Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Đánh giá sai giải thích theo tâm lý học


MỘT


ĐÁNH GIÁ SAI GIẢI THÍCH THEO TÂM LÝ HỌC


Tôi đi vào tâm lý học của việc đánh giá sai, đó là việc hầu như ngược lại với ý chí của tôi; Tôi đã từ chối nó cho đến khi tôi nhận ra rằng thái độ của tôi khiến tôi phải trả giá rất nhiều tiền, và giảm khả năng tôi trợ giúp những gì tôi yêu mến.
-          Charles Munger

Phần Một đã đưa cho chúng ta một nền tảng cơ bản về hành vi, tâm lý và các giới hạn bản thân. Chúng ta đã học được nỗi đau và niềm vui dẫn dắt hành vi của chúng ta như thế nào, chúng ta có xu hướng đi theo quan điểm được khen thưởng ra sao, chúng ta đánh giá nhanh và là động vật xã hội như thế nào. Chúng ta cũng thấy ác cảm mạnh mẽ với mất mát và sự không chắc chắn phát triển ra sao, con người cư xử tự nhiên theo những cách họ cảm nhận có lợi nhất như thế nào.
Charles Munger nói, “Nếu bạn muốn tránh sự bất hợp lý, hãy tìm cách hiểu những điều không minh bạch trong trí óc của chính bạn và sau đó bạn có thể phòng ngừa thích hợp.” Phần này khám phá 28 lý do đánh giá sai có thể được giải thích theo tâm lý học. Nhiều lý do có gốc rễ từ những khuynh hướng và thành kiến tâm lý thường tác động đến tiềm thức của chúng ta. Ta càng xúc động, bối rối, không chắc chắn, không an toàn, vui mừng, bị phân tâm, mệt mỏi hay căng thẳng, ta càng dễ mắc sai lầm. Thiên tài cũng không loại trừ.
Dưới đây là danh sách 28 lý do đánh giá sai và mắc sai lầm. Nó có thể được sử dụng như một danh mục để giải thích hay tiên đoán hành vi hoặc như một danh mục thử nghiệm để tránh lừa gạt bản thân. Mỗi mục trong danh sách sẽ được giải thích ở chương tiếp theo.
1.      Thiên kiến từ liên kết nhỏ - liên hệ tự động tới một kích thích đau khổ hay vui mừng; gồm thích hay không thích cái gì đi kèm với những thứ tốt hoặc xấu. Gồm việc quan sát các tình huống cụ thể do chúng khá tương đồng. Cũng là thành kiến từ Hội Chứng Sứ Giả Ba Tư (Persian Messenger Syndrome) – không muốn là vật mang những tin xấu.
2.      Đánh giá thấp sức mạnh của thưởng và phạt – con người lặp lại những hành động được khen thưởng và tránh những hành động bị trừng phạt.
3.      Đánh giá thấp thành kiến từ tính tư lợi và sự khuyến khích của bản thân.
4.      Thiên kiến tự phục vụ - cái nhìn quá tích cực về khả năng và tương lai. Gồm cả quá lạc quan.
5.      Tự lừa dối và chối bỏ - làm biến dạng thực tại để giảm nỗi đau hay tăng niềm vui. Gồm cả mơ tưởng.
6.      Thiên kiến do xu hướng nhất quán – kiên định với những cam kết và ý tưởng trước đó ngay cả khi hành động đi ngược lại lợi ích bản thân hay đối mặt với bằng chứng không thừa nhận. Bao gồm thiên kiến trong xác nhận – tìm kiếm bằng chứng xác nhận hành động và niềm tin của bản thân và lờ đi hay bóp méo bằng chứng không thừa nhận.
7.      Thiên kiến do hội chứng hao hụt – phản ứng mạnh mẽ (gồm mong muốn và tạo giá trị nhiều hơn nữa) khi thứ chúng ta thích và có (hay gần như có được) bị (hay đe dọa bị) lấy mất hoặc “mất”. Gồm mong muốn và tạo giá trị nhiều hơn nữa cho những gì chúng ta không thể có hoặc thứ (đe dọa bị) ít có sẵn.
8.      Thiên kiến hiện trạng và hội chứng không làm gì – giữ mọi thứ theo cách chúng đang tồn tại. Gồm tối thiểu hóa nỗ lực và ưu tiên cho những lựa chọn mặc định.
9.      Không kiên nhẫn – định giá hiện tại cao hơn tương lai.
10.  Thiên kiến từ đố kỵ và ghen tuông.
11.  Bóp méo nhờ so sánh tương phản – đánh giá và nhận thức cường độ tuyệt đối của một thứ không bởi chính nó mà chỉ dựa vào sự khác biệt của nó với những thứ khác gần gũi trong thời gian hoặc không gian hoặc cùng mức thích nghi. Cũng đánh giá thấp hậu quả theo thời gian của những thay đổi từ từ.
12.  Thiên kiến do việc neo giữ - quá tải thông tin khởi đầu, như một điểm tham chiếu cho các quyết định tương lai.
13.  Bị tác động quá nhiều bởi những gì chói sáng hay thông tin mới nhất.
14.  Thiếu sót và mù vô hình – chỉ thấy kích thích chúng ta gặp hay lấy mất sự chú ý của ta, và bỏ qua những thông tin thiếu hụt quan trọng hay trừu tượng. Gồm có mù quáng không chủ ý.
15.  Thiên kiến từ khuynh hướng báo đáp – trả lại những gì người khác đã làm cho như ưu đãi, chuyển nhượng, thông tin và thái độ.
16.  Thiên kiến do bị ảnh hưởng quá nhiều bởi khuynh hướng yêu thích – tin tưởng và đồng ý với những người bạn biết và thích. Bao gồm thành kiến do quá mong mỏi được yêu mến và xã hội chấp nhận và tránh bị xã hội không chấp nhận. Đồng thời có thành kiến từ việc không thích – xu hướng tránh hay không đồng ý với những ai ta không thích.
17.  Thiên kiến do bị ảnh hưởng quá nhiều từ bằng chứng xã hội – bắt chước hành vi của người khác. Trong đó có sự điên rồ của đám đông.
18.  Thiên kiến do bị nhà cầm quyền tác động quá nhiều – tin tưởng và vâng lời người được nhận thức là nhà cầm quyền hay chuyên gia.
19.  Tạo ra sự hợp lý, có ý nghĩa – Xây dựng những lời giải thích phù hợp với kết quả. Bao gồm vẽ ra kết luận quá nhanh. Đồng thời suy nghĩ về các sự kiện đã xảy ra theo cách có thể tiên đoán được hơn thực tế.
20.  Tôn trọng lý do – tuân theo các yêu cầu chỉ vì chúng ta có lý do. Gồm có việc đánh giá thấp năng lực tạo dựng lý do.
21.  Tin trước nghi ngờ sau – tin tưởng những gì không đúng, đặc biệt là khi bị phân tâm.
22.  Giới hạn bộ nhớ - ghi nhớ có chọn lọc và sai lầm. Trong đó có việc bị những đề nghị tác động.
23.  Hội chứng Hãy làm gì đó – Hành động mà không có lý do hợp lý.
24.  Bối rối đầu óc vì hội chứng Hãy nói gì đó – cảm thấy cần phải nói gì đó khi chúng ta chẳng có gì để nói.
25.  Kích thích cảm xúc – phán đoán vội vàng dưới tác động của những cảm xúc cao độ. Trong đó có việc phóng đại ảnh hưởng xúc cảm đối với các sự kiện tương lai.
26.  Bối rối đầu óc vì căng thẳng.
27.  Bối rối đầu óc vì đau đớn thể xác và tâm lý, ảnh hưởng của hóa chất và bệnh tật.
28.  Thiên kiến bị tác động quá nhiều bởi các hiệu ứng kết hợp do nhiều xu hướng tâm lý gây ra.
Những xu hướng tâm lý này (còn gọi là tương tác) đã được kiểm tra qua một số thí nghiệm. Một số người dễ bị chúng làm tổn thương hơn những người khác. Nhưng chúng ta không thể nghiên cứu chúng độc lập với các giá trị cá nhân và tình huống. Hành vi có vẻ như bất hợp lý có khi lại trở thành hợp lý từ quan điểm cá nhân. Luôn có cơ sở để một hành vi có ý nghĩa. Hành vi không thể được nhìn nhận hợp lý hay bất hợp lý khi độc lập với ngữ cảnh. Chúng ta được tạo ra với một chuỗi cảm xúc tương đối phụ thuộc hoàn cảnh. Nếu chúng ta thay đổi ngữ cảnh hay môi trường, chúng ta sẽ thay đổi hành vi.
Chương tiếp theo sẽ mô tả 28 lý do tâm lý tại sao chúng ta lại đánh giá sai và sai lầm. Chú ý rằng các thành kiến và khuynh hướng đó thường không độc lập với nhau. Có vài phần chồng chéo. Cũng nên nhớ rằng có nhiều lý do đối với một hành vi. Nhiều ảo tưởng thế giới thực có thể được giải thích nhiều hơn một khuynh hướng và còn bởi những yếu tố phi tâm lý học. Đánh giá sai thường do các yếu tố cùng làm việc với nhau gây ra.
Hầu hết các lý giải dựa trên công việc của Charles Munger, giáo sư tâm lý học Robert Cialdini, giáo sư khoa học hành vi và kinh tế học Richard Thaler, Giáo sư tâm lý học Robyn Dawes, Giáo sư tâm lý học Daniel Gilbert, và các giáo sư tâm lý học Daniel Kahneman và Amos Tversky hậu bối.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...