Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2018

Những founder thành công nhất thế giới xử lý thất bại như thế nào?


Những nhà sáng lập thành công nhất thế giới xử lý thất bại như thế nào?


Ảnh từ JotForm.com

Thất bại.

Đối với nhiều nhà sáng lập doanh nghiệp mới khởi nghiệp, nó như một huy hiệu danh dự được đeo lên với niềm tự hào hơn cả chiếc áo hoodies giá chat, Apple watch hay những đôi giày đế len merino.

Triết lý “thất bại nhanh chóng; thất bại thường xuyên” thậm chí đã truyền cảm hứng cho FailCon, một hội nghị chỉ dành riêng để nói về thất bại.

“Trong thế giới khởi nghiệp, thất bại gần như đồng nghĩa với kinh nghiệm học tập.” – Erica Zidel, nhà sáng lập công ty giữ trẻ trực tuyến.

“Việc là một nhà sáng lập từng thất bại trước đó sẽ gửi tín hiệu đến cộng đồng rằng bạn đã trải qua chuyện này trước đây, và bạn đã thu thập được thông tin về cái gì không vận hành trôi chảy, được vũ trang tốt hơn để tạo ra thứ gì đó có thể vận hành được.”

Không may làm sao, hầu hết các startup đều giải thể chỉ 20 tháng sau chu kỳ tài chính cuối cùng, điều này đặt ra hai câu hỏi quan trọng:
-                      Thất bại có hoàn toàn cần thiết trên con đường tới thành công trong kinh doanh không?
-                      Và nếu có thì bao nhiêu thất bại mới đủ? Hay bao nhiêu thất bại sẽ bị coi là quá nhiều?

Theo nhà đầu tư mạo hiểm Bruno Bowden nói với tờ Guardian, các nhà đầu tư chỉ chịu đựng thất bại tới một điểm nhất định. Ông ấy nói:

“Bạn không thể nhận được tài trợ trừ khi bạn đáng tin cậy. Một thất bại trước đó có thể OK, nhưng nhiều lần thất bại sẽ làm việc nhận tài trợ trở thành bất khả thi.”

Thẳng thắn mà nói, đây là lý do tôi không bao giờ theo đuổi đầu tư mạo hiểm. Tôi không muốn đưa ra quyết định vội vàng về sự phù hợp của sản phẩm với thị trường, tuyển dụng và các yếu tố quan trọng khác có thể khiến tôi thất bại cực kỳ chóng vánh.

Tôi muốn xây dựng một cái gì đó có thể dài lâu. Điều đó có nghĩa là ưu tiên lợi nhuận so với tăng trưởng ngay từ ngày đầu tiên – kể cả khi trụ sở của JotForm có thể phải nằm trong phòng ngủ ở New York của tôi lâu hơn tôi muốn.

Không có nghĩa là tôi không gặp nhiều thất bại. Chỉ là tôi có thêm thời gian để sửa chữa hơn những người bạn dựa vào dòng vốn mạo hiểm. Khi tôi nhìn lại những thất bại buổi đầu của mình, nói chung chúng thường rơi vào hai loại:
-                      1. Thất bại hiệu suất: những sai lầm này dạy tôi rất nhiều về phát triển phần mềm, tinh thần kinh doanh và bản thân. Trong một số trường hợp, chúng còn đóng vai trò chất xúc tác cho thành công tương lai.
-                      2. Những thất bại không cần thiết: thật buồn khi phải nói rằng những sai lầm này lẽ ra có thể tránh được nếu lập kế hoạch, nghiên cứu và được chỉ dẫn tốt hơn. Thú thật, tôi vẫn nhìn lại và thấy xấu hổ về chúng.

Không phải mọi thất bại đều được tạo ra như nhau – một số được văn hóa ủng hộ thất bại của Thung Lũng Silicon che dấu đi.

“Thất bại nhanh chóng và thất bại thường xuyên” chỉ đạt được thành công khi:
a)                  Biết phân biệt rõ ràng giữa hai loại thất bại đó và
b)                  Có khả năng tăng thất bại hiệu suất, đồng thời làm giảm các thất bại không cần thiết.

Thất bại hiệu suất đóng góp vào thành công như thế nào?

Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Learning Sciences, thất bại hiệu suất thực sự có thể giúp người ta thành công hơn.

Trong thí nghiệm theo dõi sự tiến bộ của hai lớp học các kỹ năng toán từ cùng một giáo viên hướng dẫn, các nhà nghiên cứu thấy rằng thất bại có thể là chất xúc tác cho việc học sâu hơn, cho cả việc đổi mới và giải quyết vấn đề vượt trội.

Vì thế, không ngạc nhiên khi một số người sáng tạo nhất thế giới lại là những người từng thất bại nhất.

Albert Einstein, Walt Disney, và Steven Spielberg chỉ là một vài cái tên nổi tiếng từng trải qua những thất bại ghi trong sử sách trên con đường tới thành công.

Hãy nhìn vào ví dụ Disney – biên tập viên tờ báo ngày trước của ông đã nói ông trùm tương lai này “thiếu trí tưởng tượng và không có ý tưởng nào hay ho cả”.

May cho chúng ta, Disney không thèm lắng nghe và tiếp tục chiến đấu với những dự án thất bại trước khi tạo ra những thước phim hoạt hình được cả trẻ em và người lớn yêu thích.

Rõ ràng có nhiều yếu tố cá nhân tác động đến cách một người xử lý các thất bại của họ ra sao. Tuy nhiên, những người gặp thất bại hiệu suất dường như tiếp cận cuộc sống theo cách tương tự.

Những người thành công nhất thế giới xử lý thất bại như thế nào?

1.                Họ không bao giờ đổ lỗi

Nhiều người trong chúng ta được dạy khi còn nhỏ rằng, phải thừa nhận sai lầm chứ không được đổ lỗi. Có lẽ đó là lý do tại sao rất ít nhà lãnh đạo các tổ chức có thể khuyến khích, thảo luận và tưởng thưởng cho thất bại hiệu suất.

Amy Edmonson – giáo sư về quản lý và lãnh đạo tại trường Kinh Doanh Harvard nói: “Các giám đốc điều hành tôi từng phỏng vấn trong các tổ chức khác nhau như bệnh viện hay ngân hàng đầu tư đều thừa nhận phải đắn đo: làm sao họ có thể phản ứng một cách xây dựng với các thất bại mà không làm nảy sinh thái độ ‘thế nào cũng được’? Nếu người ta không bị khiển trách khi thất bại, thì có gì đảm bảo rằng họ sẽ cố hết sức có thể để làm việc tốt hơn?”

Edmonson cho rằng điều đó xảy ra do một giả định sai lầm rằng hầu hết các thất bại đều là cố ý.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại chỉ ra rằng phần lớn các thất bại đều không thực sự đáng trách; một số liên quan đến sự phức tạp và một số khác lại thậm chí còn cần thiết cho đổi mới.

Edmonson nói: “Khi tôi yêu cầu các giám đốc điều hành… ước tính có bao nhiêu thất bại trong tổ chức của họ thực sự đáng trách, câu trả lời của họ thường chỉ ở một chữ số - từ 2% đến 5%. Nhưng khi tôi hỏi có bao nhiêu người liên quan đến nó đáng trách, họ đều nói (sau khi dừng một chút hoặc cười to lên) từ 70% đến 90%.”

Hậu quả thật không may là nhiều thất bại đã không được báo cáo, khiến nhân viên và nhà tuyển dụng đều bỏ lỡ những cơ hội học tập có giá trị.

Rõ ràng trách nhiệm tạo ra một nền văn hóa doanh nghiệp rõ ràng minh bạch nằm ở quản lý cấp cao.

Tuy vậy chúng ta đều cố gắng tự tiếp tục theo hướng dễ dàng hơn khi mọi thứ không theo kế hoạch.

Bằng việc “sở hữu” thất bại một cách tự tin, và lãnh nhận hậu quả những gì đã xảy ra, tự nhiên chúng ta sẽ tranh thủ được sự hỗ trợ của các thành viên trong nhóm – những người muốn chúng ta thành công.

2.                Họ thất bại nhỏ

Những cá nhân thành công nhất thế giới dường như cũng nhận ra tầm quan trọng của “thất bại nhỏ”.

Tác giả Peter Sims mô tả quá trình đặt cược rủi ro thấp trong cuốn Little Bets: How to Break Ideas Emerge from Small Discoveries (Cược nhỏ: Làm sao tách những ý tưởng đột phá từ những khám phá nhỏ). Trong cuốn sách, Sims mô tả chi tiết cách các nhà lãnh đạo của nhiều ngành công nghiệp khác nhau kiểm tra ý tưởng của họ bằng cách chấp nhận những rủi ro có tính toán.

Ví dụ, diễn viên hài nổi tiếng thế giới Chris Rock được biết đến khi kể những câu chuyện cười mới tại những tụ điểm nhỏ. Anh ta “bỏ bom” rồi ném đi vô số câu chuyện không tạo hiệu ứng.

Khái niệm thất bại nhỏ cũng không kém phổ biến trong cộng đồng doanh nhân.

Những nhà sáng lập nổi tiếng như Jeff Bezos của Amazon, Reid Hoffman của LinkedIn và Ariana Huffington của The Huffington Post đều thất bại dưới danh nghĩa những thử nghiệm cải tiến.

Andrew Filev, CEO và nhà sáng lập của Wrike nói: “Nhiều người nghĩ rằng thất bại là dấu hiệu của sự bất tài cá nhân và cố tránh nó bằng mọi giá. Nhưng khi bạn nhìn nhận việc xây dựng doanh nghiệp như một chuỗi các thử nghiệm, bạn sẽ bắt đầu thấy thất bại là một bước không thể tránh khỏi trong quá trình đó.”

Tại JotForm, chúng tôi thường xuyên tổ chức các tuần hack nhằm khuyến khích nhân viên chấp nhận rủi ro cho phép họ thất bại nhỏ.

Ví dụ, năm ngoái, chúng tôi mất 326 ngày cho một đợt phát hành sản phẩm lớn.

Mỗi lần làm việc với buổi ra mắt lớn như vậy, chúng tôi sẽ giữ sản phẩm lớn dưới vỏ bọc, còn đưa sản phẩm mới hay một phiên bản nào đó cho một nhóm thử nghiệm nhỏ.

Chúng tôi bắt đầu với 1% số người dùng làm cơ sở, rồi từ đó xây dựng dần lên tới 10%.

Hệ thống này cho phép chúng tôi thu thập thông tin phản hồi hiệu quả, tìm ra căn nguyên vấn đề, và so sánh phiên bản mới với các bản trước đó.

Thử nghiệm là điều cần thiết – và đó là cách tốt nhất để làm đẹp bản release của bạn nhờ lắng nghe một tỷ lệ nhỏ người dùng một cách hiệu quả, mà lại không gặp phải nguy cơ làm mất lòng tất cả.

3.                Họ tư duy trên những bài học kinh nghiệm

Thất bại dường như phổ biến trong thế giới kinh doanh hơn bao giờ hết.

Nhớ rằng thời gian trung bình để một công ty lọt vào bảng S&P 500 Index năm 1937 là 75 năm. Ngày nay, một công ty trung bình chỉ tồn tại trên thị trường chứng khoán khoảng 15 năm.

Thất bại và đổi mới đi đôi với nhau. Thứ là xúc tác cho thành công của công ty này lại thường là nguyên do làm sụp đổ công ty khác.

Thung lũng Silicon nổi tiếng với việc xuất bản công khai sau khi một công ty hay một nhân vật chết đi hay gặp khủng hoảng, mô tả chi tiết những sai lầm đã gặp phải, những bài học thu được, và các kế hoạch để tiến về phía trước.

Tuy nhiên, rất ít cá nhân dành thời gian đánh giá sâu sắc những nỗ lực thất bại. Tất nhiên tôi không định nói về việc lái xe vòng vèo như mất trí rồi tự mắng mỏ bản thân về những việc lẽ ra chúng ta có thể làm tốt hơn.

Tôi đang đề cập đến loại suy nghĩ thúc đẩy các cá nhân hướng về nguyên nhân thực sự của khó khăn trở ngại họ gặp phải.

Tất nhiên, người ta có thể giả thiết rằng có sự tương quan giữa tỷ lệ thất bại cao hơn và độ phản xạ của tổ chức sâu hơn. Nhưng đó không phải là vấn đề.

Graham Young, phó chủ tịch của Graham Theodor & Co và cộng tác viên của Fast Company nói: “Phần quan trọng nhất của quá trình mà 90% mọi người không làm, là dành vài phút để nghĩ về những gì đã xảy ra và thành thật một cách tàn nhẫn với chính mình về lý do tại sao nó xảy ra.”

4.                Họ biến nó thành trò chơi

Cuối cùng, rõ ràng những người thành công nhất thế giới đều không biến nó thành quá nghiêm túc.

Chắc chắn họ quan tâm sâu sắc về khát vọng, mục tiêu, và lợi nhuận của họ.

Nhưng vào cuối ngày, họ thấy đời như một sân chơi. Những thử thách bất ngờ, những khúc ngoặt, và ngã rẽ chỉ là một phần của trò chơi.

Giống như Ray Dalio, nhà sáng lập Bridgewater Associates, nói trong phát ngôn về các nguyên tắc của mình:

“Hãy coi đời như một trò chơi hay một kiểu nghệ thuật chiến tranh. Nhiệm vụ của bạn là tìm cách vượt qua thách thức để đạt được mục tiêu. Trong quá trình chơi trò chơi hay dụng binh, bạn sẽ ngày một thành thạo hơn. Khi bạn giỏi hơn, bạn sẽ tiến lên những cấp độ cao hơn mà trò chơi yêu cầu – và nó sẽ dạy bạn những kỹ năng tuyệt vời hơn.”

Bất kỳ game thủ nào cũng có thể chứng thực chơi game cùng cấp hay chơi đi chơi lại nhiều lần đều nhàm chán và lố bịch. Tương tự như vậy, không ai trong chúng ta muốn “ấn nút” đời mình và giành chiến thắng mà không cần nỗ lực.

Nói một cách đơn giản, chúng ta đều muốn bị thách thức. Và điều đó đòi hỏi ta phải vươn ra ngoài vùng thoải mái để gặp những tình huống lạ lẫm. Trong bối cảnh này, đời thực trở thành trò chơi tối cao.

Charles Chu, sáng lập dự án Polymath, nói: “Có trò chơi nào phức tạp hơn, khó hơn và thật hơn chính đời thực kia chứ?”

“Trò chơi hóa không phải là coi thường cuộc đời. Đó là tái định hình cuộc đời – và thất bại – theo cách vui vẻ.” Khi chúng ta nhìn nhận những thất bại trong chuyên môn và cá nhân theo khái niệm chơi game, những thất bại nhận thức được sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn nhiều. Và thử thách đạt được thành công trong vòng kế tiếp có thể giúp ta cảm thấy mạnh mẽ hơn.

Những rào cản chúng ta gặp phải sẽ khiến chúng ta không còn nản lòng nữa chứ?

Không, nhưng chúng ta càng gặp thất bại hiệu suất, thì chúng ta càng ít thất bại thực sự hơn – và tôi thấy rằng điều đó rất đáng khích lệ.

Aytekin Tank
Ngày 9 tháng 12 năm 2018

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2018

Khi Self - Help chỉ làm đời bạn thêm tồi tệ


Khi Self – Help chỉ làm đời bạn thêm tồi tệ




Ngày đó, bắt đầu với Internet. Mỗi lần nàng online, Kinkolo dường như lại được phục vụ bằng một câu chuyện về nhân vật thành đạt nào đó làm những việc to tát: điều hành doanh nghiệp, chiến thắng các giải thưởng lớn, kiếm hàng triệu đô.

Kinkolo, sinh viên năm thứ hai trường đại học King ở London, lúc đó đã tiêu hóa hết những câu chuyện ấy. Nàng muốn là một mẫu người thành công, dù chưa chắc sẽ là dạng nào. Có lẽ bắt chước những nhân vật nàng đã được đọc hay nghe về họ - thói quen, hành vi thường nhật, suy nghĩ những gì họ nghĩ trước khi đi ngủ… - có thể giúp nàng khám phá ra gì đó. Nàng đắm chìm vào nền văn hóa self – help, bắt đầu bằng việc dậy sớm tập yoga và thiền, tô thời gian biểu với những màu sắc nhất định. Gồng lưng để tối đa hóa thời gian càng nhiều càng tốt, nàng làm To Do List, rồi tuân thủ nó chặt chẽ; nàng download các app về productivity để có cảnh báo kịp thời khi thời gian một việc nào đó nàng làm sắp hết.

Một hôm, nàng chạy vào thư viện trường, vừa lấy sách dựa theo một tờ giấy, vừa tick vào những thứ trên app, rồi nàng nhỡ một nhịp và ngã xuống cầu thang, gãy mắt cá chân. Tại bệnh viện, khi bác sĩ và y tá tới lui phòng bệnh, nàng vẫn tiếp tục làm việc trên laptop, kẻo app lại nhắc nhở nàng công việc bị trễ.

Suốt nhiều năm nữa hẳn nàng cũng chả có điểm dừng – nhưng mùa hè năm nay, sau khi tốt nghiệp với hai tấm bằng cùng hiệu suất điên cuồng, Kinkolo, giờ 23 tuổi, cuối cùng cũng kiệt sức. Hiện giờ nàng đang nghỉ ngơi, sống với bố mẹ ở quê nhà Paris, tìm hiểu xem nàng nên làm gì tiếp theo, và đi theo một phong cách sống hoàn toàn khác với những gì trước đây nàng đã tưởng tượng ra cho mình. Nàng không làm To Do List hay xài các app đo hiệu suất nữa, cũng không hành thiền mỗi sáng. Nàng nói: “Tôi không bao giờ mong mình sẽ nghỉ ngơi cả triệu lần. Đó là điều kì lạ nhất và khó khăn nhất, cũng thách thức nhất mà tôi từng làm trong đời.” Trong thời gian nghỉ ngơi, Kinkolo đã làm việc với một nhà trị liệu cố gắng thay đổi quan điểm của nàng về “thành công” và về việc theo đuổi mục tiêu không ngừng. “Đã tới cảnh tôi không còn tác dụng gì nữa. Tôi đã để các To Do List, các apps và các thói quen điều khiển cuộc đời thay tôi.”

Trong những năm gần đây, nỗ lực tự cải thiện (self – improvement hay self – help) như Kinkolo đã giúp tăng trưởng thành một ngành công nghiệp: ngành công nghiệp self - help. Thị trường self – help ở Mỹ có giá trị gần 10 tỷ đô năm 2016 và ước tính tăng lên 13 tỷ đô vào năm 2022. Sức hấp dẫn của nó thật dễ hiểu: làm sao lại không vui khi nghĩ bạn có thể theo đuổi một thói quen được quảng cáo bám rễ trong tiềm thức hòng tối ưu hóa thời gian, tài nguyên và chính bản thân bạn.

Jeremy Montemarano, một nhà trị liệu tâm lý ở Spring, Texas nói: “Đời rất phức tạp, nhưng self – help khiến bạn cảm thấy luôn có giải pháp cho mọi vấn đề của bạn, ngay trong một bản hướng dẫn 5 hay 10 bước thôi. Hầu hết thay đổi trong đời cần thời gian và xử lý, trong trường hợp sức khỏe tâm thần, còn phải làm việc với chuyên gia. Cho nên thật hấp dẫn khi chọn được thứ hứa hẹn sẽ bỏ qua tất cả các cái đó, mà chỉ cần nỗ lực và một phần chi phí.”

Sự cám dỗ thường được kết hợp với phương tiện truyền thông xã hội và các bài báo cung cấp một cửa sổ được chỉnh sửa cẩn thận hé lộ lịch trình kinh người của ai đó. “Khi bạn có nhiều quyền truy cập hơn vào cuộc đời người khác, kể cả dù bạn biết chúng đã được chọn lọc, cũng rất dễ xảy ra những vấn đề không giống như khi bạn thật sự ở đó, vì bạn đang nghĩ bạn ở phía sau.” – Montemarano nói thêm.

Một số trường hợp, đào sâu vào thế giới self – help có thể gây phản tác dụng, thậm chí có hại. Chống lại nó là chống lại những người tìm kiếm một cái gì đó đồng thời vừa ít thuế lại vừa hoàn toàn phù hợp hơn.

Trớ trêu thay, một trong những cạm bẫy lớn nhất khi bắt tay vào hành trình self – help là nó có thể cản trở bất kỳ thay đổi thực sự nào – rất dễ che giấu đằng sau những hành vi thường nhật và thói quen thay vì giải quyết các vấn đề lớn hơn. Kinkolo quay lưng lại với To Do List và các thói quen thường nhật khi nàng nhận ra tháng ngày của nàng thật thiếu ý nghĩa. “Tôi đã từng thích mỗi ngày của mình đều có cấu trúc, nhưng đã tới lúc những thứ tôi đang làm đều vô nghĩa. Tôi trở nên bị ám ảnh với việc kiểm tra mọi thứ trong To Do List hơn là nghĩ về công việc tôi đang làm.”

Perpetua Neo, một nhà tâm lý học và huấn luyện điều hành ở Brighton, Anh, cho biết: “Self – help có thể là một sự xao lãng hoặc thoát khỏi các mối quan hệ, hoặc tạo ra ý nghĩa trong cuộc sống hay cộng đồng của bạn. Chẳng hạn, khi người ta chần chừ, có thể không phải vì họ không thể tập trung hoặc không biết cách quản lý công việc – có thể họ chỉ ghét công việc này. Nhưng họ sẽ chối bỏ bản thân vì nghĩ có lẽ quá muộn, quá khó, hoặc lúng túng thay đổi, thế là họ đọc về những cách thức giúp mình có thể ngừng việc trì hoãn này.”

Đôi khi các vấn đề bị che đậy còn nghiêm trọng hơn. Sau khi trở thành mẹ lần đầu, Shereen Thor, một người chuyên đào tạo về lối sống ở Los Angeles, cảm thấy bất ổn vì những cảm xúc liên tục thay đổi của mình. “Một ngày nào đó tôi có thể sẽ ổn. Hôm sau tôi lại có thể khóc được ngay. Ngày sau nữa, tôi lại nổi điên. Vì tôi từng là một người lạc quan và ổn định về cảm xúc, nên đến tận lúc này, tôi vẫn nghĩ hẳn thế mới là con người của tôi.”

Tin rằng thay đổi thái độ là chìa khóa để thoát khỏi thảm cảnh trước mặt, Thor nhờ các đồng nghiệp cùng đào tạo với mình, họ đã sử dụng các chiến lược điển hình của họ để giúp đỡ cô. Khi cô cảm thấy tốt hơn, chồng Thor thuyết phục cô đến gặp bác sỹ; trong chuyến khám bệnh đó, cô mới biết vấn đề thực sự là trầm cảm sau khi sinh. “Huấn luyện thường dựa trên tiền đề rằng bạn chịu trách nhiệm với kết quả của chính bạn, với tiền đề này, tôi tự trách mình không có khả năng kết hợp chúng với nhau. Tôi thực sự tin rằng, nếu tôi không phải là một nhà đào tạo, con đường hẳn sẽ dễ dàng hơn.”

Điều đó cũng không thể nói rằng tất cả những nỗ lực tự cải thiện là vô ích. Giáo sư tâm lý học người Đan Mạch Svend Brinkmann, cũng là tác giả của cuốn sách anti-self help “Stand Firm”, nói: “Rõ ràng có nhiều tầng lớp để tự cải thiện bản thân và tôi không bao giờ chống lại bất cứ ai tổ chức thời gian của họ để họ có thể làm được nhiều việc có giá trị và có ý nghĩa hơn. Tôi chỉ suy nghĩ khi người ta biến việc cải thiện thành mục đích cuộc đời và dành quá nhiều thời gian lo lắng về việc làm sao tối ưu hóa bản thân và lịch trình” – đặc biệt hành trình này không có kết thúc rõ ràng.

Các nhà khoa học nghiên cứu về việc tự cải thiện bản thân thấy rằng không phải mọi thay đổi đều được tạo ra như nhau. Jack Bauer, giáo sư tâm lý học nghiên cứu về phát triển cá nhân tại Đại học Dayton, gần đây đang dẫn dắt một nghiên cứu về các loại chuyện người ta tự kể về những sự kiện quan trọng trong đời và cách chúng ảnh hưởng tới hạnh phúc của họ. “Có nhiều chuyện nói về việc tự cải thiện bản thân, với ý nghĩ rằng tự thân có thể đi từ xấu thành tốt, hay từ tốt thành tốt hơn. Và chúng tôi thấy rằng không chỉ bất kỳ hành động tự cải thiện bản thân liên quan tới hạnh phúc, mà bất kỳ hành động tự cải thiện bản thân nào tập trung vào hành vi và mối quan hệ có ý nghĩa cá nhân, bạn đều có thể làm, vì bạn yêu thích điều đó hoặc yêu thích con người đó. Cải thiện bản thân với mục đích tăng cường hình ảnh hoặc trạng thái bản thân đều không đạt được tác động tương tự.”

Rõ ràng không phải ai cũng nghỉ lễ sabbat để suy nghĩ về những gì họ thực sự muốn. Nhưng dành vài phút mỗi ngày để đánh giá lý do tại sao bạn theo đuổi sự thay đổi có thể mang lại sự phát triển cá nhân phong phú hơn, có ý nghĩa hơn. Có lẽ bạn đang trong hành trình tự cải thiện bản thân vì bạn tin mình có thể phát triển theo một cách cụ thể và quan trọng nào đó, và muốn học các công cụ để đạt được điều đó. Hoặc có lẽ vì bạn thấy đời mình còn cách rất xa “những người thành đạt” – những người mà cuộc đời thường nhật của họ đã bị đẩy ra khỏi thế giới tiêu dùng của chúng ta.

Cẩn thận tập trung vào các dự án và thói quen của riêng bạn có thể giúp bạn khám phá ra bạn làm chúng vì lý do thực sự hiệu quả hay chỉ nhằm tiến gần hơn mục tiêu nào đó ít có kết nối đến những gì bạn thực sự muốn hoặc cần. Rất tốt khi dành thời gian thời gian thay đổi, đánh giá lại, và phấn đấu để trở nên tốt hơn – đó là bản chất tự nhiên của con người: luôn muốn cải thiện. Câu hỏi đặt ra là: bạn thực sự cần bao nhiêu?

Maggie Puniewska
Ngày 5 tháng 12 năm 2018


Bên trong nền văn hóa công ty ám ảnh khách hàng của Amazon: Amazon đổi mới như thế nào?


Amazon đổi mới như thế nào?
Viết tốt là tư duy tốt, ngay cả đối với công ty công nghệ mạnh nhất thế giới này cũng vậy.




Năm 2014, Stephenie Landry đã hoàn thành nhiệm vụ một năm của mình với tư cách cố vấn kỹ thuật cho Jeff Wilke, người giám sát nghiệp vụ tiêu dùng toàn cầu của Amazon. Đây là một chương trình đào tạo cho phép các giám đốc điều hành tiềm năng cao đi theo một nhà lãnh đạo cấp cao và học hỏi trực tiếp. Việc điều chuyển kế tiếp sẽ xác định sự nghiệp của cô.

Tại hầu hết các công ty hiện nay, một người mới nổi như Landry có thể được giao một bộ phận để điều hành hoặc làm việc trong một vụ mua lại lớn. Tuy nhiên Amazon lại khác. Landry đã viết một bản ghi nhớ phác thảo các kế hoạch cho một dịch vụ mới mà cô nghĩ tới, gọi là Prime Now, ngày nay đang cung cấp dịch vụ giao hành một giờ cho khách hàng trên 50 thành phố ở 9 quốc gia.

Việc Amazon là một trong những công ty sáng tạo nhất thế giới không phải là chuyện bí mật. Khởi đầu là một dịch vụ trong thị trường ngách: bán sách online; giờ đây họ không chỉ là nhà bán lẻ thống trị mà còn là nhà tiên phong của nhiều hạng mục mới như điện toán đám mây và loa thông minh. Chìa khóa thành công của họ không phải là bất kỳ một qui trình nào, mà là cách họ tích hợp nỗi ám ảnh khách hàng vào sâu bên trong văn hóa và thực tiễn của công ty.

Bắt đầu với khách hàng và làm việc trước

Trọng tâm của cách Amazon đổi mới là bản ghi nhớ sáu trang được yêu cầu lúc bắt đầu mỗi sáng kiến mới. Điều làm cho nó hiệu quả không phải là bản thân cấu trúc tài liệu đó, mà là cách nó được sử dụng để gắn mục tiêu cuồng tín vào khách hàng ngay từ ngày đầu tiên. Đó là một cái gì đó gây ấn tượng với các nhân viên Amazon ngay từ đầu trong sự nghiệp của mình.

Bước đầu tiên trong việc phát triển Prime Now là viết một thông cáo báo chí. Tài liệu của Landry không chỉ là một kiểu mô tả dịch vụ mà còn bàn đến việc khách hàng sẽ phản ứng với nó như thế nào. Dịch vụ đã ảnh hưởng đến họ ra sao? Điều gì làm họ ngạc nhiên về nó? Họ muốn giải quyết những mối quan tâm nào? Bài tập này buộc cô phải nội tâm hóa cách khách hàng của Amazon có thể suy nghĩ và cảm nhận về Prime Now ngay từ rất sớm.

Bạn thường cần phải đi chậm mới di chuyển nhanh được.

Kế tiếp, cô ấy viết một loạt các câu hỏi đáp thường gặp dự đoán mối quan tâm của cả khách hàng và các bên liên quan trong công ty, như CFO, người vận hành và các lãnh đạo của chương trình Prime. Landry phải tưởng tượng mỗi câu hỏi sẽ có gì, nhóm của cô sẽ giải quyết vấn đề thế nào, rồi sau đó giải thích mọi thứ bằng ngôn ngữ rõ ràng, ngắn gọn.

Toàn bộ điều này xảy ra trước khi cuộc họp đầu tiên tổ chức, trước khi một dòng code đầu tiên được viết, hay trước khi một bản prototype ban đầu được xây dựng, vì công ty tin tưởng mạnh mẽ rằng cho đến khi bạn thấu hiểu được quan điểm của khách hàng, không có gì khác thực sự quan trọng. Đó là chìa khóa cho cách thức hoạt động của công ty.

Văn hóa viết sâu sắc

Không phải ngẫu nhiên mà bước đầu tiên để phát triển một sản phẩm mới tại Amazon lại là một bản ghi nhớ chứ không phải là một bài PowerPoint thuyết trình hay một cuộc họp khởi động (kickoff meeting). Như Fareed Zakaria từng nói: “Tư duy và viết gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi tôi bắt đầu viết, tôi nhận ra rằng ‘những suy nghĩ’ của tôi thường là một mớ hỗn độn của những xung động nửa vời, không mạch lạc được xâu chuỗi cùng những lỗ hổng logic giữa chúng.”

Amazon tập trung vào việc xây dựng kỹ năng viết sớm trong sự nghiệp điều hành. Landry nói: “Viết là một kỹ năng quan trọng trong văn hóa của chúng tôi. Tôi đã bắt đầu viết các thông cáo báo chí cho các tính năng và dự án nhỏ hơn. Một trong các bài viết đầu tiên của tôi là về đóng gói nhẫn kim cương. Qua nhiều năm thực hành và huấn luyện, tôi trở nên giỏi hơn.” Có thể viết một bản ghi nhớ tốt cũng là yếu tố then chốt trong sự phát triển tại Amazon. Nếu bạn muốn vươn lên, bạn cần viết – và phải viết giỏi.

Landry cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự ngắn gọn. “Giữ cho mọi thứ ngắn gọn tới mức bạn phải suy nghĩ mọi thứ theo cách mà bạn không thể làm khác. Bạn không thể ẩn nấp phía sau sự phức tạp, bạn thực sự phải làm việc với nó.” Hoặc như một nhà lãnh đạo Amazon khác từng nói: “Sự hoàn hảo đạt được khi không còn gì để vứt bỏ.”

Hơn nữa, viết một bản ghi nhớ không phải là một nỗ lực đơn độc; đó là một quá trình hợp tác. Thông thường các nhà điều hành dành một tuần hoặc hơn để chia sẻ tài liệu với các đồng nghiệp, nhận ý kiến phản hồi, mài giũa và điều chỉnh nó cho đến khi mọi khía cạnh có thể được hiểu một cách sâu sắc.

Tái phát minh cuộc họp văn phòng

Một mặt độc đáo khác của văn hóa Amazon là cách các cuộc họp được điều khiển. Trong những năm gần đây, phàn nàn phổ biến trong thế giới văn phòng là làm sao số lượng các cuộc họp trở nên ngột ngạt đến mức khó có thể hoàn thành bất kỳ việc gì. Nghiên cứu từ MIT cho thấy các giám đốc điều hành dành gần 23 giờ một tuần cho họp hành, tăng gần 10 tiếng so với năm 1960.

Tuy nhiên tại Amazon, bản ghi nhớ sáu trang đã cắt giảm số lượng các cuộc họp. Nếu bạn phải dành một tuần để viết bản ghi nhớ, bạn không nên bắt đầu gửi ra lời mời bất cứ khi nào có gì lạ xảy ra với bạn. Tương tự như vậy, công ty thực hành giới hạn số lượng người tham dự tới số người có thể chia sẻ hai phần pizza hạn chế.

Mỗi cuộc họp đều bắt đầu với việc mọi người có khoảng 30 tới 60 phút tiêu hóa bản ghi nhớ. Từ đó, tất cả những người tham dự đều được yêu cầu chia sẻ các phản ứng của họ - thường các lãnh đạo cấp cao sẽ nói cuối cùng – và sau đó họ đi sâu vào những gì có thể thiếu, đặt câu hỏi thăm dò, và xoáy vào những vấn đề tiềm năng có thể phát sinh.

Sự thật là không có con đường “thực sự” nào cho cải tiến vì cải tiến, về mặt cốt lõi, chính là giải quyết vấn đề.

Các cuộc họp tiếp theo cũng tương tự, để xem xét tài chính, trau dồi khái niệm, đánh giá các bản mock-up trong khi nhóm tiếp tục tinh chỉnh các ý tưởng và giả thiết. Landry nhấn mạnh: “Thường đó không phải là phần lớn các phản hồi bạn nhận được. Thực sự nó chỉ là những câu hỏi nhỏ hơn; chúng giúp bạn đạt đến một mức độ chi tiết thực sự mang lại ý tưởng cho cuộc sống.”

Toàn bộ điều này có vẻ cồng kềnh quá mức với những giám đốc điều hành nhanh nhẹn quen ra vào các cuộc họp cả ngày, nhưng bạn thường cần phải đi chậm để di chuyển nhanh hơn. Trong trường hợp Prime Now, dịch vụ này chỉ mất 111 ngày để chuyển từ một ý tưởng trên một tờ giấy tới sản phẩm có mã ZIP ở Manhattan, và nó đã mở rộng nhanh chóng từ đó.

Văn hóa và thực hành cùng tiến hóa

Mỗi công ty đều đổi mới khác nhau. Apple có sự tập trung một cách cuồng tín vào thiết kế. Cam kết của IBM với các nghiên cứu khoa học mức sâu cho phép nó đứng vững và cạnh tranh lâu dài khi hầu hết các đối thủ cạnh tranh đã thất thủ. Google tích hợp một số chiến lược đổi mới thành một tổng thể liền mạch.

Những gì vận hành tốt với một công ty không chắc sẽ vận hành tốt với một công ty khác, đó là thực tế chính CEO của Amazon, Jeff Bezos, đã nhấn mạnh trong một lá thư gần đây cho các cổ đông. “Chúng tôi không bao giờ tuyên bố rằng cách tiếp cận của chúng tôi là đúng đắn – chỉ vì nó là của chúng tôi – và suốt hơn hai thập kỷ qua, chúng tôi đã tập hợp được một nhóm lớn những người cùng chí hướng. Họ thấy cách tiếp cận của chúng tôi tràn đầy năng lượng và có nhiều ý nghĩa.”

Sự thật là không có con đường nào “thực sự” để đổi mới, vì đổi mới, về mặt cốt lõi, chính là giải quyết vấn đề và mỗi doanh nghiệp lựa chọn những vấn đề khác nhau để giải quyết. Trong khi IBM có thể rất vui khi các nhà khoa học của mình làm việc nhiều thập kỷ trên một số công nghệ tối tân và bí ẩn, còn Google sẵn sàng cho phép nhân viên của mình theo đuổi các dự án thú cưng, thì những điều đó có lẽ không có giá trị gì tại Amazon.

Tuy nhiên, điều duy nhất mà tất cả những nhà cải cách vĩ đại đều sở hữu giống nhau là nền văn hóa và thực hành đan xen sâu sắc. Nó khiến những gì họ làm rất khó sao chép. Bất kỳ ai cũng có thể viết bản ghi nhớ sáu trang hoặc bắt đầu một cuộc họp sau một khoảng thời gian đọc hiểu. Đó không phải là những bài thực hành cụ thể nào đó, mà là cam kết với những giá trị mà chúng phản ánh, điều đó thúc đẩy thành công đáng kinh ngạc của Amazon.

Greg Satell
Ngày 24 tháng 11 năm 2018


Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

Scott: Nước Mỹ của Xây Dựng Thương Hiệu


Nước Mỹ xây dựng thương hiệu
Cưa xương, Khashoggi, và chính sách đối ngoại



Cảm giác là cơ chế sinh hóa mà tất cả động vật có vú và chim sử dụng để nhanh chóng tính toán xác suất sống sót và sinh sản. Cảm giác không dựa trên trực giác, cảm hứng hay tự do. Chúng dựa trên tính toán. Khi một con khỉ, chuột, hoặc con người nhìn thấy một con rắn, sợ hãi phát sinh vì hàng triệu tế bào thần kinh trong não nhanh chóng tính toán các dữ liệu liên quan và kêt luận rằng xác suất tử vong rất cao.
-          Yuval Noah Harari, “21 Lessons for the 21st Centure” (21 Bài học cho Thế Kỉ 21)

Bằng chứng cho thấy nhà báo của Washington Post đi vào lãnh sự quán – thường được coi là một nơi ẩn náu an toàn - ở Thổ Nhĩ Kỳ rồi sau đó bị bắt cóc, tra tấn, giết hại và chia xác đã gây ra một cơn neurons firing (thuật ngữ trong Trí Tuệ Nhân Tạo – khi tín hiệu vượt qua một ngưỡng thì nó sẽ được truyền đi sang neuron khác theo sợi trục). Tại sao vậy? Lẽ thường tình thôi. Phép đại số về sự hoài nghi (xác suất bị bắt x hình phạt = tiêu đời thê thảm) là thứ duy nhất đứng giữa bất kỳ ai trong chúng ta và cái cưa xương.

A.      Tiêu đời. Xương. Cưa



Cơ sở xây dựng thương hiệu

Cơ sở của việc xây dựng thương hiệu rất, rất cơ sở: lấy một loại bia, snack mặn, ô tô, hoặc một xã hội trung bình hoặc khá; thiết lập mã thương hiệu hấp dẫn xung quanh sản phẩm hay dịch vụ; củng cố và đầu tư vào các mã này; thế là bạn có một cỗ máy tạo giá trị mạnh mẽ - một thương hiệu. Nestle, the Gurkas, Apple và Giáo Hội Công Giáo (đặc biệt là nhà thờ) thống trị không gian lớn hơn giá trị thực họ đang chiếm vì hứa hẹn của họ, chứ không phải hiệu suất của họ (có nhớ định luật Newton không?). Thương hiệu có thể thuyết phục chúng ta trả $1.450 đô cho một thứ chỉ đáng giá $450 đô (iPhone), hay cứu vớt một tổ chức đã thể chể hóa sự hãm hiếp trẻ em (Chipotle). Đùa thôi, tôi đang nói về nhà thờ. Chipotle rất tuyệt vời. Nhưng tôi lạc đề.

Các nhà lập quốc Hoa Kỳ (thường được gọi là The Founding Fathers), về cơ bản là các nhà tiếp thị giỏi đến đáng kinh ngạc, những người đã biết Hiến Pháp rất cần thiết để vượt ra ngoài tầm với và vẽ ra lời hứa hẹn của Hoa Kỳ. Thương hiệu mạnh nhất thế giới, mang lại sự trung thành và lợi nhuận đầu tư bất hợp lý – đó chính là Hoa Kỳ. Khi bạn chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng lại làm bá chủ một phần tư tài nguyên, thì bạn – nước Mỹ của chúng ta – chính là bậc thầy Jedi của thương hiệu. Cốt lõi trong mã thương hiệu của chúng ta là độc lập, bình đẳng, cai trị bằng pháp luật, tự do, mạo hiểm, hào phóng, lao động và lãnh đạo có đạo đức. Tóm lại, chúng ta luôn cố gắng làm người tốt.



Người ta không mua Nike vì đó là đôi giày tốt mà vì nó đại diện cho một dấu hiệu của Hoa Kỳ: khả năng cạnh tranh xuất sắc. Thế giới không mua Ford vì chúng là những chiếc xe tốt, mà vì chúng đại diện cho lời hứa hẹn của tầng lớp trung lưu đang nổi lên. Bất động sản ở NYC và Los Angeles vẫn duy trì tăng giá một cách phi lý, vì người nước ngoài tin rằng dấu hiệu của nước Mỹ bao hàm cả sự tôn kính với tài sản riêng khi chúng ta tôn trọng luật pháp. Bằng MBA của NYU Stern có giá không chỉ vì nó đào tạo những nhân vật đầu tàu của chủ nghĩa tư bản, mà còn bởi nó đưa cho học viên trải nghiệm đa dạng ở một trong những thành phố có tính toàn cầu nhất thế giới.

Xây dựng thương hiệu cực kỳ tốn kém. Quảng cáo, xây dựng một nền văn hóa của sự xuất sắc, nghỉ thai sản, Hải Quân Hoa Kỳ, và dọn dẹp chai lọ khi có nỗi sợ hãi về sức khỏe… tất cả đều thực sự đắt đỏ. Khi đã có thị trường, rất nhiều lợi nhuận ngắn hạn vẫn có thể thu được sau khi chúng ta ngừng đầu tư vào thương hiệu. Điều này vô cùng hấp dẫn.

Hoa Kỳ là một nền kinh tế $20T (20 tỷ tỷ đô). Để làm xói mòn thương hiệu này, cần làm suy yếu lợi nhuận và lòng trung thành với mỗi sản phẩm và dịch vụ chúng ta sản xuất. Hàng tỷ người mua sản phẩm và dịch vụ của chúng ta dựa trên nguyên tắc của chúng ta: hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để hỗ trợ thương hiệu. Vì thế, làm xói mòn thương hiệu của chúng ta hòng đổi lại $15-110B (tức 15-110 nghìn tỷ đô) bán vũ khí không chỉ là hành xử sai lầm, mà còn rất ngu ngốc.

Thu hoạch sai lầm

Có thời điểm đầu tư vào thương hiệu sẽ không còn ý nghĩa nữa, mà cần thu hoạch nó: giảm chi phí tiếp thị cho mục đích tối đa hóa dòng tiền. Đồng euro, Cadillac, Campbells, Outback Steakhouse, Crocs, và Clintons là toàn bộ những thương hiệu các bên liên quan đã quyết định cho chúng uống sữa trong khi các chủ nhân của chúng lại nhìn ra những nơi tốt hơn để đầu tư. Nếu nước Mỹ là một công ty, có lẽ hội đồng quản trị của nó (ủy thác từ các bên liên quan) đã ra quyết định cần thu hoạch thương hiệu. Thêm một nghìn tỷ nợ và không tung thêm các khoản đầu tư cần thiết vào việc lãnh đạo thương hiệu có đạo đức khi nền kinh tế đã mạnh trở lại, việc này tương đương với chuyện một anh chàng có cổ phần tư nhân trong hội đồng quản trị của bạn ra quyết định “Chúng ta cần kiếm tiền ngay cả khi nó hạn chế sự phát triển trong tương lai.”

Đây không hẳn đã là một chiến lược sai lầm. Tất cả đều đến từ câu hỏi: Nước Mỹ là một thương hiệu đang tăng trưởng hay đã chín muồi?

Phân bổ vốn cho thấy những người được ủy thác (các nhà lãnh đạo của chúng ta) đại diện cho 1% - đã đưa ra chỉ dẫn rõ ràng: “Nếu thương hiệu này sống sót, tuyệt… nhưng chúng tôi muốn tiền của chúng tôi, ngay bây giờ.” Tuy nhiên, cũng có một nhóm người khác, từ cả hai phe, tin rằng nước Mỹ là một thương hiệu đang tăng trưởng đủ để đảm bảo tiếp tục đầu tư. Trách nhiệm tài chính và việc lãnh đạo có đạo đức rất tốn kém, và đáng giá.

Như vậy đấy.

Nước Mỹ muốn dừng tất cả các giao dịch bán vũ khí, đóng băng tài sản, và áp đặt các biện pháp trừng pháp chống lại Ả Rập Xê Út. Cách dễ nhất để xác nhận khái niệm này là kêu gọi hàng triệu tế bào thần kinh, dựa trên lịch sử và phẩm giá của thương hiệu mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Làm sao để triệu hồi các tế bào thần kinh? Rất dễ. Chỉ có 2 từ: 1. Xương; 2. Cưa.

Đời thật phong phú.

Scott Galloway
Ngày 22 tháng 10 năm 2018
Trong mục No Mercy/No Malice
(Đây là một chuyên mục của Giáo sư Scott Galloway, nơi ông chia sẻ nhiều suy nghĩ về kinh doanh, công nghệ và cuộc sống mỗi tuần trên Medium.)

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

"Inspiration is for amateurs"


Cảm hứng dành cho kẻ amateur, Kỷ luật là của dân chuyên nghiệp

Tình cờ đọc lại bài phỏng vấn họa sĩ kiêm nghiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ Chuck Close (theo Inside the Painter’s Studio), tự nhiên thấy liên hệ to lớn với những vấn đề liên quan tới sự sáng tạo, đạo đức nghề nghiệp… của cá nhân và doanh nghiệp (nhất là các startup) - hẳn các bạn và tôi có thể tìm ra câu trả lời từ đây.

Câu hỏi luôn làm đau đầu chúng ta là: “Tại sao những người sáng tạo lại sáng tạo được?”, “Nên tổ chức một ngày của chúng ta như thế nào để đạt hiệu suất cao nhất?”, “Ta cần tìm kiếm động lực nơi nào cho bản thân, cho đội ngũ, cho doanh nghiệp?”, “Lựa chọn thiết kế môi trường và tổ chức ra sao để tạo cảm hứng?”…

Cảm hứng và động lực rất có ý nghĩa với mỗi chúng ta. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên truyền cảm hứng là công việc hái ra tiền của vô số tác giả sách self-help và một lượng hùng hậu các diễn giả trên toàn thế giới.



Vậy cảm hứng là gì?
Tôi dùng định nghĩa thần thánh của Elizabeth Gilbert giải thích về “cảm hứng”: “Từ đó bản thân nó tới từ ý tưởng hít vào hơi thở của Chúa… Giấc mơ về cảm hứng không bao giờ được phép bị loại bỏ. Cảm hứng là đẹp đẽ. Cảm hứng là kỳ diệu. Cảm hứng là phi thường, không thể giải thích nổi và thiêng liêng. Cảm hứng cũng là quá độ, và hiếm hoi đến tuyệt vọng.”

Thế thì tại sao cảm hứng lại chỉ dành cho amateur?

OK. Trước hết phải nói rằng tôi chả có việc gì phải chống lại cảm hứng cả. Tôi cũng từng gặp vô số thất bại, quá nhiều tuyệt vọng, và mong có động lực từ trên trời rơi xuống hay từ tha nhân còn luyến tiếc con người này, hòng đá tôi ra khỏi những ngày dài vô bổ chán chê và có cảm hứng mãnh liệt mà tiến lên. Thế nên bạn có thể yên tâm đọc tiếp.

Trở lại với bài phỏng vấn tôi đề cập ở trên. Close đã nói gì?

Cảm hứng là dành cho dân nghiệp dư – còn chúng ta chỉ xuất hiện và làm việc. Với niềm tin rằng rồi mọi thứ sẽ sinh sôi từ chính hành động, và thông qua làm việc, bạn sẽ chạm tới những khả năng khác và mở ra những cánh cửa khác mà bạn có lẽ chưa bao giờ mơ tới nếu chỉ ngồi một chỗ chờ đợi một ‘ý tưởng’ vĩ đại. Và hãy tin rằng sự phát triển, theo một ý nghĩa nào đó, đang phóng thích ra và bạn không phải tái tạo lại bánh xe ấy mỗi ngày. Hôm nay bạn biết những gì mình sẽ làm, bạn có thể làm những gì bạn đang làm dở hôm qua, và ngày mai, bạn lại tiếp tục làm những việc bạn đã làm hôm nay, ít ra trong một giai đoạn nhất định, bạn phải làm việc. Nếu bạn cứ làm như vậy, nhất định bạn sẽ đạt được một cái gì đó.”

Pablo Picasso cũng từng bày tỏ thái độ với cảm hứng: “Cảm hứng có tồn tại, nhưng lúc ấy nó phải thấy bạn đang làm việc.” Ông nói những ý tưởng vĩ đại, những khoảnh khắc eureka… chỉ nảy sinh từ quá trình làm việc hằng ngày. Ít ra bạn cũng phải đang suy nghĩ về chủ đề hay vấn đề đó trước khi có thể tìm ra giải pháp sáng tạo cho nó.

Zig Ziglar, một tác giả và diễn giả truyền cảm hứng đã nói: “Người ta thường nói rằng động lực thì không kéo dài. Phải, tắm rửa cũng thế - đó là tại sao tôi đề nghị làm nó hằng ngày.”

Quả thực có những lúc cảm hứng hay động lực làm bạn phấn kích, chỉ trong khoảnh khắc hoặc thời gian ngắn thôi, nó thúc đẩy bạn tiến lên. Sau đó nó bắt đầu đông lại và lung lay, rồi dần biến mất. Khi những lúc “cao điểm” đó tan biến, bạn vẫn phải đào sâu và tiếp tục. Bạn không thể ngồi lại và nói, ừ, tôi cần phải chờ đợi một thời khắc khác làm nguồn cảm hứng/động lực cho tôi tiếp tục.

Nghe có vẻ như động lực hay cảm hứng đều mang tính nghịch lý?



Close nói tiếp:
“Tôi không bao giờ nằm trong số những người cần phải có một tình huống hoàn hảo mới vẽ được. Tôi có thể làm nghệ thuật ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào – không thành vấn đề. Tôi biết có rất nhiều nghệ sĩ, đối với họ, có một không gian hoàn hảo là điều căn bản nhất. Họ dành nhiều năm để thiết kế, xây dựng, trang trí cho không gian hoàn hảo đó, rồi khi đi vào làm việc họ lại bán nơi đó đi và xây dựng một không gian khác. Dường như làm vậy thường xuyên là một cách tránh phải làm việc. Còn tôi có thể vẽ ở bất kỳ đâu. Tôi đã vẽ những bức tranh lớn trong những phòng ngủ, gara nhỏ nhất. Bạn biết không, một khi tôi quay về phòng, tôi có thể như ở bất kỳ chốn nào.”

Cũng giống nhiều nhân vật nổi tiếng khác, Close luôn có niềm tin với thói quen hằng ngày của mình.

“Vào mỗi ngày, tôi bắt đầu vẽ lúc 9h, và thường làm việc tới trưa. Ba giờ làm việc cho buổi sáng. Tôi ăn trưa ngay tại bàn làm việc, đôi khi nếu đẹp trời, tôi sẽ ra bể bơi. Nếu tốt hơn, tôi sẽ ra bãi biển một giờ. Ăn trưa trên bãi biển, sau đó trở lại và vẽ tiếp từ 1h tới 4h, thêm ba tiếng nữa. Khi ánh sáng tự nhiên tắt dần, tôi bắt đầu trở nên thô lỗ. Vì thế y tá của tôi thường đến vào lúc 4h, còn tôi dừng làm việc, dọn dẹp, uống thật nhiều, đó là một ngày làm việc điển hình của tôi. Tôi làm việc mọi ngày đều thế.”
“Tôi nghĩ trong khi sự phù hợp đã sản sinh ra một số công việc thú vị… thì đối với tôi, điều thú vị nhất là trở lại với chính mình trong góc riêng của bản thân nơi không có câu trả lời của ai khác phù hợp chen vào. Bằng cách nào đó bạn phải đưa ra giải pháp cá nhân cho vấn đề mà bạn đã tự đặt cho mình vì không có giải pháp nào từ người khác có thể phù hợp.”
“Tôi nghĩ xã hội của chúng ta đã quá mức hướng vào việc giải quyết vấn đề. Việc “tạo ra vấn đề” còn thú vị hơn nhiều… Bạn biết đó, hãy tự hỏi bản thân một câu hỏi đủ thú vị và nỗ lực tìm giải pháp thích hợp sẽ sớm đẩy bạn tới một nơi để bạn có thể tìm thấy chính mình – một cách đơn độc – và tôi nghĩ nơi đó còn thú vị hơn nhiều.”

Lại một lần nữa, luôn luôn có nghi vấn liệu có khả năng chúng ta có thể hoàn toàn rũ bỏ khỏi các ảnh hưởng, sáng tạo ra những thứ là pha trộn kinh nghiệm sống của bản thân – một thứ “văn hóa vi mô cá nhân”, thứ mà nếu không có nó, chúng ta không có khả năng đưa ra những ý tưởng kết hợp “mới mẻ”?

Hãy đi theo sự tò mò của bạn, đây là nguồn xung lực chung nhất, phổ biến nhất, đáng tin nhất. Bạn quan tâm tới điều gì? Thứ gì có thể làm bạn quay đầu lại và nói “Tôi muốn biết nhiều hơn về…” Chủ đề hay vấn đề nào đủ lôi cuốn để có thể duy trì bền vững sự chú ý của bạn qua nhiều năm nỗ lực?

Hãy tìm ra điều đó, cam kết bản thân với nó, rồi chỉ “xuất hiện và làm việc”.

Đừng chờ đợi theo đuổi một thần tượng nào cả. Thần tượng sẽ chạy theo bạn một khi họ thấy bạn nghiêm túc lao động. Trước tiên phải làm việc, rồi điều kỳ diệu sẽ tới. Vì những khoảnh khắc của cảm hứng vô cùng hữu ích, đáng yêu, nhưng lại quá ngắn ngủi trên con đường bạn đi, và thực ra, chúng chỉ xuất hiện sau khi bạn đã bỏ ra hàng nghìn giờ cống hiến.

Cảm hứng quả thực chỉ dành cho amateur. Chúng ta là dân chuyên nghiệp. Chúng ta cần kỷ luật để tồn tại và lớn mạnh.



Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2018

Hình ảnh mới của phong trào lao động ở Thung Lũng Silicon


Hình ảnh mới của phong trào lao động ở Thung Lũng Silicon



Tháng 8, không lâu sau khi The Intercept (kênh tin tức online đối lập) tiết lộ rằng Google đang làm việc với chính phủ Trung Quốc để khởi động công cụ tìm kiếm bị kiểm duyệt, những người làm việc tại Google đã soạn một lá thư yêu cầu các ông chủ của mình ngừng kế hoạch đó lại và đưa ra một “qui trình minh bạch rõ ràng và có giám sát” để tránh bị qua mặt trong tương lai trước những dự án xung đột về mặt đạo đức với nhân viên làm việc cho họ. Cho đến nay, theo Buzzfeed, hơn 1400 người đã ký vào lá thư.

Bức thư này là bằng chứng mới nhất cho thấy các nhân viên trong giới công nghệ đang đòi hỏi vai trò của họ trong việc thay đổi thế giới. Trước đó, thành công lớn nhất của giới công nhân công nghệ cao có tổ chức (giới cổ cồn trắng) xảy ra vào tháng 6, khi Google đã phải tuyên bố sẽ không gia hạn hợp đồng cho dự án Maven của Lầu Năm Góc – một dự án “liên quan tới máy bay không người lái và nhận dạng đối tượng có độ phân giải thấp bằng trí tuệ nhân tạo.” Hơn 3100 nhân viên Google đã kí một bức thư ngỏ, vì đối với họ, bản hợp đồng này không chỉ “gây thiệt hai không thể khắc phục được cho thương hiệu Google” mà còn biến công ty trở thành “doanh nghiệp của chiến tranh”.

Kể từ lúc đó tới giờ, hơn 100 nhân viên Microsoft đã phản đối hợp đồng của công ty với Cơ Quan Di Trú và Hải Quan Hoa Kỳ trong một lá thư ngỏ trên bảng tin nội bộ, tuyên bố họ tin rằng công ty nên đặt “trẻ em và gia đình lên trên lợi nhuận”; còn các nhân viên của Amazon kêu gọi ông chủ của họ, Jeff Bezos, ngừng bán phần mềm nhận dạng khuôn mặt Palantir cho các cơ quan thực thi pháp luật, vì cho rằng công nghệ này có thể được sử dụng để “làm hại những người vốn bị thiệt thòi nhất”; và đối mặt với hợp đồng của Cục Hải Quan và Bảo Vệ Biên Giới, các nhân viên của Salesforce cảm thấy đây là thỏa thuận “vô nhân đạo” và đã tổ chức một chiến dịch tẩy chay để lôi kéo các công ty khác từ chối các khoản tài trợ của Salesforce.

Rõ ràng đang có một cách tiếp cận trong tổ chức giới lao động rất khác biệt so với truyền thống vốn chỉ chú trọng sử dụng sức mạnh của giới lao động thông qua các tổ chức công đoàn. Trong khi giới cổ cồn xanh ở các công ty công nghệ (nhân viên an ninh) đã bắt đầu tự tổ chức sức mạnh lao động của họ từ nhiều năm qua – ví dụ, nhân viên an ninh của Thung Lũng Silicon và nhân viên phục vụ ăn uống của Facebook  đã thành lập các công đoàn riêng của chính họ - thì một việc hiếm hoi xảy ra vào tháng Giêng, khi các kỹ sư phần mềm tại công ty logistic dựa trên điện toán đám mây Lanetix cố gắng đoàn kết nhau lại. Đáp lại, Lanetix đã sa thải họ - theo một khiếu nại các kỹ sư đệ trình Ủy Ban Quan Hệ Lao Động Quốc Gia. (Lanetix đã không phúc đáp các yêu cầu trả lời)

Rõ ràng, nỗ lực tổ chức giới cổ cồn trắng công nghệ đều bắt đầu và kết thúc bằng những chiến dịch đơn lẻ. Đầu mùa hè năm nay, các tổ chức bao gồm Silicon Valley Rising, Tech Workers Coalition và các ban ngành của ACLU bắt đầu một loạt các sự kiện gọi là Tech Won’t Build It, để giới nhân viên cổ cồn trắng chia sẻ những bài học tranh đấu từ các chiến dịch trước đây buộc giới chủ của họ dừng các dự án gây tranh cãi của chính phủ. Các sự kiện này diễn ra ở các trung tâm công nghệ cao của Hoa Kỳ, như San Francisco, Seattle, và Cambridge, đồng thời được phát trực tuyến. Ben Tarnoff, một nhà báo và nhân viên công nghệ, đồng thời chủ trì một số sự kiện tại Tech Won’t Build It, nói: “Chủ đề chung của các chiến dịch này là giới công nhân công nghệ yêu cầu một chỗ ngồi tại chiếc bàn nơi ra các quyết định xem liệu công nghệ nào sẽ được xây dựng”.

Một số nhà hoạt động trong giới công nghệ đang tưởng tượng ra một phong trào công nhân bền vững hơn – nếu nó không phải là một liên minh toàn cầu thì ít nhất cũng là một liên minh toàn ngành mạnh mẽ, bao gồm cả giới cổ cồn xanh và cổ cồn trắng, nhằm tìm kiếm một thay đổi dài hạn chứ không phải là những nhượng bộ một lần. Dù những chiến dịch đơn lẻ là một khởi đầu tốt để huy động sức mạnh của nhân viên, nhưng chúng bị hạn chế trong những gì họ có thể thực hiện. Các hợp đồng chính phủ bị từ chối bởi công ty này thì sẽ có thể bị công ty khác lấy, và những nhân viên phản đối hoạt động của doanh nghiệp có thể bị thay thế bởi những người có lập trường ngược lại. Những lá thư phản đối của giới cổ cồn trắng còn có thể phát triển thành một thứ nào đó nữa hay không, câu hỏi này vẫn đang đợi câu trả lời.

Rick Paulas
4 tháng 9 năm 2018


Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2018

Mạng xã hội: Kẻ sáng tạo hay Kẻ hủy diệt?


Mạng xã hội: Kẻ sáng tạo hay Kẻ hủy diệt?

Nhiều năm qua, chúng ta đã được chứng kiến một số “cuộc cách mạng Facebook”, từ Mùa Xuân Ả Rập tới chiến dịch Chiếm Phố Wall, rồi lan ra những quảng trường lớn ở Istanbul, Kiev, Hồng Kong, tất cả đều được các mạng xã hội tiếp nhiên liệu. Nhưng khi làn khói đã tan đi, hầu hết những cuộc cách mạng này đều thất bại trong việc xây dựng bất kỳ trật tự chính trị mới bền vững nào, một phần vì có quá nhiều tiếng nói được khuếch đại, việc xây dựng sự đồng thuận trở nên bất khả thi.

Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng mạng xã hội chỉ giỏi trong việc phá vỡ các thứ, chứ không giỏi xây dựng nên các thứ?

Một tiếng nói quan trọng đã trả lời câu hỏi này bằng từ “Đúng vậy” rất to. Tiếng nói đó là của Wael Ghonim, nhân viên Google người Ai Cập, có trang Facebook ẩn danh giúp khởi động cuộc cách mạng tại quảng trường Tahrir đầu năm 2011 lật đổ Tổng Thống Hosni Mubarak – nhưng sau đó lại thất bại trong việc tạo ra một nền dân chủ thực sự thay thế.


Wael Ghonim, ở giữa, tại quảng trường Tahrir ở Cairo năm 2011. Ảnh Dylan Martinez/Reuters

Vào tháng 12, Ghonim, sau đó chuyển tới Thung Lũng Silicon, đã đăng một bài nói chuyện trong show nổi tiếng TED kể về những gì đã xảy ra. Bài đăng này rất đáng xem, và nó mở đầu thế này: “Tôi đã từng nói ‘Nếu bạn muốn giải phóng một xã hội, tất cả những gì bạn cần là Internet.’ Tôi đã sai. Tôi đã nói những lời đó hồi năm 2011, khi một trang Facebook tôi tạo ẩn danh đã giúp cuộc cách mạng Ai Cập nổ ra. Mùa Xuân Ả Rập cho thấy tiềm năng lớn nhất của phương tiện truyền thông mạng xã hội, nhưng đồng thời cũng phơi bày thiếu sót lớn nhất của nó. Cùng một công cụ đoàn kết chúng ta lật đổ các nhà độc tài cuối cùng lại cắn xé chúng ta thành nhiều mảnh.”

Đầu những năm 2000, người Ả Rập đã đổ xô vào trang web, Ghonim giải thích: “Khát khao tri thức, cơ hội, kết nối với phần còn lại của thế giới, chúng tôi đã trốn thoát khỏi thực tế chính trị bức bối và sống trong một cuộc sống ảo.”

Sau đó đến tháng 6 năm 2010, anh ghi lại: “Internet đã thay đổi đời tôi vĩnh viễn. Trong khi đang lướt Facebook, tôi đã nhìn thấy một bức ảnh… xác chết vì bị tra tấn của một chàng trai trẻ người Ai Cập. Cậu ấy tên là Khaled Said. Khaled là người Alexandria 29 tuổi, bị cảnh sát giết chết. Tôi thấy mình trong bức ảnh ấy… Tôi đã tạo ẩn danh một trang Facebook với cái tên “We Are All Khaled Said” (Tất cả chúng ta đều là Khaled Said). Chỉ ba ngày sau, trang có trên 100.000 người, có cả người Ai Cập cùng chia sẻ mối quan tâm tương tự.”

Chẳng mấy chốc, Ghonim và các bạn anh đã dùng Facebook tạo ra nhiều ý tưởng ban đầu cho đám đông, và “trang trở thành trang được followed nhiều nhất trong thế giới Ả Rập… Mạng xã hội cực kỳ quan trọng trong chiến dịch này. Nó đã giúp một phong trào phi tập trung nổ ra. Nó khiến mọi người nhận ra rằng họ không đơn độc. Và nó khiến chính phủ không có khả năng ngăn chặn.”

Ghonim cuối cùng cũng bị lực lượng an ninh Cairo theo dõi, đánh đập và cách ly trong 11 ngày. Nhưng 3 ngày sau khi anh được trả tự do, hàng triệu người biểu tình ủng hộ các bài post của anh trên Facebook đã giúp lật đổ chế độ Mubarak.

Lạy Thánh Alas, niềm vui thật chóng nhạt phai, vì như Ghonim nói, “chúng tôi đã thất bại trong việc xây dựng sự đồng thuận, và cuộc đấu tranh chính trị đã dẫn đến sự phân cực mạnh mẽ.” Anh ghi lại rằng, phương tiện truyền thông mạng xã hội “chỉ khuếch đại” sự phân cực “bằng cách tạo điều kiện lây lan thông tin sai lệch, tin đồn, bắt chước và những lời đầy thù hận. Môi trường hoàn toàn độc hại. Thế giới online của tôi trở thành một bãi chiến trường đầy những trò lừa đảo, dối trá và những phát biểu hận thù.”

Những người ủng hộ quân đội và những người Hồi Giáo sử dụng mạng xã hội để bôi nhọ lẫn nhau, trong khi trung tâm của nền dân chủ, Ghonim và nhiều người khác bị bắt giữ và bị gạt ra ngoài lề. Cuộc cách mạng của họ đã bị nhóm Anh Em Hồi Giáo đánh cắp, và khi nó thất bại, quân đội đã bắt giữ nhiều thanh niên thế tục – những người đầu tiên tăng cường làm hùng mạnh cuộc cách mạng. Quân đội đã có trang Facebook riêng để tự bảo vệ mình.

Ghonim bảo: “Đó là thời điểm bại trận. Tôi đã im lặng hơn hai năm, và tôi dùng thời gian để suy nghĩ về mọi chuyện đã xảy ra.”

Và đây là những gì anh kết luận về mạng xã hội ngày nay: “Đầu tiên, chúng tôi không biết làm thế nào để đối phó với những tin đồn. Tin đồn vốn dĩ chỉ là thiên kiến của một số người giờ đã được tin tưởng và lan tràn giữa hàng triệu người. Thứ hai, chúng tôi có xu hướng chỉ giao tiếp với những ai chúng tôi đồng ý, và cảm ơn các phương tiện mạng xã hội, chúng tôi có thể câm lặng, dừng follow và chặn bất kì ai khác. Thứ ba, các cuộc thảo luận online nhanh chóng rơi vào đám đông giận dữ… Cứ như thể chúng ta quên rằng người phía sau màn hình thực ra là người thật chứ không phải avatar.
Và thứ tư, thật sự rất khó thay đổi quan điểm của chúng ta. Vì tốc độ và sự ngắn gọn của mạng xã hội, chúng tôi buộc phải đi tới kết luận và viết các quan điểm sâu sắc chỉ trong 140 kí tự về những vấn đề phức tạp trên thế giới. Nhưng một khi chúng tôi làm thế, nó sẽ tồn tại mãi mãi trên Internet.
Thứ năm, và quan trọng nhất, ngày nay, các trải nghiệm mạng xã hội đều được thiết kế theo cùng một cách, cho like hay thể hiện cảm xúc trước các cam kết, cho post trong các cuộc tranh luận, cho những dòng bình luận (comment) nông cạn dưới những cuộc thảo luận sâu sắc… Như thể chúng ta ở đây để nói chuyện về nhau, chứ không phải nói chuyện với nhau.”

Nhưng Ghonim không từ bỏ. Anh và vài người bạn gần đây lập một website Parlio.com, để chủ trì các cuộc nói chuyện dân sự thông thái hơn về các vấn đề nóng gây tranh cãi, với mục tiêu thu hẹp những khoảng trống, chứ không mở rộng chúng ra. Những tranh luận trên Parlio thường rất hấp dẫn và hàm súc.

Năm 2016, Ghonim kết luận: “Năm năm trước, tôi đã nói ‘Nếu bạn muốn giải phóng xã hội, tất cả những gì bạn cần là Internet.’ Bây giờ tôi tin rằng nếu chúng ta muốn giải phóng xã hội, trước tiên chúng ta cần giải phóng Internet.”

Thomas L. Friedman


Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2018

Mark Manson: Qui tắc của Kant


Qui tắc của Kant

Tùy quan điểm của bạn, Immanuel Kant có lẽ là một người nhàm chán nhất hành tinh hoặc cơn mộng tinh của một hacker năng suất. Trong suốt hơn 40 năm, ông ấy đều thức dậy lúc 5 giờ sáng và viết lách chính xác trong ba giờ. Sau đó ông đi giảng dạy tại cùng một trường đại học trong chính xác 4 giờ nữa. Rồi ông tiếp tục ăn trưa tại cùng một nhà hàng mỗi ngày. Sau đó, vào buổi chiều, ông có thể đi dạo trong cùng một công viên, và trở về nhà trên một con đường vào đúng một giờ mỗi ngày. Ngày nào cũng thế.

Kant dành toàn bộ cuộc đời sống ở Königsberg, đế quốc Phổ. Tôi nói là theo nghĩa đen. Ông không bao giờ rời khỏi thành phố này. Dù chỉ cách biển một giờ, nhưng ông cũng không bao giờ nhìn thấy nó. (Còn một chuyện buồn cười nữa: Isaac Newton cũng chưa bao giờ nhìn thấy biển, dù sống cách biển chỉ vài giờ. Nhưng điều không thể tin nổi là Newton lại là người khám phá ra lực hấp dẫn của mặt trăng chính là nguyên nhân gây ra thủy triều. Và ông khám phá ra điều đó mà chưa bao giờ nhìn thấy thủy triều thật sự ngoài đời.)

Kant là nhân cách hóa của tính hiệu quả. Ông thật máy móc trong thói quen hằng ngày, đến mức hàng xóm của ông còn đùa rằng họ có thể vặn đồng hồ dựa theo giờ ông rời căn hộ mỗi ngày. Ông sẽ đi dạo hằng ngày lúc 3h30 chiều, ăn tối với cùng một người bạn mỗi ngày, và trở về nhà hoàn thành công việc rồi lên giường chính xác lúc 10h tối.

Chúng ta rất dễ chế nhạo một anh chàng như thế này. Thật là một người biến thái. Ê cậu kia, sống là phải nghiêm túc nha!

Nhưng Kant là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử hiện đại. Ông đã chỉ đạo thế giới từ căn hộ đơn ở Phổ nhiều hơn hầu hết các vị vua và các đội quân từng làm trước đó và kể cả từ thời đó tới giờ.

Nếu bạn đang sống trong một xã hội dân chủ - nơi bảo vệ các quyền cá nhân, thế thì bạn nên cảm ơn Kant một phần vì điều đó. Ông là người đầu tiên từng hình dung ra một thể chế thống trị toàn cầu có thể bảo đảm hòa bình trên khắp thế giới. Ông mô tả không gian/ thời gian theo cách thức truyền cảm hứng cho Einstein phát minh ra thuyết tương đối. Ông cũng đưa ra ý tưởng rằng động vật cũng có thể có quyền, phát minh ra triết lý về thẩm mỹ và cái đẹp, giải quyết một cuộc tranh luận triết học suốt 200 năm trong vài trăm trang giấy. Ông tái phát minh lại triết lý đạo đức, từ trên xuống dưới, lật đổ những ý tưởng đã là nền tảng của văn minh Phương Tây kể từ thời Aristotle.

Kant là một tay phá cách đầy trí tuệ. Nếu bộ não chứa những quả bóng thì bộ não Kant hẳn phải toàn bóng thép và dao động hỗn loạn vui nhộn. Những ý tưởng của ông, đặc biệt là về đạo đức, vẫn còn được thảo luận và gây tranh cãi trong hàng ngàn trường đại học ngày nay.

Và đây là điều mà tôi muốn nói tới: triết lý đạo đức của Kant, và tại sao nó lại quan trọng.

Giờ tôi hiểu bạn đang định nói gì. Thật sao Mark? Triết lý đạo đức ư? Khốn kiếp, ai mà thèm quan tâm chứ anh bạn? Hãy cho tôi xem những trích đoạn đầy cảm hứng hoàng hôn và những bức ảnh mèo đi.

Phải, chính là ở lúc này đấy, đó chính là triết lý đạo đức. Bất cứ lúc nào bạn nói: “Ai thèm quan tâm chứ?” hay “Có gì ghê gớm đâu chứ?” là bạn chủ yếu nghi ngờ về giá trị của thứ gì đó. Nó có đáng để bạn bỏ thời gian chú ý không? Nó tốt hơn/ tệ hơn cái gì đó khác nữa? Đó đều là các câu hỏi về giá trị, và toàn bộ chúng đều rơi vào cái ô của triết lý đạo đức.

Triết lý đạo đức của chúng ta xác định giá trị của chúng ta – cái gì bạn quan tâm và cái gì bạn không quan tâm – và giá trị của chúng ta xác định hành động, quyết định và niềm tin của chúng ta. Do đó, triết lý đạo đức áp dụng cho mọi thứ trong cuộc đời chúng ta. Bạn đã hiểu rồi chứ?




Triết lý đạo đức của Kant là độc nhất vô nhị, và phản trực giác. Kant tin rằng nếu một cái gì đó là tốt, nó phải phổ quát – tức là nó không thể đúng trong tình huống này, nhưng lại sai trong tình huống khác. Nếu nói dối là sai trái, nó phải luôn là sai trái trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào. Nó phải là sai trái mỗi khi bất kì ai làm điều đó. Nếu nó không phải lúc nào cũng đúng hoặc sai, thì không thể là một nguyên tắc đạo đức hợp lệ.

Kant gọi các nguyên tắc đạo đức phổ quát này là “các mệnh lệnh vô điều kiện (categorical imperatives)” – các qui tắc để sống mà chúng luôn hợp lệ trong mọi ngữ cảnh, mọi tình huống, và với mọi đối tượng.

Vâng, thần thánh phát khiếp, nghe có vẻ lố bịch. Nhưng Kant đã hết sức nỗ lực làm điều đó. Thực tế, ông đã cố tạo ra các mệnh lệnh vô điều kiện. Một trong số đó đã nhanh chóng bị các nhà triết học khác phá bỏ. Nhưng có nhiều người đã thực sự kiểm tra chúng ở một mức độ nào đó.

Đặc biệt một trong số chúng đang bị kẹt lại. Trong nhiều năm tôi đọc và nghiên cứu triết học, tâm lý học và các ngành khoa học khác, đó là một trong những phát biểu mạnh mẽ nhất tôi từng biết. Lớp áo nghĩa của nó tiếp cận mọi lĩnh vực của đời sống mỗi người. Chỉ bằng một câu duy nhất, nó tóm tắt phần lớn toàn bộ trực giác và giả định đạo đức của chúng ta. Và trong mỗi tình huống, nó đều chỉ ra một hướng rõ ràng về cách chúng ta nên hành động thế nào và tại sao lại vậy.

MỘT QUI LUẬT THỐNG TRỊ TẤT CẢ

OK, dạo đầu thế đủ rồi. Đây là Qui luật của Kant:

“Hãy hành động theo cách, mà bạn dùng nhân tính đối xử với con người, dù đó là chính bạn hay là người khác, luôn luôn như thế trong mọi thời khắc, chứ không chỉ là phương tiện.”

Tôi biết: thực ra là chuyện quái gì thế?

Ok, hãy dừng lại một giây nào.

Kant tin rằng tính hợp lý là thiêng liêng. Khi tôi nói tính hợp lý, tôi không có ý đề cập tới tính hợp lý như Sudoku hay trong cờ tướng. Tôi muốn nói tới tính hợp lý với thực tế chúng ta là những sinh vật duy nhất được biết tới trong vũ trụ có khả năng ra quyết định, cân nhắc lựa chọn và xem xét tác động đạo đức của mọi hành động.

Một cách căn bản: đó là ý thức.

Với Kant, điều duy nhất phân biệt chúng ta với phần còn lại của vũ trụ là khả năng xử lý thông tin và hành động có ý thức. Và đối với ông ấy, điều này rất đặc biệt. Cực kỳ đặc biệt. Chúng ta đều biết, chúng ta là vật duy nhất trong vũ trụ có cơ cấu tự tổ chức thông minh. Vì thế, chúng ta cần dùng nó một cách nghiêm túc. Và cũng do đó, tính hợp lý và việc bảo vệ sự lựa chọn có ý thức phải là cơ sở cho tất cả các lý luận đạo đức của chúng ta.

Kant viết rằng “không có lý trí, vũ trụ chỉ là một thứ lãng phí, vô ích và không mục đích.” Theo quan điểm của Kant, không có trí tuệ và tự do sử dụng trí tuệ đó, chúng ta cũng chỉ như một đống đá. Chả có gì quan trọng cả.

Vì thế, Kant tin rằng toàn bộ đạo đức đều xuất phát từ việc bảo vệ và thúc đẩy ý thức về tính hợp lý trong mỗi cá nhân.

Vậy làm sao bạn làm được điều đó?

Vâng, chính là Qui Luật của Kant ở trên.

Nếu bạn cảm thấy khó hiểu thì để tôi giải thích sâu hơn:

Giả sử tôi đang đói và muốn ăn một đĩa burrito. Tôi vào xe, lái tới Chipotle và gọi một đĩa bự gấp hai lần bình thường khiến tôi vui suốt một tuần liền.

Trong tình huống này, ăn burrito là mục đích “cuối cùng” của tôi. Đó là lý do tại sao tôi làm mọi thứ khác – vào xe, lái xe, đổ xăng,… Tất cả những việc tôi làm để được ăn burrito là “phương tiện”, tức những thứ tôi phải làm để đạt được mục đích “cuối cùng”.

Nếu bạn gọi cho một người bạn để tìm hiểu xem họ đang sống thế nào, việc gọi đó là phương tiện, tìm hiểu xem họ ra sao là đích cuối cùng. Nếu bạn rời bữa tiệc sớm để có thể dậy sớm vào sáng hôm sau, thì việc rời khỏi bữa tiệc là phương tiện, dậy sớm là mục đích cuối cùng.

Phương tiện là những thứ chúng ta làm có điều kiện. Tôi không muốn vào xe và lái đi. Nhưng tôi muốn ăn burrito. Do đó, lái xe là phương tiện để tới cái đích burrito.

Đích là cái được mong muốn theo lợi ích riêng. Đó là yếu tố thúc đẩy các quyết định và hành vi của chúng ta. Nếu tôi muốn ăn burrito chỉ vì vợ tôi muốn ăn burrito, mà tôi muốn cô ấy hạnh phúc, thì burrito không còn là cái đích của tôi nữa – giờ nó là phương tiện đạt tới một cái đích lớn hơn nữa: làm cho vợ tôi vui. Và nếu tôi chỉ muốn làm vợ tôi vui để tôi có thể được thỏa mãn tối nay, vậy thì niềm vui của vợ tôi lại thành phương tiện cho cái đích lớn hơn: sex.

Có khả năng ví dụ cuối cùng khiến bạn nhúc nhích một chút và nghĩ tôi là một anh chàng bẩn thỉu. Và đó chính xác là những gì Kant đang nói tới. Lập luận của ông – địa ngục, qui tắc của ông – phát biểu rằng đối xử với bất kỳ con người nào như một phương tiện hòng đạt được mục đích khác là cơ sở của những hành vi phi đạo đức. Vì vậy, đối xử với đĩa burrito như một phương tiện đạt được cái đích của vợ tôi là tốt. Thật đúng đắn khi làm bạn đời của mình hạnh phúc. Nhưng nếu tôi đối xử với vợ tôi như một phương tiện để đạt được cái đích là tình dục thì Kant sẽ cho rằng đó là sai lầm.

Đây là những quan điểm phổ biến từ qui luật Kant:
-                      Nói dối là sai trái vì bạn đang dẫn dắt sai hành vi có ý thức của người khác để đạt được mục đích của riêng bạn. Do đó bạn đang đối xử với người đó như phương tiện để đạt được mục đích của mình. Vì vậy nói dối là vô đạo đức.
-                      Lừa gạt là vô đạo đức cũng theo lý do tương tự. Bạn đối xử với những qui tắc và kỳ vọng vốn đã được thống nhất với người khác như phương tiện để đạt được mục đích cá nhân.
-                      Bạo lực, cũng tương tự: bạn đối xử với người khác như phương tiện để đạt được những mục tiêu cá nhân hay chính trị lớn hơn. Thật là tồi tệ!

Những ý nghĩa đạo đức của Qui luật Kant

Danh sách dưới đây không đầy đủ. Một số chúng Kant đã giải thích rõ ràng. Một số khác là những gì được ngoại suy từ tác phẩm của ông, dựa trên các giá trị của chính tôi. Hy vọng của tôi là, cuối cùng bạn có thể thấy sự linh hoạt đáng kinh ngạc của câu châm ngôn đạo đức này khi mở rộng tới hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống con người.



-                      Lười biếng – OK, tôi lười. Thật đấy. Và tôi thường thấy tội lỗi về điều đó. Chúng ta đều biết rằng thứ chết tiệt này trong ngắn hạn chắn chắn sẽ làm hại chúng ta trong dài hạn. Nhưng dù vì bất kỳ lý do gì, lợi ích ngắn hạn so với thua lỗ trong dài hạn không bao giờ truyền cảm hứng hay thúc đẩy nổi chúng ta.
Nhưng đó không phải lý do tại sao Kant nghĩ nó là sai. Thực tế, Kant sẽ nói đây là cách sai lầm khi nghĩ về lười biếng. Vì nó không đủ.
Kant tin rằng chúng ta đều có một mệnh lệnh đạo đức buộc phải làm hết sức mọi lúc. Nhưng ông không nói làm hết sức vì lòng tự trọng hay lợi ích cá nhân, hay đóng góp cho xã hội… Ông còn đi xa hơn thế. Ông cho rằng bạn nên làm hết sức vì nếu làm ít hơn cũng chính là tự đối xử với bản thân như phương tiện chứ không phải đích tới.
Vâng, bạn có thể đối xử với bản thân như phương tiện mà.
Khi bạn nằm dài trên trường kỷ, refresh Twitter tới lần thứ 28, bạn đang đối xử với tâm trí và sự chú ý của mình như một nơi chứa đựng niềm vui. Bạn không tối đa hóa tiềm năng ý thức của mình. Thực tế, bạn đang sử dụng ý thức của bạn như một phương tiện để kích thích cái đích đến là cảm xúc của bạn.
Kant cho rằng điều đó không chỉ tệ, mà còn là vô đạo đức. Bạn đang chủ động làm hại chính mình.

-                      Nghiện – dù tin hay không thì Kant cũng không phải con người tiệc tùng. Ông chỉ thưởng thức chút rượu trong bữa trưa. Ông hút xì gà (nhưng chỉ vào cùng một thời điểm mỗi sáng, và chỉ một điếu).
Kant không phải kiểu người không biết tới niềm vui. Cái ông chống lại là sự thoát ly thuần túy. Ông viết rằng dùng rượu hay phương tiện nào khác để thoát ly khỏi cuộc sống hiện tại của ai đó là vô đạo đức vì nó buộc bạn phải dùng tâm trí và tự do lý trí của mình như phương tiện để đạt tới một cái đích khác.
Kant tin vào việc đối mặt với vấn đề. Ông tin rằng đau khổ đôi khi được bảo đảm và cần thiết cho cuộc đời. Chúng ta có xu hướng đánh giá sự vô đạo đức của việc nghiện ngập bằng những thiệt hại nó gây ra cho người khác. Nhưng Kant tin rằng, trước tiên nghiện ngập cơ bản là hành vi vô đạo đức với chính mình, thiệt hại nó gây ra cho người khác chỉ là thiệt hại về phương diện tài sản. Đó là một thất bại khi đối đầu với thực tại lý trí và ý thức của chính mình, và thất bại này giống như nói dối chính mình hay tự lừa mình về tiềm năng sống quí giá. Và với Kant, nói dối chính bản thân cũng là vô đạo đức như nói dối người khác.

-                      Làm người khác hài lòng và tìm kiếm sự thừa nhận – OK, tôi biết không hay nếu cứ luôn nịnh bợ người khác, nhưng thế là vô đạo đức ư? Thật sao? Chẳng lẽ việc làm người khác vui vẻ không phải là việc có đạo đức sao?
Không nhất thiết.
Tìm kiếm sự thừa nhận và làm người khác hài lòng buộc bạn thay đổi hành động và lời nói, không còn phản ánh những gì bạn thực sự nghĩ hoặc cảm nhận. Vì thế bạn đang đối xử với bản thân như phương tiện chứ không phải mục đích. Nhưng nó sẽ trở nên tệ hơn. Vì nếu bạn thay đổi lời nói và hành vi của bạn khiến người khác cũng giống như bạn, thì bạn đang đối xử với họ như phương tiện cho mục đích của bạn. Bạn đang thay đổi và thao túng nhận thức của họ về bạn để thu được phản hồi dễ chịu từ họ. Kant chắc chắn sẽ cho rằng đó cũng là vô đạo đức. (thế này thì làm sao bạn dám nói với tôi rằng chiếc áo tôi đang mặc rất hợp với tôi?) Tôi đã viết khá dài về cách người ta làm người khác hài lòng và tìm kiếm sự thừa nhận sẽ dẫn tới những mối quan hệ độc hại. Nhưng lại một lần nữa, như thường lệ, Kant còn tiến xa hơn. Vì Kant đích thực cứng đầu như thế.

-                      Thao túng hoặc Ép buộc – ngay cả khi bạn không nói dối, nhưng bạn giao tiếp với thái độ và mục đích giành được gì đó từ ai mà không có sự chấp nhận hoàn toàn hay đồng ý rõ ràng của họ, thì bạn đang làm một việc vô đạo đức. Kant rất coi trọng việc đồng ý được thông báo đầy đủ. Ông tin rằng đó là cách duy nhất để có tương tác lành mạnh giữa các cá nhân. Điều đó là cơ bản trong thời đại của ông, và một số thứ người ta vẫn còn đang phải đấu tranh để chấp nhận ngày nay.
Có hai lĩnh vực trong thế giới hiện đại tôi nghĩ vấn đề đồng ý là quan trọng, và Kant có thể có nhiều điều để nói về nó.
Đầu tiên là: tình dục và hẹn hò. Theo qui tắc của Kant, bất cứ điều gì thiếu sự đồng ý rõ ràng, đầy đủ thông tin (và hoàn toàn tỉnh táo), đều nằm ngoài giới hạn đạo đức. Đây là một vấn đề nóng ngày nay, cá nhân tôi nghĩ mọi người làm nó phức tạp hơn nhiều mức cần thiết. Cơ bản đó là sự tôn trọng. Mọi người đều cho rằng đó có nghĩa là xin phép 20 lần trong một ngày. Không. Tất cả những gì bạn phải làm là cho biết bạn cảm thấy thế nào, hỏi họ cảm thấy thế nào, và tôn trọng bất kỳ phản ứng nào xảy ra theo cách của bạn. Thế thôi. Không hề phức tạp.
Sự tôn trọng cũng thiêng liêng trong khuôn khổ đạo đức của Kant vì Kant tin rằng mọi sinh vật có ý thức đều có phẩm giá cơ bản và phải được tôn trọng mọi lúc, bởi tất cả mọi người. Đối với Kant, đồng ý là hành động thể hiện sự tôn trọng. Bất kỳ cái gì không dẫn tới sự đồng ý giữa hai người, ở mức độ nào đó, là không tôn trọng.
Tôi biết điều đó khiến Kant như một bà già đang tức giận, nhưng tác động của vấn đề đồng ý còn rộng lớn hơn nhiều, chạm tới mọi mối quan hệ nhân loại chúng ta có.
Một lĩnh vực hiện đại khác mà nó có vấn đề là bán hàng và quảng cáo. Khá nhiều chiến thuật tiếp thị được xây dựng để đối xử với con người như phương tiện hòng đạt tới cái đích cuối cùng (kiếm tiền). Thực ra Kant đã đấu tranh rất nhiều trong đời mình trước những tác động đạo đức của chủ nghĩa tư bản và sự bất bình đẳng của cải. Ông tin rằng không ai có thể tích lũy được một lượng lớn tài sản mà không thao túng hay chèn ép trên đường họ đi. Do đó ông hồ nghi về toàn bộ hệ thống. Ông không phải là người chống chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa cộng sản khi đó còn chưa tồn tại), nhưng sự bất bình đẳng của cải trong thời đại ông sống khi đó khiến ông không thoải mái. Ông tin rằng bất kỳ ai đã tích lũy một lượng đồ sộ tài sản đều có một mệnh lệnh đạo đức phải cho đi phần lớn tài sản tới số đông đói khát.

-                      Niềm tin mù quáng – cũng có thể đặt vào đây, đặc biệt kể từ khi các nhà tư tưởng thời kỳ Khai Sáng nổi tiếng vì có quan điểm khá phân biệt chủng tộc (vốn rất phổ biến trong thời đại họ sống). Thật thú vị, Kant, dù từng có nhiều phát ngôn kinh khủng về chủng tộc trong sự nghiệp, nhưng lại có góc trí tuệ và nhận ra điều đó sau này, rằng không chủng tộc nào có quyền chinh phạt các chủng tộc khác. Sau cùng, nó có nghĩa: phân biệt chủng tộc và các dạng niềm tin mù quáng khác đều là tình tiết sách vở nhằm coi con người như phương tiện chứ không phải đích đến. Kant đã đi tới kết luận rằng nếu sự hợp lý là thiêng liêng, thì chẳng có gì là đặc quyền dành riêng cho người châu Âu, mà không cho người của quốc gia hay chủng tộc khác.
Ông cũng kịch liệt chống lại chủ nghĩa thực dân. Kant lập luận rằng không quan tâm tới vấn đề chủng tộc, bạo lực và áp bức dùng để chinh phạt các dân tộc có thể phá hủy nhân tính con người trong quá trình này. Đó là một môi trường vô đạo đức tột cùng.
Điều này là cực đoan ở thời đại đó. Cực đoan đến mức bị nhiều người coi là vô lý. Nhưng Kant lại lý luận rằng cách duy nhất để ngăn chặn chiến tranh và áp bức là tạo ra một chính phủ quốc tế nhằm tổ chức và ràng buộc các quốc gia lại với nhau. Nhiều thế kỷ sau, Liên Hợp Quốc ra đời phần lớn dựa trên tầm nhìn xa trông rộng của ông.

-                      Sứ mệnh tự cải tiến – hầu hết các nhà triết học thời kỳ Khai Sáng tin rằng cách tốt nhất để sống là tăng hạnh phúc càng nhiều càng tốt, và giảm đau khổ càng nhiều càng tốt. Cách tiếp cận đạo đức này được gọi là “chủ nghĩa thực dụng” và vẫn là quan điểm chiếm ưu thế được nhiều nhà tư tưởng nắm giữ ngày nay.
Kant có quan điểm khác hoàn toàn về cải thiện thế giới. Hãy gọi nó là Châm Ngôn Của Michael Jackson. Vì Kant, cũng giống như Michael, tin rằng “nếu bạn muốn làm cho thế giới thành một nơi tốt hơn, hay nhìn vào chính mình, và thay đổi nó”. Hay chưa?
Tất nhiên thay vì nắm lấy đũng quần, Kant đã lập luận bằng sự hợp lý tới tàn nhẫn.
Kant tin rằng, nói chung không thể biết liệu một người có xứng đáng được hạnh phúc hay đau khổ, vì bạn không bao giờ thực sự biết dự định và mục đích của họ là gì khi họ hành động.
Tương tự, ngay cả khi bạn nên làm cho người khác hạnh phúc, cũng không có cách nào để biết chính xác cách làm cho họ hạnh phúc. Bạn không biết cảm xúc, giá trị hay kỳ vọng của họ. Bạn không biết những tác động mà hành động của bạn sẽ gây ra cho họ.
Trên hết, những gì tạo thành đau khổ hay hạnh phúc, trong hầu hết tình huống không cực đoan, đều không rõ ràng. Việc ly hôn có thể khiến bạn khó chịu hôm nay, nhưng một năm sau có khi lại là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với bạn. Bạn có thể tận hưởng niềm vui của lễ kỷ niệm ngày đó với bạn bè, nhưng có lẽ nó làm bạn mất tập trung khi theo đuổi thứ gì đó có thể ngăn được nhiều đau khổ trong tương lai.
Do đó, Kant lý luận rằng cách duy nhất hợp lý để cải thiện thế giới là thông qua cải thiện bản thân. Vì điều duy nhất chúng ta có thể thực sự trải nghiệm là chính bản thân mình.
Kant định nghĩa sự cải thiện là việc phát triển khả năng tuân theo mệnh lệnh vô điều kiện. Và ông nhìn nhận tự cải thiện là một bổn phận – một nghĩa vụ không thể chịu đựng được đặt lên tất cả chúng ta.
Với Kant, thưởng/phạt vì không tuân thủ bổn phận không phải là thiên đường hay địa ngục, mà chính là cuộc đời chúng ta làm cho chính bản thân mình. Việc tuân thủ đạo đức không chỉ tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho bạn, mà còn là cuộc sống tốt đẹp hơn cho những người xung quanh bạn.
Qui tắc của Kant có hiệu ứng sóng. Khả năng cải thiện tính trung thực của bạn với bản thân sẽ làm tăng việc bạn trung thực với người khác. Sự trung thực của bạn với người khác cũng lại ảnh hưởng tới họ, làm họ trung thực với bản thân hơn, từ đó giúp cải thiện cuộc sống của chính họ. Đó là sự thật trong mọi khía cạnh qui tắc của Kant, dù đó là tính trung thực, hiệu suất, từ thiện, hay sự đồng thuận. Châm Ngôn Của Michaeal Jackson cho rằng qui luật Kant, khi có đủ số người tuân thủ, sẽ sinh ra hiệu ứng quả cầu tuyết trên thế giới, kích động nhiều thay đổi tích cực hơn bất kỳ chính sách có tính toán nào.

-                      Bổn phận tự trọng – Kant hiểu theo trực giác rằng có một liên kết cơ bản giữa sự tôn trọng của chúng ta với bản thân và sự tôn trọng của chúng ta với thế giới. Cách chúng ta tương tác với tâm lý của mình là hình mẫu ta dùng để tương tác với người khác, nên ít tiến bộ có thể làm với người khác cho đến khi chúng ta tiến bộ với chính mình. Ông có lẽ hẳn sẽ chán ghét phong trào tự trọng ngày nay, coi nó là cách khác để đối xử với con người như phương tiện hòng đạt được cảm giác tốt hơn. Tự trọng không phải là cảm giác tốt hơn. Tự trọng là tự biết giá trị của bản thân. Biết rằng mỗi người, dù họ là ai, đều xứng đáng với các quyền và phẩm giá cơ bản. Và rằng mọi ý thức đều thiêng liêng và phải được đối xử như thế.
Kant hẳn sẽ lập luận rằng tự bảo mình là mình vô giá cũng sai lầm như bảo người khác rằng họ vô giá. Nói dối bản thân cũng vô đạo đức như nói dối người khác. Làm hại bản thân cũng tồi tệ giống như làm hại người khác.
Tự yêu và tự quan tâm chính mình do đó không phải thứ bạn nên tiếp thu và thực hành. Chúng là một cái gì đó về mặt đạo đức, bạn sẽ gọi là nuôi dưỡng bên trong. Thậm chí chúng có thể là tất cả những gì bạn có thể để lại.

Tác động từ triết lý của Kant

Triết lý của Kant, nếu bạn đi sâu vào, sẽ gặp nhiều mâu thuẫn và các vấn đề. Nhưng sức mạnh của những ý tưởng ban đầu của ông không nghi ngờ, đã thay đổi thế giới. Và thật kỳ lạ, khi tôi gặp chúng một năm trước, chúng đã thay đổi tôi.

Tôi đã dành hầu hết những năm tháng của tuổi 20 để theo đuổi nhiều thứ trong danh sách trên nhưng tôi theo đuổi chúng vì lý do thực tế và làm ăn. Tôi theo đuổi chúng như phương tiện vì tôi nghĩ chúng có thể khiến đời tôi khá lên. Trong khi đó, tôi càng làm việc, tôi càng cảm thấy trống rỗng.

Nhưng đọc Kant là một sự hiển linh. Chỉ trong 80 trang, Kant đã xua tan những giả định và niềm tin nhiều thập kỷ. Ông cho tôi thấy những gì bạn thực sự làm không quan trọng nhiều như mục đích đằng sau việc làm nó. Và cho đến khi bạn tìm đúng mục đích, bạn sẽ chẳng thấy gì hết.

Kant không phải luôn là một người nhàm chán, ám ảnh bởi thói quen. Ông không phải luôn là thị trưởng của Boreville. Thực tế, khi Kant còn trẻ, ông cũng là tay đi săn trong một nhóm. Ông có thể thức khuya uống rượu, chơi bài với bạn bè. Ông ngủ muộn và ăn quá nhiều, tổ chức những bữa tiệc lớn.

Mãi đến năm 40 tuổi, ông từ bỏ tất cả, phát triển thói quen sống khiến ông trở nên nổi tiếng sau này. Ông nói mình phát triển thói quen đó lúc 40 tuổi vì nhận ra những tác động đạo đức từ hành động của mình và quyết định không cho phép bản thân lãng phí thời gian và năng lượng quí báu khiến ý thức của ông bỏ đi.

Kant gọi đó là “phát triển nhân cách” – xây dựng một cuộc đời được thiết kế để tối đa hóa năng lực của mình. Ông tin rằng hầu hết mọi người đều không thể phát triển nhân cách thực sự cho tới khi họ đạt đến tuổi trung niên, vì trước khi tới lúc đó, họ vẫn còn bị quyến rũ bởi vô số ý tưởng từ thế giới, thích bay nhảy đây đó, đi từ phấn kích đến tuyệt vọng rồi ngược lại. Chúng ta quá bị ám ảnh với việc phải tích lũy nhiều phương tiện và bỏ quên mục đích đã thúc đẩy ta vào trong vô vọng.

Để phát triển nhân cách, một người phải làm chủ hành động và bản thân. Và dù chỉ vài người trong số chúng ta có thể làm được điều đó trong đời, Kant tin rằng đó là điều mỗi chúng ta có bổn phận phải làm.

Trong thực tế, ông tin rằng đó là thứ duy nhất ta cần hướng tới.

Mark Manson
Ngày 16 tháng 8 năm 2018