chúng ta – sống sót và sinh sản.
Tại sao vi khuẩn luôn tồi tệ với chúng ta?
Không, chúng rất
quan trọng với hệ tiêu hóa và miễn dịch của chúng ta. Chúng cũng là những sinh
vật sống trên trái đất này. Không có chúng, chúng ta không thể tồn tại. Để sinh
ra năng lượng, chúng ta cần oxy. Oxy này được coi là sinh ra bởi một nhóm vi
khuẩn gọi là cyanobacteria (hay tảo xanh), vi khuẩn hướng sáng này chủ yếu sống
trong nước biển.
Nguồn gốc chính
của năng lượng cho hầu hết sự sống là mặt trời. Năng lượng ánh sáng này được
chuyển thành năng lượng hóa học trong cây cối, tảo và vài loại vi khuẩn nhờ
quang hợp. Ví dụ, cây cối tạo ra thức ăn – thường là glucose – từ carbon
dioxide (thông qua lá) và nước (chủ yếu qua rễ). Ánh sáng mặt trời cung cấp
năng lượng cần thiết để vận hành quá trình sinh hóa tạo ra đường và sản phẩm phụ
- oxy (do các phân tử nước tạo thành) được giải phóng vào không khí. Khi chúng
ta ăn cây trồng (hay động vật ăn thực vật), chúng ta có được năng lượng chứa
trong đó.
Trong cây, quang
hợp được điều khiển bởi chất diệp lục. Chúng chứa các phân tử diệp lục, cho
phép cây cối hấp thụ năng lượng từ mặt trời. Diệp lục có lẽ tiến hóa từ
cyanobacteria khi chúng bị phản ứng tổng hợp với cây cối trong một thời gian
dài. Các mẫu hóa thạch cho thấy có những loài vi khuẩn giống như cyanobacteria
trên trái đất 3.5 tỷ năm về trước. Người ta cũng tin rằng mitochondria (cấu
trúc tế bào không phải của vi khuẩn trong đó oxy được sử dụng để đốt cháy thức
ăn tạo ra năng lượng) là kết quả tiến hóa từ phản ứng tổng hợp của loại tế bào
vi khuẩn khác.
Hoạt động khác của
một số cyanobacteria là cố định nitơ. Ví dụ, trong các cây trồng họ đậu, vi khuẩn
sống trong rễ và chuyển hóa (cố định) nitơ trong không khí bằng phản ứng hóa học
thành ammonia rất bổ ích cho các cơ thể sống khác.
Tại sao thế giới không bị phủ đầy cây cối và
động vật chết?
Một phần do vi
khuẩn đã phá hủy các mô của cây trồng và động vật chết, biến nó thành dinh dưỡng
như cacbon và nitơ rồi giải phóng ra môi trường.
Hãy ra ngoài và
quan sát một con chim mới chết. Sau một tháng hãy quan sát lại. Chỉ còn bộ
xương.
Như vậy, tiến
hóa đã chọn lọc những hành vi làm cho tổ tiên chúng ta sống sót và sinh sản. Hệ
thống chỉ dẫn nào được tiến hóa chọn lọc để giúp chúng ta ra quyết định sống
sót và sinh sản tốt hơn?
Chỉ dẫn thông qua giá trị và kinh nghiệm sống
Con người bị kéo theo hướng rất tự nhiên để
kiếm tìm sự vui thú, trong khi họ chạy trốn và từ chối đau khổ.
-
Epicurus (nhà triết học người Hy Lạp, 341 – 270
TCN)
Cái gì điều khiển chúng ta?
Nhà triết học
người Anh thế kỷ 17 John Locke đã nói: “Tốt và xấu, thưởng và phạt, là những động
cơ duy nhất đối với một sinh vật có lý trí: những cái đó sẽ thúc đẩy và kiềm chế,
theo đó cả nhân loại được vận hành và chỉ dẫn.” Chúng ta được điều khiển bởi
nhu cầu tránh đau khổ của chính chúng ta (trừng phạt) và mong muốn đạt được sự
vui thú (thưởng). Tiến hóa khiến cho bất kì hành vi nào trợ giúp chúng ta sống
sót và sinh sản đều gây ra cảm giác vui thú và tưởng thưởng. Hành vi xấu với
chúng ta gây ra cảm giác đau khổ hay đáng bị trừng phạt. Cảm giác về nỗi đau và
niềm vui là một chỉ dẫn hữu ích cho những gì tốt hay xấu với chúng ta. Nếu ta
ăn, ta cảm thấy vui. Nếu ta đói khát, ta cảm thấy đau khổ.
Tránh những điều
có hại trước tiên. Bộ não chúng ta hình thành việc nhận diện nỗi đau nhạy cảm
hơn bất kỳ cảm xúc nào. Chúng ta cũng ghi nhớ những kích thích tiêu cực tốt
hơn. Giáo sư thần kinh học Antonio Damasio nói trong cuốn Descartes’ Error (Sai lầm của Descartes): “Chính những tín hiệu
liên quan đến đau khổ chỉ dẫn chúng ta tránh xa khỏi những rắc rối sắp xảy ra.”
Nó tạo ra cảm nhận cách mạng rằng chúng ta mong muốn tránh khỏi nỗi đau. Giáo
sư tâm lý học Randolph Nesse và Giáo sư sinh học George Williams nói trong cuốn
Why we get Sick (Tại sao chúng ta ốm
yếu): “Đau đớn là dấu hiệu các mô đang bị thương tổn. Nó phải nhanh chóng thúc
đẩy chúng ta đặt những hoạt động khác qua một bên để làm bất kỳ điều gì có thể
cần thiết nhằm chấm dứt sự thương tổn.”
Chúng ta rất nhạy
cảm trước những sự kiện hay kích thích có dấu hiệu chỉ dẫn gây đau đớn cho ta,
điều đó giải thích lý do tại sao chúng ta ác cảm với mất mát. Richard Dawkins
nói trong cuốn The Blind Watchmaker
(Người thợ đồng hồ mù): “Bao nhiêu cách để sống đi nữa, thì chắc chắn còn có
nhiều hơn vô số nữa các cách để chết, hay đúng hơn là không sống.” Nỗi sợ hãi mất
mát lớn hơn rất nhiều so với mong muốn thắng lợi. Nghiên cứu cho thấy chúng ta
cảm thấy đau khổ vì mất mát hơn nhiều so với khi chúng ta vui vì đạt được điều
gì đó có cùng giá trị, và chúng ta làm việc vất vả hơn để tránh mất mát chứ
không phải để chiến thắng. Điều khiến chúng ta tập trung vào mất mát hơn là phần
thưởng có ý nghĩa với chúng ta hơn. Trong cuốn sách của Steven Pinker, How The Mind Works (Ý thức hoạt động thế
nào), nhà tâm lý xã hội Timothy Ketelaar nói: “Khi những thứ nào đó trở nên tốt
hơn, gia tăng đến một giới hạn sẽ làm lợi ích giảm dần: nhiều thức ăn thì tốt
hơn, nhưng chỉ tới một ngưỡng nhất định. Nhưng khi những thứ nào đó trở nên tệ
hơn, giảm dần đến một giới hạn có thể làm bạn ra khỏi trò chơi: không đủ ăn thì
bạn sẽ chết.”
Ác cảm của chúng
ta với nỗi đau cũng cổ vũ vài hành vi con người khác: bắt lấy những sự kiện được
tưởng thưởng cao nhất. Chúng ta tự biên dịch các lựa chọn và các sự kiện theo
cách làm chúng ta cảm thấy tốt hơn. Chúng ta thường thích nghe những lý do hỗ
trợ niềm tin của bản thân; cho rằng bản thân tài năng hơn người khác, và cố hết
sức trong những tình huống tồi tệ.
Vài liên kết được tăng cường như thế nào?
Nếu vài liên kết
giúp chúng ta tương tác với môi trường, chúng ta sử dụng chúng thường xuyên hơn
những cái không giúp chúng ta. Vì được sử dụng thường xuyên, chúng trở nên mạnh
hơn.
Tiến hóa cho
chúng ta những ưu tiên giúp ta phân loại cái đó là tốt hay xấu. Khi những giá
trị này được thỏa mãn (gây ra vui thích hơn hay ít đau đớn) thông qua tương tác
với môi trường, các liên kết thần kinh này sẽ được tăng cường. Những giá trị
này được làm mạnh thêm theo thời gian vì chúng khiến con người có nhiều lợi thế
sống sót và sinh sản.
Ví dụ, sáng được
yêu thích hơn so với tối tăm, ăn một ít thức ăn sẽ tốt hơn không ăn gì… Khi ta
uống sữa mẹ, bộ não nói với chúng ta rằng “ăn” rất vui. May mắn sống sót của
chúng ta tăng lên. Nếu ta không ăn ngay sau khi ra đời, phản hồi từ bộ não sẽ
là “không ăn” rất đau khổ. May mắn là chúng ta đã ăn cho tương lai. Vì phản hồi
từ việc ăn là vui vẻ, vài kết nối thần kinh sẽ được tăng cường. Trong tương
lai, khi chúng ta chứng kiến một kích thích tương tự, nhóm neuron đó sẽ phản ứng
mạnh hơn. Hành vi nào chúng ta thấy được tưởng thưởng, tức có thể vui sướng và
ít đau khổ, sẽ được tăng cường.
Các liên kết
trong bộ não được tăng cường hoặc làm suy yếu, phát triển và thay đổi. Chúng ta
càng tiếp thu nhiều kinh nghiệm, càng nhiều kết nối thần kinh cụ thể được tăng
cường, chúng ta sẽ học và ghi nhớ tốt hơn những kinh nghiệm này. Rồi chúng ta sử
dụng những đại diện của những gì đã xảy ra được lưu trữ trong não, khi ta phản ứng
với mọi người và các tình huống. Một cách cơ bản, những gì ta làm hôm nay là một
chức năng của những gì đã hoạt động trong quá khứ. Chúng ta thích nghi với môi
trường bằng cách học hỏi từ kết quả các hành động trước đó. Chúng ta làm những
thứ mà ta gắn kết nó với niềm vui, và tránh những thứ mà ta liên kết nó với nỗi
đau.
Bộ não hoạt động giống máy tính – hệ thống
và logic, có phải không?
Không, đó là một
hệ thống chọn lọc đặt các mô hình mẫu và các neuron cạnh nhau. Tiến sĩ Ralph
Greenspan nói:
Vô nghĩa nếu bộ não hoạt động giống máy
tính. Máy tính ghi và có những thứ được lưu trữ trong những vùng cụ thể và ổn định.
Não chúng ta không làm những cái đó. Khi kì thủ cờ vua vĩ đại Gary Kasparov
thua siêu máy tính Big Blue, mọi người đều nói “Aha, cái máy đó có thể suy
nghĩ”. Big Blue không biết suy nghĩ. Big Blue đơn giản đang chơi lại bằng cách
sử dụng toàn bộ lịch sử các ván đấu cờ vua. Đó không phải là cách mà Gary
Kasparov hay bất kỳ con người nào chơi cờ. Chúng ta nhận dạng mô hình. Dù chúng
ta có khả năng logic, não cũng không hoạt động theo các nguyên tắc logic. Nó hoạt
động bằng cách lựa chọn nhận diện mô hình mẫu. Đó là một mạng động. Nó không phải
là một cái máy logic “nếu – thì”.
Máy tính chơi cờ
vua không có khả năng nhận dạng mô hình. Thay vào đó, nó tìm kiếm tất cả các khả
năng di chuyển có thể trên bàn cờ đã cho. Các kỳ thủ thường tìm kiếm các mô
hình mẫu và quyết định làm gì dựa trên những gì đã diễn ra tốt đẹp trong quá khứ.
Tại sao? Vì những gì đã làm việc trong quá khứ sẽ làm việc được trong tương
lai. Warren Buffett đã theo đuổi điều này:
Có một bài báo lớn trên tạp chí New Yorker…
khi các trận đấu cờ vua Fischer/Spassky đang diễn ra. Nó đã đặt ra ý tưởng liệu
con người có khả năng đấu một ván cờ với máy tính hay không. Chúng ta đang có
những chiếc máy tính làm hàng trăm nghìn phép tính trong một giây. Và bài báo hỏi,
“Khi tất cả chúng ta đang thực sự nhìn vào các kết quả từ vô số nước đi trong
tương lai, liệu bộ óc con người có thể làm giống như máy tính – có thể suy nghĩ
với tốc độ không thể tin được như vậy?”…
Nào, hóa ra một bộ óc giống như … của
Fischer hay Spassky cơ bản đã đang loại bỏ 99.99% khả năng mà thậm chí không cần
suy nghĩ. Vì vậy không phải là họ có thể suy nghĩ vượt xa máy tính về mặt tốc độ,
mà họ có khả năng – cái mà bạn gọi là “phân nhóm” hay “loại trừ”, trong đó họ
đơn giản chỉ đi thẳng vào một số rất ít khả năng trong số hàng triệu tỷ khả
năng thực sự chả có mấy cơ may thành công.
Bây giờ chúng ta
có một câu hỏi quan trọng: Phần nào trong hệ thống giá trị được coi là “đặc
trưng con người”?
Chúng ta đã biết
các liên kết giữa các neuron quyết định chúng ta suy nghĩ và cư xử như thế nào.
Gene của chúng ta đưa ra một cơ sở để phát triển thần kinh và kinh nghiệm sống
cũng như môi trường sẽ định hình bộ não.
Vì bộ não được tạo
thành từ kinh nghiệm sống và vì một cá thể không tiếp tục làm những gì không
còn vận hành được (học thông qua thử và sai), tiến hóa tăng cường hành vi và
giá trị trợ giúp chúng ta sống sót và sinh sản. Hành vi này phải thích nghi với
môi trường mà con người đã trải qua trong hầu hết lịch sử tiến hóa. Câu hỏi
theo đó sẽ trở thành: Cái gì là môi trường vận hành để não người tiến hóa?
Môi trường săn bắn hái lượm đã tạo nên đặc
tính cơ bản của chúng ta
Tiến hóa của loài
người bắt đầu khoảng 4 tới 7 triệu năm trước và não người hiện đại ngày nay đã
xuất hiện trong thời gian khoảng 150,000 – 200,000 năm trước. Hầu hết thời
gian, cha ông chúng ta sống trong các xã hội săn bắn hái lượm nguyên thủy. Những
xã hội này tồn tại cho đến khi kết thúc kỷ Băng Hà, khoảng 13,000 năm trước.
Ngay sau đó, 10,000 năm trước, nông nghiệp đã phát triển.
Điều đó có nghĩa
là nhân loại đã trải qua trên 99% lịch sử tiến hóa của mình trong môi trường
săn bắn hái lượm. Nếu ta nén 4 triệu năm trong 24 tiếng đồng hồ, và nếu lịch sử
của loài người bắt đầu lúc nửa đêm, thì nông nghiệp xuất hiện lúc 23 giờ 55
phút.
Nếu những điều
kiện và thách thức của môi trường săn bắn hái lượm đã được chọn lọc tự nhiên lựa
chọn cho các đặc điểm thích nghi để sống sót và sinh sản, chúng ta phải tìm ra
xem môi trường đó như thế nào. Điều gì điều khiển sự tiến hóa của tổ tiên chúng
ta? Điều gì là đặc trưng cho môi trường đã định hình nên bộ não chúng ta ngày
nay? Điều kiện môi trường những người săn bắn hái lượm đã sống như thế nào? Liệu
có sẵn các tài nguyên như thức ăn và bạn tình không? Khí hậu và địa lý khi đó
thế nào? Có vẻ như môi trường mà tổ tiên của chúng ta sống, có điều kiện sinh
thái, xã hội và con người hoàn toàn khác với ngày nay. Con người khi đó sống
trong các ngôi làng nhỏ nơi mà mọi người đều quen biết nhau và người lạ không
thường xuất hiện. Có kẻ thù, thú dữ ăn thịt và bệnh tật. Những tài nguyên hữu hạn
tạo ra cạnh tranh thức ăn và bạn tình.
Đàn ông và đàn
bà đóng những vai trò khác nhau nào? Đàn ông có trách nhiệm săn bắn, và bảo vệ
cả nhóm khỏi thú dữ và kẻ thù. Phụ nữ hái lượm và chuẩn bị thức ăn gần nhà,
chăm sóc con cái.
Nếu đó là môi
trường, cái gì có thể là hành vi phù hợp làm gia tăng khả năng sống sót và sinh
sản? Hành vi nào là tự nhiên trong suốt 99% lịch sử của chúng ta?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét