Chương Hai Mươi: Cầu tài, bài loạn
Tài trai chí lớn cầu hào kiệt
Anh hùng vì nước diệt loạn quân
Tháng 8 năm Nam Tấn Vương thứ 6 (956),
Trần Minh Công, tự Trần Lãm, mất. Minh Công chỉ có sáu nữ nhi, không có con
trai ruột. Sau nhận thêm ba con trai nuôi, trong đó có Đinh Bộ Lĩnh. Lĩnh được
Minh Công tin cậy hết mực, giao lại mọi quyền hành, cho tiếp quản sứ quân Bố Hải
Khẩu. Để thu phục em trai Minh Công – bổ tướng Trần Thăng và hai người con trai
nuôi còn lại, Lĩnh gả con gái cho cả ba người này
Mùa xuân năm sau, lấy lý do phải quản
lý hai sứ quân ở hai nơi rất bất tiện, Lĩnh đưa đội quân Bố Hải Khẩu về hợp với
đội quân của mình ở Hoa Lư. Thành Hoa Lư loáng cái thành một trại lính, với số
người tăng lên gần gấp bốn lần. Theo tính toán của các tướng dưới trướng Nam Tấn
Vương, sứ quân của Lĩnh trở thành đội quân đông thứ ba ở Tĩnh Hải, sau Lý Khuê ở
Siêu Loại và Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt.
Nhưng Trường châu khi đó cũng có gần
chục đám sứ quân nhỏ lẻ. Trước đây, quân của Đinh Công Dự - chú ruột Lĩnh – là
đội quân mạnh nhất châu này. Nay Lĩnh có thêm binh thêm tướng từ Bố Hải Khẩu,
chiếm mất ngôi vị này, khiến các sứ quân nhỏ đều lo sợ, chạy tới tìm Dự bàn
cách trừ bỏ Lĩnh. Dự vốn đang rất bất mãn khi thấy Lĩnh bỗng dưng được trời ban
cho một đám quân binh hùng hậu mà y có nằm mơ cũng không được, gặp cơ hội này,
cầu còn không được. Y bảo các thủ lĩnh:
-
Lĩnh
vốn là đứa bé lêu lổng, dại dột. Ngày nhỏ khi cha hắn đưa mẹ con hắn tới nương
nhờ ta, hắn chẳng chịu học hành, suốt ngày chỉ cùng bọn trẻ mục đồng cưỡi trâu
bày trò làm loạn. Có lần còn rình mẹ hắn vắng nhà mà giết trộm lợn, cho cả lũ
trẻ ăn, ta phải đuổi theo đánh cho một trận. Lớn lên cũng chẳng chí thú gì
ngoài tụ tập một đám lêu lổng năm xưa để tranh giành, đánh lộn. Khi gia sản của
cha mẹ sắp bị hắn tiêu phí hết, thì bỗng hắn biến mất. Sau mới biết hắn đi đầu
nhập dưới trướng Trần Minh Công.
Đám thủ lĩnh nhao nhao lên bất mãn:
-
Minh
Công thật có mắt như mù, tặng nguyên cả một đội quân mà Trần gia mất hơn trăm
năm mới gây dựng được cho kẻ vô dụng như thế.
Dự bí hiểm lắc đầu:
-
Cũng
có thể Minh Công có chuyện khó nói. Người dưới trướng y chẳng còn ai có đủ tài
đức mà lãnh, nên y chán đời, thây kệ phó mặc cho Lĩnh.
Đám người nhớ ra Trần Minh Công bao
năm cầu vái tứ phương xin một mụn con trai mà không đặng, em trai y Trần Thăng
cũng chỉ là kẻ hữu dũng vô mưu, bèn gật gù thông cảm.
Tháng 6 năm Nam Tấn Vương thứ 7
(957), Đinh Dự xua quân hợp cùng bảy sứ quân khác trong châu, tiến đánh Hoa Lư.
Đội hợp quân lên tới gần 2 vạn người, vây hãm suốt gần hai tuần. Lần nào điều
binh ra, Lĩnh cũng bị số đông đánh cho thua chạy vào thành. Sau Lĩnh cùng mấy bổ
tướng họp lại, thấy quân số mình không đông bằng địch, phải dùng mưu.
Thành Hoa Lư hào sâu núi hiểm. Lĩnh
cho 5.000 binh nhân lúc trời tối, nhanh chóng đi xuyên qua hang, thoát ra lối cửa
sông, sau đó quay về thành, vây ngược lại đám hợp quân. Hôm sau, hợp quân của
Đinh Dự bị trong đánh ra, ngoài đánh vào, sợ hãi vỡ mật, hàng ngũ rối loạn, tướng
sĩ đua nhau chạy chối chết, mặc kệ Đinh Dự ở giữa trận khản cổ kêu gào. Cuối
cùng, Dự và bốn thủ lĩnh bị bắt, phải hàng phục Lĩnh. Ba sứ quân còn lại một tuần
sau cũng đến xin đầu nhập vào quân của Lĩnh. Trường châu như vậy yên ổn. Đến thứ
sử và Chỉ huy sứ Trường châu đều là người họ Ngô – hoàng thân quốc thích với
nhà vua, cũng chẳng làm được gì, chỉ đành nhắm mắt làm ngơ.
Mùa xuân năm Nam Tấn Vương thứ 8
(958), Nam Tấn Vương cho Đỗ Cảnh Thạc cùng một vạn binh tiến đánh Hoa Lư. Sau một
tháng, Thạc thất bại quay về.
Kiều Tri Hựu dẫn binh đánh tiếp, vây
hãm suốt hai tháng ròng rã, không thu hoạch được gì. Kiều Hữu tướng mệt mỏi
quay về kinh.
Mùa đông năm ấy, Khổng thị - vợ Lĩnh,
chết vì khó sinh. Cái chết của cả hai mẹ con khiến Lĩnh mất ăn mất ngủ suốt một
tháng trời. Lĩnh chôn vợ ở thôn Đàm – quê ngoại mình. Sau lại dựng thêm một bản
doanh ở thôn này để tiện bàn việc với tướng sĩ. Lĩnh ở bản doanh này ba tháng để
trông nom hương hỏa cho vợ.
Cùng thời gian, Lĩnh nghe phong phanh
có người kể, đã từng gặp Chương Dương Công ở Giao Thủy. Lĩnh liền cho người đi
tìm hiểu, biết đó là sự thật.
Mùa xuân năm Nam Tấn Vương thứ 9
(959), Đinh Bộ Lĩnh tới bái kiến Chương Dương Công ở phủ đệ Giao Thủy.
Lĩnh vô cùng ngạc nhiên khi thấy vị
vua uy dũng năm nào bây giờ cũng mặc quần thô áo vải, ra đồng chỉ đạo người xắn
đất, trồng cây. Khí thế lẫm liệt năm xưa đã mất đi, nhưng vẻ uy nghiêm và đôi mắt
sáng quắc mãnh liệt vẫn còn đó.
Hai người nói chuyện về gia sự đôi
bên. Lĩnh không ngại bày tỏ khâm phục tình nghĩa phu thê của Chương Dương Công.
Kha kể con trai Đinh Liễn của Lĩnh đang được Dương lão tướng quân chăm sóc rất
tốt. Về hình thức là bị giam lỏng làm con tin, nhưng thực tế cậu bé được học
binh thư, võ nghệ như các con cháu khác của Dương lão tướng quân. Nay cậu đã là
chàng trai 16-17 tuổi, hay đi theo Dương lão tướng tiễu dẹp phỉ rợ, có thể đánh
ngang tay với vài bổ tướng của triều đình. Lĩnh nghe được tin này, rất lấy làm
mừng.
Sau cùng, Lĩnh hỏi Tam Kha:
-
Một
người tài như ngài mà vua không dụng, lãng phí lắm thay, cũng là có tội với xã
tắc. Ta nay mưu đồ bá nghiệp, rất cần những người như ngài trợ giúp. Liệu có được
chăng?
-
Ta
đã thề trước vong linh Tiên chúa và bá quan văn võ, sẽ không can dự chính sự.
Chỉ đành góp sức khai khẩn đất hoang làm việc phụng sự bá tánh. – Kha từ tốn giải
thích – Tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ của Đinh thủ lĩnh, ta xin nhận. Nhưng chí hướng
chúng ta giờ đã khác xa nhau. Thứ cho ta không thể cùng chung sức với ông.
Lĩnh than:
-
Tiếc
lắm thay. Ta đây phụ trách đám quân đông, nhưng chưa tìm được kẻ tài trí hơn
người. Ngày ngày mỏi mắt cầu trời khấn Phật cho ta một Dương Tam Kha mà sao trời
vẫn không thuận. Nhưng dù chuyện gì đi nữa, tấm lòng mến mộ của Lĩnh đây với
ngài không hề suy chuyển. Nếu ngài đổi ý, hãy cho người báo tới Hoa Lư. Ta sẽ đích
thân mang kiệu tới đón ngài.
-
Đa
tạ, đa tạ. Người hùng tâm tráng chí như Đinh thủ lĩnh, trong thời buổi này, tất
có đất dụng võ. Kẻ hiền tài luôn biết chọn minh chủ. Ông chớ lo. Do thời cơ
chưa tới mà thôi.
Lĩnh từ biệt Chương Dương Công tại
sân chính. Vừa định đi ra ngõ, chợt thấy một thanh niên cao lớn múa thương trên
lưng ngựa tới xuất thần ở bên kia vườn. Lĩnh dừng lại, mê mệt nhìn. Đến khi
thanh niên chống thương, nhảy xuống ngựa chạy tới chào Chương Dương Công và
mình, Lĩnh mới bừng tỉnh, vội vã hỏi Tam Kha:
-
Người
này là đệ tử của ngài chăng?
-
Không
phải. Hắn là Lê Hoàn, trạc tuổi con trai Đinh thủ lĩnh. Là người bên Dương gia
ta ở Ái châu, thi thoảng có qua đây báo tin nhà. Ta cũng có chỉ dạy hắn một
chút, chưa đáng làm thầy. Là do tư chất hắn tốt, nên binh pháp, võ nghệ đều
lĩnh hội nhanh chóng, tinh tường.
-
Nhất
tự vi sư, bán tự vi sư. Thầy giỏi nên trò tốt cũng không có gì lạ.
Nói rồi Lĩnh quay sang người thanh
niên hỏi:
-
Lê
Hoàn, cậu có muốn theo ta lập đại nghiệp, phụng sự xã tắc không?
Chàng thanh niên Lê Hoàn kiêu ngạo trả
lời:
-
Sao
ta phải theo ông? Ta muốn tự mình lập đại nghiệp, rước tiểu thư về làm hậu.
-
Tốt.
Tốt. Quả không hổ được Dương Tam Kha chỉ dạy. Phần chí hướng này đã hơn hẳn thầy
ngươi rồi. Vừa có tài, vừa có dã tâm. E là sau này ta có một địch thủ đáng gườm
đây.
Lĩnh ha hả cười, rồi lên ngựa về Hoa
Lư.
Nếu quay lại nhìn, hẳn Bộ Lĩnh sẽ gặp
người con gái sau này làm nên nhiều chính biến cuộc đời mình – Dương Thị Vân
Nga. Nàng lúc này chỉ là một tiểu thư gần 13 tuổi, nhưng đã xinh đẹp hơn người,
được Kha và Nhâm Phi yêu chiều vô hạn. Vân Nga tiểu thư lúc đó nhảy ra khỏi bụi
hoa hồng, tò mò hỏi cha:
-
Phụ
thân, nam tử thô lỗ đó là ai vậy?
-
Vân
Nga, ta đã dạy con không được nhìn mặt mà bắt hình dong. Đó là một kẻ kiêu
hùng, đầu đội trời chân đạp đất, sau này tất dựng nên nghiệp lớn.
-
Ông
ta đã già. Nếu dựng nghiệp lớn, không phải anh con sẽ bị diệt trừ sao? Thế thì
con phải diệt ông ta. – Nói rồi nàng phùng má trợn mắt cố sức kéo cây thương từ
tay Lê Hoàn mà không được.
-
Hoang
đường. Nam Tấn Vương có nghiệp lớn của ngài ấy. Ông ta có nghiệp lớn của ông
ta. Ai phiền nữ nhi như con can dự? – Tam Kha trách con, nhưng không dấu nổi vẻ
yêu chiều trong ánh mắt.
-
Ai
nói nữ nhi không thể kiến công lập nghiệp? Thế ông ta có thể múa thương như cha
hay anh Hoàn không? Mấy năm nữa con sẽ làm được. – Dương tiểu thư bĩu môi, sau
đó nháy mắt với Lê Hoàn. – Sau này con chỉ lấy người giỏi như cha làm phu quân.
-
Được.
Sau này nhất định để con lấy người tài giỏi.
Cả Tam Kha và Lê Hoàn đều mỉm cười, nhìn
nàng đầy sủng nịnh.
Cuối năm Nam Tấn Vương thứ 9 (959),
nhóm sứ quân của Chu Thái bất ngờ trở thành mạnh nhất Tĩnh Hải.
Chu Thái là người quận Thao Giang, vốn
là một hào trưởng không thần phục nhà Ngô. Sau được Hoàng gia và Khúc gia nâng
đỡ, nên có chút bạc để chiêu binh mãi mã. Đội quân của y ô hợp cả phỉ rợ lẫn
thường dân, khoảng 500 người. Đa số nam nhi đến từ mấy trận đói các năm trước,
sức cùng lực kiệt, đành tòng quân kiếm cái ăn cái mặc cho cả nhà. Vài năm đầu,
đội quân chỉ đánh tỉa nhỏ lẻ mấy sứ quân khác trên cùng châu, hòng kiếm chút uy
tín và bạc lẻ. Nhiều lần còn bị đánh cho tan tác. Triều đình từng cử người tới
dẹp, đánh cho y chạy xuống tận mạn Hoan châu.
Đến năm Nam Tấn Vương thứ 7 (957),
không biết y lấy đâu ra rất nhiều lương bạc, thu hút được một lượng lớn người
đi theo. Tới nay đã hơn 8.000 người. Vũ trang rất đầy đủ. Lại được rèn luyện
bài bản, giống quân triều đình. Nam Tấn Vương cho người tra được, là do thúc
mình Ngô Nhật Kha giở trò phía sau.
Mùa hè, Chu Thái chém chết Tiền chỉ huy
sứ. Sau đó dẫn quân nổi dậy khắp mạn Thao Giang, đánh bại các hào trưởng và thủ
lĩnh khác, bắt qui phục y và nộp lương bạc.
Nam Tấn Vương ba lần cho người tới
đánh Chu Thái: Dương lão tướng quân đánh vào mùa xuân (năm 959), Phạm Bạch Hổ
đánh mùa xuân năm sau (960), và Kiều Tri Hựu đánh vào mùa đông (năm 960). Cả ba
lần đều thất bại quay về.
Mùa xuân năm Nam Tấn Vương thứ 11
(961), Chu Thái xưng Vương, chém thứ sử Thao Giang vừa được vua cử tới.
Lần này, Nam Tấn Vương vô cùng tức giận,
quyết định gác việc dẹp loạn ở Lục châu lại, đích thân cầm quân đánh Chu Thái.
Trước khi lên đường, Xử Bình dặn vua:
-
Bệ
hạ chú ý. Nhật Kha giật dây âm mưu phía sau. Lại có Hoàng gia và Khúc gia trợ bạc.
Chỉ cần trừ mấy cái xương sống này, hắn tất bị diệt.
-
Ta
hiểu ý ông.
Vua dẫn 5.000 binh lên đường cùng anh
em nhà võ tướng Phạm Man, Phạm Bạch Hổ.
Tới Thao Giang, Nam Tấn Vương bị phục
kích, suýt mất mạng. Vua tức giận lắm, thầm nghĩ hẳn đây là ý tứ ông thúc phản
nghịch nhà mình. Vua nhớ tới khi xưa một lòng một dạ nghe theo lời Nhật Kha mà
buồn bực không thôi. Tiếc năm đó không giết Nhật Kha đi, để nay hắn liên tục
quay ngược lại cắn trả. Mình thọ giáo Dương thúc và Xử Bình, đều là những kẻ
thông thạo binh pháp, am tường mưu lược và nhân tâm, thế mà dùng người không bằng
một nửa họ.
Vua chọn chỗ vách núi ven rừng dễ thủ
khó công, đóng quân ở đó, rồi cho người đi tìm hiểu xung quanh. Sau đó vua mất
ba ngày để nghĩ biện pháp diệt phản nghịch.
Chu Thái ngày ngày mang binh đi giễu
võ dương oai, khích bác ở bên ngoài doanh trại, chửi bới Nam Tấn Vương. Đột ngột
một hôm, đám binh này bị thòng lọng tóm hết một mẻ. Mấy kẻ chạy về, báo cho Chu
Thái và Nhật Kha biết. Kha vội cho người phòng thủ thật chặt thành Thao Giang.
Trận đánh đầu tiên, hai bên giáp lá
cà một canh giờ rồi Chu Thái thu binh.
Trận thứ hai, quân Thái trên tường
thành, quân vua dưới đất. Vua thua thảm hại.
Trận thứ ba, quân vua trong rừng,
quân Thái trên núi. Thái mất gần 1.000 binh.
Cứ thế hơn hai chục trận trong gần hai
tháng. Hai bên đều thương vong nặng nề.
Đúng lúc này, Nhật Khiêm bị Phạm Man bắt
cóc ở làng Đường Lâm mang tới, đem ra giữa trận. Quân Chu Thái không biết người
này, bắn tên nỏ khiến y thành con nhím. Tới lúc Nhật Kha chạy lên thành xem, mới
nhận ra anh trai mình, người lúc này đã chảy cạn khí huyết, bèn khóc rống thống
thiết, chửi Nam Tấn Vương không tiếc lời. Y tức giận công tâm, đích thân ra mặt
đánh trận tiếp theo, liền nhanh chóng bị Bạch Hổ tướng quân dùng kế tóm gọn vào
rọ.
Nam Tấn Vương không nể tình riêng,
cho xử tử Nhật Kha, bêu đầu trước cổng thành.
Ý chí của quân Chu Thái giảm rõ rệt
khi mất quân sư.
Một nhóm binh nhà vua phái đi, đã
thăm dò được hết những người họ Hoàng và họ Khúc trong vùng, theo dõi kẻ nào
liên lạc với Chu Thái đều bị bắt và giết sạch.
Đến tháng thứ sáu, Chu Thái hết lương,
hết bạc, mất quân sư, biết chắc mình không còn trụ được bao lâu nữa, đành liều
lĩnh quyết đấu một trận cuối cùng. Y cho toàn bộ binh ra trực chiến với quân
triều đình. Vô số người chết. Còn y, chỉ chưa đầy hai chục chiêu, đã bị Nam Tấn
Vương treo trên đầu ngọn thương. Đám tàn quân thấy vậy, sợ quá bỏ chạy tan tác.
Thao Giang được bình định.
Vua về triều. Tướng soái đều ngợi
khen. Ngài rất lấy làm hãnh diện.
Kể từ đó, vua thường thân chinh một
mình đi đánh phỉ rợ, dẹp bạo loạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét