Chương Mười Chín: Giận quá hóa dại
Công tư phân minh
Quân tử chí tình
Tuy nhiên cái chết của người anh
Thiên Sách Vương cũng không khiến vua tôi nhẹ lòng hơn được bao lâu.
Tháng 8 năm Nam Tấn Vương thứ 4
(954), tin từ phương bắc cấp báo về, Nam Hán nhân dịp triều chính phương nam rối
loạn, tăng cường binh lực lên gấp ba, gấp bốn, liên tiếp tấn công mạnh mẽ. Lão
tướng Dương Thế Hiển tử trận. Giờ biên ải đang ngàn cân treo sợi tóc. Thứ sử Lục
châu phải gắng gượng đưa thêm dân binh địa phương ra chống đỡ cùng quân lính
triều đình, mới tạm cầm chân địch, giữ được thành.
Vua lo lắng hỏi bá quan văn võ. Hữu
tướng Kiều Tri Hựu nhất mực xin đánh, lại cầu vua cho mình mang hai vạn binh
lên ải bắc, quyết một trận sống mái không thắng không về. Vua ân chuẩn.
Kiều tướng quân ra trận đầy khí thế,
nhưng không quen thuộc địa hình đồi núi hiểm trở và lối đánh tỉa nhỏ lẻ nên thất
bại liên tục, thậm chí còn bị thương do thủ tiễn địch bắn vào vai trái. Nam Tấn
Vương nhận tin báo về mà lòng rầu rĩ khôn nguôi.
Xử Bình tâu:
-
Nam
Hán mấy đời vua luôn rình rập Tĩnh Hải ta như hổ đói. Khi nào vua ta hùng mạnh,
quân thần một lòng, chúng sẽ thu nanh. Khi nội bộ ta yếu nhược, chúng sẽ được
nước lấn tới, chiếm dần từng tấc. Đã đến lúc bệ hạ phải nhất thống nhân tâm, dùng
khí thế vũ bão đứng ra thị uy.
-
Nhưng
nay ta vừa chỉnh trang lại nội bộ, đám võ biền và phú thương với mấy đại gia tộc
bỏ nhiều bạc cho anh ta hẳn bất mãn chưa nguôi. Ngô gia chẳng còn ai đáng tin.
Ngô thúc giã tâm bừng bừng, lại thêm uất hận chất chứa với ta. Giờ ta bỏ kinh
đi lên phương bắc cũng phải mất vài tháng mới dẹp xong địch. E rằng chúng nhân
cơ này ở triều mà phản lại.
-
Bệ
hạ, đây đương lúc nan giải. Ngài không thể một thân thọ đấu thù trong giặc
ngoài đồng thời. Ngài có chính danh, lại có đức độ và một lòng trung với xã tắc,
đám nghịch thần dẫu mạnh cũng đâu dám đương đầu với nhân tâm. Nam Hán sự tình
nguy cấp hơn. Mong ngài anh minh lựa chọn.
Vua vẫn không yên lòng, ngẫm nghĩ suốt
một đêm. Ngẫm thấy từ lúc nhà Ngô lập quốc tới nay, duy chỉ có mấy năm dưới bàn
tay Dương Bình Vương là Nam Hán im hơi lặng tiếng nhất, nội bộ Tĩnh Hải cũng an
bình nhất. Nhưng chính tay mình cấm y tham gia chính sự, giờ lại tới hỏi y, có
phải quá mất mặt không? Sau vua thấy việc nước vẫn nặng hơn, huống hồ cái ngôi
này cao nhất, bảo ai chẳng phải vâng, nhất là người trung nghĩa như Dương thúc.
Cuối cùng ngài quyết định sai tên hầu thân tín Tô Đồng đi đánh tiếng tham vấn
Chương Dương Công Dương Tam Kha.
Tô Đồng tuân lệnh vua, bí mật thân
chinh phi ngựa ra khỏi thành, tới bến Chương Dương, nơi phủ Dương Tam Kha dựng ở
đó. Thật không may, phủ chỉ còn lại vài gia nhân đang dọn dẹp. Người hầu nhìn
người tới mang ấn triệt nhà vua, không dám chậm trễ, dắt y vào trong, rồi gọi một
thiếu niên tới. Thiếu niên này khoảng mười hai, mười ba là cùng. Người gầy guộc,
mắt ti hí, ngũ quan sáng sủa, nước da nâu giòn, dáng thong dong, đoan chính, ăn
mặc dù không quí phái, nhưng hẳn cũng không phải kiểu người ở. Tô Đồng nhíu
nhíu mày, cố nhớ xem trong nhà Chương Dương Công có nhân vật nào tầm tuổi này
mà sao mình lại không biết. Lúc đó, thiếu niên chắp tay chào Tô Đồng cung kính
và hỏi:
-
Tôi
là Lê Hoàn. Là người được Chương Dương Công giao ở lại thu dọn nhà cửa. Xin hỏi
quí danh đại nhân?
-
Ta
là người quen cũ của Chương Dương Công, tên Tô Đồng. Nay có việc khó khăn, muốn
đến thỉnh ngài chỉ giáo. Nhờ công tử chuyển lời giùm tới ngài ấy, ta cần gặp
ngài ấy ngay. Chỉ cần nói tên ta, ngài ấy sẽ khắc hiểu.
-
Vậy
Tô tiên sinh gặp khó khăn rồi. Tam gia và gia quyến đã chuyển đi từ hơn một
tháng nay. Ở đây chỉ còn lại nhóm gia nhân chăm lo nông vụ. Ta chỉ phụ trách
chuyển nốt mấy thứ đồ còn lại tới nơi phủ mới.
-
Chuyển
đi đâu? – Tô Đồng không khỏi kinh ngạc – Bạn bè, thân hữu và người nhà Chương
Dương Công ở kinh rất đông mà không ai hay. Có việc chi mà ngài ấy phải chuyển
gấp vậy?
-
Ngài
có báo về kinh hay không ta không rõ. Nhưng việc dời thực ấp đã làm từ hơn một
năm nay rồi. Hẳn đã lâu ngài không liên lạc nên không biết. Tam gia về đây khai
khẩn đất bến Chương Dương này cùng bà con, sau hai năm đã tăng đất trồng lên gấp
chục lần. Thấy vậy, có người bạn làm Chỉ huy sứ ở Trường châu báo cho ngài ấy, có
khu Giao Thủy mênh mông sình lầy, ngàn dặm nhìn không thấy bờ bến, không dân
nào dám đến trú ngụ. Nhưng ở đó, chim cá, cây cối đều vô cùng phì nhiêu, đông
đúc. Ngài ấy liền cho một đám gia nhân lên đó đắp đất, lấp ao hồ, chặt rừng. Được
hơn một năm, có thể trồng trọt được, bèn cho người tới định cư. Năm ngoái, ngài
ấy đã quyết định dựng phủ tại đó, vì khí hậu nơi này ôn hòa, cảnh đẹp như tranh
vẽ, trên rừng dưới sông đều nhiều dược quí hiếm, tiện cho Đỗ phu nhân dưỡng bệnh.
Phu nhân ngài ấy đã được đón đi từ Tết vừa rồi. Ngài ấy ở lại thêm nơi này một
thời gian vì có công việc cấp bách. Việc xong, ngài ấy liền tới Giao Thủy đoàn
tụ cùng gia quyến.
Tô Đồng ngẫm nghĩ, thấy tới Giao Thủy
không biết đường, mình không thể đi nhanh về nhanh được, lại thấy lời người thiếu
niên này có chút đáng suy nghĩ, y bèn cáo từ ra về. Thiếu niên tên Hoàn tiễn Tô
Đồng tới cổng. Sực nhớ ra, Đồng quay lại hỏi Hoàn:
-
Chẳng
hay cậu là thân quyến thế nào với Chương Dương Công? Ta trước đây hay lui tới chỗ
ngài ấy, chưa bao giờ gặp cậu.
Thiếu niên cười híp mắt, vui vẻ nói:
-
Thực
ra ta không phải người nhà Tam gia. Ta là con nuôi một quan án dưới trướng đại
nhân Dương Thái Huyền, trước kia làm thứ sử Trường châu. Sau Thiên Sách Vương
bãi chức đại nhân, thế là chúng ta cùng theo Dương đại nhân và gia quyến về Ái
châu. Lúc Tam gia về Chương Dương lập phủ, Dương đại nhân sai cha ta và mấy người
nhà họ Dương tới thăm ngài ấy. Ta cũng đi theo. Từ đó, thành thông lệ, mỗi năm
vài lần ta cùng cha nuôi lại mang quà và thuốc từ Dương gia chuyển tới Chương
Dương phủ. Mỗi lần chúng ta đều ở lại đây một vài tuần, nên đôi khi giúp Tam
gia mấy việc lặt vặt. Ngài ấy khen ta thông minh, nhanh nhẹn, còn dạy ta học võ
và binh pháp nữa cơ. Cha nuôi bảo ta, Tam gia là người học rộng tài cao hơn người,
khắp gầm trời này không ai địch được, ta may mắn được ngài chỉ giáo, phải dốc
lòng học thành tài.
-
Thì
ra là vậy. Ta lại tưởng ngài là dưỡng tử Chương Dương Công mới thu nhận.
-
Dưỡng
tử không phải ta, mà là tiểu thư. Tiểu thư vừa tròn sáu tuổi được đưa ra đây
làm con Tam gia. Phu nhân yêu chiều như mạng, dạy đủ thi thư, thơ họa. Đôi khi
ta tới, còn được nàng cho học ké.
-
Là
tiểu thư út nhà Dương Thái Huyền đại nhân?
-
Đúng
vậy, đúng vậy. Tam gia từng bảo ta, nếu sau này ta làm vua, sẽ gả tiểu thư cho
ta đấy. Cho nên ta nhất định phải học văn võ thật giỏi, sau này làm vua, mới bảo
vệ được tiểu thư.
Nhìn cậu thiếu niên cười híp mắt, vỗ
ngực đầy tự tin và quyết tâm, Tô Đồng thầm cười trong lòng, quả đúng là Tam
Kha, mình cướp ngôi, nay lại dạy đệ tử cướp ngôi. Mà thằng nhóc này có được coi
là đệ tử của hắn không nhỉ? Nếu quả đúng thì phải báo Vương khẩn cấp diệt ngay
cái họa này.
-
Ngươi
là đệ tử của Chương Dương Công? – Tô Đồng dò hỏi.
-
Đệ
tử? – Thiếu niên cũng ngạc nhiên – Có phải giống như Ngô Vương, Tam gia, Đại
gia, Kiều Công Tiễn, Đinh Công Trứ làm dưỡng giả tử của Dương lão tướng quân
không?
-
Đại
loại như vậy. – Tô Đồng dù không thích cách nói của thằng bé, nhưng vẫn phải cố
nghĩ ra cách giải thích để nó hiểu - Ngài ấy dạy ngươi, ngươi bái ngài ấy làm
tôn sư, nghe lời ngài ấy, hết lòng phụng sự ngài ấy.
-
Thế
thì không phải. Ta không phải bái sư. Cha nuôi từng hỏi xin với ngài ấy cho ta
làm môn đệ. Tam gia bảo, ngài ấy chỉ muốn khai hoang, không muốn thu nhận ai dưới
trướng, chỉ tuyển người vỡ đất phá rừng. Ta muốn học ngài ấy. Cha nuôi bày
cách, cứ mỗi lần lên đây đều mang ta theo, lại bảo ta cầm theo văn tự và kiếm tới
luyện trước mặt Tam gia. Ngài ấy thấy thiếu sót, sẽ chỉ điểm cho. Nhờ thế mà ta
tiến bộ rất nhanh. Đám tôn tử Dương gia ở Ái châu đến nay đều không ai địch được
ta đấy.
-
Giỏi.
Giỏi lắm. – Tô Đồng ngợi khen, đồng thời lòng cũng nhẹ nhõm hẳn.
Tô Đồng quay lại Cổ Loa, kể mọi sự
tình với Nam Tấn Vương. Vua cũng giống hắn, không khỏi có thắc mắc trong lòng.
Vua bèn triệu gọi Lã Tả tướng tới ngự thư phòng. Vua hỏi Bình:
-
Ngươi
đã biết Chương Dương Công rời đi Giao Thủy hơn một tháng trước, sao không báo?
Bình vốn nghĩ vua phải hỏi tới việc
đánh Nam Hán, nên không khỏi giật mình.
-
Đúng
vậy, thưa bệ hạ. Người không cấm Dương đại nhân rời đi, cũng không lệnh ta phải
theo dõi bẩm báo hành tung đại nhân. Huống hồ ngài ấy đi khai hoang, mở rộng
thêm đất đai cho bệ hạ, là việc tốt, nên ta không có ý kiến. Việc ngài ấy khai
khẩn Giao Thủy đã làm từ mấy năm trước, nhiều quan tướng trong thành đều tường
tận.
Nam Tấn Vương giận dữ:
-
Việc
ta muốn biết không phải việc đó. Ngươi đừng mưu mẹo lừa ta. Nay ta hỏi ngươi,
Lã thừa tướng. Ai là kẻ ám sát ta? Ai giết anh ta?
Xử Bình vội vã quì mọp xuống đất, thống
thiết tâu vua:
-
Mong
bệ hạ minh xét. Ta biết ngài còn nhiều băn khoăn với Chương Dương Công. Ám sát
ngài là Thiên Sách Vương. Lúc nghe những lời buông bỏ của ngài khi đang dưỡng
thương, ta e cơ nghiệp của Tiên chúa sẽ sớm mất, liền chạy đi báo Dương thái hậu.
Thái hậu bảo ta bí mật tới tìm Tam Kha xin chỉ giáo. Giết anh ngài, đúng là ý
và có trợ giúp của Chương Dương Công. Nhưng sau đại sự đó, ngài ấy đã quyết chí
rời đi, không còn muốn liên hệ với bất cứ ai trong kinh thành, nhất là hoàng thất.
-
Một
người bị phế ngôi, liệu có cam lòng đến thế? Y không hề phản kháng, cũng không
chiêu binh mãi mã phục hận. Ngươi nghĩ ta là con rối chăng?
-
Bệ
hạ, mong người minh xét. Người nghĩ mà xem, một kẻ tính được mọi sự trong thiên
hạ như Dương Tam Kha sao có thể dễ dàng để người chưa từng trải qua bất cứ
chính sự gì như người hạ gục dễ dàng thế? Mà sau khi bị hạ, còn ngoan ngoãn làm
lương dân, an phận với việc nông nhàn cùng bá tánh?
-
Ngươi
muốn nói, hắn cố ý nhường ngôi cho ta? – Nam Tấn Vương lúc này không khỏi kinh
ngạc.
-
Chúng
ta đã biết sẽ có chính biến từ trước khi ngài vào thành. Lúc ngài đặt chân vào
cung, lúc nào cũng có một vạn binh vây quanh, chỉ cần hiệu lệnh, có thể giết chết
ngài tức khắc. Nhưng hắn đã không làm vậy. Cũng lệnh Dương Thế Hiển lui binh
bên ngoài điện, còn bắt trong mọi tình huống có phát sinh sau này, phải luôn bảo
vệ ngài.
-
Sao
mọi chuyện lại là như thế? – Vua bàng hoàng, rồi thẫn thờ ngồi phịch xuống ghế
rồng. Im lặng một lúc, vua đuổi Bình đi.
Nam Tấn Vương hôm sau cũng không thiết
triều, nghe nói vì ốm mệt. Các quan tướng xôn xao, không hiểu sao lúc sự vụ thế
này mà vua lại không gắng giữ sức khỏe. Chỉ Xử Bình là hiểu, nhưng im lặng.
Xương Văn quả thật chán nản đến mức
không muốn thiết triều. Vương nhận ra mình vẫn không thoát khỏi bàn tay sắp đặt
của Tam Kha. Nhìn quan tướng trong triều, những kẻ mà mình tưởng họ thần phục,
hóa ra cũng do Tam Kha sắp sẵn. Kha còn sắp sẵn những gì nữa? Hắn thề không
tham gia chính sự, nhưng hắn vẫn nhúng tay vào việc hoàng thất. Nay giết Ngập,
mai mình làm gì không đặng, liệu hắn có diệt mình dễ như trở bàn tay? Đám quân
tướng kia không chỉ vỗ tay hoan hỷ, có khi còn trợ giúp hắn. Mà diệt hắn thì ăn
nói sao với mẫu thân và Dương gia?
Nghi ngờ không dứt khiến nhà vua càng
lúc càng nhụt chí. Một đêm không ngủ. Hôm sau thái y phải tức khắc chế dược cho
vua dùng. Khi đầu óc tỉnh táo hơn, vua dành một ngày ngồi ngẫm nghĩ. Cảm thấy
Tam Kha đã cố ý nuôi dưỡng mình thành người bị động, gặp chuyện gì lớn lại nghĩ
tới y. Vua rất tức giận.
Giận quá mất khôn. Hôm sau thiết triều,
vua cử thái phó Tô Khải Minh làm sứ thần, sang Nam Hán xin tiết việt. Việc này
đồng nghĩa với Tĩnh Hải từ nay chấp nhận làm thần tử của Nam Hán, triều cống lễ
vật hằng năm. Văn võ bá quan nghe thấy vậy thì vài người tung hô ‘bệ hạ thánh
minh’, còn đa số đều quì xuống xin vua nghĩ lại.
Xử Bình tâu:
-
Bệ
hạ, Tĩnh Hải ta phải trải qua mấy trăm năm nếm mật nằm gai, bị phương Bắc dày
vò vô cùng thống khổ. Họ Khúc, họ Dương, và Ngô Tiên chúa cùng bao tướng sĩ
không tiếc máu xương, tâm huyết, giành tự chủ cho đất này. Nay ta dễ dàng hàng
phục, không phải có tội lớn với tổ tiên và trăm họ sao?
Dù tướng soái đa số tán thành lời Xử
Bình, nhưng nhà vua lúc này cương quyết hơn bao giờ hết, cứ y lệnh thi hành. Mấy
vị quan trung liệt lăn xả ra can gián, bị vua tức giận, lệnh đánh mỗi người 20
roi, cấm vào triều một tuần.
Ngày 12 tháng 10 năm Nam Tấn Vương thứ
4 (954), lần đầu tiên trong suốt 15 năm tuyên bố độc lập, Tĩnh Hải cho sứ thần
sang Nam Hán dâng sớ qui thuận, xin tiết việt. Tin này một lần nữa lại gây cơn
phong ba. Thủ lĩnh địa phương nổi dậy ầm ầm, vì cho rằng hết hy vọng với nhà
Ngô. Đến Nam Tấn Vương, vốn được coi là hiếu tử, hiếu đạo, minh triết hơn cha
và người anh mình, nay cũng khiến người ta không khỏi oán hận. Kiều Tri Hựu nhận
được tin phải đình chiến, cũng tức giận dẫn binh quay về, định đánh luôn vào
thành Cổ Loa. Nhưng Xử Bình biết chuyện, nhanh chóng ngăn được. Hựu bảo với
Bình:
-
Ta
cho ông nghĩ cách xoay sở. Nếu hắn thực sự hàng phục, ta quyết một kiếm giết hắn,
tế vong linh Ngô Tiên chúa.
Bình lật đật đi gặp Dương Thái hậu,
khuyên bà nên nói chuyện với nhà vua, vì vị vua trẻ này từ trước tới giờ vốn dễ
tin người nhà, nhất là mẫu thân và người bác Dương Tam Kha.
Dương Thái hậu mời Nam Tấn Vương tới
nói chuyện. Vua bảo:
-
Mẫu
thân mời ta, ta biết ngay lại do Xử Bình bày ra. Người hiểu ta nhất ngoài mẫu
thân và thúc, chỉ có hắn. Nhưng mẫu thân đừng phí lời vô ích. Chuyện ta đã quyết,
không ai ngăn được.
Thái hậu mỉm cười, âu yếm nắm tay vua,
nhẹ nhàng nói:
-
Con
ơi, ta biết con đang rất tức giận Dương thúc. Nhưng đừng để tức giận công tâm,
cũng đừng lấy vận mệnh quốc gia làm nơi trút giận tiêu sầu. Vì đó không phải là
của riêng mình con. Phụ vương con, thúc bá con, anh em con, và bao tướng sĩ
cùng bá tánh, mọi người đều coi đó là quốc gia của mình, bỏ máu thịt, tâm can
vào đó. Con làm vương, phải có trách nhiệm với nó, cũng phải có trách nhiệm với
an sinh của mọi người trong nước. Nay sự vụ căng thẳng, con nhiều đêm không ngủ,
hẳn cần phải được thư giãn để tĩnh tâm. Ta đã bảo với hoàng hậu và các phi tử của
con. Các nàng rất có tâm, chuẩn bị nhiều cái hay khiến con vui lòng. Con đi tìm
các nàng đi.
Nhà vua cảm tạ Dương thái hậu, rồi đi
sang tẩm cung của hoàng hậu. Hoàng hậu dẫn người ra vườn thượng uyển. Tại đó,
chúng phi tần đều có mặt đông đủ. Thấy vua tới, mọi người thi nhau trổ tài nghệ:
ca, đàn, vũ, thi, họa. Oanh oanh yến yến như hoa như nước khiến người ta mê
say. Tiệc tới gần sáng mới tàn. Vua cảm động, cùng hoàng hậu đi vào thị tẩm.
Những ngày sau đó, Dương hoàng hậu
thường tổ chức lúc tiệc thơ, lúc thi vũ, lúc gảy đàn cho vua thư giãn. Nhà vua
rất nhanh chóng lấy lại tinh thần và tinh lực dồi dào của tuổi trẻ. Vì thế, đôi
lúc nghĩ lại hành xử đã qua, vua cảm thấy áy náy. Khi thiết triều, mấy vị quan
kiên trung vẫn đứng ra can gián vua không nên hàng phục Nam Hán, vua đã không
còn cho đánh roi đuổi về như trước, mà nghe xong chỉ cho lui xuống không nói
gì. Quần thần thấy có biến chuyển, tự hiểu ý, cũng không làm quá khiến ngài
kinh động, tức giận mà hỏng việc.
Cuối tháng 12 năm ấy, người báo về, Lưu
Thịnh sai cấp sự trung là Lý Dư mang cờ tiết sang Tĩnh Hải ban tiết việt, đang ở
Bạch Châu cùng đoàn sứ thần Tô Khải Minh, yêu cầu Nam Tấn Vương ra đón rồi cùng
bàn bạc việc triều cống. Văn võ bá quan trong triều tức giận khôn nguôi. Mấy võ
tướng đứng ra xin đánh.
Nam Tấn Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
-
Nay
trong nước loạn dân đang hồi gay gắt. Ta phải dẫn binh đi dẹp, nên sẽ cho người
báo lại với sứ thần rằng không đến được. Nếu đợi quá một tháng không thấy ta tới,
Tô Khải Minh nên tiễn họ về.
Bá quan khen hay. Nói rồi vua cho người
truyền chỉ tới Bạch Châu ‘Giặc biển làm loạn, đường sá khó đi’.
Hai hôm sau, vua cũng dẫn 2.000 binh
đi dẹp loạn ở vùng biển Diễn châu.
Sứ thần Nam Hán đợi vua hai tháng liền,
vẫn thấy vua còn mải đi dẹp loạn, lại được tin thám báo gửi về, nói Tĩnh Hải
bây giờ như vũng nước đục, loạn thần xưng hùng xưng bá khắp nơi. Vua Nam Hán
cho mật chỉ phán rằng, tốt nhất chờ chúng cắn xé lẫn nhau tan tành, ta làm chim
sẻ phút cuối. Trước Tết nguyên đán, sứ thần Nam Hán quay về, Tô Khải Minh cũng
trở lại Cổ Loa, tường thuật mọi sự đã qua. Sau này, vị văn thần còn viết thêm mấy
cuốn sách bàn về xã hội, triều chính, văn hóa và con người Nam Hán, để các đồng
liêu tham khảo.
Đúng 30 Tết Nguyên Đán năm Nam Tấn
Vương thứ 5 (955), vua đi dẹp loạn trở về. Dương hoàng hậu cùng dàn phi tần
xinh đẹp ra nghênh đón vua còn nhiệt tình hơn cả đám văn võ bá quan, khiến người
ta không khỏi thán phục ông vua này gia sự tốt.
Tháng 3, Nam Tấn Vương cưới đại tiểu
thư nhà Lã Tả tướng, phong làm quý phi.
Mùa xuân năm sau, nhà vua lại cưới tiếp
thứ nữ của lão tướng Phạm Man.
Nam Tấn Vương lúc này đã có tất cả
tám người con: năm trai, ba gái. Vua yêu nhất Hoàng phi, nhưng người này đã bị
thích khách chém chết trong cung biến lần trước. Vua thương tiếc vô cùng. Nhìn
con lại nhớ tới người, lâu dần vua cũng dành nhiều ưu ái cho ngũ hoàng tử - con
trai duy nhất chưa đầy hai tuổi của nàng. Ngũ hoàng tử trở thành cái gai trong
mắt tất cả nữ nhân hậu cung.
Đấu đá nơi thâm cung rất khốc liệt.
Dương Thái hậu và Dương hoàng hậu đều là người Dương gia, luôn về cùng một phe,
tìm mọi cách ém nhẹm phong ba bão tố do đám nữ nhân gây ra với nhà vua. Vì thế,
Nam Tấn Vương nhìn thê hiền tử hiếu, luôn cảm thấy may mắn hơn anh em trong
nhà, không bao giờ phải bận tâm tới gia sự.
Mùa hè năm đó, Tĩnh Hải lại mất mùa
vì bão lũ. Đói to. Dịch bệnh bùng phát, lan cả tới kinh thành. Vua tất tả đi cứu
trợ nạn dân. Cùng lúc, trong hậu cung, tứ hoàng tử - con của Đỗ phi và ngũ
hoàng tử - con của Hoàng phi, bị nhiễm thương hàn mà mất. Vua trở về khóc con
suốt ba ngày ba đêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét