Chương Mười: Rửa tay gác kiếm
Anh hùng cũng có lúc rửa tay gác kiếm
Tháng 10 năm Tiền Ngô Vương thứ hai
(940), tướng quân Đinh Công Trứ - giáo quan được Tam Kha mời ở lại giúp luyện kỵ
binh ở đại doanh Đại La – từ trần, hưởng thọ 38 tuổi. Đinh giáo quan khi đó
đang đứng quát tân binh chạy sai đội hình thì đột ngột quỵ xuống. Dù mời các
lang y giỏi tới, nhưng vô phương cứu chữa. Đinh tướng đang thụ chức Thứ sử Hoan
châu, truyền thừa lại cho người em họ. Ngô Vương thương tiếc, tặng lễ hậu và cho
tướng trẻ Phạm Bạch Hổ phụ trách đưa về an táng nơi quê nhà. Lão tướng Phạm
Chiêm tiễn theo một đoạn đường về Hoan châu.
Người ta kể rằng, sau khi an táng
cha, cậu bé Đinh Bộ Lĩnh, lúc này đã là thiếu niên 17 tuổi, rất buồn bã, ngày
nào cũng ra mộ cha ngồi khóc. Cậu không ngờ, lần chia tay ba năm trước là lần
cuối cậu được gặp cha mình(1).
Tình cờ một ngày đang ngồi bên mộ
cha, nghe tiếng la hét kêu khóc ầm ĩ gần đó, Lĩnh chạy tới. Thấy một đám đông
đang liên tục đuổi bắt, đấm đá một người đàn ông nhỏ thó lạ mặt. Ông ta máu me
đầy mình, liên tục van xin, nhưng đám người vẫn không ngừng chửi rủa và hành hạ.
Lĩnh xông tới quát đám người. Có lẽ do lúc đó cậu mới từ chỗ chú trở về nhà, ăn
mặc bình dân, nên đám người không nhận ra, tưởng cậu là đồng bọn, cũng xông vào
đánh cậu. Nhưng con trai của một võ tướng, lại vài năm tự thân lĩnh binh đánh rợ,
làm sao sợ đám nông dân kia. Được hơn chục chiêu, đám người dính đòn đau, lăn
lê bò toài, rồi tìm cách chạy chối chết. Cậu đỡ người đàn ông lạ dậy, thấy ông
ta có vẻ thư sinh yếu đuối, ăn mặc như thầy đồ, thương tích rất nặng, cậu cõng
ông về nhà cho người chữa trị.
Hóa ra người đó là một phong thủy sư
người Hán, hay đi khắp nơi hành nghề xem đất cho nhà người ta. Ông ta đi qua
nơi này, thấy một nhà phú hào đang dựng lại cổng chính, bèn phán mấy câu tai họa
“Cổng làm thế này mang họa diệt tộc, không quá ba năm gia chủ sẽ táng gia bại sản,
trai vắn số, gái đĩ điếm”. Chủ nhà cũng biết chút phong thủy, không tin. Thế là
cãi nhau to. Nghĩ rằng ông ta cố ý nói điềm xui xẻo, liền cho người đánh ông ta
tơi tả.
Nay ông ta được Lĩnh cứu, vô cùng cảm
tạ ơn cứu mạng của cậu. Khi biết cậu là gia tộc thượng võ, nhiều đời làm quan
thanh liêm, cha cậu lại vừa qua đời, nhà phong thủy nghĩ ngợi một lát rồi bảo
Lĩnh:
-
Ta
chẳng còn bạc, cũng không mang theo đồ quí giá gì trên người. Ta sẽ xem âm phần
nhà tráng sĩ để trả ơn cứu mạng.
Hôm sau, Lĩnh cùng ông ta ra mộ cha.
Ông ta nhìn quanh, rồi phán:
-
Mộ
phần này cũng tạm. Chỉ là hạng trung. Yên cửa yên nhà trong hai đời thôi. Nay
ta thấy đất này có long mạch, nếu táng lão gia ở đó sẽ được kết phát, tất dựng
được nghiệp lớn. Cậu có muốn tầm long không, ta sẽ giúp?
-
Nghiệp
lớn tới độ nào? Có được như cha ta không?
-
Ta
từ nơi khác tới, không biết cha cậu thế nào. Nhưng ta biết đất này nghiệp lớn
chỉ có Khúc gia, Dương gia, giờ là Ngô gia.
Bộ Lĩnh như hiểu ra, hai mắt ngời
sáng, quì xuống làm lễ với phong thủy sư:
-
Ta
Đinh Bộ Lĩnh, con trưởng của tướng quân Đinh Công Trứ, thứ sử Hoan châu, một
lòng hùng tâm tráng chí, muốn xây dựng đại nghiệp, lưu danh muôn thuở với giang
san. Mong đại sư trợ giúp. Ơn này ta mãi mãi không quên.
-
Đinh
tráng sĩ không cần đa lễ. Chính ta đang muốn trả ơn người. Đinh gia tổ tiên tu
nhân tích đức, nhi hậu tầm long, nay đúng là cơ duyên để ta gặp ngài. Ta sẽ dốc
lòng giúp Đinh gia ngài một ngôi âm phần kết phát, thỏa chí nam nhi của ngài.
Suốt ba ngày liền, Bộ Lĩnh dẫn vị
phong thủy sư đi khắp xung quanh tìm đất tốt. Cuối cùng, ông ta chỉ một gò đất ở
gần sông Đại Hoàng, cũng coi như sơn thanh thủy tú, và bảo Lĩnh:
-
Chỉ
có chỗ mạch này là khá nhất.
Huyệt an long phúc
Hữu thủy thuận gián
Tả xa nghịch thăng
Hiểm sơn chiết cước
Nhất đại nhi chung (2)
Nếu vẫn muốn theo, ta sẽ giúp.
Lĩnh ngẫm nghĩ một lúc, kiên quyết
nói:
-
“Nhất
đại nhi chung” cũng đã thỏa nguyện ước của ta rồi. Mong đại sư trợ giúp.
Thế là Đinh tướng quân được táng lại
vào huyệt mới dưới sự hướng dẫn của nhà phong thủy.
Không biết chuyện này có thật hay do
dân gian thêu dệt ra, nhưng gần 30 năm sau, chàng thiếu niên Đinh Bộ Lĩnh ngày
nào sẽ dẹp yên 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế(3).
Đó là chuyện sau này, còn trước mắt, nhân
lễ cúng tuần Đinh tướng, Tam Kha và Xử Bình tới viếng mộ. Xử Bình nhìn địa thế
huyệt mới của Đinh gia, không khỏi kinh ngạc, bảo với Tam Kha:
-
Đây
là huyệt đế vương. Đinh gia sắp có người làm chúa một phương.
-
Sắp?
– Tam Kha nhíu mày, tỏ ý không hiểu.
Xử Bình trầm tư suy tính một lúc rồi
gật gù:
-
Không
nhanh đến thế, sớm nhất cũng phải qua một vận nữa(4). Hẳn có cao nhân chỉ điểm. Ta không quá thạo địa lý,
chỉ học lén vài chiêu của dưỡng phụ, nên không tính ra chính xác được thời vận.
-
Thời
thế đúng như con tạo xoay vần. – Tam Kha cảm khái.
-
Ngô
Vương dựng nghiệp hai năm rồi mà triều chính vẫn rối loạn, các thế lực vẫn ngầm
tranh đấu khốc liệt. Chưa có quyết sách nào xứng bậc đế vương. E là thời của họ
Ngô không giữ được lâu.
Hai người cùng nhìn nhau trầm mặc.
Sau đó cả Xử Bình và Tam Kha đều an
bài người ngầm thu tin tức Đinh gia. Ít nhất họ đều muốn đoán xem ai trong nhà
họ Đinh có khả năng làm nên đại nghiệp. Tương lai chỉ thuộc về kẻ đoán đúng.
Tháng 12 năm 940, tới lượt Phạm
Chiêm, hay Phạm Lệnh Công, lúc này đã làm đến Đông Giáp tướng quân, từ quan về
quê. Lý do cũng tương tự Dương Nhị Kha ngày trước, không hợp chốn quan trường.
Hai năm làm quan, mệt mỏi với lôi kéo của họ Ngô, họ Khúc, họ Dương, ông quyết
định rửa dao gác kiếm, quay lại làng Trà Hương, làm một hào trưởng nhỏ bé, yên
vui với đời.
Nhân cơ hội này, vài vị tướng già
cũng xin từ quan, nhường cơ hội cho các anh hùng tuổi trẻ tài cao khác. Bộ máy
quan tướng trong triều lần nữa được thay da đổi thịt một cách căn bản. Người họ
Ngô chiếm hầu hết các vị trí trọng yếu trong quân đội. Nhà họ Khúc cũng được
vài ghế ban văn, dù không phục nhưng lúc này chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt.
Xử Bình chỉ biết chậc lưỡi than:
-
Hết
rồi! Hết rồi! Nhà Ngô qua được 10 năm nữa ắt do trời độ, chớ không phải do người
phục.
(1) Năm 937, Đinh Công Trứ để con trai Đinh Bộ Lĩnh (khi đó 14 tuổi) lại cho
em trai Đinh Công Dự ở Hoa Lư, còn mình dẫn binh lên Ái châu gia nhập đội quân
của Ngô Quyền.
(2)
Dịch nghĩa:
Huyệt đặt ở bụng rồng
Nước ở phía tay phải chảy
xuôi
Gò phía tay trái kéo trở
ngược
Hiểm chân núi gẫy
Một đời là hết
(3)
Đinh Bộ Lĩnh (924-979) khởi nghĩa ở
Hoa Lư từ năm 951. Năm 965 nhà Ngô mất, xảy ra loạn 12 sứ quân, Nam Hán nhân cơ
kiềm chế, Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn đánh bại Lã Xử Bình và Kiều Tri Hựu, lên
cầm quyền đất Giao Châu, xưng là Vạn Thắng Vương. Sử phương Bắc chép là, năm
967, Lĩnh được Lưu Xưởng – vua Nam Hán khi đó – phong làm Tiết độ sứ Giao Châu.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu Đại
Cồ Việt.
(4)
Một vận là 20 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét