Chương 24: Ayesha qua đời
Tôi nghe thấy
Ayesha giờ đang nói, những lời đập vào tôi đầy ghê sợ khi tuyệt vọng chấp nhận
số phận, thứ nàng không có sức mạnh để chống lại.
“Có lẽ phu quân
của ta đã rời bỏ ta một lúc rồi; ta phải thúc giục phu quân mau đi thật xa.”
Sau đó tôi hoàn
tôi không biết chuyện gì xảy ra. Tôi đã mất đi người là tất cả với mình, người
bạn, và người con của tôi, tôi tan nát cõi lòng như chưa từng bao giờ như thế.
Tôi buồn bã đến mức bản thân già nua và kiệt sức, nhưng vẫn sống trong khi cậu
đang trong độ tuổi như hoa nở, giành giật lấy niềm vui và sự cao thượng mà
không ai biết tới, rồi nằm đó ngủ.
Sau này tôi nghĩ
lại, Ayesha và Oros đã cố làm cậu phục hồi, mà không có kết quả, vì các quyền
năng của nàng lúc này vô ích. Thực ra tôi tin rằng dù cuộc đời dài hơn vẫn đang
níu kéo bàn chân cậu ấy, Leo đã thực sự chết ngay lúc nàng ôm, vì khi đó tôi đã
nhìn cậu trước khi cậu ngã xuống, gương mặt cậu đã như của người chết.
Đúng, tôi tin lời
cuối của nàng, dù nàng không biết điều đó, là dành cho linh hồn cậu, vì trong nụ
hôn như thiêu đốt của nàng, xác thịt cậu đã bị tàn lụi.
Cuối cùng, khi
tôi tự phục hồi đôi chút, nghe thấy giọng nói lạnh lẽo, bình tĩnh của Ayesha –
gương mặt nàng tôi không thể thấy vì nàng đã tự che mặt đi – nàng ra lệnh cho
vài tu sĩ được triệu tập để “mang thi thể người phụ nữ đáng nguyền rủa kia đi
và chôn cất cô ta phù hợp với địa vị của cô ta.” Thậm chí sau đó tôi nhớ ra,
tôi nhớ tới câu chuyện của Jehu và Jezebel.
Leo, trông yên bình
và hạnh phúc kỳ lạ, giờ nằm trên giường, cánh tay gập trước ngực. Khi các linh
mục nặng nề khiêng nhân vật của hoàng tộc đi ra, Ayesha ngồi bên thi thể cậu
nghiền ngẫm, dường như bừng tỉnh, nàng đứng dậy và nói – “Ta cần một sứ giả,
đây không phải là hành trình thông thường, người đó phải tìm ra nơi cư trú của Các
Vong Linh,” nàng quay về phía Oros và nhìn vào ông ấy.
Bây giờ lần đầu
tiên tôi nhìn thấy vị linh mục này hơi thay đổi sắc mặt, trong hoàn cảnh này
hoàn toàn không thể thoát được, nhưng nụ cười vĩnh viễn đã rời khỏi gương mặt
ông ấy và ông tái người, run rẩy.
“Ngươi sợ,” nàng
nói một cách khinh bỉ. “Ở lại đi, Oros, ta sẽ không gửi đi một người sợ hãi.
Holly, ngươi sẽ đi vì ta – và vì chàng chứ?”
“Được,” tôi trả
lời. “Tôi mệt mỏi với cuộc đời rồi và không còn mong kết cục nào khác nữa. Chỉ
có điều hãy nhanh lên và đừng gây đau đớn.”
Nàng trầm ngâm một
lúc, rồi nói – “Không, thời khắc của ngươi chưa đến, ngươi vẫn còn việc cần
làm. Hãy chịu đựng, Holly của ta, chỉ một hơi thở thôi.”
Rồi nàng nhìn tới
vị Pháp Sư, người đàn ông đang hóa đá vẫn đứng đó như tượng, và kêu lên – “Tỉnh
lại!”
Ngay lập tức ông
ta như trở về sự sống, các chi thoải mái, ngực phập phồng, ông ta lại thành con
người như trước đây: già nua, xương xẩu, độc ác.
“Tôi xin nghe
người, thưa chủ nhân,” ông ta nói, cúi đầu như một kẻ cúi đầu trước quyền năng
hắn căm ghét.
“Ngươi đã thấy rồi
đó, Simbri,” nàng vẫy tay.
“Tôi đã thấy. Mọi
chuyện đã xảy ra như Atene và tôi tiên đoán, không phải sao? ‘Ngay sau đó sẽ là
thi thể của vị Khan mới lên ngôi của Kaloon’,” và ông ta chỉ vào vương miện
vàng mà Ayesha đã đặt lên trán của Leo, “’sẽ nằm trên bờ vực của Hố Lửa’ – như
ta đã tiên đoán.” Một nụ cười xấu xa len lỏi vào đôi mắt ông ta và ông ta tiếp
tục nói – “Nếu người không trừng phạt bằng cách làm cho ta câm, ta hẳn có thể cảnh
báo người về những chuyện có thể xảy ra; nhưng thưa chủ nhân vĩ đại, chính người
đã làm cho ta câm. Nên mọi chuyện đã diễn ra như thế, hỡi O Hes, người đã quá
cường điệu bản thân và bị tan nát dưới chân của chính đỉnh cao người từng bước
trèo lên suốt hơn hai nghìn năm mệt mỏi kia. Hãy nhìn những gì người đã mua được
với giá của vô số sinh mạng, giờ đây trước ngai vàng của Công Lý, họ sẽ cáo trạng
những quyền năng bị người lợi dụng, kêu gào đòi công lý trên đầu người,” và ông
ta nhìn thi thể đã chết của Leo.
“Ta buồn cho họ,
nhưng Simbri, họ đã được tiêu phí thích đáng,” Ayesha trầm ngâm trả lời, “những
kẻ định mệnh của họ đã được viết ra từ trước theo qui định, đã giữ con dao của
ngươi khỏi rơi rồi chiếm mất chồng ta. Phải, và ta thật hạnh phúc – hạnh phúc
hơn những con dơi mù quáng thế kia, như ngươi cũng có thể thấy hay đoán ra. Nên
nhớ giờ ta đã cưới lại chàng, người trước đây đã li dị linh hồn lang thang của
ta vì tội lỗi ta phạm phải, và nụ hôn ngày cưới đã thiêu cháy mạng sống của
chàng, nhưng chúng ta sẽ vẫn sinh ra những đứa con Tha Thứ, Khoan Dung vĩnh hằng
cùng mọi điều tinh khiết và đẹp đẽ.”
“Ngươi nhìn xem,
Simbri, ta sẽ tôn vinh ngươi. Ngươi sẽ là sứ giả của ta, cẩn thận! cẩn thận đấy,
ta sẽ nói làm sao ngươi có thể hoàn thành sứ mệnh này, vì với mỗi phần, ngươi
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.”
“Ngươi hãy đi xuống
con đường bóng tối của Tử Thần, vì ngay cả ý nghĩ của ta cũng có lẽ không tìm
được tới nơi chàng ngủ đêm nay, hãy tìm kiếm phu quân của ta và nói với chàng rằng,
bàn chân của vợ chàng, Ayesha, sẽ đi theo rất nhanh thôi. Hãy bảo chàng đừng sợ,
vì với chuyện đau buồn này, ta đã chuộc tội cho các tội lỗi của mình và sẽ tái
sinh trong vòng tay chàng. Hãy nói với chàng chuyện này đã được định trước, đó
là tốt nhất rồi, từ bây giờ chàng đã thực sự nhúng mình trong Ngọn Lửa vĩnh hằng
của Sự Sống; bây giờ đối với chàng, màn đêm trần tục đã kết thúc và ban ngày bất
diệt đã hiện lên. Hãy ra lệnh cho chàng đợi ta ở Cánh Cổng Tử Thần, nơi ta được
phép chào đón chàng. Ngươi nghe rồi chứ?”
“Ta đã nghe thấy,
thưa O Nữ Hoàng, Sức Mạnh Ngàn Năm.”
“Một thông điệp
nữa. Hãy nói với Atene rằng ta tha thứ cho nàng ta. Trái tim nàng ta rất cao
quí và nàng ta đã hoàn thành tốt vai diễn của mình. Chúng ta sẽ thanh toán sòng
phẳng ở Cánh Cổng đó. Ngươi nghe thấy rồi chứ?”
“Tôi đã nghe thấy,
thưa O Vì Sao Vĩnh Hằng, người đã chinh phục Màn Đêm.”
“Được rồi, hãy
đi đi!”
Khi lời vừa rời
khỏi môi Ayesha, Simbri nhảy lên khỏi sàn nhà, chộp vào không khí như thể ông
ta muốn giữ chặt linh hồn đang ly khai của chính mình, lảo đảo lui lại cái bàn
nơi Leo và tôi vừa ăn, làm đổ nó, giữa đống đổ nát của đĩa vàng chén bạc, ngã
lăn xuống và chết.
Nàng nhìn ông
ta, rồi nói với tôi – “Nhìn đi, dù hắn luôn căm ghét ta, nhưng tên phù thủy này
vốn đã biết Ayesha ngay từ đầu, cuối cùng đã bày tỏ lòng kính trọng với uy quyền
cổ xưa của ta, khi những lời dối trá và thách thức phụng sự cho kết cục của hắn
không còn nữa. Giờ ta không còn nghe thấy cái tên mà vị chủ nhân đã chết kia của
hắn dành cho ta nữa. ‘Vì Sao Sa’ trong mồm hắn và trong thực tế đã trở thành
‘Vì Sao Nổ Tan Xương Cốt Màn Đêm’, và lại được tái sinh, tỏa sáng mãi mãi – tỏa
sáng cùng sự bất tử song sinh không còn được thiết lập nữa – Holly của ta. Phải,
hắn đã đi rồi, trước giờ phút này, những kẻ đã phục vụ ta dưới Địa Ngục – còn
nhớ không? – ngươi đã nhìn thấy các thủ lĩnh của chúng trong Điện Thờ - cúi đầu
trước lời nói của Ayesha vĩ đại và sẵn sàng đặt vị trí của nàng gần chồng
nàng.”
“Nhưng than ôi,
ta mới điên rồ làm sao. Khi ngay cả ở đó cơn thịnh nộ của ta cũng có thể phát
ra sức mạnh như vậy, làm sao ta lại có thể hy vọng phu quân của ta có thể sống
sót trong lửa tình chứ? Nhưng như vậy sẽ tốt hơn, vì chàng đã không còn tìm kiếm
vẻ lộng lẫy ta từng muốn trao cho chàng, cũng không mong loài người sẽ chết. Nhưng
vẻ lộng lẫy như thế phải là một phần của chàng trong bóng tối nghèo nàn của thế
giới kia, và các bước chân bao quanh ngai vàng kẻ cướp ngôi luôn trơn đầy máu.”
“Ngươi đã mệt mỏi,
Holly, hãy đi nghỉ đi. Đêm mai chúng ta sẽ về Ngọn Núi, làm tang lễ ở đó.”
Tôi rón rén tới
phòng liền kề - đó từng là phòng của Simbri – rồi đặt mình xuống giường ông ta,
nhưng không thể ngủ nổi. Cánh cửa vẫn mở, trong ánh sáng của thành phố bốc cháy
chiếu qua các khung cửa, tôi có thể nhìn thấy Ayesha đang quan sát người bạn đời
đã chết. Nàng quan sát hết giờ này tới giờ khác, đầu nàng gối lên tay, im lặng,
không nhúc nhích. Nàng không than khóc, không thở dài; chỉ quan sát như một phụ
nữ dịu dàng quan sát một đứa bé đang say ngủ mà nàng biết sẽ tỉnh lại lúc bình
minh.
Gương mặt nàng
không đeo mạng che và tôi nhận ra nó đã biến đổi vô cùng to lớn. Toàn bộ niềm
kiêu hãnh và sự giận dữ đã biến mất; nó trở nên mềm mại, tiếc nuối, nhưng đầy tự
tin và yên tĩnh. Suốt một khoảng thời gian, tôi không thể nghĩ nó đã gợi lại điều
gì trong tôi, rồi đột nhiên tôi nhớ ra. Bây giờ nó giống, thực sự gần như tuyệt
đối, vẻ bề ngoài thánh thiện và uy quyền của bức tượng Đức Mẹ trong Điện Thờ.
Đúng, chính cái nhìn đầy yêu thương và quyền lực như thể người mẹ đó trông chờ
trên đứa con đang sợ hãi của mình tái sinh từ giấc mơ tử thần, Ayesha đang chăm
chú nhìn vào người đã chết của nàng, đôi môi nàng hé mở như thì thầm “câu chuyện
về hy vọng, niềm tin và sự bất tử”.
Cuối cùng nàng đứng
dậy đi vào phòng tôi.
“Ngươi nghĩ ta
đã gục ngã và cảm thấy đau buồn vì ta sao, Holly,” nàng nhẹ nhàng nói, “ngươi
có biết nỗi sợ hãi của ta, định mệnh như thế khó mà xảy đến bất thình lình với
phu quân của ta.”
“Phải, Ayesha,
tôi đau buồn cho người cũng như cho chính tôi.”
“Thế thì ta sẽ
tha thứ cho lòng thương xót của ngươi, Holly, dù phần con người trong ta muốn
giữ chàng trên trần thế, giờ linh hồn ta lại vui sướng vì chàng đã thiêu cháy
xương cốt. Bao triều đại đã qua, dù ta không biết, trong sự thách thức đầy kiêu
hãnh của ta ở Luật Vạn Vật, ta đã chiến đấu chống lại hạnh phúc thực sự của
chàng và của ta. Ta và thiên thần đã vật lộn ba lần, dùng sức mạnh chống lại sức
mạnh, và ba lần chàng đều chinh phục ta. Nhưng khi chàng mang giải thưởng đi trong
đêm đó, chàng đã thì thầm điều thông thái bên tai ta. Đây là thông điệp của
chàng: Chính chết đi là ngôi nhà của tình yêu, chết đi là sức mạnh; từ nhà mồ sự
sống, tình yêu sẽ sống dậy vinh quang và tinh khiết, ngự trị kẻ chinh phạt mãi
mãi. Vì thế ta lau nước mắt và đăng quang làm nữ hoàng bình yên một lần nữa, ta
đi cùng chàng, rồi chúng ta lạc mất nhau, chàng vẫn đợi chúng ta ở đó, vì ta đã
được phép, ta sẽ tới.”
“Nhưng ta thật
ích kỷ, mà quên mất. Ngươi cần nghỉ ngơi. Ngủ đi, bạn của ta, ta yêu cầu ngươi
đi ngủ.”
Rồi tôi ngủ mất
khi mải băn khoăn, nếu mắt tôi đóng lại thì Ayesha sẽ trở lại vẻ tự tin và thoải
mái kỳ lạ kia chứ. Tôi không biết nhưng chuyện đã diễn ra ở đó, sự thực chứ
không phải giả thiết. Tôi chỉ có thể cho rằng ánh sáng đã soi vào tâm hồn nàng,
như nàng nói, tình yêu và kết cục của Leo theo một cách không rõ, đã đủ để đáp ứng
phán xử cho các tội lỗi của nàng.
Cuối cùng, những
tội lỗi ấy và toàn bộ gánh nặng của chết chóc đã nằm trên ngưỡng cửa sẽ không
bao giờ làm phiền nàng nữa. Nàng dường như chỉ coi chúng như các sự kiện xảy ra
theo định mệnh, là kết quả không tránh khỏi của hạt giống được gieo từ xa xưa
trước đây bởi bàn tay Định Mệnh cho những việc nàng không chịu trách nhiệm. Những
nỗi sợ hãi và cân nhắc đè nặng cùng sinh tử bao người không ảnh hưởng hay gây
áp lực cho nàng. Trong chuyện này và những chuyện khác, Ayesha là luật lệ của
chính mình.
Khi tôi tỉnh lại,
đã là ban ngày, qua cửa sổ tôi thấy mưa đang rơi trên phố, điều mà dân tộc
Kaloon đã khao khát quá lâu. Tôi cũng thấy Ayesha, ngồi bên thi thể bọc vải niệm
của Leo, đang ra lệnh cho các tu sĩ và thủ lĩnh cùng một số quí tộc sống sót
sau vụ giết chóc ở Kaloon, tạo ra một chính phủ mới cho vùng đất. Sau đó tôi lại
ngủ tiếp.
Đến tối, Ayesha
đứng trước giường tôi.
“Mọi thứ đã chuẩn
bị xong,” nàng nói. “Tỉnh dậy đi và đi cùng ta.”
Và chúng tôi lên
đường, được một nghìn kỵ binh hộ tống, vì số còn lại đang ở lại chiếm đóng, hoặc
không chừng để cướp bóc mảnh đất Kaloon. Trước thi thể Leo là một tốp tu sĩ,
theo sau là Ayesha che mặt và tôi đi bên nàng.
Tương phản kỳ lạ
giữa lúc tới và lúc chúng tôi ra đi.
Lúc đó các đoàn
quân vội vã, thời tiết dữ dội, sấm chớp chói lóa xuyên qua màn mưa đá nhảy múa;
âm thanh tuyệt vọng từ đội quân cuộn trong máu dưới bánh xe sấm sét.
Bây giờ cái xác
phủ vải trắng, những con ngựa đi chậm rãi, người cưỡi ngựa mang giáo mác dự
phòng, trong ánh trăng u buồn, phụ nữ Kaloon đang chôn cất cho vô số người chết.
Còn bản thân
Ayesha, hôm qua là nữ thần Valkyrie trên đỉnh mang vì sao rực lửa, hôm nay đã
thành một phụ nữ có tang đang khiêm tốn đưa chồng mình tới nấm mồ.
Nhưng họ sợ hãi
nàng biết bao! Vài quả phụ đứng bên hố mộ vừa đào, chỉ vào thi thể Leo khi
chúng tôi đi qua, thốt ra những lời cay đắng tôi không nghe được. Khi đoàn người
đi qua bị họ ném, muốn đánh nàng bằng nắm đấm và cuốc thuổng, họ quì lạy trên mặt
đất, ném bụi cát lên tóc tai đoàn người làm dấu hiệu cho rằng đây là vị nữ tu
sĩ của Tử Thần.
Ayesha nhìn họ,
nói với tôi vài lời về ngọn lửa cổ xưa và lòng kiêu hãnh của nàng – “Ta sẽ
không đặt chân tới đồng bằng Kaloon nữa, ta sẽ cho đám người không nhượng bộ này
một bài học chúng cần tới lâu dài làm quà chia tay. Để nhiều thế hệ tới, hỡi O
Holly, chúng không dám nâng giáo chống lại Học Viện Hes và các Bộ Lạc của chúng
ta.”
Lại đến đêm, nơi
đây từng đặt thi thể một vị Khan, người cậu ấy đã giết, hai bên là những cột lửa
bùng cháy, quan tài Leo đặt sâu trong Điện Thờ, trước bức tượng Đức Mẹ có đôi mắt
dịu dàng không thay đổi dường như đang tìm kiếm gương mặt yên tĩnh của cậu.
Trên ngai vàng,
Hesea che mặt ngồi đó, ra lệnh cho các nam nữ tu sĩ.
“Ta mệt rồi,”
nàng nói, “có lẽ ta sẽ để các ngươi lại một lúc để đi nghỉ ngơi – bên ngoài dãy
núi. Một năm, hoặc một nghìn năm – ta không thể nói được. Nếu vậy, hãy để
Papave, cùng Oros, người tư vấn và chồng cô ấy cùng con cái họ, giữ vị trí của
ta cho tới khi ta quay lại.”
“Hỡi các nam nữ
tu sĩ của Học Viện Hes, trên những lãnh thổ mới ta đang giữ trong tay, hãy
trông giữ chúng coi như di sản của ta, hãy cai trị chúng thật tốt và khoang
dung. Từ nay trở đi, hãy để Hesea của Ngọn Núi cũng là Khania của Kaloon.”
“Hỡi các nam nữ
tu sĩ của tôn giáo cổ xưa, hãy tìm hiểu các nghi lễ và dấu hiệu của nó, đưa
chúng ra ngoài để Linh Hồn thông linh nhìn thấy được. Nếu nữ thần Hes không còn
cai trị trái đất nữa, thì vẫn sẽ thương xót các qui tắc của Mẹ Tự Nhiên. Nếu
cái tên Isis không còn vang trên cung điện Thiên Giới, thì trên đó tình yêu vẫn
chứa chan, người vẫn chăm sóc những đứa con nhân loại của người trong lồng ngực,
vẫn mang Tình Mẹ vĩ đại như bức tượng này làm biểu tượng, Tình Mẹ sinh ra chúng
ta, không lãng quên, luôn trung thành và sẽ đón nhận chúng ta vào phút cuối.”
“Vì bánh mì mang
cay đắng, chúng ta sẽ không ăn mãi, vì nước mắt, chúng ta sẽ không uống mãi.
Sau màn đêm, mặt trời huy hoàng sẽ tới; cầu vồng vẫn tỏa rạng quanh cơn mưa. Dù
chúng trượt khỏi bàn tay nắm giữ của chúng ta như tuyết tan, sinh mệnh chúng ta
mất đi sẽ bất diệt, từ trong đống lửa hy vọng nhân sinh đang cháy kia, vì sao
thiêng liêng sẽ mọc lên.”
Nàng dừng một
lúc và vẫy tay như thể xua đuổi họ, sau đó chỉ vào tôi và nói thêm – “Người đàn
ông này là bạn của phu quân ta và là khách của ta. Hãy để ông ấy cũng là bạn
các ngươi. Nguyện vọng của ta chính là các ngươi hãy bảo vệ ông ấy ở đây, khi
tuyết tan và mùa hè tới, các ngươi hãy đưa ông ấy qua vực và vượt qua dãy núi,
tới khi ông ấy an toàn. Hãy nghe và đừng quên, hãy chắc chắn với ta rằng các
ngươi sẽ chịu trách nhiệm về ông ấy.”
Màn đêm bị hút dần
về phía bình minh, chúng tôi đứng trên đỉnh núi, bên vực sâu rực lửa, chỉ bốn
chúng tôi – Ayesha và tôi, Oros và Papave. Vì những người khiêng đã đặt thi thể
Leo xuống bờ vực và đi hết. Tấm rèm lửa bùng lên trước mặt chúng tôi, đỉnh của
nó uốn cong như con sóng trong gió mạnh, dưới cơn gió, lần lượt trôi nổi từng
đám mây bị xé nát và các lưỡi lửa. Ayesha quì bên Leo đã chết, nhìn vào gương mặt
băng giá đang mỉm cười của cậu, nhưng không nói lời nào. Cuối cùng nàng đứng dậy,
và nói – “Bóng tối đã tới gần rồi, Holly, bóng tối thăm thẳm đi trước vinh
quang của bình minh. Sắp chia tay chỉ trong ít giờ nữa thôi. Khi ngươi sắp chết,
trước đó, hãy gọi ta, ta sẽ tới bên ngươi. Đừng nhúc nhích và đừng nói gì cho tới
khi mọi thứ đã xong xuôi, khi ta không còn ở đây nữa để bảo vệ ngươi, Sự Hiện
Diện nào đó sẽ tới giết ngươi.”
“Đừng nghĩ ta đã
bị thu phục, vì giờ tên ta là Thần Chiến Thắng! Đừng nghĩ sức mạnh của Ayesha
đã hết hay câu chuyện của nàng đã kết thúc, vì ngươi mới đọc được một trang
thôi. Đừng nghĩ ngay cả khi ta hôm nay là thứ tội lỗi và kiêu hãnh, Ayesha
ngươi yêu mến và sợ hãi, ta là người yêu và hy sinh vì phu quân của ta, một lần
nữa lại thụ thai linh hồn mình. Nhớ rằng từ bây giờ, một lần nữa lại như lúc
ban đầu, linh hồn chàng và linh hồn ta là một.”
Nàng suy nghĩ một
lúc rồi nói thêm,
“Người bạn, hãy
cầm cây vương trượng này để nhớ về ta, nhưng hãy cẩn thận khi sử dụng, trừ khi
phút cuối muốn triệu gọi ta, vì nó có thánh đức,” rồi nàng đưa cho tôi cái Trống
nạm châu ngọc nàng đang cầm – và nói,
“Hãy hôn lên
trán chàng đi, lui lại, đứng yên đó.”
Giờ bóng tối một
lần nữa tụ tập quanh cái hố, dù tôi không nghe thấy lời cầu nguyện nào, dù giờ
không có tiếng nhạc hào hùng nào phá vỡ không gian im lặng, dù đêm tối gió quần
quật thổi, ngọn lửa hình đôi cánh vẫn hiện ra bay lượn nơi Ayesha đứng.
Nó xuất hiện, nó
biến mất, lần lượt từng phút dài rón rén trôi qua cho tới khi lưỡi giáo đầu
tiên của bình minh chiếu trên đỉnh tảng đá.
Than ôi! Nó trống
rỗng, hoàn toàn trống rỗng và đơn độc. Cái xác của Leo đã biến mất, Ayesha uy
quyền và thần thánh cũng biến mất.
Nàng đã đi đâu?
Tôi không biết. Nhưng lúc này tôi biết, khi ánh sáng trở lại và cột lửa lớn
bùng lên gặp nhau, tôi hình như đã nhìn thấy hai bóng hình lộng lẫy quét qua
lòng chúng, gương mặt họ là của Leo và Ayesha.
Thường xuyên
trong suốt những tháng mệt mỏi sau này, khi tôi lang thang trong điện thờ hay
giữa mùa đông tuyết rơi trên sườn Ngọn Núi, tôi vẫn tìm kiếm lời giải cho câu hỏi
này – Nàng đã đi đâu? Tôi hỏi trái tim mình; tôi hỏi bầu trời; tôi hỏi linh hồn
của Leo vẫn thường rất gần bên tôi.
Nhưng không chắc
câu trả lời sẽ tới, tôi cũng không bị ai đe dọa. Vì nguồn gốc và các kiếp sống
của Ayesha phủ đầy thần bí – tôi không bao giờ biết được sự thật về những chuyện
đó – lớp vỏ thần bí phủ lên những cái chết của nàng, hay thực ra là những lần
ra đi của nàng, vì tôi không thể cho rằng nàng đã chết. Chắc chắn nàng vẫn còn
tồn tại, nếu không phải trên trần thế, thì hẳn là ở một tinh cầu nào khác
chăng?
Tôi tin là vậy;
và khi giờ phút của tôi tới, nó sẽ rất nhanh thôi, tôi sẽ biết mình có tin tưởng
vô ích không, hay nàng sẽ hiện ra làm người dẫn đường cho tôi như lời cuối của
nàng, nàng đã thề nàng sẽ làm thế. Sau đó, tôi cũng sẽ biết nàng sắp sửa tiết lộ
với Leo điều gì khi cậu chết, mục đích của hóa thân và tình yêu của họ là gì.
Vì thế tôi có thể
kiên nhẫn chờ đợi vì sẽ không phải đợi quá lâu nữa, dù trái tim tôi đã tan nát
và tôi đang lẻ loi.
Oros và các tu
sĩ rất tốt với tôi. Quả thực, ngay cả nếu đó là mong ước của bọn họ, họ cũng vẫn
sợ đối xử khác đi, họ luôn ghi nhớ và tin chắc họ phải chịu trách nhiệm về chuyện
này với nữ hoàng đáng sợ kia. Khi quay lại, tôi đã giúp họ một cách tốt nhất có
thể để vạch ra kế hoạch thành lập chính quyền cho đất nước Kaloon vừa bị thu phục,
tôi đã tư vấn cho nhiều vấn đề khác nữa.
Cuối cùng những
tháng đằng đẵng đã trôi qua, tới mùa hè, tuyết tan dần. Tôi nói mình phải ra
đi. Họ cho tôi rất nhiều của cải bằng châu báu, nhưng tôi chỉ cần một ít tiền
làm phí thông hành, vì vàng có nhiều bao nhiêu cũng rất nặng với một người cô độc.
Họ dẫn tôi qua đồng bằng Kaloon, nơi bây giờ nông dân, những người còn sống
sót, đang cày cấy và gieo hạt, sự sống cứ thế tiếp diễn trong thành phố này. Giữa
những đống đổ nát cháy đen, cung điện của Atene vẫn đứng đó không hư hại gì, tôi
không muốn đi vào đó, vì với tôi, nó luôn là ngôi nhà của chết chóc. Vì thế tôi
cắm trại bên ngoài thành, bên con sông nơi Leo và tôi đặt chân lên sau khi vị
Khan khốn khổ điên rồ kia thả chúng tôi tự do, đúng hơn là khiến chúng tôi bị bầy
chó săn tử thần săn đuổi.
Ngày kế tiếp,
chúng tôi đi thuyền qua sông, qua nơi chúng tôi từng thấy người họ hàng của
Atene bị giết hại, rồi tới ngôi nhà Cánh Cổng. Tôi lại một lần nữa ngủ ở đây,
thực ra không ngủ nổi.
Sáng hôm sau,
tôi đi xuống khe núi và kinh ngạc thấy dòng nước chảy rất nhanh – dù khá nông –
đã được bắc cầu thô sơ, chuẩn bị cho tôi đi qua bằng thang dây đơn giản nhưng khá
ổn, đối mặt với vách núi bên kia. Dưới chân, tôi tạm biệt Oros, người đã mỉm cười
hiền hậu vào ngày chúng tôi gặp nhau.
“Chúng ta đã
cùng nhau nhìn thấy nhiều điều ly kì,” tôi nói với ông ấy, không biết nói gì nữa.
“Rất li kì,” ông
ấy trả lời.
“Ít ra, ông bạn
Oros ạ,” tôi khá lúng túng tiếp tục, “các sự kiện đó tạo ra lợi thế cho ngài,
vì ngài đang kế thừa hoàng vị.”
“Ta đang quấn
mình trong tấm áo hoàng gia mượn được,” ông ấy trả lời một cách chính xác,
“không nghi ngờ gì, một ngày nào đó ta sẽ bị tước đi.”
“Ngài muốn nói
Ayesha vĩ đại không chết ư?”
“Ta muốn nói Người
không bao giờ chết. Người chỉ biến đổi, thế thôi. Giờ cơn gió đó đang thổi như
thế, Người đến và đi như thế, ai có thể nói được ở nơi nào trên thế gian, hay
ngoài thế gian, cơn gió đó sẽ nằm ngủ một lúc chứ? Nhưng lúc bình minh hay
hoàng hôn, buổi trưa hay nửa đêm, nó sẽ thổi trở lại, sau đó thật đau đớn cho
những ai bước đi trên con đường của nó.”
“Hãy nhớ xác chết
chất hàng đống trên đồng bằng Kaloon. Hãy nhớ tới sự ra đi của Pháp Sư Simbri
cùng thông điệp của ông ta và lời nhắn nhủ của Người. Hãy nhớ Hesea ra đi từ một
điểm trên Ngọn Núi. Hỡi người lạ tới từ phương Tây, chắc chắn ngày mai mặt trời
sẽ mọc, như Người ra đi, thì Người sẽ trở lại như thế, trong tấm áo mượn này,
ta chờ Người trở về.”
“Tôi cũng chờ
nàng trở về,” tôi trả lời, rồi chúng tôi chia tay ở đó.
Đi cùng hai mươi
người đàn ông khuân vác mang lương thực, tư trang và vũ khí, tôi trèo lên thang
dây khá dễ dàng, giờ tôi đã có thức ăn, nơi trú ẩn, vượt qua dãy núi không gặp chút
rủi ro nào. Họ hộ tống tôi xuyên qua sa mạc, chúng tôi cắm trại một đêm trong tầm
nhìn của tượng Phật khổng lồ ngồi trước tu viện, đời đời nhìn dọc theo cát và
tuyết.
Khi tôi tỉnh dậy
ngày hôm sau, các tu sĩ biến mất. Vì vậy tôi mang hành lý và theo đuổi cuộc
hành trình một mình, chậm rãi đi, tới hoàng hôn đã đến tu viện xa xa. Ở cửa là
một thân ảnh già cỗi, khoác trong chiếc áo choàng rách nát, đang ngồi, dường
như đang chiêm nghiệm đất trời. Đó là Kou-en, người bạn già của chúng tôi. Chỉnh
lại cặp kính bằng sừng trên mũi, ông ấy nhìn tôi.
“Ta đang đợi
ngươi, người anh em của Tu Viện ‘Thế Giới’,” ông ấy nói bằng giọng có chừng mực,
nhưng không thể che nổi niềm vui hiển hiện rõ ràng của mình. “Ngươi có đói
không mà lại quay về nơi nghèo nàn này?”
“Phải, thưa
Kou-en tuyệt vời,” tôi trả lời, “rất đói.”
“Nó sẽ là của
ngươi từ nay về sau trong kiếp này. Nhưng nói đi, người anh em kia đâu rồi?”
“Chết rồi,” tôi
trả lời.
“Thế thì sẽ được
tái sinh ở nơi nào đó hoặc có lẽ, đang mơ mộng trên Chốn Thiên Đàng một lúc. Được
rồi, không nghi ngờ chúng ta sẽ gặp lại anh ta sau đó thôi. Đi nào, ăn đi, sau
đó hãy kể cho ta câu chuyện của ngươi.”
Tôi ăn uống, đến
tối tôi kể cho ông ấy nghe tất cả. Kou-en lắng nghe chăm chú và tôn trọng,
nhưng câu chuyện khá ly kỳ với hầu hết mọi người, lại không làm đầu óc ông ấy
phấn khích hay thắc mắc. Quả thực, ông ấy giải thích cho tôi bằng sự trợ giúp của
học thuyết về tái sinh tuyệt hảo, cuối cùng khiến tôi bắt đầu ngủ gật.
“Ít ra,” tôi
ngáp ngủ nói, “có lẽ chúng tôi đều đã dành được công phúc trên Thế Giới Vĩnh Hằng,”
vì tôi nghĩ khẩu hiệu yêu thích đó có thể làm ông ấy hài lòng.
“Đúng, người anh
em của Tu Viện Thế Giới,” Kou-en trả lời bằng giọng nghiêm túc, “không nghi ngờ
gì nữa, các ngươi đều đã dành được công phúc, nhưng nếu ta dám nói như vậy,
ngươi sẽ dành được nó rất chậm, đặc biệt người phụ nữ - hay nữ phù thủy – hay
linh hồn ác quỉ hùng mạnh kia – người ngươi kể cho ta có tên là She, Hes, hay
Ayesha trên trần thế, còn trong Avichi (còn gọi là Atỳ, Cõi Thứ Tám, Huyết Trì Địa Ngục, hay Vô Gian
Địa Ngục), cô ta là Thiên Thần Sa Ngã – “
(Đến đây bản thảo của Ngài Holly kết thúc, các
trang tiếp theo đã bị thiêu cháy khi ngài ném vào đống lửa trong ngôi nhà bên bờ
biển Cumberland.)
-
HẾT –
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét