Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Diện Chẩn - Bài 1: Nhận thức cơ bản về Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp



Bài 1: Nhận thức cơ bản

1.    Diện Chẩn là gì?


DIỆN CHẨN = DIỆN + CHẨN
DIỆN:  Diện là bộ mặt ngoài (da) của toàn bộ cơ thể mà tiếp xúc với môi trường bên ngoài  (trên mặt, trên lòng bàn tay, lòng bàn chân, lưng, bụng, da đầu, tai...)
CHẨN:  “Chẩn” là chẩn đoán, xem xét các triệu chứng lâm sàng.
Đông Y phần căn bản (đã học) có Tứ chẩn gồm:
- Vọng chẩn (nhìn)
- Văn chẩn (nghe, ngửi)
- Thiết chẩn (sờ, nắn)
- Vấn (hỏi)

·         DIỆN CHẨN khác Tứ chẩn ở chỗ nào?
Diện chẩn: là phương pháp dùng các phản chiếu thần kinh đa hệ của nội tạng và ngoại vi lên toàn bộ cơ thể tiếp xúc với môi trường bên ngoài để chẩn (khám) bệnh và trị bệnh.
Tứ chẩn: là phương dùng Vọng, Văn, Thiết, Vấn chẩn để chẩn (khám bệnh).

·         Sự khác nhau giữa DIỆN CHẨNChâm Cứu
Châm cứu: là dùng kim để châm vào các huyệt đạo của hệ kinh lạc và dùng ngải cứu để hơ nóng.
Diện Chẩn: dùng que dò để day ấn vào các sinh huyệt (là các điểm nhạy cảm trên da nằm trong các vùng phản xạ thần kinh) rồi cũng dùng ngải cứu để hơ nóng. Ngoài day và cứu các sinh huyệt, Diện Chẩn còn dùng các dụng cụ có hình dạng và kích thước khác nhau để lăn, hơ, gõ, cào vào các vùng theo đồ hình phản chiếu hoặc đồ hình đồng ứng. Các tác động của Diện Chẩn theo đồ hình và sinh huyệt này sẽ tạo ra các cảm giác đau, tức, buốt, tê, rát, nóng khác nhau, giúp kích hoạt các cơ chế tự chữa bệnh của cơ thể.

1.1.        Sinh huyệt là gì?


                         A                           B                                C


 


A: Là 1 tạng hay phủ nào đó
B: Là huyệt
C: Là huyệt
A nối với C bởi ống dây thần kinh chứa khí và huyết. Khi ấn vào huyệt B thấy đau, tức là quãng đường khí huyết đi từ A tới B đã bị tắc, thiếu. Từ đó nếu day vào huyệt C sẽ thấy đau hơn vì C cách xa A hơn B nên sẽ bị thiếu, tắc nhiều hơn. Vậy để B và C cùng có khí huyết lưu thông thì ta phải dùng huyệt tại điểm C. C sẽ là điểm sinh huyệt.
Vậy điểm sinh huyệt là huyệt khi ta dùng để chữa bệnh sẽ đạt hiệu quả cao nhất trong các huyệt có liên quan. (Sinh huyệt không cố định, nó sẽ được quyết định bởi mỗi người chữa bệnh, phụ thuộc vào trình độ của người chữa. Cũng ví dụ trên, sẽ có người chọn điểm B làm sinh huyệt, nó cũng có tác dụng trong việc chữa bệnh nhưng không phải là tối ưu.)

·         HUYỆT là gì?
Khí không chỉ tồn tại bên trong cơ thể mà còn toả ra ngoài cơ thể (tạo ra 1 dạng không gian đặc biệt bao quanh cơ thể mà người ta thường gọi là “hào quang”, “trường sinh học”, hay “trường nhân thể”). Các điểm trên cơ thể mà tại đó khí trong cơ thể và khí ngoài cơ thể có thể lưu thông với nhau được gọi là huyệt.
Để đơn giản, hãy tưởng tượng cơ thể giống như 1 nam châm. Các đường sức từ tạo thành vòng khép kín, một phần ở trong nam châm , một phần chạy bên ngoài. Phần bên trong nam châm giống như các kinh mạch, phần bên ngoài giống như các hào quang. Giao điểm của các đường sức với bề mặt nam châm là các huyệt.
Các nghiên cứu của y học hiện đại cho thấy: Vị trí của các huyệt trên cơ thể thường là đầu mối của các dây thần kinh và mạch máu. Về mặt vật lý, các huyệt thường nằm ở vị trí lõm và có điện trở nhỏ hơn so với các điểm lân cận. Sử dụng các máy đo điện trở, người ta đã tìm ra hàng trăm huyệt mới không có trong các tài liệu Đông y truyền thống. Có lẽ nhờ những đặc điểm như vậy mà khí có thể lưu thông được qua huyệt dễ dàng hơn qua các điểm khác của cơ thể.
Huyệt thường được biết tới nhờ phương pháp châm cứu hay bấm huyệt. Mục đích của các phương pháp này chủ yếu nhằm tăng cường khả năng lưu thông của khí qua huyệt, cân bằng giữa khí bên trong và bên ngoài. Từ đó có thể chữa bệnh và nâng cao sức khoẻ. Huyệt có thể nằm trên kinh mạch, cũng có thể không. Một số huyệt lại chỉ xuất hiện khi cơ thể gặp những biến cố đặc biệt như đau ốm, bệnh tật...(điểm đau xuất hiện lúc đó gọi là A thị huyệt).
Huyệt là điểm thu nhận và xử lý thông tin. Chức năng này giống với da. Nhưng da chỉ thu nhận và xử lý thông tin ở bên ngoài. Bản chất việc tiếp nhận kích thích có sự khác biệt giữa da và huyệt. Ví dụ, dùng tay day huyệt Thái Dương, khi đó kích thích sẽ tác động qua da, nhưng bản chất lại là huyệt tiếp nhận, tức có sự giao thoa giữa da và huyệt khi tiếp nhận kích thích. Một ví dụ khác, khi hơ để trị nám da trên mặt, lúc này kích thích tác động vào da, và da cũng là nơi tiếp nhận kích thích. Do đó cần phải phân biệt bản chất nơi nào tiếp nhận kích thích, vì giữa da và huyệt có sự giao thoa, có thể có tác động hai chiều. Dựa vào tính chất này mà dùng để tăng công năng trong phác đồ điều trị.

·         Luân xa là gì?
Một khái niệm khác cũng rất gần gũi với huyệt, đó là Luân xa. Luân xa không phải là một vị trí trên cơ thể. Luân xa là 1 khái niệm để chỉ Khí (năng lượng sinh học) khi nó lưu thông qua huyệt. Khí ở bên ngoài huyệt sẽ xoay tròn tạo thành 1 vòng xoáy hình nón (một số nhà nghiên cứu còn khẳng định chiều quay của luân xa hoàn toàn phù hợp với quy tắc “cái đinh ốc” trong vật lý học!)

·         KINH MẠCH và HUYỆT
Đông y và khí công thường nhắc đến kinh mạch như những con đường vận hành luân chuyển của khí trong cơ thể. Còn huyệt là những điểm đặc biệt trên cơ thể mà tại đó có thể thu khí, phát khí, châm cứu chữa bệnh...
Xét trên quan điểm khoa học trước hết hãy nói về kinh mạch. Liệu có phải trong cơ thể tồn tại những con đường đặc biệt như vậy hay không? Mọi nghiên cứu của khoa giải phẫu học đều cho thấy không tồn tại các đường kinh mạch theo các sơ đồ truyền thống của Đông y, tức là không tồn tại các đường vận hành khí 1 cách hữu hình trong cơ thể (như mạch máu hay dây thần kinh).
Nhưng những người luyện luyện tập khí công đều khẳng định là có các con đường này. Họ cảm nhận rất rõ sự vận hành cuả khí trong cơ thể theo những con đường đó. Thêm vào đó, những con đường này không phải là bất biến. Có khi kinh mạch cảm nhận được chỉ nhỏ như sợi tóc, có khi lại to bằng ngón tay, thậm chí to hơn, có khi lan rộng ra phủ khắp cơ thể, không còn phân biệt kinh mạch nào nữa.
Qua các đặc điểm trên của kinh mạch, kết hợp với các quan điểm về Khí đã trình bày ở phần trước, ta có thể đưa ra quan điểm về kinh mạch như sau:
Khí có mặt ở khắp mọi nơi trong cơ thể, và chúng không ngừng vận động truyền lan đi theo dạng sóng. Cường độ của sóng (hay trường) tại các điểm khác nhau trong cơ thể là khác nhau (tuỳ thuộc vào đặc điểm của cơ thể tại điểm đó). Trên cơ thể có tồn tại những điểm đặc biệt khiến cho cường độ sóng sinh học tại các điểm đó cao hơn các điểm khác và sóng cũng dễ truyền lan hơn khi qua các điểm đó. Tập hợp những điểm như vậy tạo thành những đường truyền sóng hay kinh mạch.
Con người có thể cảm nhận được kinh mạch là do sự tác động của khí vào các tế bào thần kinh. Sóng lan truyền sẽ tác động vào tế bào thần kinh trên đường truyền sóng. Tuỳ thuộc vào cường độ của sóng tại điểm đó mà tác động đó là mạnh hay yếu. Kết quả là con người có thể cảm nhận được khí chuyển động trong kinh mạch với độ mạnh yếu khác nhau (Khi thì khí chạy nhanh, khi thì chạy chậm, lúc thì kinh mạch to, lúc thì nhỏ…). Có những lúc sóng truyền lan khắp cơ thể, tạo cảm giác tê nóng toàn thân, không còn thấy kinh mạch nữa.
Ngược lại, chính các tế bào thần kinh cũng có khả năng tác động tới sóng sinh học (do cũng có những đặc điểm điện - từ tương tự). Con người có thể sử dụng các tín hiệu thần kinh phát đi từ não để điều khiển sự vận hành của dòng khí theo ý mình như tụ khí vào 1 điểm, đưa khí đến các kinh mạch khác nhau...
Do tính chất động của cơ thể (trạng thái của cơ thể luôn thay đổi, lúc khoẻ, lúc yếu, lúc vui vẻ, lúc buồn chán…) nên sự vận hành của khí theo các kinh mạch cũng luôn biến động. Khi từ khí mạnh ở kinh mạch này, khi thì mạnh ở kinh mạch khác (Đông y đã tổng kết, gọi là sự vận hành của khí trong 12 chính kinh theo 12 giờ trong ngày). Cần phải nắm vững quy luật này để tác động tới khí 1 cách hiệu quả nhất.

·         KINH HUYỆT
Tây Y vẫn còn ngạc nhiên về lối chữa bệnh bằng cách châm cứu của người Trung Hoa. Những cây kim nhỏ cắm vào các huyệt trên cơ thể có thể chữa lành rất nhiều bệnh tật. Khi giải phẫu, các bác sĩ không tìm thấy huyệt đạo ở đâu. Nó không phải mạch máu, không phải thần kinh. Nó có tác dụng đối với cơ thể, nhưng vô hình.
Các bác sĩ Pháp tiêm thuốc màu vào các vùng huyệt và thấy thuốc bị biến hình. Nếu thuốc không tiêm đúng huyệt sẽ không bị biến hình. Nhờ phương pháp này lần đầu tiên họ chụp được vị trí các huyệt. Nhưng kinh huyệt là gì thì vẫn không có lời định nghĩa xác đáng.
Như chúng ta đã biết, Tưởng, Hành và Thức ấm phát ra một trường không gian vô hình trùm phủ cả địa cầu. Còn riêng đối với Sắc ấm (thân thể) tâm chúng ta cũng khéo léo sắp đặt một hệ thống đường tín hiệu vô hình.
Nếu não bộ là hình ảnh vật chất của tâm thì kinh huyệt là hình ảnh tinh thần của thân. Bắp thịt, mạch máu, gân, xương... là cấu trúc hữu hình của thân. Kinh huyệt sẽ là cấu trúc vô hình của thân. Não bộ là cấu trúc hữu hình của tâm và Trường không gian sinh học sẽ là cấu trúc vô hình của tâm. Các chất liệu để cấu tạo nên Kinh huyệt cũng là chất liệu để cấu tạo nên Trường không gian của tâm. Ðối với khoảng không gian bên ngoài, tâm tạo ra vùng không gian tỏa rộng. Ðối với thân thể tâm tạo ra các kênh tín hiệu.
Thân chịu ảnh hưởng bởi mạch máu, hệ thần kinh, và cũng chịu ảnh hưởng của các kênh tín hiệu (kinh huyệt) này. Nếu có sự bế tắc huyệt đạo, thân thể sẽ bị bệnh. Châm cứu chính là phương pháp khai thông huyệt đạo giúp cho cơ thể trở lại bình thường.
Dù sao chúng ta cũng cảm phục các vị Y tổ Trung Hoa đã phát hiện ra hệ thống huyệt đạo kỳ lạ này. Trong cái cấu trúc siêu hình của thân này, có những luồng khí lực chạy lên chạy xuống theo những quy luật nhất định. Một quy luật quan trọng cho sự vận động vô hình đó là luật Âm Dương. Theo luật Âm Dương này, gốc của khí lực nằm ở phía dưới bụng và theo đường xương sống. Chính vì khám phá điều này mà người Trung Hoa, Ấn Ðộ, Tây Tạng sáng tạo ra môn khí công, Yoga nổi tiếng thế giới. Họ không chú trọng tập luyện cơ bắp như Tây phương. Họ chú trọng việc dùng tâm để củng cố cái gốc sức mạnh ở dưới bụng (Ðan Ðiền), ở xương sống để tạo thành một kình lực mới, khác hẳn lực cơ bắp, và dữ dội hơn lực cơ bắp. Nhan nhản khắp Trung Hoa ngày nay, người ta thấy rất nhiều người luyện thành công môn khí công này với những năng lực đặc biệt như khinh thân, công phá, chữa bệnh... Còn những Lạt Ma Tây tạng thì được đánh giá cao hơn nữa .
Theo luật Âm Dương này thì những gì khuất phía dưới, núp phía sau, tiềm ẩn vô hình mới là cái gốc phát sinh ra những cái bề mặt. Người Ðông Phương khám phá luật này nên có phong cách sống trầm lặng sâu sắc hơn người Tây Phương

1.2.        Ý nghĩa của DIỆN CHẨN


a.    Giúp ta chẩn bệnh (khám định bệnh) tương đối chính xác
-          Thông qua màu sắc da: (Sử dụng lý thuyết ngũ hành, tạng phủ)
Ví dụ: Nhìn mặt 1 người có da trắng xanh hoặc người xuất hiện các vết tím dưới da không do va đập thì thường phán đoán người này có khả năng huyết áp thấp, nguy cơ u, ung, dấu hiệu tiền K.
-          Thông qua vị trí điểm đau trên da, ta tìm được các sinh huyệt dùng để chẩn và trị bệnh
Ví dụ: Khi ấn, day vào huyệt 300 thấy đau tức là thận đã bị hư tổn. Hoặc ấn, day vào tam giác gan (H50, 41...) thấy đau tức thì là gan bị thương tổn (có thể thực chứng hoặc hư chứng).
-          Vết trên da: Nám, mụn, ghẻ, chàm..
Ví dụ: Nám ở hai gò má = Phế, Tâm thương tổn (liên quan nhiều đến hệ nội tiết tố). Lưu ý Người nào xuất hiện u vú hoặc u buồng trứng, tử cung hoặc u tuyến giáp thì tất yếu sẽ xuất hiện u ở 1 trong 2 điểm còn lại vì buồng trứng, tử cung, vú, tuyến giáp đều chịu sự điều tiết của nội tiết tố.
b.    Giúp chúng ta đưa ra các phác đồ và sử dụng sinh huyệt để trị bệnh
Cơ thể của chúng ta là một bộ máy rất kỳ diệu, nó có các cơ chế tự động giúp chúng ta thích nghi với môi trường và hóa giải các tác nhân gây bệnh. Diện Chẩn là một phương pháp có khả năng giúp nâng cao sức đề kháng và khả năng miễn dịch, giúp khai thông các tắc nghẽn và thúc đẩy các tiến trình cân bằng, giúp ta có được một trạng thái nhẹ nhõm và dễ chịu. Chính vì thế, Diện Chẩn có thể hỗ trợ cho việc điều trị các loại bệnh tật, từ giảm đau nhức bên ngoài đến phục hồi chức năng bên trong.
c.    Tính ưu việt
Diện Chẩn là một phương pháp ít tốn kém và gần như không có tác dụng phụ, nên mọi người có thể dùng nó để tự phòng và chữa bệnh trong gia đình, giảm thiểu sự lệ thuộc vào thuốc men, bác sĩ và bệnh viện. Phương pháp này vừa dễ học, dễ làm, vừa có hiệu quả cao, nên nó được mọi người tin dùng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới.



2.    Điều Khiển Liệu Pháp là gì?

ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP = ĐIỀU KHIỂN + LIỆU PHÁP

2.1.        Điều Khiển

·         Điều Khiển là gì?
Điều Khiển là cách tác động có mục đích lên vật hay người bằng
-          Cơ học: đánh, đập, gõ… Ví dụ, bạn dùng tay day huyệt trên mặt để trị chứng đau đầu.
-          Ngôn ngữ/hình ảnh: nói hoặc viết. Ví dụ, bạn dùng lời nói hướng dẫn người bệnh cách kéo ép gối hoặc viết thư hướng dẫn họ, hoặc gửi cho họ tranh vẽ minh họa hay video hướng dẫn kéo ép gối để họ làm theo.
-          Chất xúc tác/vật trung gian: Ví dụ bạn dùng dầu gió xoa vào bụng khi bị cảm lạnh thì dầu gió là chất xúc tác; dùng cây cào huyệt tác động vào vùng huyệt trên trán để chữa bệnh thì cây cào huyệt là vật trung gian hay chất xúc tác. Ăn uống thuốc để chữa bệnh cũng vậy.
-          Nhiệt: ví dụ làm ấm vùng Hỏa Mệnh Môn để hạ nhiệt tâm hỏa vượng bằng hơ hay sấy.
-          Điện – từ (trường năng lượng): Ví dụ bạn thôi miên người khác chính là tác động bằng trường năng lượng (điện, từ trường) của bạn vào trường năng lượng của người ta để điều khiển suy nghĩ và hành vi của người đó.
-          Quang: bạn vào phòng toàn các bệnh nhân ung thư, tự nhiên bạn cũng cảm thấy lạnh lẽo mệt mỏi, đó là do lây chất quang một cách bị động từ người bệnh.

·         Điều Khiển bằng cách nào?
-          Bằng 2 cách:
o   Trực tiếp: ví dụ, Bạn dùng búa, cào để gõ, cào các bộ huyệt ung thư để trị cho một người bị u tuyến giáp.
o   Gián tiếp: Bạn dùng lời nói hướng dẫn cách kéo ép gối cho một người suy thận để họ tự tập tại nhà.
-          Cách phân loại khác, bằng 2 cách:
o   Chủ động: Bạn lập phác đồ điều trị để hướng dẫn một người thiếu khí huyết các biện pháp nạp khí bổ huyết.
o   Bị động: người huyết áp thấp day huyệt trị ung thư cho một người huyết áp thấp khác, sau một thời gian, người chữa bệnh sẽ bị ung thư do lây chất quang từ người bệnh.
Các cách phân loại chỉ là tương đối, thực tế có nhiều trường hợp giao thoa nhau.
Ví dụ: do điều kiện kinh tế, nhà ẩm thấp thiếu ánh sáng, ăn uống không khoa học khiến người trong nhà bị đàm thấp. Dùng bài Bình vị để chữa (trực tiếp, chủ động) cũng không hết đàm vì người bệnh vẫn bị cộng hưởng từ môi trường ẩm thấp trong nhà (gián tiếp, bị động). Chỉ khi nào làm cho nhà cửa khô ráo, có ánh sáng, có nhiều nhiệt khiến không gian sống khô thoáng, ấm áp (gián tiếp, chủ động) thì bệnh mới được chữa dứt điểm. Xoang còn nặng hơn đàm, vì đờm (dạ dày) lúc này đã thành thấp ướt chạy tới khớp (gây viêm khớp), rồi chạy lên trữ ở phế, xông lên mũi, gây xoang.

2.2.        Liệu Pháp

Là phương pháp trị bệnh cho phù hợp với bệnh, thể trạng người bệnh và trong điều kiện tài chính cho phép của bệnh nhân.
Có nhiều liệu pháp khác nhau, ví dụ như:
-          Đánh gió/cạo gió
-          Gõ, bấm, day huyệt.
Chú ý: diện chẩn khác với bấm huyệt ở chỗ, bấm huyệt chủ yếu dùng tay, còn trong diện chẩn, chủ yếu dùng dụng cụ kết hợp với y học cổ truyển (có cả dùng tay).
-          Phong cùng hỏa hóa: khi bị đau bụng hay trúng gió, dùng kim châm chích vào một số huyệt để nặn hết máu đen ra, nếu không ra máu là dùng sai huyệt hoặc chẩn sai bệnh (cho nên dùng sai liệu pháp).

·         Các nhóm liệu pháp

-          Tinh: qua con đường ăn, uống, truyền để đưa thức ăn, thuốc (Đông y – thuốc trong Đông y cũng là thức ăn, Tây y), nước vào cơ thể, để sinh khí và sinh huyết. (Khí không tự sinh ra huyết, nhưng tham gia trực tiếp vào quá trình sinh huyết)
-          Khí: oxi, cacbonic… chủ yếu qua con đường tập luyện (khí công, kéo ép gối…). Ăn cũng có thể sinh khí (sâm, gừng…).
Chú ý, “Oxi liệu pháp” là liệu pháp bắt buộc đối với bệnh nhân ung thư.
Vì bản chất của ung thư là các tế bào bị chết hoặc chết một phần. Tế bào chết do thiếu khí huyết. Nguyên nhân thiếu khí huyết có thể là:
o    Tắc ở đường dẫn khí huyết vào một bộ vị nào đó
o    Thiếu khí huyết toàn thân nhiều năm
o    Thừa độc tố hoặc ‘dị vật’, đàm. ‘Dị vật’ này có thể là những vùng hoại tử, vùng bị viêm loét, nhiễm khuẩn lâu ngày. (Vi rút, vi khuẩn không phải là nguyên nhân gây ung thư, mà chỉ là dấu hiểu chỉ báo chỗ có khả năng ung thư, vì chúng có khả năng sinh sôi trong môi trường viêm loét lâu ngày. Chính môi trường viêm loét mới là căn nguyên khiến tế bào chết dần, gây u, rồi thư.)
Khi dùng oxy liệu pháp là đưa oxy vào trong cơ thể với lượng lớn và thường xuyên, oxy sẽ làm thông những chỗ bít tắc, bổ phần khí thiếu hụt, làm khô vết viêm loét, đẩy độc tố/đàm/’dị vật’ và các tế bào chết (u) theo đường bài tiết ra ngoài, dần dần u sẽ hết.

-          Thần: thiền để định thần (Tập thiền cũng là cách vô cùng hiệu quả để đào thải độc tố qua các tế bào sau mỗi nhịp thở - nhưng chỉ với người tập thiền lâu)
-          Huyệt: các bộ huyệt thường đi kèm với nhau để chữa từng loại bệnh. Có hai các dùng huyệt:
o   Từ Đông y cổ truyền
o   Từ Diện chẩn
Đông y cổ truyền
Diện chẩn
Phạm vi huyệt: cả trong và ngoài cơ thể
Phạm vi huyệt: chỉ tác động lên những huyệt ở bề mặt ngoài cơ thể
Thao tác: chủ yếu là châm, day
Dụng cụ: kim châm, tay
ð  Khó dò và khó thao tác
Thao tác: châm, day, dò, cào, chườm…
Dụng cụ: cây cào, đũa, kim, búa,…
ð  Dễ dò và dễ thao tác. Do đó chữa các bệnh về u và thần kinh rất hiệu quả.

3.    Mười học thuyết cơ bản của Diện Chẩn Điều Khiển Liệu Pháp

Mười học thuyết này gồm:
-          8 học thuyết cơ bản
-          Thuyết nhất nguyên luận
-          Thuyết đồng ứng

3.1.        Thuyết đồng bộ thống điểm

Đồng – cùng
Thống – đau
Điểm – vị trí
Đồng bộ thống điểm – nhiều huyệt cùng bị đau
Thuyết này cho biết, nếu một bộ vị nào bị hư nhược thì có nhiều huyệt phản ánh nó khi day sẽ gây đau nhức. Do có nhiều điểm đau, nên cũng có nhiều lựa chọn cho người trị bệnh bằng Diện chẩn, tức có thể dùng một trong các huyệt bị đau đó để chữa.
Ví dụ, khi một người bị suy thận, các huyệt 156 (sau viết tắt thành h156), 45, 300, 0 đều phản ánh thận, và khi day hay hơ các huyệt này đều thấy đau. Do đó, có thể dùng một trong các huyệt này để chữa.
Một người bị hư gan, h50, 41, 154, các huyệt phản chiếu bên tay phải, mắt, tai, chân tương ứng khi hơ hay day cũng thấy đau. Ta có thể dùng một hoặc vài huyệt trong số đó để chữa.

3.2.        Thuyết đồng bộ bất thống điểm

Đồng bộ bất thống điểm – các huyệt phản ánh cùng một bộ vị không cùng đau
Ngược với thuyết trên, thuyết này cho biết, nhiều huyệt cùng phản ánh một bộ vị, nhưng khi bộ vị đó bị hư nhược, không phải day huyệt nào cũng thấy đau. Do đó, khi chẩn bệnh bằng cách dò huyệt cho bệnh nhân, nếu chỉ dò một huyệt mà đã kết luận thì có khả năng sai vì có những điểm đau và có những điểm không đau.
Ví dụ, một người bị suy thận, nhưng day h156 không đau, trong khi day h300 lại đau, dù cả hai huyệt này đều phản ánh thận.

3.3.        Thuyết thái cực

Thái cực có nghĩa là âm – dương, thủy – hỏa, … là một cặp đối ngẫu luôn tồn tại song song trong qui tắc sinh trưởng của vạn vật.
Cô dương bất sinh, độc âm bất trưởng.
Các huyệt đạo cũng vậy. Có huyệt thuộc thủy, thì sẽ có huyệt đối ngẫu với nó thuộc hỏa.
Hải Thượng Lãn Ông ngày trước dùng thuyết Ngũ Hành – Âm Dương và thuyết Thái Cực để xác định lục phủ ngũ tạng: tạng nào là âm, tạng nào là dương, tạng nào thuộc hành nào. Do đó, muốn biết các huyệt trên mặt thuộc thái cực nào, chỉ cần xác định nó thuộc bộ vị nào, thì hành của nó là hành của bộ vị ấy.
Ví dụ, h34 thuộc hỏa, h124 thuộc mộc…
Ví dụ, các huyệt phản chiếu thận sẽ thuộc thủy vì thận mang hành thủy.
Các huyệt cũng có ngũ hành tương sinh tương khắc. Ban đầu người sử dụng Diện chẩn có thể máy móc, chưa hiểu bản chất, nhưng về sau sẽ thấu hiểu được bản chất các huyệt và bộ huyệt. Các bộ huyệt hay các phác đồ điều trị của Diện Chẩn đều tuân theo thuyết ngũ hành – âm dương.
Ứng dụng của Thuyết Thái Cực rất linh hoạt.
Một số huyệt có hai vị trí (bên trái, bên phải). Trái dương phải âm. Chữa âm dùng dương, chữa dương dùng âm. Do đó khi dùng huyệt phải chủ động và linh hoạt.
Ví dụ, h19 dùng để cấp cứu cho người huyết áp thấp, bị trĩ, đau lưng, đau răng, bị nhiễm hàn lạnh… nhưng chống chỉ định cho người huyết áp cao.
Một liệu pháp có hình ảnh của thuyết Thái cực là Thở âm dương khí công (xem sách của thầy Bùi Quốc Châu). Trong thiền, có nói đến một cách thở qua da (thở âm dương khí công), là giải pháp chữa cháy hữu hiệu trong môi trường thiếu khí. Hơi thở đi vào mặt trước là dương, sau đó đi ra mặt sau là âm. Thầy Bùi Quốc Châu có đề cập đến tỷ lệ vàng (tỷ lệ giữa số lượt thở âm/số lượt thở dương thích hợp nhất đối với mỗi cơ thể trong một giai đoạn nào đó). Mỗi người đều có một tỷ lệ vàng riêng, phải do chính họ tìm ra.
Ví dụ, một người bị hàn lạnh tự chữa bằng cách thở âm dương khí công (dùng 8 hơi thở âm và 8 hơi thở dương) thì khỏi bệnh.
Bộ Thủy Hỏa Ký Tế (âm dương giao hòa):
34
1
156
235
Tâm
Hỏa
Mệnh môn hỏa
Hỏa
Thận
Thủy
Ruột non
Hỏa

3.4.        Thuyết nước chảy chỗ trũng

Thuyết này cho rằng, nếu tìm được một sinh huyệt có khả năng cứu trị được các bệnh và nhiều chứng, nhiều điểm đau khác thì sinh huyệt đó gọi là nước.
Ví dụ, người bị bệnh suy tim, hơi thở yếu, người gầy, bệnh truyền kinh nên các tạng phủ đều bị hư nhược hết. Khi chữa bằng cách day h1 thì các huyệt khác không còn đau nữa, người đó cũng đỡ dần bệnh tim, tỉnh táo hơn, da dẻ hồng hào lên. Nhưng nếu chữa bằng cách day h60 thì người đó vẫn bị đau tim, tình trạng bệnh sau một thời gian vẫn không đổi. Vậy h1 gọi là nước.
Sử dụng thuyết này trong thực tế rất khó. Phải hiểu nhiều lý luận của Đông y và có nhiều kinh nghiệm Diện chẩn mới tìm đúng sinh huyệt là nước.

3.5.        Thuyết phản phục

Giống như uống thuốc quá liều.
Ví dụ, một người âm hư nội nhiệt (huyết áp thấp) đi day h19 nhiều lần để chữa. Nhưng khi người này day tới 100 lần thì sẽ bốc hỏa, hôm sau mồm miệng lở loét, mọc mụn. Đó là do day h19 quá nhiều, dẫn đến phản tác dụng.
Do đó phải định lượng trước khi day huyệt (day bao nhiêu lần là đủ).

3.6.        Thuyết đối xứng

Trục của mặt chia trái, phải thành hai phần đối xứng.
Ví dụ, h156 có hai cái đối xứng qua trục của mặt, một bên trái và một bên phải.
Một số huyệt chỉ có một cái.
Với huyệt có 2 cái đối xứng, nếu bị trái thì dùng phải chữa, bị phải dùng trái chữa.
Ví dụ, một phụ nữ bị u vòi trứng trái. Vòi trứng trái phản ánh vào mắt trái trên đồ hình. Do đó, phải hơ và dùng huyệt bên mắt phải trước.

3.7.        Thuyết bình thông nhau

Ban đầu hai huyệt cùng đau. Sau khi day một huyệt hết đau thì huyệt kia cũng tự hết đau. Đó là do hai huyệt thông nhau.
·         Chú ý khi chữa bệnh cho người khác:
Khi hai người chữa cho nhau, sẽ có người lợi, có người thiệt.
Người huyết áp thấp không nên chữa cho người có huyết áp cao, vì theo thuyết bình thông nhau, người huyết áp thấp sẽ dễ lây bệnh từ người huyết áp cao. Nếu chữa thì phải xả thiền, sấy và bổ dương để nạp lại năng lượng bị người bệnh hút mất.
·         Thuyết vô hình:
Trường năng lượng xung quanh ta rất nhiều. Có những năng lượng không tốt cho cơ thể ta. Đôi khi ta bị hút mất năng lượng mà không biết.
Nhiệt giúp tạo ra dương khí. Chúng ta sống được là nhờ dương khí. Khi người ta mất, dương khí sẽ mất, lúc đó chỉ còn âm khí. Do đó, người chết rất lạnh. Không ai bình thường có thể cảm nhận được âm khí, trừ một số người có thể trạng đặc biệt và người chết lâm sàng.
Một số người có khả năng đặc biệt, hút được trường năng lượng của người khác. Tạm gọi đó là tà pháp. Nếu họ dùng vào mục đích xấu, sẽ nguy hại cho người khác. Do đó, ta phải học để hiểu biết mà phòng tránh, chứ không phải thấy nguy mà bỏ.

3.8.        Thuyết sinh khắc

Do các huyệt đều tuân theo thuyết Thái cực, có âm dương, thủy hỏa, nên cũng tuân theo luật mà có tương sinh, tương khắc.
Nếu day h37 (thuộc tỳ - thổ) rồi sau đó day huyệt 64 (gan – mộc) thì người sẽ càng mệt mỏi vì mộc khắc thổ.
Do đó, phải thuộc lòng huyệt nào thuộc hành nào trước khi sử dụng.

3.9.        Thuyết nhất nguyên luận

Đây là học thuyết phổ biến trong nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống.
Phát biểu: Một là tất cả, tất cả là một.
Trong đông y, với cơ thể con người, cứ cái gì là một thì đều có thể qui về tất cả (cả con người). Một ngón tay cũng đại diện cho một con người. Day tay chính là đang bồi bổ cho lục phủ ngũ tạng.
Ví dụ, một người đau khắp đầu. Đầu có nhiều huyệt, không thể dùng cây dò huyệt mà dò và day hết được. Khi đó, phải dùng đầu ngón tay, đầu ngón chân để trị vì ta qui cả con người về ngón tay/ngón chân.

3.10.     Thuyết đồng ứng

Đồng – cùng, giống
ứng – sử dụng, ứng dụng
Đồng ứng – cái gì giống thì sử dụng để trị được (do bản chất của diện chẩn là ứng dụng sự phản chiếu thần kinh đa hệ)
Có ba loại đồng ứng:

3.10.1.Đồng hình tương tụ

Cái gì có hình dạng giống nhau thì sử dụng được.
Ví dụ, mắt giống môi. Khi có dị vật rơi vào mắt thì ta liếm môi để đẩy ra ngoài. Dị vật rơi vào mắt trái thì liếm sang bên phải mép. Dị vật rơi vào mắt phải thì liếm sang bên trái.
Các đồng hình tương tụ thường gặp là: mắt – môi, úp bàn tay xuống – gan, mép của bàn tay úp xuống – mật, bàn tay xếp như lá mía – tụy, bàn tay nắm lại – tim, …

3.10.2.Đồng thanh tương ứng

Cái gì có tên gọi giống nhau thì sử dụng được.
Ví dụ, khuỷu tay – khuỷu chân. Nếu đau khuỷu tay do thiếu máu cơ tim nặng, chỉ day huyệt thì không đủ, còn phải sử dụng khuỷu chân để chữa.
Ví dụ khác, mắt – mắt cá chân – mắt cá tay. Nếu mắt bị đau không hơ được thì ta phải hơ vào mắt cá chân hoặc/và mắt cá tay.

3.10.3.Đồng khí tương cầu

Cái gì cùng loại khí thì cần nhau, tìm tới nhau.
Khí có khí âm – khí dương, khí hàn – khí nhiệt, khí táo – khí hỏa…
Ví dụ, người bị thận nhiệt. Khi thận nhiệt, thì phải chữa khí của thận để làm sao cho nó không nóng quá. Lúc này ta cần bổ khí mát (không phải hàn khí – tà khí) và khí âm. Do đó phải dùng đá chườm vào huyệt phản ánh thận (bổ khí mát) và thở âm dương khí công (bổ khí âm).
Chú ý, không chỉ tập thở mới sinh khí, thuốc hay đồ ăn cũng sinh khí (như gừng, hoàng kì, sâm,…).
Nhiều huyệt có tính chất khí giống nhau, do đó phải nắm rõ để sử dụng linh hoạt.

4.    Các qui tắc khi dùng Diện Chẩn Điều Khiển Liệu Pháp

4.1.        Học thuộc lòng tất cả các đồ hình phản chiếu nội tạng, ngoại vi

Không cần phải học thuộc huyệt một cách máy móc. Chỉ cần học thuộc các đồ hình phản chiếu ngoại vi, nội tạng trong cơ thể là có thể tự suy ra huyệt. Các đồ hình gồm (xem phần phụ lục):
-          Đồ hình mặt
-          Đồ hình đầu
-          Đồ hình tai
-          Đồ hình mũi
-          Đồ hình gáy
-          Đồ hình lưng
-          Đồ hình bụng
-          Đồ hình cánh tay, khuỷu tay, lòng bàn tay
-          Đồ hình mông
-          Đồ hình đùi
-          Đồ hình bắp chân, gan bàn chân

4.2.        Qui tắc khi sử dụng Diện Chẩn có/không kết hợp với các phương pháp khác

Chỉ sử dụng Diện chẩn để điều trị
Sử dụng Diện chẩn kết hợp với Tinh – Khí – Thần
Chọn phác đồ điều trị bằng cách kết hợp các bộ huyệt.
Tuân theo các qui tắc day huyệt (bên dưới)
Phải xem đã đưa những gì vào cơ thể qua tinh – khí – thần, rồi mới cân nhắc nên làm thêm gì với huyệt. (vì huyệt lúc này chỉ là một phần của toàn phác đồ điều trị)

Chú ý:
-          U trên cơ thể người chưa bị ung thư: ưu tiên dùng huyệt (Diện chẩn hoặc đông y cổ truyền)
-          U trên cơ thể người đang bị ung thư: ưu tiên dùng giải pháp tổng hợp Tinh – Khí – Thần – Huyệt
ð  Phải phân biệt được khi nào dùng Tinh/Khí/Thần/Huyệt.
Ví dụ, người bị hư hàn nặng, thiếu khí huyết trầm trọng thì phải ưu tiên dùng giải pháp Tinh – Khí (ăn uống bồi bổ, kéo ép gối,…), chưa được dùng Thiền và Huyệt.

4.3.        Qui tắc day huyệt

·         Phân biệt âm dương trên bề mặt của người bệnh:
-          phải là âm, trái là dương
-          trên là dương, dưới là âm
·         Đối với huyệt không ghi rõ âm dương thì day cả âm lẫn dương. Thứ tự day được xác định phụ thuộc người bệnh đang cần đổ từ âm sang dương hay từ dương sang âm (đôi khi phải dùng máy đo huyết áp).
·         Phải sử dụng đúng luật âm – dương trong bấm huyệt:
o   Đi xuống là âm sang dương
o   Đi lên là dương sang âm
ð  Đích là gì thì phải đi sang nó.
Ví dụ, cần đi sang dương, vậy phải day huyệt âm rồi tới day huyệt dương.
·         Cách dùng đồ hình phản chiếu của các tài liệu chính thống:
-          Màu đỏ là hỏa, xanh là thủy
-          Đỏ bổ dương, xanh bổ âm
-          Người tạng hàn sử dụng đồ hình màu đỏ.
Người tạng nhiệt sử dụng đồ hình màu xanh.
-          Khi dùng huyệt, không phải chỉ chọn đồ hình đỏ hoặc xanh, có khi phải kết hợp cả hai loại đồ hình xanh và đỏ để hiệu quả được tốt hơn.
·         Người huyết áp cao thì hơ/day huyệt từ trên xuống dưới. (để tả khí)
Người huyết áp thấp thì hơ/day huyệt từ dưới lên trên. (để nâng chính khí)
·         Khí thực hàn: day huyệt từ dưới lên trên, dùng đồ hình màu đỏ.
Khí hư hàn: day huyệt từ dưới lên trên, dùng cả hai bộ. (vì khi khí hư hàn, phải bổ nhiệt – bộ thăng và bổ âm huyết – bộ bổ âm)
·         Day từ trong ra ngoài là tả (trừ). Day từ ngoài vào trong là bổ (thêm vào).
·         Day từ trên xuống dưới là tả. Day từ dưới lên trên là bổ.
·         Khi không có dụng cụ Diện chẩn chính thống, có thể dùng các dụng cụ tương tự để thay thế.
Ví dụ, nếu không có cây dò huyệt, có thể dùng một chiếc đũa inox hay đầu bút bi, hoặc một dụng cụ nào đó có đầu nhọn tù và dài, đảm bảo an toàn để dò.
·         Trong diện chẩn, dù phác đồ nào đi nữa, luôn chốt bằng bộ tâm.
Huyệt cho tâm: h59, 60, 61, 0, 34, 38, 73, …
Với bộ tâm, có thể sử dụng cho cả trường hợp người huyết áp cao và huyết áp thấp.
Trong đồ hình phản ánh trên mặt, bộ tâm rơi vào vị trí ngón út.
·         Các bộ huyệt thường chốt bằng h0. Đây là huyệt thuộc thận, là huyệt sinh cũng là huyệt chốt. Chốt tại thận.
·         Cách làm:
-          Nên thao tác ở nơi kín gió, sạch sẽ, khô thoáng.
-          Hơ rà soát, thấy điểm nào đau rát thì đánh dấu lại. Đó chính là sinh huyệt. Từ đó xác định được bộ vị cần trị.
-          Day/hơ/… tại chỗ sinh huyệt.
-          Xác định vị trí đồng ứng và day/hơ/… nếu cần.
-          Day/cào/… xong phải hơ.
-          Hơ tại chỗ có u/viêm/… nếu cần.
-          Sau khi hơ xong, 30 phút sau mới được ra ngoài để tránh hàn khí xâm nhập.

4.4.        Lựa chọn thủ pháp sử dụng

Các thủ pháp chủ yếu của Diện chẩn:
-          Day
-          ấn
-          gạch
-          cào
-         
-          chườm đá
-          dán salonpas
·         Nguyên tắc:
-          Hàn thì hơ, dán
-          Nhiệt thì chườm đá (không quá 1 phút)
-          Cào, ấn: đối với điểm hoặc vị trí trên bề mặt da lớn
-          Day: bằng cây dò hoặc bằng tay
-          Dò: dò to hoặc dò nhỏ
-          Gạch: sử dụng với nhiều huyệt một lúc, trên bề mặt rộng
ð  Chọn thủ pháp nào tùy người sử dụng.

4.5.        Học thuộc lòng các bộ huyệt hay dùng

4.5.1.   Bộ bổ âm huyết

22
127
63
7
113
17
19
64
50
39
1
290
0
Ruột non
(tâm)
Hỏa
Tim
Hỏa
Nội tiết tố
Nội tiết tố (thăng khí rất mạnh)
Nội tiết tố
Nội tiết tố
Nhiều bộ vị
Dạ dày
gan
Dạ dày
Mệnh môn hỏa
Thận
Thận

Sử dụng khi:
-          Trong nhiều trường hợp

4.5.2.   Bộ tiêu độc tiêu viêm

41
143
127
19
Mật
Hạ huyết áp, đẩy tà khí
Tiêu viêm
Nâng chính khí
ð  Tả tà khí
ð  Bổ chính khí

Sử dụng khi:
-          Cơ thể có viêm loét, sưng tấy
Tránh lạm dụng, mỗi huyệt day không quá 60 lần, ngày sử dụng không quá 3 lần bộ này.

4.5.3.   Bộ tiêu u bướu

41
143
127
19
37
38
Bộ tiêu độc tiêu viêm
ð  Tả
Tỳ (điều chỉnh huyết)
tâm
ð  Bổ
Sử dụng khi:
-          Chữa u, sỏi, cục, hòn trong cơ thể hoặc ngoài cơ thể (bên ngoài thì dễ chữa hơn bên trong)
Cách dùng:
-          Xác định u ở chỗ nào, đánh dấu lại.
-          Lấy phản chiếu chỗ có u, day sau đó hơ đồng ứng.
-          Cuối cùng hơ tại chỗ có u.

4.5.4.   Bộ thăng

127
50
19
37
1
73
189
103
300
0
tim
gan



tim
Giao thoa phổi – tim (để mở khí)
Đỉnh đầu
Thận
Thận

Sử dụng khi cần thăng khí (đưa khí lên trên):
-          Chữa huyết áp thấp
-          Làm ấm cơ thể
-          Đưa máu lên não

4.5.5.   Bộ giáng

124
34
26
61
3
143
222
14
156
87
Gan
Mộc
Tâm
Hỏa
Cấp cứu cho người huyế áp cao (khi bị co giật)
Hỏa
Tâm (thông phần tắc nghẽn)
Phổi
Hạ huyết áp
Thận
Khai thông tắc nghẽn
Thận
Ruột non (tâm)

Sử dụng khi:
-          Cần giáng khí (giáng trọc khí xuống).
Ví dụ, khi hỏa vượng, dùng bộ này để giáng hỏa khí.

4.5.6.   Bộ điều chỉnh âm dương

34
290
156
39
19
50







Dùng trong nhiều trường hợp

4.5.7.   Bộ tan máu bầm

156+
7+
50
3+
61+
290+
16+
37








Sử dụng khi:
-          Va đập khiến cơ thể xuất hiện vết bầm máu
-          Cho người tiền ung thư (thường có vết máu bầm). Chỉ day 20 lần cho mỗi huyệt.
-          Bị vỡ mạch hay tai biến, nhồi máu do cao huyết áp. Trường hợp này bắt buộc phải dùng bộ tan máu bầm. Dùng máy đo huyết áp đo 2 tay, căn cứ vào chỉ số huyết áp (chỉ số thứ hai) để thực hiện day bộ này từ 20 tới 60 lần, sau đó dùng ngải hơ vào huyệt 3 vòng, cuối cùng mới hơ tại chỗ có u hay vết bầm.

4.5.8.   Bộ trừ đàm thủy thấp

103
1
290
64
39
63
53
222
236
85
127
235
22
87
Các huyệt đều nằm ở trục giữa mặt => đây là trục xương sống.

Sử dụng khi:
-          Đẩy đàm thấp khỏi cơ thể
Dùng bộ này ít thôi (10 lần), vì đây là bộ rất mạnh, dùng nhiều sẽ mất âm dịch nhiều.
Có thể thay việc day bộ này bằng xoa bóp mặt.
Sử dụng bộ này chỉ bớt đàm chứ không đẩy được hết đàm thấp khỏi cơ thể vì đàm phụ thuộc môi trường và cách sinh hoạt.

5.    Cách chữa một số bệnh bằng Diện chẩn

·         Ngất xỉu, tay chân lạnh: dùng bộ Thăng
·         Nội nhiệt (còn phụ thuộc ngoại nhiệt): dùng đá chườm vào huyệt
·         Người bệnh ung thư, mệt mỏi lâu năm: phải dùng bộ trừ đàm thủy thấp để triệt gốc, cơ chế gây ra môi trường ung thư.
·         Thải độc bằng Xông hơi: giúp thải độc nhanh, nhưng chỉ nên xông 15 phút, lâu hơn chính khí sẽ thoát ra ngoài (phản phục). Xông xong thì ở nơi kín gió 30 phút sau đó mới ra ngoài. Xông hơi xong phải kết hợp bấm huyệt thì mới có hiệu quả tốt.
Người huyết áp cao không nên lạm dụng xông hơi, nếu xông thì không nên để nóng quá.
·         U xương: cào đầu (xem đồ hình, chính là phần ứng với trục cột sống). Do cột sống có tủy (thận sinh ra tủy, rồi đổ ra não), nên cào phần giữa đỉnh đầu là chữa bệnh ứng với cột sống, thận. Cào đầu thường xuyên còn giúp cho bệnh máu trắng, thiếu máu, …
·         Suy nghĩ nhiều hại dạ dày (tỳ vị)
·         Khi làm việc quá sức, bị tê phần dưới day: thiếu máu cơ tim. Nên dùng bộ tim.
·         Khô môi: môi thuộc tỳ. Âm hư nên phải bổ tỳ âm. Có thể dùng mắt để hơ.
·         U vòi trứng: đi chụp để biết vị trí u trong vòi trứng. Sau đó phản ánh tương ứng trên đồ hình. Lỗ mũi = vòi trứng = phần hai con mắt. Day /bóp huyệt phản ánh (là cách gửi kích thích tới não, não sẽ xác nhận rồi gửi tới bộ phận bị u).
·         Tâm hỏa vượng: dùng mắt.
·         Cằm cứng, bụng trướng: do tỳ hư. Phần cặn bã tích lại trong bụng khiến bụng to lên. Do đó nên vuốt/gạch cách huyệt trên cằm thường xuyên cho cằm mềm ra, để kích thích bài tiết hoạt động, thải hết cặn bã ra ngoài.
·         Mí mắt đỏ: sử dụng bộ tiêu u bướu.
·         Đi spa làm đẹp, người ta hay cho sử dụng bộ tiêu u bướu. Tuy nhiên bộ này không nên dùng nhiều, vì tả nhiều mất máu.
·         Cao huyết áp mà bị đau đầu: day h300 (thận – thủy)
·         U gan: dùng bộ tiêu u bướu và huyệt phản ánh gan. Hơ tại chỗ, sau đó hơ huyệt phản ánh.
·         Mất ngủ: dùng bộ huyệt 124-34-106-103-300-97-98-99-100
·         Đau xương khớp: khớp thuộc thận. Dùng bộ bổ âm huyết và huyệt phản ánh thận.
·         Viêm cầu thận: bộ viêm + huyệt phản ánh thận. Còn phụ thuộc máy đo huyết áp.
·         Viêm đa khớp: dùng một huyệt để chữa “đa” (thuyết nước chảy chỗ trũng)
Dùng bộ tiêu viêm và bộ bổ âm huyết. Sau đó dùng bộ cột sống để chữa thận.
Hơ ngải cứu từ dưới đốt sống cuối lên đỉnh đầu.
Chú ý:
-          Day quá nhiều huyệt một lúc sẽ không thành công (phản phục)
-          Đường sống cằm, đường sống mũi, đường giữa đỉnh đầu đều là phản ánh của bộ cột sống lưng.
-          Nếu hơ nhiều một chỗ thì không cần hơ lâu.
·         Bệnh gout: dùng máy đo huyết áp trước, sau đó xác định gout ở thể nào. Chữa vào thận.
Dùng bộ tiêu viêm + bộ vị
Dùng bộ bổ âm huyết + huyệt của thận
·         Đau răng: dùng các huyệt ở trán
·         Ngủ nghiến răng: sử dụng bộ bổ âm huyết + huyệt của thận + bộ ổn định thần kinh.
·         Tâm thận bất giao (dinh dưỡng cho máu không đủ - thiếu hoặc thừa). Máu qua tim mới là máu đủ dưỡng chất nuôi cơ thể nhất. Phải kết hợp tinh – khí – thần – huyệt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...