Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

Luận Anh Hùng-Cheryl Pham: Chương Mười Sáu-Lòng người ai thấu



Chương Mười Sáu: Lòng người ai thấu

Bất kiến nhân tâm xá anh hào

Năm Dương Bình Vương thứ 5 (948), hoàng tử Văn 17 tuổi, lập phi tử, là Dương Thị Minh Ngọc, tằng tôn nữ nhà tộc trưởng họ Dương ở châu Ái. Ngô gia hậm hực phản đối, nhưng bất thành.
Cùng năm đó, Kiều Thuận lại đưa quân xuống núi gây bạo loạn. Bình Vương mang 2.000 quân đi đánh, cho hoàng tử Văn đi cùng lịch lãm. Thấy Văn đứng cạnh Bình Vương, Thuận mắt lóe sáng, lòng như mở cờ, đổi chiến thuật, không xua quân ra mà chỉ ở trong thành cất giọng thật to chửi bới.
-         Tên phản nghịch Dương Tam Kha kia, chớ dùng vương quyền mà ức hiếp trung thần nghĩa sĩ. Ngươi là bề tôi phản nghịch, cướp ngôi nhà Ngô, đuổi giết con trưởng của tiên chúa, lợi dụng Dương hậu mẹ góa con côi dung túng Dương gia mà tiếm quyền, việc tày đình ấy chết ngàn lần không hết tội. Lại còn giả bộ từ bi, lấy con thứ tiên chúa làm dưỡng tử mà giam cầm, mị hoặc u mê đầu óc hắn, quên ơn phụ mẫu sinh thành, bái giặc làm cha. Ngươi tưởng nhà Ngô đã tận, nhưng ta quyết không nhẫn nhục cam chịu, nhất định phải đòi lại công bình cho nhà Ngô. Nay cùng trung thần nghĩa sĩ, hào kiệt bốn phương, quyết dành hết tim gan này đền ơn tiên chúa, diệt kẻ tội đồ nhà ngươi, khôi phục triều Ngô. Ta vì trăm họ mà phò Ngô cứu Ngập. Ngô tiên chúa có linh thiêng, xin hãy tương trợ Thuận này.
Những lời cất lên ai oán khiến hoàng tử Văn xây xẩm mặt mày. Bình Vương vẫn thản nhiên cho quân bày trận, rồi đáp:
-         Tên thổ phỉ kia, vua nào ngươi cũng kiếm lời điêu ngoa mà lăng nhục. Có ai là nam nhi hảo hán lại trốn chui trốn lủi ở cái xó Hồ Hồi, cướp bóc nhũng nhiễu lương dân, cấu kết ngoại bang, oán thán triều cuộc? Gầm trời này rộng thế, anh hùng tất có chỗ trú thân. Còn kẻ phản đồ nhà ngươi, nhìn xem có ai dung? Nam nhi chi chí, phải báo đền nợ nước. Nhưng ngươi, chỉ biết ngày ngày chui rúc góc hang, mang lòng dạ tiểu nhân gây hại bá tánh, dùng miệng gian tà reo rắc nghịch tâm, sao xứng làm người?
Lúc này có tiếng khèn vang lên, ám hiệu báo binh đã thành công đột nhập vào thành. Bình Vương phát lệnh tấn công. Cửa thành được đám tử sĩ tiên phong lén vào trước mở ra, đoàn người ngựa ào ào tiến lên. Thuận không kịp đề phòng, bị đánh úp lại từ trong lẫn ngoài. Quân Thuận thua tan tác. Đám thân sĩ và vệ sĩ của hắn bị chém chết hết. Thuận bị trúng bốn mũi tên của Bình Vương, lại bị mấy vết chém, thương tích cực nặng, may còn chút hơi tàn, được một nhóm thân tín mở đường máu cứu thoát khỏi truy sát, trốn trong nhà một mục dân nơi khe núi sâu. Mãi hai năm sau thương thế hắn mới hồi phục, quay lại bản doanh Hồ Hồi của mình mà tiếp tục mưu đại sự.
Trận này tìm không thấy xác Thuận, Bình Vương biết lại để xổng mất hắn, rất bực mình, cho dán cáo thị tầm nã, tăng giải thưởng gấp 10 lần trước đây.
Chỉ có hoàng tử Văn sau lần đó lòng dạ không yên. Văn hỏi mẹ - Dương thị:
-         Bình Vương phản lại phụ vương con, cướp ngôi đuổi diệt đại ca con. Sao không ai oán?
-         Bá tánh chỉ cần một chữ: ‘an’. Kẻ có dã tâm mang lòng phản nghịch chỉ sợ hai chữ: ‘tài’, ‘đức’. Dưỡng phụ con có đủ ba chữ ấy, tài đức hơn người khiến kẻ khác tâm phục khẩu phục, giỏi trị quốc an dân khiến trăm họ được nhờ. Trung thần hay nghịch thần mà con hiểu thật nông cạn, đâu là gì với xã tắc, nó chỉ có nghĩa với một nhà mà thôi.
-         Là mẫu thân thật sự dung túng cho ngoại thích Dương gia làm loạn. Sách thánh hiền dạy ‘trung quân, ái quốc’. Bình Vương cướp ngôi của nhà Ngô ta rõ là nghịch thần. Sao mẫu thân vẫn để con làm dưỡng tử của người ấy?
-         Ta còn có thể làm gì? Ngoại xâm nội đấu. Giá đại ca của con hay con có tài đức bằng một phần cha nuôi con, xoay chuyển được cục diện ấy, thì đâu phải nhờ tới hắn đứng ra gánh vác duy trì nhà Ngô? Bình Vương hy sinh danh tiếng trung thần nghĩa sĩ vì tiên vương, lại dành hết tâm sức dạy dỗ con kế nghiệp, ơn nghĩa ấy lớn thế mà chỉ đổi được sự nghi kị của con thôi sao? Ta làm mẹ cũng thật thất bại.
-         Ơn nghĩa của cha nuôi lòng con đã sáng tỏ. Nay con muốn khôi phục lại nhà Ngô, có được hay chăng?
-         Thế thì phải xem bản lĩnh của con đến đâu đã.
Dương thị nhìn con, thầm gật đầu, nhưng lòng đầy sương giá.

Sau mùa hè năm ấy, Nam Hán không liên lạc được với Kiều Thuận, nghi chân trong này đã bị diệt, tướng trấn thủ biên giới Lý Đạo Khê liên tục thúc quân xâm nhập Tĩnh Hải. Lần nào cũng bị Ngô Nhật Kha đánh lui. Tin Kha báo về tới tấp, Bình Vương sai hoàng tử Văn lên đường tới Lục châu, làm bổ tướng cho Ngô Nhật Kha, cùng đánh Nam Hán. Đây quả là cơ hội Văn tưởng cầu không được. Văn hăng hái lên đường tới gặp thúc bá mình.
Tới nơi, Văn hỏi Nhật Kha:
-         Sao thúc chịu khuất phục Bình Vương?
Ngô Nhật Kha – vốn dĩ là em họ Ngô Vương, bị hỏi bất ngờ, nheo nheo mắt nhìn hoàng tử Văn, trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
-         Ngài ấy vừa có tài, vừa có tâm, có quân công hiển hách giang san, có binh quyền uy vũ, sau lưng lại có Dương gia và Đỗ gia thực lực hùng hậu nhất nhì đất Tĩnh Hải. Ta không khuất phục thì phải làm sao?
-         Nay ta muốn khôi phục lại nhà Ngô, thúc có giúp ta không?
-         Hoàng tử, ta cũng là người họ Ngô, cũng rất oán hận khi Dương Bình Vương soán ngôi, dù là với mục đích gì đi chăng nữa. Hiển nhiên ta ủng hộ ngài khôi phục lại nhà Ngô, nhưng lúc này ta đành phải khuyên ngài: nhẫn.
-         Tại sao?
-         Ngài nhìn xem, thế cục bây giờ không có lợi cho ngài hay bất kì ai họ Ngô. Dương Bình Vương công bằng liêm chính, chiêu hiền đãi sĩ, giỏi trị quốc an dân, được lòng thiên hạ. Ngay cả người Ngô gia cũng được hắn đối xử bình đẳng, không thiên vị. Lúc tiên vương mất, thời cuộc hỗn loạn, phản tặc phỉ rợ khắp nơi nổi dậy. Vậy mà chỉ mấy tháng, hắn đã cất quân đi bình định hết thảy, khiến ai cũng cam chịu lui binh. Nam Hán và Đại Lý hung hăng thế, mà sau khi bị hắn một phen tắm máu, liền không dám ngông cuồng lớn mật. Ngay cả những sứ quân hùng mạnh cát cứ hàng trăm năm ở Đỗ Động Giang, Bố Hải Khẩu, Siêu Loại cũng đều phục tài hắn mà im hơi lặng tiếng mấy năm nay. Giờ ngài chịu ơn hắn, trong người lại chẳng có quân công, không có tiền bạc và binh lực hùng hậu ngoài thế lực không đáng kể của họ Ngô ta, đám người trong ngoài Tĩnh Hải kia sao bỏ lỡ cơ hội chèn ép ngài hòng xưng hùng xưng bá.
-         Vậy ta phải làm sao?
-         Nhẫn nhịn chờ thời. Ta hiểu hẳn Bình Vương cũng đang bồi dưỡng ngài trưởng thành, có đủ tài đức tiếp nhận vương quyền. Nhưng với tâm tính của ngài, e rằng thời gian đó sẽ rất lâu.
-         Ta không muốn đợi nữa.
-         Vậy chỉ còn một cách: lập nhiều quân công nho nhỏ gây thanh thế, thúc đẩy liên minh với các thế lực khác qua liên hôn. Đợi khi hắn không đề phòng, bất ngờ đảo chính, lật đổ hắn. Nếu ngài toàn tâm toàn ý, không quá ba hay năm năm nữa, thiên hạ sẽ sớm về tay Ngô gia.
-         Ý hay. Đa tạ thúc đã chỉ bảo.
Tâm trạng hừng hực nhiệt thành được khai sáng, Văn từ đó quyết tâm ra trận lập công, đánh lui liền mấy đợt xâm nhập của Nam Hán. Nhật Kha hài lòng, viết thư tấu với Bình Vương, hết lời khen ngợi hoàng tử.
Văn về kinh, được đám trọng thần trước vẫn khinh khi y là kẻ hủ nho vô dụng, nay đã ngả mũ cúi chào.
Tháng 11 năm đó, Văn cưới thê tử thứ hai, con gái của Hữu thừa tướng Kiều Tri Hựu. Cuối năm, Văn xin Bình Vương về dự giỗ tổ Ngô gia ở Ái châu.
Xử Bình băn khoăn, kín đáo bảo Dương Bình Vương:
-         Bệ hạ, hoàng tử quá nôn nóng rồi. Có nên làm ngài ấy kiềm chế lại một chút không?
-         Cứ để mọi chuyện tự nhiên đi. Hắn cũng không còn nhỏ nữa, phải tự đối diện với thực tế. Ta và Dương gia bao bọc che chở cho hắn quá nhiều và quá lâu rồi.
-         Nhưng ngài ấy tâm tính còn non nớt, hành sự còn cẩu thả, lỗ mãng, việc trị quốc chưa động tay chút nào. Quả hái non quá sẽ đắng.
-         Hắn đã có nhi tử, còn non gì nữa. Bao bọc tốt quá khiến hắn không chịu trưởng thành. Ngô gia muốn động tay chân cũng phải nhìn thời thế và thực lực. Ngô gia gần đây có biến không?
-         Bẩm không có. Nhưng ngài nên cẩn trọng vẫn hơn. Họ Ngô ngoài đích tử tiên đế bốn người ra, có anh em Ngô Nhật Kha và Ngô Nhật Khiêm là đáng chú ý. Nhật Khiêm làm thủ lĩnh đám quân tồn lại ở bản doanh Ngô tiên chúa khởi binh năm Mậu Tuất (938). Sau khi tiên chúa lên ngôi thì hắn kéo họ về Đường Lâm, quê hương tiên chúa, lập thành một nhóm vũ trang riêng của họ Ngô. Nhóm này từ trước tới giờ chỉ khoảng 500 người. Năm ngài lên ngôi, có gây loạn nhỏ ở Ái châu. Lúc đó ngài bận đánh Đại Lý và Nam Hán, nên ta tự quyết, thay mặt ngài cho người đi đánh dẹp. Từ đó đến nay, nhóm binh này chỉ quanh quẩn sự vụ Ngô gia, cũng không chiêu thêm binh mã, ta chưa có cớ dẹp bỏ. Còn người em Nhật Kha có tài thao quân đảm lược, mấy năm nay tương đối an phận trấn giữ Lục châu. Hoàng tử vừa từ Lục châu trở về, đã thay đổi hành xử chóng mặt. E là hắn đã có tác động.
-         Nhật Khiêm, Nhật Kha còn đích tử nào không?
-         Nhật Kha có bốn thê thiếp và 12 người con, trong đó có 5 nam. Nhưng 4 nhi tử đầu đều yểu mệnh chết cả. Khi tới Lục châu, hắn cưới thêm một tiểu thư danh giá nổi tiếng xinh đẹp trong vùng, sinh được đứa con trai thứ năm, đặt tên Ngô Nhật Khánh, yêu chiều như mạng. Nay đứa trẻ đã gần một tuổi. Còn Nhật Khiêm có một thê tử và bốn con, đều đã chết vì tật bệnh từ lâu. Hắn không chịu tục huyền, sau nhận các con của em trai làm dưỡng tử.
-         Như vậy trước mắt không lo y phản lại Xương Văn. Cứ để họ tùy ý hành động.

Năm Dương Bình Vương thứ 6 (949), nhiều tin vui tới tấp đến với vua tôi. Đỗ nương nương sau nhiều năm chữa trị, đã đi lại được bình thường. Thi thoảng nàng cùng nhà vua dự lễ hội với người dân các châu huyện.
Năm ấy mùa màng bội thu. Tô thuế thu được gấp ba, gấp bốn năm trước. Chiêm Thành cử sứ giả đến kết minh, mong có thêm lực lượng đối chọi lại đế quốc Khmer đang mài dao bên cạnh(1). Bình Vương không muốn phật lòng cả hai láng giềng, bèn hứa hẹn sẽ không nhảy vào cuộc tranh giành này.
Việc khai hoang đã có những kết quả đầu tiên. Nhóm binh của Đỗ Cảnh Thạc khẩn được hơn một vạn mẫu ruộng và đất hoang, năm nay gặt vụ mùa đầu tiên, đem dâng biếu chúa 10 xe ngựa thồ. Trong khi dẹp phỉ rợ để san lấp rừng hoang, Thạc bị lạc và bị đám cướp kia vây đánh, chém đứt tai trái. May mà viện binh tới cứu được một mạng. Bình Vương nghe Thạc kể, rất lấy làm xúc động, ra chiếu khen ngợi sự quả cảm của quân tướng và những người khai hoang nói chung, lại phong thưởng hậu hĩnh cho Thạc cùng đội quân của hắn.
Một tin vui lớn hơn. Chiến thuyền đúng nghĩa đầu tiên của thủy quân Tĩnh Hải đã hoạt động. Sau gần 10 năm dụng tâm cho người phục dựng, chế tạo mô phỏng lại các chiến thuyền của Nam Hán thu được trong trận Bạch Đằng, lần thử nghiệm nào cũng thất bại; cuối cùng kiên trì của Bình Vương đã cho quả ngọt. Chiến thuyền có cải tiến một chút cho phù hợp với địa hình sông ngòi nhỏ và dày đặc của ta, có thể chở được 200 binh, 5 cỗ voi kéo, và gần 100 thớ ngựa. Bình Vương và quân tướng hết sức hoan hỉ, khao quân ba ngày. Sau lại cho đóng thêm 10 chiếc nữa, dự định 3 tới 5 năm nữa sẽ hoàn tất, thủy quân nhất định trở thành một lực lượng hùng mạnh, ít nhất cũng phải đánh ngang tay với thủy quân Chiêm Thành.
Vui hơn cả là hoàng tử Văn liên tục lập công đánh phỉ rợ và Nam Hán ở Lục châu, Phong châu. Văn đã bắt đầu tự dẫn binh đi, không cần sự phò tá của Ngô Nhật Kha. Văn cũng có thêm hai con: một trai một gái. Chưa tới hết năm, Văn lại xin chỉ hôn với nữ nhi Đỗ gia.
Lúc này, Bình Vương bảo Tả tướng Lã Xử Bình chuẩn bị lễ phục, định ngày sắc phong Văn làm thái tử. Nhưng Bình không cho là nên, bèn tâu với vua:
-         Bệ hạ, hoàng tử mới chỉ biết đánh mấy đám rợ phỉ và dăm ba tốp lính ngoại xâm vài ngàn người, chỉ ngang tay với một bổ tướng mới lên trong quân đội của ta thôi. Vẫn chưa thể coi là lịch lãm rèn luyện đủ. Chỉ là Ngô Nhật Kha và mấy tướng tá họ Ngô mượn cớ được nước dâng thuyền, cố tình tâng bốc hết lời khiến văn thần và nhiều người không biết cứ khen hay. Nay người nên cho hoàng tử thời gian rèn luyện thêm về chính vụ, để hiểu được việc trị quốc không chỉ có cầm giáo gươm, mà cần nhiều đến sách lược kinh bang tế thế.
Bình Vương ngẫm lại, cho là phải, bèn lui việc này, không sớm bàn tới nữa.
Vương và Xử Bình chỉ không biết rằng, hoàng tử Văn lúc này đã nóng ruột đến mức không muốn đợi thêm. Văn ngày ngày lén mật đàm với ba tướng tá họ Ngô, lại thư từ cùng Ngô Nhật Khiêm, Ngô Nhật Kha hòng tìm thời cơ thích hợp đoạt quyền.


(1)     Đế quốc Khmer lúc này nằm dưới sự cai trị của Rajendravarman II, từ năm 944 tới 968. Rajendravarman II thực hiện nhiều thay đổi đáng kể khi lên ngôi: dời đô, chuyển dần sang chế độ cai trị tập quyền, xây dựng nhiều công trình lớn, và gây hấn với Chiêm Thành quốc (hay vương quốc Chăm pa). Sang năm 950, chiến tranh đầu tiên đã nổ ra giữa Khmer và Chiêm Thành.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...