Chương Mười Lăm: Anh Hùng há chỉ luận giáo gươm
Việc nghĩa đâu chỉ gươm đao
Vì dân vì nước anh hào xá chi?
Năm Dương Bình Vương thứ 4 (947), bão
lớn liên tiếp khiến Trường châu bị vỡ đê, ngập nặng một tháng trời. Hai vụ lúa
đều mất trắng, hoa màu cũng bị tàn phá. Nạn đói hoành hành ở Trường châu, Hoan
châu, sau lan ra cả Diễn châu và một phần Giao châu(1).
Nạn đói do bão lũ hầu như năm nào
cũng xảy ra ở Tĩnh Hải, nhưng năm nay nhiều bão lớn hơn hẳn, quần thảo suốt mùa
hè tới đầu thu. Các tiền chỉ huy sứ và quan phụ mẫu địa phương đôn đáo cứu tế
dân lành, nhưng vẫn trở tay không kịp. Số người chết vì bão lụt và đói không ngừng
tăng từng ngày. Thứ sử Trường châu Dương Thái Huyền vội vã dâng sớ về triều
đình xin tiếp viện khẩn cấp.
Bình Vương mở kho lương dự trữ, giao
cho tướng quân Dương Cát Lợi phụ trách việc cứu tế, khẩn cấp cùng 1.000 binh
lên đường. Một tuần sau, Lợi báo về, số lương và binh mang tới không đủ, vì cả
Hoan châu cũng cần cứu viện. Vua lại phái thêm 5.000 binh do tướng trẻ Dương
Huy – cháu nội của lão tướng quân Dương Cát Lợi – tới Trường châu tiếp tế; đồng
thời cho quân đi trưng thu thêm lương thực từ vựa lúa Ái châu để đưa tới những
nơi thiệt hại nặng nề nhất.
Lúc Huy dẫn quân tới Trường châu, lại
nhận tin khẩn, nạn dân ở xứ Đông châu Giao chịu đói không nổi, bùng lên cướp
phá, đánh lộn với quân của tiền chỉ huy sứ, chém chết cả mấy hào trưởng. Huy
giao quân lại cho Cát Lợi, còn mình xung phong dẫn 200 lính chạy thẳng tới xứ
Đông(2).
Đến đây, thấy người chết đói đầy đường,
người sống trở nên hung tàn, liều lĩnh, cầm dao kiếm tự chế chốt chặn mấy đường
cái quan để cướp của người, Huy đều đánh bại hết, tịch thu vũ khí, phát chẩn
lương thực để họ mang về cho gia quyến. Thôn dân thấy phục đức độ của Dương
Huy, liền bàn giao đám quan tham đang bị nhốt trong lao ngục. Thì ra Tiền chỉ
huy sứ nơi này, Tô Bá Trực, thường dùng uy quyền hà hiếp dân lành, ăn hối lộ,
đê điều không tu sửa, tô thuế nặng nề khiến người dân rất chật vật. Nay mất
mùa, dân đói đầy đường, Trực cũng không mở kho phát chẩn, cứu tế lương dân, mà
ngồi nhà tổ chức ca múa, ăn uống linh đình với mấy phú thương và hào trưởng.
Dân chúng bất bình, xông vào chém chết đám quan thương, cướp hết đồ ăn cùng
lương bạc. Trực và mấy sai nha trốn nhưng không thoát, bị dân bắt được, vất vào
ngục tối, bỏ đói gần bốn ngày nay. Dân chúng tụ tập trước đình quan án sát,
mong Dương Huy ra tay trừng phạt đám tham quan, có thế họ mới chịu hàng phục về
nhà. Huy đồng ý, cho hỏi tội Trực và mấy thổ hào, phạt đánh 50 roi mỗi người vì
tắc trách với nạn dân, sau trói lại, giải về triều đình để nhà vua xét xử. Lúc
đó dân chúng mới hả dạ, giao nộp dao gậy. Bạo loạn được dập tắt. Tiếng tăm về vị
tướng trẻ thương dân như con lan khắp Giao châu.
Bình Vương hay tin, khen Dương Huy mới
17 tuổi mà hành sự nhanh nhẹn, thấu đáo, thu phục nhân tâm, phong Huy làm Tiền
chỉ huy sứ xứ Đông, thay cho Tô Bá Trực.
Lại nói, nạn đói chưa dứt hẳn, dịch bệnh
đã bùng phát. Y sư từ triều đình cử xuống cũng không đủ, Bình Vương phải kêu gọi
thêm nhân sĩ và lang y ở các châu huyện khác. Bình Vương đích thân đi xử lý cứu
nạn ở nơi thiệt hại nặng nề nhất – Trường châu. Binh tướng được điều xuống canh
giữ nghiêm ngặt các khu phát lương và khu dịch bệnh cách ly, trấn trụ các đám sứ
quân cát cứ, nên ngăn được nạn cướp bóc hoành hành, không như những lần xảy ra nạn
đói trước đây. Vua ban cáo thị miễn tô thuế cho nông dân bốn châu Trường, Hoan,
Diễn, Giao. Cuối tháng 10 năm đó, dịch bệnh và nạn đói mới cơ bản được giải quyết.
Trước lúc lên đường quay lại Cổ Loa,
Bình Vương về dinh thứ sử, nhắc nhở chính sự đám quan lại địa phương. Thứ sử
Dương Thái Huyền nhân lúc này, cùng quan binh Trường châu xúc động lạy tạ, ngợi
khen đức độ nhà vua. Đúng lúc đó, có tiếng trẻ con oa oa khóc, một người hầu chạy
vào báo tin cho Thái Huyền:
-
Lão
gia, lão gia! Phu nhân vừa sinh. Là một nữ nhi.
Các quan tướng xung quanh ai nấy đều
chúc mừng Dương thứ sử, nói đứa trẻ này mang điềm cát, ra đời đúng lúc nạn dịch
đã dẹp, yên bình trở lại, tất có phúc báo. Là người nhà, nên Bình Vương cũng đi
tới chúc mừng Thái Huyền. Gia nhân bế đứa bé tới cho nhà vua và lão gia nhà
mình nhìn mặt. Đứa bé nhìn thấy Bình Vương thì nhoẻn cười, khiến vua hết sức
yêu thích. Nhà vua bảo:
-
Đại
ca trên thiên đàng hẳn rất hài lòng khi thấy Dương gia ta con cháu đầy đàn, đứa
trẻ nào cũng hồng hào, khỏe mạnh.
Nói rồi Bình Vương lại có chút ưu
thương. Dương Thái Huyền nghĩ, chắc hoàng thượng buồn vì người không có một mụn
con. Đỗ nương nương vẫn đang chữa trị, lúc khỏe lúc yếu, lại nghe nói bị trúng
độc mà hiếm muộn. Lâu nay Đỗ gia và Ngô gia liên tục gợi ý ngài nạp thêm thê
thiếp, nhưng đều bị ngài cự tuyệt, lấy lý do dành tâm sức để bồi dưỡng hoàng tử
Văn. Ngài chỉ hơn y vài tuổi, mà y nay có 4 thê thiếp và 9 người con, tranh
giành nhau suốt ngày khiến y mệt mỏi. Sự đời sao mà lắm nỗi. Cha y – Dương Nhất
Kha – ngày trước yêu quí người em này nhất, luôn bảo các con trai mình học tập
tam gia. Vì thế, y cũng có tình cảm trân trọng, yêu kính với nhà vua. Y thầm
tính toán làm sao dịu bớt ưu thương cho hoàng thượng. Y tâu với Bình Vương:
-
Bệ
hạ, trước thê tử nhà thần về giỗ tổ ở quê nhà, gặp nương nương. Nương nương nói
vui rằng, nếu là con gái, sẽ nhận làm con nuôi. Tình cờ, đứa bé này lại có
duyên gặp ngài. Nay thần mạo phạm xin hoàng thượng ban cho nữ nhi một cái tên,
có được chăng?
-
Được
– Bình Vương trở lại dáng vẻ điềm tĩnh, ngẫm nghĩ rồi bảo – Đặt là Vân Nga đi. ‘Vân Long trấn, phong thủy dã’. ‘Nga My sơn,
nhạn hạc du’. – Rồi nhà vua quay ra nhìn đứa bé còn đỏ hỏn, dịu dàng nói –
Từ nay con gọi là Dương Thị Vân Nga. Có thích không?
Đứa bé nhìn nhà vua, cười tít mắt, ra
chiều khoan khoái lắm, không mảy may nhìn tới cha mình đang ra sức tạ ơn vua
ban. Bình Vương đón lấy nó từ tay gia nhân, âu yếm ngắm nó một lúc. Đứa bé giơ
tay nhỏ xíu ra đập đập, như vui đùa với nhà vua. Dương Bình Vương lấy làm xúc động,
bảo với Thái Huyền:
-
Ta
mới chỉ có một dưỡng tử. Nay ta nhận đứa cháu này làm con, cho nó danh phận, và
cũng cho thê tử nhà ta có chút niềm vui an ủi chốn khuê phòng, Xương Văn cũng
có thêm anh thêm em.Trước mắt, nó còn nhỏ, nương nương vẫn chưa khỏe lại, cứ để
nó ở chỗ phu thê hai người, sau này tới tuổi đi học, hãy cho vào triều để ta
cho danh sư dạy dỗ.
Thứ sử Thái Huyền vui như mở cờ trong
bụng, cùng đám người nhà quì xuống lạy tạ Bình Vương. Các quan tướng đều suýt
xoa khen đứa trẻ này là phúc lớn của Dương gia. Họ quả thật không ngờ, đây
chính là người phụ nữ sẽ đi vào lịch sử sau này với cái danh ‘Lưỡng triều Hoàng
hậu’(3).
Lúc nhà vua cùng thân tướng rời phủ
thứ sử, ra ngựa để lên đường về kinh, thì thấy một toán lính đang la hét hò
nhau tóm lấy một đứa bé trai chừng sáu, bảy tuổi ở khu giữ ngựa. Thằng bé ăn mặc
nghèo khổ, mặt bết đất, luồn lách như con thoi giữa rừng đao kiếm của đám binh.
Có lẽ nhận ra không ai muốn làm bị thương nó, nên nó rất liều lĩnh, dùng ống nứa
vót nhọn đả thương mấy người lớn, lại hất bó đuốc cháy xuống mái rơm chuồng ngựa
hòng thiêu cháy cả đám người đuổi theo sau. Sau một hồi rượt đuổi, mấy chục
binh tốt mới tóm được thằng bé, buộc dây gai trói chặt tay chân nó, đem đến trước
mặt Bình Vương. Bình Vương thấy nó không quì, cũng không nói gì, bị người ta ấn
đầu xuống rồi nó lại phủi mông đứng dậy, ngước đôi mắt ti hí lên nhìn mọi người
xung quanh mà không hề e sợ. Vương lấy làm thú vị, hỏi:
-
Ngươi
tên gì? Sao lại để lính vây bắt?
-
Ta
gọi là Hoàn. Họ nghĩ ta ăn trộm ngựa về chống đói. Nhưng thực ra ta chỉ thấy có
nhiều ngựa quá, lại ít người trông, nên muốn thử nhảy lên cưỡi trộm một chút
xíu thôi.
Thấy đứa bé không hề tỏ ra cung kính
với vua và các tướng, một lính tốt đá nó khuỵu gối xuống và mắng:
-
Vô
lễ! Không biết ngươi đang nói chuyện với ai sao mà không hành lễ, không biết thưa
gửi?
Đứa bé bị đánh bất ngờ, đau quá, nó bật
ngay dậy, ánh mắt đầy phẫn nộ, hung hãn định bổ nhào vào người lính kia. Cát Lợi
phải ngăn nó lại thì người lính mới không bị tay nó cào vào mặt. Bình Vương bảo:
-
Nó
còn nhỏ, lại không được dạy dỗ nên chưa hiểu chuyện. Bỏ qua cho nó đi.
Đứa bé thấy vị cường giả uy nghiêm
kia nói đỡ cho nó, nên thân thiết hỏi:
-
Ông
là ai? Sao lại giúp ta?
-
Ta
là Bình Vương.
-
Bình
Vương? Bình Vương không phải chính là nhà vua sao? Nhà vua phải ở kinh đô chứ,
sao lại ở đây được?
-
Ta
tới cứu nạn dân. – Vua lại hỏi thêm nó – Ngươi chưa bao giờ cưỡi ngựa?
-
Đúng
thế, ta mới cưỡi trâu thôi. Ta muốn sau này cưỡi ngựa đi đánh đông dẹp bắc, thống
trị thiên hạ.
-
Tốt.
– Vua khen – Ngươi muốn làm vua?
-
Đương
nhiên rồi.
Đúng lúc này, Dương Thái Huyền lật đật
cùng đám người nhà, nghe tiếng huyên náo mà chạy tới. Thấy đứa bé trả lời vô lễ
và ngạo mạn với Bình Vương, y sợ hãi vừa quát nó, vừa lạy nhà vua:
-
Không
được vô lễ với bệ hạ. Bệ hạ, mong người rộng lượng hải hà, tha thứ cho ngu dân
kia.
-
Ngươi
biết đứa trẻ này? – Bình Vương vốn đang thấy thích thú với đứa trẻ, thấy Dương
thứ sử nói vậy bèn hỏi.
-
Vâng,
nó là gia nhân của viên quan sát Lê Dụ Nhân trong phủ của thần. Nó thường mang
đồ cho hắn và hầu hạ bên hắn hằng ngày.
Đúng lúc đó, Lê Dụ Nhân không biết ai
báo cho, chạy vội tới, mũ còn rơi cả xuống đất. Lê lão gia gập người xuống xin
vua tha tội.
-
Mong
bệ hạ thương tình tha cho người hầu của ta. Nó còn nhỏ, không hiểu chuyện.
-
Tại
sao ông không dạy dỗ người làm cho tử tế, để hắn gây chuyện. May mà hoàng thượng
anh minh, không chấp nhặt với trẻ nhỏ. – Dương Cát Lợi không dấu bực bội, mắng
viên quan sát.
-
Thưa
ngài, nó là đứa trẻ mồ côi, sống với người họ hàng. Họ lại bán cho thần làm đứa
ở. Thần cho nó làm người hầu bên mình mới được dăm tháng, chưa kịp dạy nó đến
nơi đến chốn, nó đã gây chuyện tày đình thế này. Thần sẽ về trừng trị nó thích
đáng.
Nghe thấy thế, Bình Vương vốn dĩ định
không quan tâm, nhưng lại quay lại, nhíu mày hỏi:
-
Nó
người nhà ai? Quê ở đâu?
-
Bẩm
hoàng thượng, nó tên gọi Lê Hoàn, nay áng chừng 6 tuổi, người châu Ái, cha là
Lê Mịch làm nghề chài lưới, mẹ là Đặng Thị Sen, người ở đây. Nhưng cha mẹ mất sớm,
nó được người ta đưa về gửi cho một người họ hàng bên ngoại. Người này nghèo khổ
quá, không nuôi nổi nó, bèn bán nó cho nhà thần. Thấy nó thông minh, tháo vát
hơn người, thần cho nó hầu hạ bên mình(4).
-
Thì
ra cũng là người Ái châu. Đứa trẻ này liều lĩnh, hung hãn, quả cảm, táo bạo hơn
người. Biết đâu có thể làm danh tướng? – Nói rồi vua quay lại bảo với một binh
sĩ – Ban cho nó một con ngựa.
Thứ sử Dương Thái Huyền thấy thế, bèn
thúc giục Lê án sát:
-
Không
mau tạ ơn hoàng thượng?
-
Thần
tạ ơn hoàng thượng! – Viên quan sát vội vã phủ phục xuống mặt đất hô to.
Đứa bé thấy mình được ban ngựa, lại
thấy Bình Vương đã nhảy lên ngựa từ lúc nào, nó vội vã chạy tới, chặn trước đầu
ngựa của nhà vua, giọng không dấu nổi cảm kích:
-
Ông
cho ta ngựa sao? Sau này ta cũng có thể làm vua như ông chứ?
-
Có
thể. – Bình Vương mỉm cười – Nếu ngươi làm vua, ta sẽ gả con gái cho. – Nói rồi
Bình Vương chỉ về phía đứa trẻ mới sinh đang được người hầu bế đứng cạnh Dương
thứ sử.
-
Ông
nhớ đấy nhé. Ta nhất định sẽ làm vua, để nàng làm hậu.
Nhà vua không trả lời, chỉ giơ roi
thúc ngựa. Cả đoàn người ngựa chạy như bay về phía đô thành, bỏ lại đám người vẫn
nửa tỉnh nửa mê, không tin nổi chuyện đã xảy ra. Dương thứ sử một lúc sau mới
quay lại nhìn thằng bé tên Hoàn kia đang si mê bên con ngựa nhỏ được vua ban, gật
gù bảo với Lê án sát:
-
Nhà
các ngươi phúc ba đời nhé. Gặp hoàng thượng là người anh minh, không những
không trách phạt, lại còn ban thưởng. Thằng bé này hẳn cũng không phải người
thường, mới được ngài ấy nhìn trúng. Ông nên dạy dỗ nó cẩn thận, biết đâu sau
này có thành quả?
Quan sát Lê Dụ Nhân tinh tường hiểu ẩn
ý của thứ sử, vội tạ ơn rồi đưa Hoàn về nhà, sau nhận Hoàn làm con nuôi, cất
công dạy bảo tử tế như con cháu trong nhà.
Lại nói Dương Bình Vương trên đường về
kinh, không hiểu sao lúc dừng chân nghỉ ở một tửu quán, thấy người ta nhắc đến một
thủ lĩnh họ Đinh không tiếc công sức và lương bạc cứu nạn, đưa binh đi vớt người
trong lũ, lại phát cháo và bánh bao cho bà con; vua liền liên tưởng tới con
trai Đinh lão tướng quân năm nào. Tò mò không rõ đứa trẻ kia có phải là người
được dân chúng ngợi ca không, vua quyết định đổi hướng rẽ qua Hoa Lư. Đến nơi,
Cát Lợi đi tìm hiểu, báo lại, chính là Đinh Bộ Lĩnh cùng đám quân ô tạp chiêu mộ
được mấy năm nay của mình đã cứu nạn dân khắp thành. Bình Vương gật đầu, tới chỗ
Lĩnh luyện quân.
Hoa Lư ở về sơn phận hai xã Uy Viễn
và Uy Tế, huyện Lê Bình, cũng thuộc Trường châu. Nơi đây bốn mặt đều có núi đá
đứng thẳng như bức vách, trong có một chỗ hơi bằng phẳng rộng rãi, người xứ ấy
gọi là động Hoa Lư. Trong lòng động rộng hàng hai trượng có một cái lạch nước
quanh co khuất khúc chảy đến phía nam thành Hoa Lư. Thành Hoa Lư cũng ở huyện
Lê Bình. Họ Đinh nhân thế núi đắp thành ấy chu vi năm trăm trượng.
Dương Cát Lợi đi bên cạnh vua, nhìn
thành Hoa Lư mà trầm trồ khen ngợi:
-
Khởi
binh ở nơi này quả là có con mắt tinh đời. Họ Đinh này cũng đáng mặt anh hào lắm
thay.
-
Dương
lão tướng quân – Bình Vương quay sang bảo Cát Lợi – sau này nên cho người chú ý
động tĩnh Hoa Lư nhiều hơn.
-
Bệ
hạ, ngài cũng có người trong Đinh gia phải không? Thứ lỗi cho thần hay chuyện,
chỉ vì thần thấy ngài biết rất rõ sự vụ họ Đinh và từng chiêu dụ Đinh Bộ Lĩnh,
cảm thấy rất tò mò, nên có phỏng đoán.
-
Mấy
năm nay có lẽ đã bị lộ, không còn tin báo về nữa. Ta nghĩ hắn có thể là một mối
nguy cho nhà Ngô sau này. Người này chí hướng, tài năng đều hơn người, dã tâm
cũng không nhỏ, lại không muốn chung sức với họ Ngô.
-
Bệ
hạ quá lo xa. Người còn tráng kiện, tinh thần uy dũng như núi, còn chăm lo cho
bá tánh tới trăm năm. Một tay họ Đinh kia đâu đáng để ngài đặt trong mắt.
Hai người đều nhìn nhau ngượng cười.
Cả hai đều hiểu rằng, hoàng tử Văn đang trưởng thành, còn Ngập vẫn chưa chết.
Bình Vương và Dương Cát Lợi được Đinh
Bộ Lĩnh cho mời vào trong trướng. Màn trướng đơn giản, nhưng uy nghiêm. Quân
chiêu mộ được không đông lắm, khoảng hai, ba ngàn người, nhưng rất có kỷ luật. Bình
Vương nhìn Cát Lợi, cả hai đều thầm gật đầu trong lòng. Lĩnh nay đã là nam tử
24 tuổi, cao to lực lưỡng, khôi ngô tuấn tú, mắt sáng khác thường, dắt theo con
trai Đinh Liễn mới 5 tuổi ra hành lễ chào Bình Vương. Bình Vương khen Lĩnh và
lính tráng Hoa Lư đã góp công cứu nạn dân, rồi hỏi Lĩnh:
-
Nay
thời thế đã khác lần trước gặp, nhưng ta vẫn nhắc lại lời năm xưa, có muốn lên
kinh cùng ta giúp dân giúp nước?
-
Cùng
ông giúp dân giúp nước không phải chính là đầu phục nhà Ngô đó sao? Ông cướp
ngôi, ta không đánh ông vì phục tài ông. Sau lại nhận ra ông vẫn chỉ đang phò
nhà Ngô. Mà nhà Ngô sau này thực quyền là ai? Ngô Xương Ngập là kẻ bại hoại, bất
tài, vô dụng, hại nước hại dân. Ngô Xương Văn và mấy nam tử nhỏ chỉ ẩn mình
trong lầu son gác tía như đám đàn bà, chưa động can qua, sao có hùng tâm tráng
chí mà hành đại sự? Họ Ngô cho đến giờ không có lấy một kẻ nào đáng mặt làm
vua, bảo sao những người như ta, Trần Lãm, Lý Khuê, Kiều Thuận phục được?
-
Ngươi
muốn đoạt thiên hạ?
-
Nếu
là ông, ta biết mình không sánh được. Nhưng nếu là bất luận kẻ nào họ Ngô, sao
ta phải bỏ lỡ cơ may của chính mình?
-
Không
sợ ta diệt ngươi?
-
Nếu
muốn diệt ta, ông hẳn đã diệt từ ba bốn năm trước, đâu để ta ngày một lớn mạnh
trước mũi ông thế này. Từ lúc ông làm vương, kẻ nào nhen nhúm nổi dậy chiêu
binh mãi mã, ông đều diệt tận gốc, trừ ta. Rõ ràng chính bản thân ông cũng thấy
thiên hạ chẳng có mấy người hơn ta. Nay ông đến đây, ta rất cảm kích, cũng có lời
với ông. Bão lụt năm nào cũng có. Nạn đói năm nào cũng xảy ra. Ông là người có
tâm với xã tắc, nên tìm cách giúp dân tránh cái nạn này. Không tiễu trừ được
thiên tai địch họa, thì cũng phải giảm bớt thiệt hại xuống.
Thấy Lĩnh rất tự tin, minh tường đại
cuộc và đầy hùng tâm tráng chí, biết không thể chiêu dụ được, Bình Vương đành
ra về. Sau này, Xử Bình biết vua đi gặp Lĩnh, bèn hỏi:
-
Ngài
biết hắn sau này có khả năng xoay chuyển đại cục, sao không diệt?
Bình Vương than:
-
Ta
từng muốn diệt, nhưng luyến tiếc kẻ kiêu hùng. Người tài bây giờ đâu có mấy ai,
diệt hắn chẳng may sau này xã tắc binh biến, há lại dâng đất này cho Nam Hán?
Lại nói Bình Vương về tới kinh thành,
hỏi văn võ bá quan:
-
Làm
sao để ngăn nạn đói định kỳ hằng năm ở các châu ven biển này?
Các quan đưa ra rất nhiều ý kiến. Người
cho rằng cần di dân mùa mưa. Kẻ đề xuất xây đê điều thật kiên cố. Người kiến
nghị nên tích trữ thật nhiều lương thực từ những châu ít khi bị bão lũ như Ái
châu, Giao châu. Thậm chí Đỗ Cảnh Thạc còn cho rằng, nên phát triển buôn bán ở
những châu này, thay cho trồng lúa. Thạc vỗ ngực huyênh hoang:
-
Đỗ
gia ta chỉ có mỗi tài lợi buôn bán là đáng tự hào. Ngàn năm nay, người họ Đỗ
chiếm cứ hầu hết các mối giao thương từ Giao châu lên phương Bắc, lại từ đất
này đi Chiêm thành, Xiêm La. Các cửa biển là nơi tập trung hàng chính yếu, đầu
mối giao thương. Dù đánh trận, luyện binh, dựng phủ, cầu người tài… cái gì chả
cần đến lương bạc. Bao đời chúa đất này đều phải dựa vào tài lực Đỗ gia ta. Nếu
để người dân những xứ này tập trung vào buôn bán, vận tải, thương mại, sẽ thu
được vô khối bạc nộp thuế cho triều đình. Thử nghĩ mà xem, khi đó có đến hàng
trăm, hàng nghìn vạn gia tộc cũng giàu có như Đỗ gia, tô thuế là món khổng lồ,
bệ hạ có thể thoái mái vung tiền củng cố binh lực, chiêu hiền đãi sĩ, xây dựng
thôn trang trù phú, trao tặng bổng lộc; Tĩnh Hãi ta binh cường nước mạnh dân
giàu, chúng ta sẽ tiến xuống làm thịt Chiêm thành, tiến lên đòi đất Nam Hán. Chẳng
bao lâu ta sẽ sánh ngang Đường quốc ngày trước.
-
Đỗ
tướng quân có lòng với bệ hạ và xã tắc, thật là điều đáng quí. Nhưng e là ngài
đi quá xa rồi. – Dương Cát Lợi mỉa mai – Người dân những xứ đó vốn dĩ đều rất bặt
thiệp, quảng giao, họ đã phát triển buôn bán mạnh mẽ từ trước cả khi Đỗ gia
ngài xuất hiện kia. Không phải Đỗ gia chỉ thuê tàu thuyền, kho tàng, bến thuyền
của họ đấy thôi? Buôn bán phải có hàng và mối hàng. Nếu ai cũng buôn bán thì ai
tạo ra hàng, ai làm mối hàng? Đâu phải ai cũng biết buôn bán, ai buôn cũng giàu
có được như Đỗ gia? Người dân làm những thứ trong khả năng người ta để mưu
sinh. Nếu họ buôn bán được thì nông dân ở đất đó đã biến mất, không đợi ngài ở
đây chỉ trích họ. Vùng này có khu thương cảng và phố thị vốn giàu có trù phú nhất
nhì đất Tĩnh Hải, chỉ nơi làng mạc thôn quê mới tiêu điều vì đói kém.
-
Buôn
bán với ngoại bang cũng cần cẩn trọng. Có thể bị họ cài người phá hoại hoặc reo
rắc những thứ xấu xa, làm tổn hại đến triều ta. – Văn thần Ngô Thế Kiệt nói
thêm – Xin bệ hạ phải tính đến siết chặt thương mại với bên ngoài.
-
Hừm,
cứ làm rùa rụt đầu như các ngươi nên thiên hạ mới chỉ có Đỗ gia tài phú trọc trời.
Động đến bạc là lại phải bán danh, bán mặt đi cầu lão sói già Đỗ Phu. – Thạc
không dấu nổi bực tức.
Cuối cùng Lã Tả tướng đành đứng ra dàn
hòa.
-
Các
vị ai nói cũng đều có lý. Đỗ tướng quân muốn phát triển buôn bán, vì nơi đó có
nhiều chỗ địa thế cát lợi, sông biển giao nhau, có thể xây được cảng để thương
thuyền neo đậu, vì thế làm chốn giao thương không gì tốt bằng. Cái triều ta cần
làm là khuyến khích người dân tăng cường buôn bán. Nhưng không phải chỗ nào
cũng làm cảng được, nên dân cũng phải kiếm sống bằng các nghề khác như đánh cá,
trồng lúa, dệt vải, làm thợ sắt, thợ đúc tượng… Để dân có chỗ an ổn làm ăn,
sinh sống, triều ta cần xây đắp, gia cố đê để hạn chế lũ lụt. Mùa mưa tới, dân
cư sống ở bãi bồi, đảo nổi, những nơi nguy hiểm, cần được khuyên răn, thậm chí
phải cưỡng ép họ rời đi lánh tạm ở nơi an toàn hơn, để bảo vệ tính mạng, cũng
chính là bảo vệ sức người lao động. Do thường xuyên chịu thiên tai, nên lượng
lúa thu được ở xứ này cũng thấp hơn những nơi như Ái châu, Giao châu. Vì thế
triều ta không nên đánh đồng thu tô thuế giống nhau như hiện nay. Nên thu tô từ
lúa gạo của Ái châu và Giao châu cao hơn mấy châu ven biển. Như thế kho lương của
ta sẽ có thêm tích trữ cho những lúc cấp bách thế này. Tuy nhiên mỗi việc trên
đều cần đến lương bạc, mà triều ta chưa đủ mạnh, lương bạc đều hạn chế, cho nên
không thể tiến hành đồng thời các việc trên một cách nhanh chóng và có kết quả
ngay được. Ta nghĩ các ngài hãy cùng nhau nghĩ xem nên làm việc nào quan trọng
nhất trước.
Mọi người đều gật đầu khen Xử Bình
nói phải. Các quan rất nhanh chóng nhất trí chọn ra việc gia cố đê điều là cấp
bách nhất. Bình Vương gật đầu, phong Hữu tướng Kiều Tri Hựu làm khâm sai đại thần,
phụ trách việc xử lý đê mấy châu Trường, Giao, Hoan, Diễn.
Lúc này, tiền chỉ huy sứ xứ Đông Dương
Huy – nhân dịp về kinh lĩnh thưởng –đứng ra tâu:
-
Thần
vừa xử lý xong nạn dân xứ Đông, thấy một điều lạ. Rừng ở xứ này vô cùng rậm rạp,
tươi tốt, sông ngòi chằng chịt, lau lách um tùm, chứng tỏ thủy thổ màu mỡ.
Nhưng người dân lại sống cách rừng, cách sông tới hàng chục dặm, chỉ dăm bữa
vào rừng hái rau dại, quả quí, lá thuốc về dùng hoặc bán lấy bạc. Họ không dám
khai phá đất hoang vì sợ thú dữ, sợ không đủ sức người, sợ thổ phỉ, sợ quan sai
gây phiền phức. Chính vì thế, nông dân xứ này chỉ có chút ít ruộng, lương thực
thiếu thốn, dù đất đai màu mỡ phì nhiêu. Khi bão tàn phá, chút ít cũng mất hết,
thế là đói. Nay thần xin với bệ hạ khai ân cho bá tánh, khuyến khích khẩn hoang,
bồi đất, lấn sông, lấn biển, gia tăng diện tích trồng lúa, trồng rau, gia tăng
qui mô vùng đánh bắt cá. Có như vậy sau này, sản xuất lương thực mới gia tăng,
nạn đói mới giảm bớt.
Ý này của Dương Huy được Bình Vương hết
sức ngợi khen, triều thần tán tụng. Sau buổi triều hôm đó, Bình Vương ra cáo
thiên hạ, khuyên dân khai hoang, lấn rừng, lấp biển, miễn tô thuế trong ba năm
đầu trên mảnh đất khẩn được, nếu ai khẩn hoang trên 100 mẫu sẽ được triều đình
thưởng bạc. Nhà vua lấy một đội quân trấn giữ biên giới Tây Nam gần vạn người của
Đỗ Cảnh Thạc làm tiên phong, ban cho thực ấp là khu rừng rậm Diễn châu. Binh tướng
và gia quyến của họ phải đến đó sống, khai khẩn đất hoang, tự canh tác, trồng
trọt, chăn nuôi; hoa lợi thu được sẽ không phải tiến cống vua mà được hưởng hết.
Họ được tự quản, tự trị trên mảnh đất vua ban.
Đây là lần đầu tiên việc khai hoang
được nhà vua và bộ máy quan lại ưu ái để mắt tới, thu hút được đông đảo sự chú
ý của bá tánh. Sau này, thành thông lệ, việc miễn giảm thuế khi khai hoang hay
ban đất hoang làm phần thưởng cho tướng sĩ thường được các vua đời sau dùng tới.
Sau đó Bình Vương còn cho người đắp
đường mở lối giao thương đường bộ với Chiêm Thành. Mạn biên giới với Thành quốc
lâu nay toàn rừng rậm, để phỉ rợ chiếm giữ, cướp của người qua lại, nên thương
nhân sợ hãi, chỉ dám đi đường biển. Giờ những con đường ở Phúc Lộc châu và Hoan
châu được mở ra, có binh lính triều đình trấn giữ, sẽ giúp dân an cư lạc nghiệp,
kho bạc triều đình cũng nhờ đó mà tăng thêm.
(1) Địa giới 8 châu của Tĩnh Hải thời kì này như sau:
-
Giao châu: tương đương với vùng phía
nam sông Hồng và sông Đuống, thuộc Hà Nội, Bắc Ninh, một phần Hưng Yên
-
Lục châu: tương đương gồm một phần
phía nam Khâm châu (Quảng Tây, Trung Quốc) và dải đất dọc biển của tỉnh Quảng
Ninh hiện nay. Miền núi tỉnh Quảng Ninh vẫn là các châu ki mi (ràng buộc lỏng lẻo)
-
Phong châu: được xác định vị trí ở ngã
ba Bạch Hạc, phần dưới thung lũng sông Chảy, sông Thao và sông Đà.
-
Trường châu: được xác định vị trí
tương đương miền Nho Quan, Yên Khánh tỉnh Ninh Bình.
-
Ái châu: tương đương tỉnh Thanh Hóa
-
Diễn châu: tương đương miền bắc Nghệ
An gồm các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu
-
Hoan châu: tương đương các huyện phía
nam Nghệ An và một phần tỉnh Hà Tĩnh
-
Phúc Lộc châu: được xác định vị trí tại
phía nam Hà Tĩnh và Quy Hợp, Ngọc Ma phía bắc Hoành Sơn
(2)
Xứ Đông của châu Giao, sau này là xứ Hải
Dương, bao gồm địa phận Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng ngày nay.
(3)
Thái hậu Dương Vân Nga (không rõ năm
sinh – mất năm 1000), thân phụ thân mẫu cũng không rõ tên tuổi, quê quán, ngay cả
tên Vân Nga của bà cũng bị nhiều nhà sử học nghi ngờ, sử sách chỉ gọi bà là
Dương thị hay Dương hậu, Dương thái hậu. Bà là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam, làm hoàng hậu hai triều Đinh, Lê. Do là một người đàn bà
quyền lực của nhiều triều đại, bà được đặt ở vị trí trang trọng trong lịch sử,
văn hóa và văn học dân tộc.
(4) Thân thế của Lê Hoàn – tức vua Lê Đại Hành (941/942 – 1005) cũng gây
tranh cãi trong lịch sử. Chính sử chỉ nói vua mồ côi, gia cảnh nghèo khổ, sau
làm con nuôi một viên quan sát họ Lê, lớn lên đi theo Đinh Liễn – con vua Đinh
Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh), khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết thì làm Nhiếp
chính vương cho Đinh Toàn – Đinh Phế Đế, sau lại cấu kết với Thái Hậu Dương Vân
Nga mà lên làm vua, lập ra triều Lê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét