Hiển thị các bài đăng có nhãn Sáng tác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sáng tác. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017

Tản mạn về đạo Phật và thiền (5)



Phần 3: Phật giáo – các tôn phái và Thiền tôn (2)


Thiền tôn

“Giáo ngoại biệt truyền - Bất lập văn tự - Trực chỉ nhân tâm – Kiến tánh thành Phật”


Lịch sử Phật giáo có 96% thời gian do Thiền tôn chiếm địa vị thống trị. Số phận của tôn phái này cũng thăng trầm như chính số phận đạo Phật nói chung vậy.
Lịch sử Thiền tôn đã được nhắc tới trong phần trước (Các tôn phái Phật giáo). Ở đây, chỉ đề cập chủ yếu đến Thiền tôn của Đại Thừa, phát tích ở Trung Hoa phong kiến (tất nhiên gốc gác từ tổ Bồ Đề Đạt Ma – vị tổ sư thiền đời thứ 28 bên Ấn Độ). Phần lịch sử của Thiền tôn sẽ không được nhắc tới nhiều nữa (ai quan tâm xem lại các phần trước), mà tôi sẽ tập trung vào những cái hay và tinh túy của Thiền tôn.


Bốn tiêu thức

Chính là bốn câu in đậm phía trên, nói lên bốn đặc trưng quan trọng nhất của tông phái này (đa số học giả cho là của tổ Bồ Đề Đạt Ma nêu lên)

Giáo ngoại biệt truyền” – Truyền trao giáo pháp một cách đặc biệt, ngoài kinh điển.
Tinh túy của giáo lý Phật pháp không thể chỉ hiểu đơn giản qua câu từ, ngôn ngữ. Nó là sự truyền giao kinh nghiệm trực tiếp từ tâm qua tâm. Việc truyền pháp ngoài kinh điển có sự tích từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong pháp hội trên núi Linh Thứu, Ngài im lặng đưa lên một cành hoa. Mọi người hoang mang không hiểu gì. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp – một đại đệ tử của Phật – chúm chím mỉm cười. Đức Phật liền ấn chứng cho Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tôn Ấn Độ. Đây là trường hợp truyền trao ngoài kinh điển đầu tiên trong lịch sử. Về sau, rất nhiều vị đại sư dùng phương pháp này chọn người truyền thừa hoặc ấn chứng cho đệ tử giác ngộ.
Ngài Đạo Tín tới cầu xin Tam tổ Tăng Xán: “Xin hòa thượng dạy con pháp môn giải thoát.” Tổ hỏi “Ai trói người?” Đạo Tín “Chẳng thấy ai.” Tổ bảo “Sao ngươi lại tìm giải thoát?” Nghe câu này, Đạo Tín đại ngộ, sau thành Tổ sư thứ 4 của Thiền tôn Trung Hoa.
Ngũ tổ Hoằng Nhẫn tìm người truyền y pháp. Đọc thơ của Huệ Năng – lúc đó 24 tuổi, là người chẻ củi, chưa có học hành gì nhiều, cũng chưa xuất gia, tổ vào tận trong liêu hỏi: “Gạo đã trắng chưa?” Huệ Năng đáp “Gạo trắng đã từ lâu.” Tổ lấy gậy gõ miệng cối 3 cái rồi lui. Huệ Năng lãnh được tâm ý tổ, tới canh ba mới tới gõ cửa phòng tổ để tổ truyền y pháp, thành Lục tổ của Thiền tôn Trung Hoa.

Bất lập văn tự” – không lập văn tự.
Ngôn ngữ và văn tự đều có giới hạn. Không phải mọi hiện tượng của thế giới đều được diễn tả đầy đủ qua ngôn ngữ và văn tự. Trong khi Thiền tôn cho rằng mọi sự vật hiện tượng chỉ là hư dối, văn tự hay ngôn ngữ đều trở nên không cần thiết. Do đó, khi nghe ngôn ngữ và văn tự, không phải để lý giải ý nghĩa, mà trước tiên phải có cái nhìn tổng quan về ý nghĩa của lời nói hay câu văn đó.  Không chạy theo câu từ hoặc chỉ tư duy trên câu từ.
Mọi người đều có Phật tính, bản tính hay tâm Phật. Nếu đánh mất tâm, dẫu có được giáo huấn bao nhiêu đi nữa cũng chẳng thể ngộ, cứ mãi mê trong sinh tử luân hồi mà chấp vào ngôn ngữ. Chỉ cần ngộ lấy cái bản tâm căn nguyên của mình, bản tính chân thật nhất của con người mình, thế là thành Phật rồi.
Nhiều tông phái của Thiền tôn không qui định phải đọc kinh nào, ở đâu, mà để tùy duyên. “Bất lập văn tự” là phương thức của “giáo ngoại biệt truyền”, để ta hiểu rằng: chân lý vốn ở bên trong, không phải ở bên ngoài.

Trực chỉ nhân tâm” – chỉ thẳng lòng người.
Mắt phải nhìn thấu được nội tâm bên trong để thấy được sự chất chồng của tâm mà không cần suy nghĩ, phân tích. Dùng ngôn từ để cố lý giải cho rõ cũng chẳng đi đến đâu, vì nó cần tinh thần hoằng truyền – một sự chuyển giao kinh nghiệm. Bản thân hành giả phải tự học và thể nghiệm bằng kinh nghiệm mới thật sự biết và hiểu. Dù là phàm phu hay vua chúa, đều có tâm Phật, vì nhân tâm và Phật tâm vốn chung một gốc – chỉ là ta mê chấp mà không nhận thấy. Cái tâm ấy chẳng phải là kết quả của giáo dục, chẳng phải kết quả của sự truyền đạt, cũng chẳng phải từ một phương pháp nào và tất nhiên, chẳng là gì. Cảm nhận được sự an tĩnh của tâm mới nhận biết rốt ráo vấn đề và để biết rằng, ngoài tâm mình ra chẳng có gì hết.
Đồng thời, các tổ sư thiền cũng có ý nhắn nhủ: trách nhiệm của giáo huấn và truyền đạt cần phải đi thẳng vào lòng người.

Kiến tánh thành Phật” – khi nào thấy bản tánh chân thật của mình thì thành Phật.
Chữ “tánh” có nghĩa là tâm – tâm Phật, bản tâm, bản tánh chân thật. Như vậy, tâm có thể thấy được, có thể hiển lộ.


Còn gì đặc biệt so với các tôn phái khác?

Con đường khó khăn nhất, nhưng thẳng tắp tới giác ngộ
Đệ tử Thiền tôn cho rằng, thiền định là con đường tắt, con đường nhanh nhất, thẳng tắp tới giác ngộ. Cứ lúc nào nhận thấy chân tánh, thấy tâm, thì tức là thấy Phật, là giác ngộ. Giác ngộ 1 phút thì thành Phật 1 phút. Giác ngộ 1 giờ thành Phật 1 giờ. Giác ngộ cả đời thì thành Phật cả đời. Nhưng vì không có sách vở nào chỉ dẫn do “bất lập văn tự”, nên quá trình đó không ai làm thay mình được, mà mỗi người chỉ nhận được bằng cách tự trải nghiệm, tự lĩnh hội, nên đây cũng là con đường khó khăn nhất. Cái ngộ đó gọi là “đốn ngộ”.
Đa số mọi người hay cho rằng Thiền tôn và Mật giáo là lối tu tắt, vì những lý do như trên. Nhưng quan điểm này bị nhiều vị cao tăng và học giả (ngày nay cũng có) phản bác. Đốn ngộ là ngộ rất đột ngột, kiểu “hốt nhiên đại ngộ”. Nếu thế, các phương pháp tu khác của nhà Phật sẽ là Tiệm ngộ - cần một thời gian dài để đi đến chứng đắc. Không ai đột nhiên có đủ tri kiến Phật. Con người từng tiến hóa qua nhiều đời, nhiều kiếp. Tức có quá trình chuẩn bị ở đời này của nhiều đời trước, trước khi đốn ngộ. Vậy thì liệu có một sự kiện gọi là “đốn” hay không? Mà dù có đốn ngộ, thì đó là sơ ngộ hay đại ngộ? Phật giáo nguyên thủy (Thượng Tọa Bộ) cho rằng, cần phải xem cái đích “Bồ tát” trong Thiền tôn và Mật giáo cách cái đích “Alahán” là bao xa. Kiến tánh thành Phật - “Thấy tánh” mới chỉ là ngõ vào thôi, còn nhập tánh mới thành Phật. Ngay cả một số thiền sư của Thiền tôn cũng cho rằng, thiền là một chuyến đi dài, không có ngõ tắt, bạn nhập thiền dễ hơn người khác vì các kiếp trước đó bạn đã từng thực tập nhiều rồi, bạn thiền có kết quả nhiều hay ít vì bạn đã tiến hóa nhiều hay ít trên con đường tiến hóa của vũ trụ kể từ thuở ban sơ.

Đốn ngộ
Thiền tôn coi trọng “đốn ngộ” (giác ngộ ngay tức khắc). Nó xuất phát từ chính truyền thuyết Đức Phật ấn chứng cho ngài Ma Ha Ca Diếp đã kể ở trên. Khi Ca Diếp mỉm cười, có nghĩa là ngài ấy đã lĩnh hội ý chỉ của Đức Phật, bằng tâm mình. Đó là cách “dĩ tâm truyền tâm”. Dù vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng không phủ nhận tư duy kiểu này rất được lòng người. Một số nhánh Thiền tôn phản bác lại quan điểm này, đều không duy trì được lâu, nhanh chóng suy tàn trong lịch sử hoặc bị nhập vào nhánh khác.

“Tại đây và “bây giờ”
Lịch sử và giáo pháp đều chẳng quan trọng. Điều hệ trọng nhất là “tại đây” và “bây giờ”.
Thiền là cách giữ thân xác, hơi thở và tâm thức của mình luôn an trú trong hiện tại. Nó giúp chúng ta phát huy sự hiểu biết sâu kín nhất về bản chất của thực tại và của chính mình. Đức Phật đã tự đặt mình vào tâm điểm của thực tại để quán chiếu thấy thế gian một cách minh bạch hơn.
Thiền quán của Phật giáo nâng cao sự tập trung. Sự tập trung đó sinh ra sự quán chiếu sâu xa có tính cởi mở và sâu rộng, giúp hành giả nhìn nhận sắc bén các trải nghiệm và cảm nhận của mình về hiện thực, dần hiểu được cấu trúc trọn vẹn của các trải nghiệm ấy – mà trước đây không hề nhận thức được. Đó là trí thông mình trực giác, hay trí tuệ - giúp ta mở ra một bầu không gian rộng lớn của hiện thực.
Tu thiền không phải để trút bỏ tất cả mọi thứ trong đầu mà đúng hơn là giúp mình đối đầu với thực trạng của mình trong hiện tại. Mỗi con người đều có Phật tính. Việc chúng ta làm chỉ đơn giản là đón tiếp nó.

Trở về với tự nhiên
Không hẳn là sự phản đối truyền thống, mà là việc phản bác lại, vứt bỏ những nghi thức rườm rà, kinh luận bất tận mà khó hiểu.
Khi trình độ thiền định tới mức độ nhất định, sự tập trung sẽ hiển lộ một cách tự nhiên khi nó tiếp cận với một đối tượng nào đó mà không cần sự bám víu nào. Tâm thức ta hòa nhập vào một thể dạng trong trạng thái thăng bằng và thanh thản, không bị chi phối hay trói buộc.

Đầy mâu thuẫn
Có vô số câu chuyện và truyền thuyết về những hành động, lời nói, phương pháp hoằng hóa đầy nghịch lý, mâu thuẫn của các vị Thiền sư. Ngày nay, ta hay gọi đó là tham thiền (tham vấn, hỏi đáp để tỏ tường về thiền và đạo). Những câu thoại đầu kinh điển ta hay nghe kể như:
-          Khi chưa có trời đất, ta là gì?
-          Trước khi cha mẹ chưa sinh, ta ra sao?
-          Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?
-          Muôn pháp về một, một về đâu?
-          Niệm Phật là ai?
-          Phật Tổ giác ngộ cái gì mà thành Phật?
Đi tìm nguyên do rất dễ. Nó xuất phát từ triết lý có vẻ khá mâu thuẫn của Thiền tôn. Giáo lý Thiền tôn là sự kết hợp độc đáo của hai học thuyết nền tảng của Đại Thừa Ấn Độ: Trung quán và Duy thức.
Trung quán với học thuyết về tính Không (hay Thật tướng). “Không diệt, không sinh, không đứt đoạn, không thường còn, không là một, không đa dạng, không đến, không đi”. Mọi sự vật đều do duyên mà thành (duyên khởi), nên chúng không tồn tại độc lập, không có tự ngã, tự tính, trống rỗng. Tính Không là bản thể tuyệt đối, có hai mặt ý nghĩa: không có tự ngã nào (vô ngã), và giải thoát. Chứng ngộ được tính Không là giải thoát. Tính Không là thể tính cuối cùng, đồng nghĩa với Pháp thân. Muốn đạt được bản thể tuyệt đối, phải vượt qua chân lý tương đối – là chân lý dành cho các sự vật hiện tượng trên thế gian vốn bị tính chất nhị nguyên qui định. (Học thuyết này vẫn là nền tảng căn bản của Mật tông – Phật giáo Tây Tạng ngày nay)
Duy thức có khái niệm “vạn pháp duy tâm”. Thế giới và mọi hiện tượng đều là cảm nhận của thức (tâm), ngoài thức đang cảm nhận thì không có gì là thật. Sự cảm nhận chỉ là quá trình của một tưởng tượng, một ảo ảnh của một khách quan bị tưởng lầm là thật – gọi là A-lại-da thức. A-lại-da thức chứa tất cả chủng tử của quá khứ, mang sẵn mầm. Chủng tử và các mầm đó sản sinh ra các hiện tượng tâm thức. Chủng tử chín muồi theo tác động của Nghiệp (karma). Chúng tác động qua lại lẫn nhau làm con người thấy một ảnh ảo và cho đó là thật. A-lại-da thức luôn mới mẻ, liên tục, hoạt động cả sau khi chết và sự liên tục của nó là cơ sở của tái sinh. Khi bị ô nhiễm, chúng làm phát sinh ấn tượng về cái “ta” – đó là sai lầm, vì thật ra chỉ có “sự cảm nhận” chứ không có “người cảm nhận”. Vì vô minh mà cho rằng có tự ngã, nên con người bám víu vào đó để chịu khổ. Để giải thoát, đòi hỏi hành giả phải hành trì các Ba la mật đa (dịch nghĩa: sự cứu cánh – perfection, tức công hạnh của một vị Bồ tát nếu hiểu theo Đại Thừa) và chú trọng thiền định.

Ngài Lâm Tế đến học đạo chỗ Tổ Hoàng Bá. Lâm Tế ba lần đến hỏi tổ cùng một câu “Thế nào là đại ý Phật pháp?” đều bị tổ cầm gậy đánh cho tơi tả, thất vọng khăn gói rời đi, đến gặp ngài Đại Ngu. Ngài Đại Ngu bảo “Hoàng Bá thật là đại từ đại bi, đã chỉ tột cùng cho ngươi mà ngươi còn nói có lỗi, không lỗi.” Nghe tới đó Lâm Tế liền ngộ.
Lại có chuyện thế này. Hai ông tăng cãi nhau về cờ phướn. Một ông nói “Phướn động”. Ông kia nói: “Gió động”. Cứ thế tranh cãi. Lục tổ Huệ Năng liền nói: “Chẳng phải gió, chẳng phải phướn, tâm các ông động.” Nghe câu nói này, hai vị giật mình run sợ.
Nghe kể thế, các bạn có hiểu không?

Vẻ đẹp từ sự hội tụ của các tinh hoa phương Đông
Không phải tự nhiên trên thế giới có mảng “Nghệ thuật Thiền tôn”. Ban đầu, chỉ là phương pháp các thiền sư Trung Hoa thế kỷ 6-7 sử dụng để tu học. Dần dần, nó phát triển nhanh chóng, hòa vào đời sống và được đông đảo công chúng ái mộ, đặc biệt ở Nhật, và ngày nay ở phương Tây. “Nghệ thuật Thiền tôn là nghệ thuật của phi nghệ thuật, nghệ thuật của sự điều khiển các bất thường” (Alan Watts).
Ngày nay, chúng ta có thể thấy nghệ thuật thiền trong kiến trúc, hội họa, thơ ca, văn học, trà đạo, cắm hoa, ẩm thực, làm vườn, thư pháp…
Thiền còn là nghệ thuật sống. Thanh thản, an tĩnh. Điềm nhiên trước mọi giông tố cuộc đời. Kiên cường vượt qua mọi khổ đau. Tinh tế trong hưởng thụ vật chất và sự an lạc.
Trong suốt chiều dài lịch sử, các phái Thiền tôn đã đóng góp cho nhân loại những hệ thống tư tưởng và lý luật triết học sâu sắc và uyên bác. Một số nhánh Thiền tôn ở Trung Hoa kết hợp khéo léo tư tưởng từ các hệ phái Ấn Độ cổ xưa với Lão giáo, Nho giáo Trung Hoa đương thời, tạo ra những dấu ấn lý luận và nghệ thuật đặc sắc riêng của Trung Quốc. Sau này tới các phái Thiền tôn tại Nhật – đưa hệ thống lý luận lên một đỉnh cao mới, được giới học giả phương Tây vô cùng chào đón.

Một mảng thú vị khác - Võ thuật: các phái võ phương Đông đều phải tọa thiền. Nghe thật kỳ lạ đúng không? Nhưng đó là sự thật. Bạn chỉ cần hỏi bất kỳ một võ sư gạo cội nào của vovinam, taekwondo, ushu, tán quyền, thái cực quyền, vịnh xuân quyền… sẽ đều nhận được cùng câu trả lời. Tại sao vậy? Vì võ thuật phương Đông hướng tới nội lực (sức mạnh từ bên trong, không hoặc ít sử dụng lực của cơ bắp). Về mặt sinh học và năng lượng, khi bạn dùng cơ bắp, chẳng hạn cú đấm 2000 kg tốc độ 200km/h thì cơ thể cần điện năng 240V để cú đấm có 20V; nếu dùng nội lực chỉ cần điện năng 120V cho ra cú đấm y hệt như vậy; tức là năng lượng giảm một nửa.
Thiền là bắt buộc cho tất cả những ai muốn tu luyện nội công.  Các võ sư thường thiền 30 phút đến 1 tiếng trước khi vào luyện tập. Thiền kết hợp các thế võ nội công, về mặt khoa học và nhân điện, giúp xương cốt cực kỳ cứng (để chịu lực lớn), gân dai chắc, cơ bắp nhỏ gọn, bụng to (thở nhiều), huyệt đạo và kinh mạch cực khỏe, nội tạng khỏe (máu tuần hoàn nhanh), não khỏe (minh mẫn, sáng suốt), biết mượn lực.

Lịch sử huy hoàng, nay đã tàn phai?
Như chúng ta đã biết, Thiền cùng đạo Phật phát triển rực rỡ ở đồng bằng sông Hằng suốt hơn 1.000 năm với 28 vị tổ sư, nhưng không chấm dứt theo sự biến mất Phật giáo ở Ấn. Nó được truyền sang Trung Hoa phong kiến và nhiều nước khác, hấp thụ tinh hoa văn hóa đặc sắc của Trung Hoa và trở nên hưng thịnh hơn bao giờ hết. Nó nhanh chóng trở thành một tôn phái lớn nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất (gần 1.000 năm) trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa - Thiền tôn, truyền được 6 đời tổ sư, sau đó dần chia thành “ngũ gia thất tông” (các tông phái chỉ khác nhau về cách giáo hóa, gồm Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Dương Kỳ, Hoàng Long). Thế kỷ 15, khi Thiền chính phái suy tàn ở Trung Hoa, thì lại bắt đầu giai đoạn phát triển huy hoàng mới ở Nhật Bản. Một số thiền sư phái Lâm Tế và Tào Động người Hoa sang Nhật truyền bá khiến Thiền phái ở đây áp đảo cả Thần đạo. Các thiền sư Nhật sau đó truyền Thiền tôn của họ sang Mỹ và châu Âu vào thế kỷ 19.
Ngày nay, Thiền tôn Trung Hoa đã thất truyền. Ở Nhật, hai tông Tào Động và Lâm Tế được truyền tới vẫn còn tồn tại. Ở Triều Tiên, có tông Pháp Nhãn truyền tới, nay cũng đã thất truyền. Việt Nam có 3 tông Tào Động, Vân Môn và Lâm Tế truyền tới, sau đã bị bản địa hóa hoàn toàn, đến nay còn bị lai hóa nhiều với Tịnh độ tôn nên về mặt bản chất, coi như không còn tồn tại; còn các thiền phái khác đã biến mất từ thế kỷ 18-19. Nhiều nỗ lực khôi phục lại một số Thiền phái ở Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, thậm chí ở cả các quốc gia Phật giáo Nam Tông (Tiểu Thừa/Thượng Tọa Bộ), nhưng phương tiện và giáo lý vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Người phương Tây có cái nhìn khách quan hơn với Phật giáo, các Thiền phái có cơ hội phát triển tự do trong cộng đồng này, nhưng chưa có thành tựu gì thật sự đáng kể.
Các phái thiền tôn ở Việt Nam:
0.        Khương Tăng Hội, Mâu Bác (thế kỷ 2,3): Thiền sư Khương Tăng Hội người Trung Quốc, đi nhiều nơi du hóa, có qua Luy Lâu, Giao Chỉ (Việt Nam ngày nay) truyền đạo. Bộ Lục Độ tập kinh là tác phẩm còn để lại, chủ trương “Phật tại tâm”. Thiền sư Mâu Bác (không rõ người Việt hay Trung Quốc) cũng tới Giao Chỉ truyền đạo, tác phẩm còn lại là Lý Hoặc Luận. Ngày nay giới học giả vẫn tranh cãi Khương Tăng Hội hay Đa Lưu Chi mới là tổ sư thiền Việt Nam. Đa số sách vở chính thống vẫn coi Đa Lưu Chi là tổ sư. Còn Khương Tăng Hội chưa gây ra ảnh hưởng lớn có thể lập thành trường phái riêng như Đa Lưu Chi.
1.        Tỳ ni Đa Lưu Chi (thế kỷ 6, 580 - 1213 ): Sư Đa Lưu Chi là người Ấn Độ, đi khắp nơi học đạo, sang Trung Quốc gặp Tam tổ Thiền tôn Trung Hoa Tăng Xán và đắc pháp, sau đó năm 580, xuống Giao chỉ (Việt Nam khi đó) truyền pháp. Sư trú tại chùa Pháp Vân (nay là chùa Dâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh – xây năm 187, ngôi chùa cổ nhất Việt Nam), sáng lập phái thiền Tỳ ni Đa Lưu Chi đầu tiên ở nước ta. Phái này lấy kinh Tượng Đầu Tinh Xá làm nền tảng, chú trọng tư tưởng Bát nhã, tu tập Thiền quán. Ảnh hưởng lớn tới thời nhà Lý. Truyền được 19 đời.
2.        Vô Ngôn Thông (thế kỷ 9, 820 – cuối thế kỷ 13): Thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820 sư sang Việt Nam truyền đạo, ở chùa Kiến Sơ (nay ở xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Chủ trương đốn ngộ, giáo pháp “vô đắc” (không có đối tượng của sự giác ngộ, muốn giác ngộ phải tự thực hiện lấy). Truyền được 17 đời.
3.        Thảo Đường (thế kỷ 11, 1069 - 1205): thiền sư Thảo Đường (người Trung Quốc, được sử sách cho là người của thiền tông Vân Môn, Trung Hoa), bị bắt làm tù nhân khi vua Lý Thánh Tông đi thảo phạt Chiêm Thành. Sau ngài được phong làm Quốc Sư, trụ trì chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc, Hà Nội), lập ra thiền phái Thảo Đường – kết hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Khuynh hướng thiền học trí thức kết hợp văn chương, thi ca. Chỉ ảnh hưởng tới giới tri thức có khuynh hướng văn học (vua và quan). Truyền được 5 đời.
4.        Trúc Lâm (thế kỷ 13, 1299 - nay): năm 1299, Phật hoàng – thái thượng hoàng Trần Nhân Tông tới tu tại chùa Yên Tử (Quảng Ninh), sáng lập ra phái thiền Trúc Lâm, hợp nhất 3 phái thiền Tỳ ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường lại làm một. Đây là thiền phái đầu tiên do người Việt sáng lập. Tới thế kỷ 17-18 (được 18 đời), nhập vào phái Lâm Tế. Thế kỷ 19, biến mất. Cuối thế kỷ 20, Thượng tọa Thích Thanh Từ khôi phục lại. Chủ trương tích cực nhập thế.
5.        Lâm Tế (thế kỷ 17, 1677 – nay ): thiền sư Nguyên Thiều (người Trung Quốc, đời 33 của dòng thiền Lâm Tế, Trung Hoa) qua miền Trung Việt Nam truyền bá dòng thiền Lâm Tế và xây dựng nhiều chùa. Thiền sư Chuyết Chuyết (người Trung Quốc, đời 34 của dòng thiền Lâm Tế, Trung Hoa) tới miền Bắc truyền đạo. Chủ trương “sinh Phật bất nhị” (chúng sinh và Phật không phải hai, chỉ cần vô tâm vô sự là thành Phật), hành pháp theo “tứ liệu giản”, dùng phương pháp Khán thoại thiền (quán Công án). Sau một thời gian hưng thịnh, Lâm Tế bị Việt hóa và phổ biến rộng rãi ở miền Trung, miền Bắc rồi tới miền Nam.
6.        Liễu Quán (thế kỷ 17, 18 - nay): sư Liễu Quán người Phú Yên, đệ tử của Hòa thượng Tử Dung (người Trung Quốc, phái Lâm Tế Trung Hoa). Là người “Việt hóa” dòng thiền Lâm Tế. Phái này phổ biến ở miền Trung Việt Nam.
7.        Tào Động (thế kỷ 17 - nay): Thiền sư Hưng Liên (người Trung Quốc) được mời sang miền Nam Việt Nam truyền bá giáo pháp phái Tào Động của Trung Hoa, được chúa Đàng Trong phong làm quốc sư. Thiền sư Tông Giác (người Thái Bình, Việt Nam) đi du học ở Trung Quốc, trở về Việt Nam truyền bá trường phái Tào Động ở miền Bắc. Chủ trương Mặc chiếu thiền, tức chỉ cần an nhiên tọa thiền là đủ, không chú trọng mục đích, cũng chẳng đòi hỏi điều kiện. Hiện nay các đạo tràng ở miền Trung kết hợp Lâm Tào (Lâm Tế và Tào Động). Chủ trương Thiền Tịnh song tu (kết hợp Thiền tôn và Tịnh Độ tôn: vừa tu thiền, vừa niệm Phật).
8.        Ngày nay: có một số nơi tự xưng là một tôn phái riêng của Thiền tôn nhưng lý thuyết và thực hành đều khá lai tạp và lộn xộn, chưa có bản sắc riêng.
o    Thiền tôn Phật Quang (tại chùa Phật Quang, núi Dinh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu): do Thượng tọa Thích Chân Quang sáng lập 2016-2017, gốc từ các đạo tràng Chúng Thanh Niên Phật Quang những năm 2008 – nay mọc lên khắp cả nước. Không phủ nhận Thượng tọa Thích Chân Quang là người có sức hút nhất hiện tại trong giới Phật giáo Việt Nam với giới trẻ. Đạo tràng Chúng Thanh Niên của thầy đông đảo nhất cả nước. Nhưng về bản chất, các đạo tràng này thực hành Tịnh độ là chính, nặng về lễ bái và hình thức là chính, tu thiền và các giáo lý Thiền tôn hầu như chẳng đáng kể, phương pháp tu thiền cũng nửa nọ nửa kia (nửa Thiền tôn, nửa Phật giáo Nguyên thủy), triết lý được truyền bá bởi các đệ tử không có mấy, chưa có cái gì tự tạo ra riêng biệt mà chỉ tái sử dụng những giáo lý chắp vá của các trường phái trong quá khứ (có thể do chính các đệ tử làm không đúng), có hơi hướng cuồng tín – giống các tín đồ Hồi giáo, Thiên chúa giáo nhiều hơn là Phật giáo – điều này theo tôi nghĩ là không nên, vì đạo Phật là đạo của trí tuệ và giác ngộ, không phải dựa trên niềm tin, tín ngưỡng thần thánh. Không rõ tại sao lại là “Thiền tôn” Phật Quang? Tôi nghĩ nếu là “Tịnh độ tôn” thì hẳn sẽ không ai ngạc nhiên. Đó cũng là lý do tại sao tôi tham gia được 2 buổi của nhóm Chúng Thanh Niên, đành ra đi đầu không ngoảnh lại. Có thể định hướng của phái này đang thay đổi. Cụ thể thế nào, chúng ta cứ chờ một thời gian nữa xem sao, bạn nhỉ?
Mong rằng Việt Nam mình sẽ có những tôn phái với hệ thống triết lý vượt thời đại, uyên bác và được nhiều thế hệ đời sau kính ngưỡng như ở Ấn Độ, Trung Quốc.


Còn chuyện gì để nói?

Thiền tôn có một lịch sử huy hoàng nhất trong đạo Phật. Nó hấp thu tinh hoa văn hóa nghệ thuật và triết học của tất cả các dân tộc ưu việt trên con đường nó đi qua. Vì thế, đến tận bây giờ nó vẫn có sức hút mãnh liệt. Nếu Mật tôn (Mật giáo/Phật giáo Tây Tạng) lôi cuốn người ta bởi sự kỳ bí, thần thông diệu pháp; thì Thiền và Thiền tôn thu hút bởi vẻ đẹp tinh tế đậm chất phương Đông của nghệ thuật, khoa học và triết học. 

Tuy nhiên, dù Thiền tôn từng vang danh bốn bể, phương pháp thiền của tôn phái này được coi là một nghệ thuật thì nghệ thuật ấy và cả cha mẹ nó cũng đã biến mất. Trong xã hội ngày nay, từ phương Tây tới phương Đông, con người chỉ mải mê theo đuổi giá trị vật chất mà lãng quên tinh thần. Họ quên mất rằng tinh thần cũng cần được nuôi dưỡng, chăm sóc thường xuyên với thái độ cẩn trọng, nghiêm mật. Vì thế, những giá trị tinh thần cao đẹp kế thừa bao đời cứ lần lượt rời bỏ chúng ta.

Đã có nhiều nỗ lực phục hưng lại các tôn phái danh tiếng trong lịch sử, nhưng có vẻ như những nỗ lực ấy là chưa đủ, chưa phù hợp với phẩm vị của thời đại này. Hy vọng, thời Phục Hưng thực sự của Thiền tôn sẽ sớm tới, và chúng ta sẽ được chứng kiến một diện mạo mới, hiện đại, khác biệt, lớn lao hơn, mà vẫn đầy thâm thúy, đậm nét văn hóa phương Đông.





                                                          Phần 4: Tại sao ngày nay người tađổ xô đi học thiền? >>

 

Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Cẩn thận khi kể cho con bạn truyện "Tấm Cám"



Cẩn thận khi kể cho con bạn truyện “Tấm Cám”

Cún khóc. Bà hỏi: “Tại sao khóc?”
Cún: “Em Mẹt đánh cháu vỡ mông rồi.”
Bà: “Thế thì cháu phải làm gì?”
Cún: “Cháu phải dội nước sôi cho em chết tử.”
Ôi giời, cái gì thế này? Làm sao một đứa trẻ 4 tuổi có thể nghĩ ra câu nói tàn nhẫn thế?
Hóa ra mấy hôm nay, bà kể truyện Tấm Cám cho Cún nghe. Cún thuộc lòng cô Tấm hiền lành xinh đẹp đã chiến thắng Cám và dì ghẻ độc ác thế nào.
Tôi giật mình và buộc phải nhìn nhận lại câu chuyện cổ tích này. Rõ ràng nó không đơn giản như chúng ta vẫn tưởng.
Nhân đây viết ra vài lời bàn…

Câu chuyện cổ tích vô cùng nổi tiếng này vẫn khiến bao thế hệ người Việt Nam không hết bàn ra tán vào. Đó thực sự là một câu chuyện rất đặc biệt và kỳ lạ trong kho tàng truyện cổ tích thần thoại nước ta.
Đặc biệt vì nội dung kịch tính còn hơn cả phim truyền hình Hàn Quốc hay Trung Quốc ngày nay. Truyện cổ tích Việt Nam đa phần khá đơn giản, hiền hòa, hiếm có truyện nào có kết cấu logic gay cấn, gây sốc đến thế. Nói đây là truyện kinh dị cũng không quá, so với phim kinh dị bây giờ còn khủng khiếp hơn. Một người bạn phương Tây khi nghe tôi kể lại truyện này đã kiên quyết không tin đó là truyện cổ tích. Nhiều bạn trẻ khẳng định chắc nịch, sau này nhất định không kể Tấm Cám cho con quá sớm, kẻo ảnh hưởng tới nhận thức của bọn con nít.
Kỳ lạ thì hiển nhiên rồi. Mối quan hệ gia đình, mâu thuẫn giai cấp, định kiến xã hội, năng lực phản kháng, tâm lý xã hội, bản chất tâm sinh lý con người… đến ngày nay nhân loại phải mất mấy quyển sách và bao thế hệ nghiên cứu mới nói hết được thì chỉ với một câu chuyện nhỏ thế này, những cái đó đã gần như được phô bày triệt để, theo một cách khá hợp lý và khoa học. Hàm ý sâu sắc bọc trong hình thức kinh dị, kịch tính – rất gây sự chú ý và phản ứng từ dư luận – điều mà các nhà văn, nhà biên kịch ngày nay đều nằm mơ có được. Cha ông ta không phải quá giỏi sao? Đi trước thời đại đến bao nhiêu bước. Ngạc nhiên hơn là một câu chuyện “ghê rợn” như thế lại trường tồn trong văn hóa nước nhà đến tận ngày nay, dù xã hội Việt trải qua vô số thăng trầm, dâu bể, dù tư tưởng phong kiến và Nho giáo từng thống trị dân tộc một giai đoạn dài, làm biến tướng nhiều hình thức văn hóa theo hướng mê tín, thiên kiến, hủ lậu. Điều đáng nói hơn, câu chuyện lưu lại trong lòng đại đa số người Việt không phải ở các tình tiết rùng rợn, kết cục thảm khốc, đôi chỗ phi logic ... mà lại là những thông điệp có vẻ như chẳng ăn nhập với những gì câu chuyện thực sự thể hiện, như “cô Tấm thảo hiền”, “ở hiền gặp lành”, “tình cảnh mẹ kế con chồng khắc nghiệt, con riêng bao giờ cũng thiệt thòi”, “Bụt chỉ giúp người hiền lành”, “cô Tấm xinh đẹp dịu hiền chui ra từ quả thị”… Không phải quá kỳ lạ sao?

Trở lại với bản thân câu chuyện, rõ ràng Tấm không hề “thảo hiền”. Thảo hiền là hiếu thảo, hiền lành – điều thấy trong mọi câu chuyện cổ tích. Nhưng chỉ có một chi tiết duy nhất trong truyện cho thấy Tấm hiếu thảo, đó là khi nàng làm vợ vua, nhớ tới giỗ cha, nàng về cùng mẹ kế sắp lễ cúng. Về bản chất, điều đó không thực sự thể hiện nàng hiếu thảo, nhưng về hình thức, trong vị thế một phi tần được sủng ái, nó còn có nhiều ý nghĩa hơn cả chữ hiếu (không có từ “hoàng hậu” nào trong truyện – điều này hợp lý dưới thời đại phong kiến, với thân phận không được miêu tả rõ ràng, hẳn nhiên không phải dòng dõi trâm anh thế phiệt, vì nàng vẫn phải đi chăn trâu, mò cua bắt ốc – ngôi vị hoàng hậu có vẻ không thích hợp). Còn một tình tiết “có vẻ” thể hiện nàng hiền lành: nàng sống yên bình bên bà lão bán nước, ngày ngày dọn dẹp nấu nướng, têm trầu cho bà bán. Không ai gây chuyện với nàng, nên bản tính của nàng được che dấu đi.

Vậy Tấm là người như thế nào?
Một cô thiếu nữ bố mẹ mất sớm, ở với dì ghẻ và em gái cùng cha khác mẹ - mô típ bối cảnh giống hệt câu chuyện cổ tích Cô bé Lọ Lem cả thế giới biết đến hiện nay. Nàng bị mẹ kế bắt làm mọi việc từ nhà ra đồng, còn cô em không phải làm gì. Nghe thật bất công! Nhưng nếu bạn là một bà mẹ kế thời phong kiến, bạn sẽ làm gì? Đảm bảo với bạn, 99% các bà mẹ kế sẽ làm như vậy, kể cả các bà mẹ kế thời nay. Mẹ đẻ mà! Luôn yêu con mình rứt ruột đẻ ra hơn, còn con riêng vẫn “khác máu tanh lòng”. Việc này xem ra cũng không phải điều gì quá to tát, ghê gớm trong thời đại “ngày xửa ngày xưa”. Và bà mẹ kế cũng không đến nỗi để Tấm làm nô lệ hay thiếu đói, hoặc để cô em hoàn toàn chẳng biết làm gì. Bằng chứng là Tấm vẫn có đủ 3 bát cơm ăn hằng ngày (2 bát ăn, 1 bát cho cá bống). Bà còn treo thưởng dải yếm đào cho ai trong hai chị em bắt được nhiều tôm tép hơn. Cuộc thi nhỏ này chứng tỏ bà xem vị thế của Tấm và Cám là gần ngang nhau. Và chứng tỏ thêm một điều nữa, Cám cũng phải làm việc – dù có thể ít hơn hoặc được ưu ái hơn cô chị.
Tuy nhiên Tấm không phải nàng Lọ Lem dù nghèo khổ, bị bắt làm việc quần quật, bị bỏ đói và bị tới 5 người thân (dì ghẻ và 4 cô em) ức hiếp, vẫn luôn ca hát nhảy múa lạc quan, đối xử tốt với tất cả mọi người – kể cả mẹ kế và các cô em xấu bụng. Không có một tình tiết nào cho thấy Tấm bị bỏ đói. Nàng không ca hát yêu đời. Nàng cũng chẳng đối xử tốt với ai, ngoại trừ bà lão bán nước. Nhưng nàng bị ức hiếp, chỉ bởi 2 người thân (dì ghẻ và 1 cô em).
Nàng bị cô em gái lừa cho một vố trong cuộc cạnh tranh dải yếm đào - rõ ràng nàng có một cô em ranh ma hơn mình. Nhưng nếu nói là ức hiếp thì hơi quá. Thuở bé, trong đám trẻ con anh chị em với nhau, kiểu gì chả có đứa bắt nạt và đứa bị bắt nạt. Huống hồ đó là em gái mình – chuyện này về lý và tình đều có thể cười xòa cho qua. Nhưng với Tấm, nàng đã khóc.
Nàng hay khóc. Bị em gái lừa, nàng khóc. Cá bống mất, nàng khóc. Phải nhặt thóc không được đi hội, nàng khóc. Không có quần áo đẹp đi hội, nàng khóc. Chẳng lẽ hoàn cảnh khó khăn không tôi luyện nàng thêm cứng cỏi hay nhẫn nại hơn chút nào ư? Hay nàng vốn là cô gái yếu đuối, tự ti, bị động, nhưng tuổi trẻ khiến nàng không cam chịu (thời xưa, phải dùng từ “không an phận”)? Hay nàng thực ra mới được trải nghiệm hoàn cảnh chưa đến nỗi cực nhọc, hoặc cực nhọc chưa đủ lâu để hình thành bản tính mạnh mẽ hơn, kiên nhẫn hơn, cam chịu hơn? Nhưng giả như nàng đã có đủ chữ nhẫn rồi? Tại sao nàng vẫn hay khóc?
Vì mỗi lần nàng khóc, Bụt đều hiện lên giải quyết êm đẹp mọi rắc rối cho nàng. Nếu là bạn hay tôi, có quí nhân hoàn hảo, miễn phí như vậy thì chúng ta chả nguyện khóc suốt đời. Nàng quá may mắn, mà may mắn chỉ đến với người biết sử dụng nó. Tấm cũng là con người như ta thôi, nàng dựa dẫm hoàn toàn vào vị thần may mắn khi chưa đủ năng lực. Đây là một điểm đáng khen của nàng: biết cách tận dụng cơ hội.
Bụt luôn hiện ra ngay khi Tấm rơi nước mắt. Bụt chẳng qua là giải pháp, là ước nguyện, là cơ hội đổi vận đổi số. Có khó khăn, sẽ có giải pháp; một cánh cửa đóng, sẽ có cánh khác mở ra; cơ hội luôn hiện hữu, chỉ là có biết tận dụng hay không mà thôi. Ai bảo cha ông ta không thâm thúy?

Nhưng sau khi làm vợ vua, nhiều người nói tính cách Tấm thay đổi 180 độ. Tại sao?
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tính cách con người tới tuổi niên thiếu căn bản đã được hình thành, khó có khả năng thay đổi lớn. Chỉ là có cơ hội (hoàn cảnh, sự kiện, con người…) để những tính cách tiềm ẩn phát động ra ngoài hay không mà thôi.
Triết học phương Đông lại nói, mọi thứ đều luôn biến đổi. Tính cách con người cũng vậy. “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông” (Heraclitus – không may ông này lại ở phương Tây). Những tính cách mâu thuẫn cùng nằm trong một bản thể, thậm chí xảy ra cùng lúc, là chuyện thường thôi.
Tấm gặp bước ngoặt cuộc đời: “bạch ốc phát công khanh” - một bước lên làm phượng hoàng. Nàng có chồng là vua – có địa vị, quyền lực, tiền tài (hẳn nhiên rồi). Hoàn cảnh mới khiến nàng đủ năng lực tự đối phó với bão tố cuộc đời, không còn khóc lóc hòng làm cho Bụt hiện ra. Nàng tự thân bền bỉ chiến đấu với mọi mưu ma chước quỉ của mẹ con Cám. Dì ghẻ chặt cây hại chết, nàng hóa thành chim vàng anh. Cám nghe mẹ giết chim, nàng hóa thành 2 cây xoan đào. Cám nghe mẹ chặt cây, nàng hóa thành khung cửi. Cám nghe mẹ đốt khung cửi, nàng hóa thành cây thị. Nàng trở lại địa vị cũ, xinh đẹp hơn, giết Cám một cách tàn bạo, gián tiếp giết dì ghẻ. Tấm độc lập, dứt khoát, kiên định, nhẫn nại và độc ác.
Khi còn bé, nghe thầy cô giảng, tôi được dẫn dắt hiểu theo kiểu: nhân cách của Tấm bị thoái hóa trong quá trình đấu tranh sinh tồn giống như “gần mực thì đen”, hoặc nàng buộc phải tàn nhẫn hơn những kẻ tàn nhẫn với cuộc đời nàng để giành lại hạnh phúc mà vốn dĩ là của nàng.
Nhưng dựa trên tình tiết truyện, tính cách Tấm khá nhất quán. Khi thân cô thế cô, nàng làm “con ngoan”, dì ghẻ bảo gì nghe nấy, biết tận dụng cơ hội trời cho – quí nhân Bụt – để đạt được những gì mình muốn. Rõ ràng nàng khôn ngoan một cách có tính toán, hoặc đơn giản thụ động sống theo bản năng. Khi đủ sức mạnh, nàng cho thấy mình không phải kiểu người thứ hai. Nàng không dựa dẫm, không thụ động. Nếu nàng khóc, có thể Bụt lại hiện ra – lúc này Bụt chắc hẳn chính là nhà vua, chồng nàng, một người quyền lực nhất, đủ quyền năng xử lý mẹ con Cám tức thì. Nhưng nàng đã không làm điều đó, cũng không nhỏ một giọt nước mắt nào kể từ lúc đổi đời, có đủ năng lực. Có thể hiểu, đây mới là con người thật sự của nàng. Trái ngược hẳn với cô em gái dù ranh ma, yếu bóng vía, nhưng dựa dẫm (do được cưng chiều). Mặc dù khá khó hiểu khi nàng không “tận dụng” nhà vua – việc nàng vốn dĩ làm rất giỏi trước đó. Có thể nàng quá tự tin và chủ quan về năng lực của chính mình – điều này có thể chấp nhận được khi bạn còn trẻ.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao Tấm lại hành xử tàn nhẫn như vậy với 2 người thân duy nhất trên đời của nàng?
Nhìn lại thời gian trước khi đổi vận, rõ ràng mâu thuẫn gia đình của họ rất bình thường, chỉ là mấy chuyện hơn thua, tranh giành lặt vặt. Mẹ con Cám cũng chỉ hành động theo tâm lý bình thường của kẻ có lợi thế, và vẫn trong khuôn khổ xã hội chấp nhận được. Chỉ sau khi Tấm đổi đời – nàng lúc này thuộc giai cấp quí tộc hoàng gia – có lẽ hơn hẳn giai cấp bình dân hoặc quí tộc nông thôn của mẹ con Cám. Nàng bị mẹ kế hãm hại do ghen tị, tham lam và thiển cận (nếu bà khôn ngoan, tỉnh táo hơn, có lẽ nên tận dụng cơ hội này bảo Tấm đưa Cám vào cung, với bản tính của nhà vua - có thể nhìn giày mà lấy Tấm, Tấm chết lấy luôn Cám - thì hẳn không tiếc gì nhận thêm một phi tử nữa. Nhưng thật không may, đố kị đã khiến bà mờ mắt). Đây không thể gọi là đấu tranh giai cấp được, vì Mác, Lê nin và các triết gia vĩ đại đều bảo, động cơ của đấu tranh giai cấp cao cả hơn nhiều: đấu tranh để xóa bỏ áp bức bất công, xóa cũ lập mới (chính quyền). Tấm ở địa vị thống trị, nhưng nàng chưa kịp làm gì thì đã bị tầng lớp thấp hơn tiêu diệt, với động cơ xấu xa hơn nhiều: chiếm đoạt địa vị và tài phú của nàng. Tóm lại đây vẫn chỉ là mâu thuẫn gia đình, nhưng đẩy lên mức độ cao nhất: giết người.
Cám thay chỗ của Tấm, làm phi tử. Như vậy lúc này địa vị của hai bên đã cân bằng – cùng thuộc giai cấp quí tộc hoàng gia. Nhà vua – vị này lại tiếp tục gây khó hiểu khi chả có ý kiến gì với cái chết của ái phi, còn hành động giống như hầu hết các giống đực khác, “hoa thơm hái cả cụm”, đồng ý lấy luôn cô em làm vợ. Có lẽ trong hậu cung của ngài, các phi tử nay sống mai chết cũng bất ngờ như Tấm, nên chả có gì đáng phải bận tâm. Mất Tấm thì có Cám đấy thôi. Dù sao, nhân vật phụ này đã bị dìm hàng đáng kể khi thể hiện bản tính trăng hoa, lạnh lùng, và tất nhiên cũng thật tàn nhẫn. Sống bên cạnh những con người nhẫn tâm như thế, rõ ràng để tồn tại và chiến thắng, bạn phải chơi theo cách của họ, và phải giỏi hơn họ. Tấm đã làm như vậy. Những lần chết đi sống lại tiếp theo của nàng chỉ thể hiện một điều: nàng đang học bài. Nàng chưa đủ giỏi hơn họ nên nàng vẫn thua. Nhưng nàng bền bỉ không đầu hàng, mà tiếp tục học. “Có chí thì nên”. Trong cuộc chơi với sinh mạng, cái giá của thắng/thua tất nhiên là mạng sống. Đoạn cuối cùng, nàng đã học thành tài, giỏi hơn mẹ con Cám - tàn nhẫn hơn – nên nàng thắng, còn mẹ con Cám mất mạng.
Màn chiến đấu sống còn kia vẫn chỉ trong phạm vi gia đình – hai phi tử của vua, hai chị em trong một gia đình. Cũng chẳng có thiện ác, vì các tuyến nhân vật (trừ Bụt và bà lão bán nước) đều có bản tính ác. Kẻ thắng là kẻ ác hơn, “nhẫn” hơn.

Vật chất (tiền tài, địa vị, danh vọng) có ý nghĩa gì ở đây không?
Nếu chồng Tấm chỉ là anh chăn vịt hay lái buôn nhỏ, chắc mẹ con Cám không đố kị đến mức đoạt mạng nàng. Nếu chồng nàng là vị quan lớn nào đó, dẫu có giết Tấm thì cũng khó có cửa cho Cám vào thay thế. Còn Tấm, có khi lại chẳng nhường luôn cho cô em.
Địa vị tối cao của nhà vua đẩy các thái cực tình cảm, ham muốn và động cơ mỗi cá nhân lên độ cao nhất, khiến một số việc phi logic có thể được nhìn theo con mắt hợp lý hơn – vì vua chúa vốn vô tình, hành tung khó hiểu mà. Thế nên, việc cả mẹ con Cám và Tấm quyết sống mái với nhau cũng có thể hợp lý. Đời mấy ai qua được hai vòng lợi danh.

Tại sao series đối đầu lại toàn cảnh chặt, đốt, vặt lông, dội nước sôi? Có lẽ đối đầu ở hậu cung của vua chúa không thể từ bi được. Cứ xem lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, Trung Hoa thì biết, con giết cha, anh em giết nhau, vợ giết chồng… tàn bạo không sao kể xiết.

Còn một vấn đề. Đứng trên lập trường của Tấm, mẹ con Cám đã đoạt mạng nàng 4 lần (chặt cau, giết chim, chặt xoan, đốt khung cửi). Nhưng đứng trên lập trường của mẹ con Cám – và cả nhà vua hay các đối tượng bên thứ ba khác, họ chỉ hại nàng 1 lần (chặt cau), những lần kia do yếu bóng vía mà hành sự. Như thế hẳn càng khó lý giải động cơ của hành vi trả thù cỡ “khủng bố” của nàng ở cuối truyện. Nhưng thôi, cổ tích là nơi gửi gắm nhiều điều khó nói. Ta cứ coi như cùng đứng trên lập trường của Tấm mà nhìn nhận như bao đời nay vẫn làm thế (ưu ái cho nàng Tấm).

Tấm có đại diện cho tầng lớp bị trị - bị đè nén đến mức thoái hóa nhân cách và phải vùng lên làm cách mạng?
Hay câu hỏi đúng hơn, cuộc chiến đấu của hai chị em Tấm – Cám có phải là cuộc đối đầu khốc liệt của hai giai cấp thống trị - bị trị trong xã hội như chúng ta vẫn nghe ra rả ngày trước (và cả ngày nay) không?
Tấm – Cám là chị em cùng cha khác mẹ, Tấm là con vợ trước (không rõ có phải vợ cả không) – nhưng về địa vị chính danh trong thời phong kiến thì hơn Cám một bậc. Như vậy hai người này thoạt tiên cùng giai cấp. Mâu thuẫn của họ có nguồn gốc từ bà mẹ kế, hay chính xác hơn, từ lịch sử các giống loài – sinh vật cái luôn kiếm tìm mọi cơ hội sinh tồn tốt hơn cho con cái ruột thịt của mình. Mâu thuẫn ấy đơn thuần chỉ là mâu thuẫn gia đình: đối xử bên trọng bên khinh giữa hai cô bé, mấy trò vặt vãnh chơi khăm lẫn nhau của bọn trẻ con. Ngay cả khi mâu thuẫn leo thang thành thâm cung đại chiến, nó vẫn là mâu thuẫn gia đình, giữa những người cùng giai cấp.
Vậy sự khác nhau ở đây là gì? Là mâu thuẫn giai đoạn sau lớn hơn giai đoạn đầu vì sự có mặt của vật chất (địa vị, danh vọng, tiền tài). Tấm và mẹ con Cám đều có tham vọng lớn với vật chất, như đại đa số loài người chúng ta.
Có người bảo, do tình yêu nữa. Nhưng rõ ràng tình cảm của vua trong câu chuyện như mây khói. Người chết thì tình cũng hết. Ngày xưa tình yêu của vua chúa vô lượng như hà sa, rải khắp cho cả ngàn cung tần mỹ nữ. Tấm hay mẹ con Cám hẳn nhiên hiểu được điều này. Tấm sau màn thử hài, dù có trúng tiếng sét ái tình với vua, thì cuộc sống trong hậu cung cũng phải khiến nàng tỉnh táo lại, vì nàng có vẻ là người lý trí. Mẹ con Cám thì càng hiểu rõ, thế nên mới có màn em thế chỗ chị ổn thỏa. Tình yêu với vua chúa là xa xỉ, nếu có cũng thật ngắn ngủi. Nên xin đừng nói chuyện yêu đương với những người có dã tâm lớn.

Không phải vấn đề giai cấp, phải chăng là vấn đề tâm lý xã hội?
Con người chỉ có giới hạn chịu đựng nhất định về tâm sinh lý. Khi bị đè nén, áp bức quá mức, họ sẽ vùng dậy phản kháng, thậm chí trở nên rất tàn nhẫn. Bình thường, họ chỉ thể hiện 1 phần mười những gì họ có. Nhưng khi tức giận, người ta có thể dùng hết 7, 8 phần khả năng. Họ dùng hết cả 10 phần năng lực lúc đỉnh điểm của hận thù và căm phẫn.
Tấm có bị áp bức? Có. Giai đoạn đầu nàng thực sự chịu bất công: nàng phải làm hết việc nhà và chăn trâu cắt cỏ, em gái không phải làm gì mấy. Nhưng chưa bi thảm như nàng Lọ Lem. Trong xã hội phong kiến, chuyện bất công nhiều như nấm sau mưa, nhìn lên nhìn xuống đầy người thảm hơn nàng. Thế nên nói nàng căm phẫn, chứa đầy hận thù trong lòng với mẹ và em gái thì có vẻ khiên cưỡng, vô hình chung đẩy nàng tới tính cách nhỏ nhen, chấp vặt, tiểu nhân, tính bản ác. Chỉ có thể đoán, ác cảm và bất mãn với mẹ con Cám cứ tích lũy và lớn dần trong lòng Tấm. Nó bùng nổ khi họ đoạt mạng nàng. Rất may lúc này nàng đã đủ năng lực phản kháng. Màn giết chóc thảm khốc liên hoàn giữa hai chị em cùng cha khác mẹ cho thấy sự đáp trả quyết liệt, ăn miếng trả miếng của hai cô gái. Nó là dấu hiệu suy đồi đạo đức gia đình, đạo đức xã hội? Có thể có, có thể không. Nhưng rõ ràng, có một thông điệp về hiện trạng xã hội đầy thiên kiến và bi quan: mối quan hệ dì ghẻ con chồng, anh chị em nạ dòng, những người vợ chung chồng trong chế độ đa thê, mối quan hệ vật chất – tình cảm trong gia đình, luôn tồn tại vấn đề.

Bản chất con người
Lợi ích lớn đến mức nào khiến người ta có thể bất chấp tình thân, ơn nghĩa nuôi dưỡng, tính mạng của người nhà và bản thân để đạt bằng được?
Con người có thể tàn nhẫn đến mức nào khi đứng trước lợi ích?
Câu chuyện khiến người ta thất vọng: dường như không có giới hạn nào cho lòng tham. Tội ác trùng điệp nối nhau, cái sau rùng rợn hơn cái trước, xuất phát từ lòng ham chuộng hư vinh, sự đố kị, sự thù hận. Mâu thuẫn mẹ kế con chồng, chị em nạ dòng vặt vãnh, chỉ thêm chất xúc tác là địa vị danh vọng, đã bị đẩy lên thành thù hận không đội trời chung. Nhân cách con người dễ bị tha hóa vậy sao? Mâu thuẫn gia đình lẽ nào chính là thứ ươm mầm cho tâm ác, tính ác? Những vết thương lòng mà Tấm nhận được đủ khiến nàng trở nên tàn nhẫn, đáp trả lại bằng cách gây ra những vết thương nặng nề hơn cho đối thủ?

Được rồi, nếu bạn thấy đấu tranh cho hạnh phúc bản thân là chính đáng, bản chất của Tấm không xấu, chỉ là nàng luôn phải sống trong nghịch cảnh - buộc nàng phải mạnh mẽ và tàn nhẫn hơn, vậy sau cùng, Tấm có thấy hạnh phúc không?
“Người bất mãn nơi này sẽ khó mà thấy hài lòng nơi khác” (Aesop).
Nàng diệt được cô em, nhưng vẫn còn cả đám phi tần trong hậu cung. Nay vua nhặt hài cưới nàng, mai vua lại có thể say nắng thứ quyến rũ khác. Nay nàng chết, vua chỉ buồn nhưng cưới thêm em gái nàng; mai nàng đau ốm già yếu, vua có cả đám oanh yến giúp ngài vui. Nàng có thể dùng mọi chiêu trò: chim hót, cây tỏa bóng mát, dệt vải … làm vua hài lòng, nhưng thế thì sao chứ? Ai buộc được tâm của vị cô gia nhẫn tâm kia?
“Cuộc sống là đấu tranh” (Fidel Castro). Với bản tính đầy lý trí, quyết liệt, bền bỉ và tàn nhẫn, Tấm hẳn sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của mình, chỉ là thay đổi đối thủ. “Hạnh phúc là đấu tranh” (Các Mác) – nàng có thể sẽ thấy hạnh phúc. Không phải hạnh phúc trong vinh hoa phú quí bên nhà vua, mà hạnh phúc vì được sống đúng với con người nàng, hạnh phúc với những cuộc chiến ở một nơi phù hợp với tính cách của nàng: hậu cung. Nếu nàng sinh phùng thời, dưới hình hài nam tử, với cá tính cương liệt chừng ấy, hẳn có khả năng đạt thành tựu lớn trên đời. Tào Tháo, Chu Du, Tư Mã Ý… cũng thành đại nghiệp nhờ 2 chữ “nhẫn” đó thôi (nhẫn nhịn, nhẫn tâm).
Nhưng nàng cũng có thể không hạnh phúc. Bản thân nàng đầy chấp niệm: được – mất, thắng – thua, tốt – xấu, đúng – sai… Chấp niệm cực đoan đến mức khiến nàng hạ thủ không lưu tình với mẹ con Cám. Oán nghiệp nặng nề như vậy liệu nàng có giây phút nào thanh thản?

Bản chất các nhân vật được phô bày thật không dễ chịu với người đọc. Câu chuyện muốn nói gì? Phải chăng đang cổ xúy cho Tuân Tử (Nho giáo) khi xây dựng thông điệp “bản chất con người là ác”? Nên nhớ rằng không phải ngẫu nhiên truyện này “sống khỏe” dưới thời Nho giáo dù tình tiết bạo lực và cực đoan. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngày nay, các nhà khoa học đang nghiên cứu tìm kiếm gen “tội phạm”. Thế chẳng phải công nhận học thuyết Tuân Tử đó sao?
Cũng có thể lý giải theo kiểu của Freud, các nhân vật hoàn toàn làm theo bản năng. Họ sống trong một thời kỳ thiếu thốn, khó khăn về vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt không có/hoặc có rất ít sự giáo dục. Họ sẽ có khuynh hướng hành động theo bản năng nhiều hơn lý trí. (Luận điểm của Freud đôi khi chẳng quan tâm đến hoàn cảnh, ông có lúc cho rằng đó là bản chất loài người nói chung.) Bản năng kiếm tìm những thứ nó khao khát, thiếu thốn, muốn chinh phục. Khát vọng điên cuồng và bốc đồng nằm sâu bên dưới tâm hồn, trở thành vô thức. Nó thôi thúc người ta hành động theo bản năng. Đây chính là nguyên nhân của mọi mâu thuẫn và đấu tranh trong xã hội. Tấm, dì ghẻ, Cám, nhà vua đều hành động theo chính bản năng, dục vọng trong con người họ, đáp ứng những nhu cầu của vô thức – chính là cái họ thực sự cần. Đấu đá kẻ mất người còn chỉ là kết quả của hành vi từ vô thức.
Trotski cũng chả cho rằng, bản chất con người là bội bạc, phản trắc đó sao. “Khi cách mạng đang ở thời kì dầu sôi lửa bỏng thật cần hắn, nhưng khi cách mạng thành công thì tốt hơn hết nên đem hắn đi bắn.”

Thực sự không có vấn đề về giai cấp và mâu thuẫn giai cấp?
Rõ ràng bản thân câu chuyện không có vấn đề giai cấp, và hiển nhiên cũng không có mâu thuẫn giai cấp. Chỉ là mâu thuẫn gia đình (dù sau đó phát triển thành màn hậu cung đại chiến).
Nhưng khi đi vào lưu hành trong đời thường, nó đã bị “hiểu nhầm”. Người Việt chả mấy ai để tâm tới những tình tiết bi thảm, độc ác. Không ai quan tâm tới sự ly kỳ và gây sốc của câu chuyện. Nó được lưu truyền qua bao thế hệ ở đất nước này dưới cái nhìn rất dung dị, nhân bản khi người dân đồng cảm cao độ với “cô Tấm thảo hiền”, “cảnh dì ghẻ con chồng”, “ở hiền gặp lành”. Tại sao vậy?
Rõ ràng chính bản thân người Việt cũng đang cố bóp méo câu chuyện một cách đầy thiên kiến. Chúng ta không nhìn vào câu chuyện, mà chúng ta nhìn vào vị trí các nhân vật để ưu ái. Hiển nhiên, với cảnh dì ghẻ con chồng thì con chồng – Tấm – sẽ nhận được cảm thông; chị em nạ dòng, đứa thiệt thòi hơn – Tấm – sẽ được nâng lên; các cô vợ của vua, người chính thống – Tấm – sẽ được bênh vực hơn kẻ đi “chui”. Cuối cùng Tấm toàn thắng. Mà nếu xét về bản chất, lẽ ra người ta phải lên án cả Tấm lẫn mẹ con Cám và nhà vua. Chính xác hơn, câu chuyện bạo lực này lẽ ra chính quyền phong kiến với tư tưởng Nho giáo bảo thủ phải cấm tiệt, không cho lưu hành.
Thiên kiến này không thể tự nhiên sinh ra. Nó xuất phát từ hiện trạng xã hội. Thời xưa, những mâu thuẫn kiểu này nhan nhản, lại được chính quyền và hệ thống tôn giáo nhào nặn tư tưởng, khiến thiên kiến càng trở nên nặng nề.
Ai là nạn nhân thực sự của những thiên kiến này ngoài chính người dân – thời đó chủ yếu là tầng lớp nông dân. Sự hạn chế về giáo dục và bị hủ hóa về tư tưởng, khiến tính cách manh động và thiên kiến của tầng lớp nông dân được củng cố.
Những mâu thuẫn giai cấp âm ỉ khó nói bằng hành động, nhen nhóm trong lòng họ khát khao bạo động, khát khao về cơ hội, khát khao có một bản tính mạnh mẽ, quyết tuyệt để thay đổi vận mệnh.
Dù sao cũng chỉ là suy diễn. Nhưng rõ ràng câu chuyện này sống tới hôm nay là thành quả của giai cấp thống trị thu được trên tầng lớp bị trị, ít nhất về mặt tư tưởng.

Còn trong xã hội hiện tại thì sao?
Đa số người già vẫn kể Tấm Cám như một thói quen – một thói quen đã xây dựng hàng trăm năm, dễ gì bỏ ngay được. Lớp trẻ thấy truyện thật khủng khiếp. Đã có người tìm cách sửa nó.
Có phiên bản hai của truyện. Tôi đã đọc phiên bản mới này. Tầm thường đến mức chẳng có gì đáng bàn.
Cá nhân tôi cho rằng câu chuyện gốc cực kỳ lôi cuốn, và khác biệt. Một phần sức sống của truyện chính là tình tiết gay cấn kiểu đó. Chỉ có điều, nó nên được nhìn nhận đúng với giá trị thật của mình.
Và, quan trọng hơn, không thích hợp cho đám trẻ nít chưa đủ khả năng nhận thức và xử lý hành vi. Vì thế, hãy cẩn thận khi kể nó cho con em nhà bạn!

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...