Chương 13: Dưới Đôi Cánh che chở
Đám người trong
bộ lạc kinh sợ lần lượt từng người một bò đi mất. Khi người cuối cùng biến mất,
linh mục tiến tới chỗ Leo và chào cậu bằng cách đặt tay lên trán.
“Thưa Ngài,” ông
ấy nói, bằng phương ngữ Hy Lạp lộn xộn giống đám cận thần ở Kaloon, “Ta sẽ
không hỏi liệu ngài có đau không, vì từ lúc ngài bước vào dòng sông cấm và đặt
chân lên mảnh đất này, ngài và bạn đồng hành của ngài đã được bảo vệ dưới quyền
năng vô hình và không ai hay linh hồn nào có thể làm hại, nhưng nguy hiểm của
ngài vẫn rất lớn. Nhưng những bàn tay thấp hèn đã đặt lên ngài, và đây là lệnh
từ Đức Mẹ ta phụng sự, nếu ngài muốn, mọi người chạm vào ngài sẽ phải chết trước
mắt ngài. Hãy nói đi, đó có phải là ý nguyện của ngài không?”
“Không,” Leo trả
lời; “bọn họ điên cuồng và mù quáng, đừng để máu đổ vì chúng tôi nữa. Tất cả những
gì chúng tôi yêu cầu từ ngài, ông bạn – nhưng ông gọi là gì nhỉ?”
“Hãy gọi ta là
Oros,” ông ấy trả lời.
“Ông bạn Oros – một
cái tên hay với người cư ngụ trên Ngọn Núi – tất cả những gì chúng tôi yêu cầu
là thức ăn và nơi trú ẩn, và được dẫn đường nhanh chóng tới nơi hiện diện của
người ngài gọi là Đức Mẹ, Vị Tiên Tri mà chúng tôi đã qua bao hành trình tìm kiếm
sự thông thái của bà ấy.”
Ông ấy cúi đầu
trả lời: “Thức ăn và chỗ ở đã được chuẩn bị, ngày mai khi ngài đã nghỉ ngơi, ta
được ra lệnh dẫn ngài tới nơi ngài muốn. Hãy đi theo ta, ta sẽ cầu nguyện cho
ngài;” ông ấy đưa chúng tôi đi qua hố lửa tới ngôi nhà cách đó năm mươi thước cạnh
tường đá của đấu trường.
Có lẽ là nhà
khách, hoặc ít ra cũng sẵn sàng dùng cho mục đích đó, trong đó đèn đã thắp lên
và một đống lửa đang cháy, vì ở đây không khí rất lạnh. Ngôi nhà chia thành hai
phòng, phòng thứ hai là chỗ ngủ, ông ấy dẫn chúng tôi vào phòng đầu tiên.
“Vào đi,” ông ấy
nói, “vì các ngài cần tắm rửa sạch sẽ,” – ông ấy tự nói với tôi – “còn ngài, sẽ
được điều trị vết thương trên tay do con chó săn lớn cắn.”
“Làm sao ngài biết
điều đó?” tôi hỏi.
“Không sao nếu
ta biết và đã sẵn sàng,” Oros nghiêm túc trả lời.
Phòng thứ hai được
thắp sáng và sưởi ấm như phòng thứ nhất, nước nóng đặt trong các chậu kim loại
và trên giường có quần áo vải lanh sạch sẽ cùng áo choàng trùm đầu màu tối, lót
bằng lông thú dày dặn. Trên bàn nhỏ là thuốc mỡ, băng, nẹp, thật kỳ diệu khi thấy
vậy, vì nó nói cho tôi biết đặc điểm vết thương của mình đã được nhận biết.
Nhưng tôi không hỏi thêm gì nữa; tôi cũng rất mệt; hơn nữa, tôi biết chắc sẽ vô
dụng.
Giờ vị linh mục
Oros giúp tôi cởi áo choàng rách nát, và tháo đống băng thô sơ trên cánh tay, rửa
sạch nó nhẹ nhàng bằng nước ấm, rồi ông ấy trộn ít tinh dầu, và kiểm tra vết
thương như một bác sĩ đã được đào tạo bài bản.
“Răng nanh đã cắm
vào rất sâu,” ông ấy nói, “xương nhỏ đã bị vỡ, nhưng sẽ không có hại với ngài,
chỉ còn lưu lại các vết sẹo thôi.” Sau khi điều trị vết thương bằng thuốc mỡ,
ông ấy quấn tay tôi rất chặt và tinh tế, hầu như không hề gây đau đớn, rồi bảo
ngày mai vết sưng tấy sẽ giảm dần, và ông ấy sẽ nắn xương. Thực sự đúng vậy.
Sau khi xong
xuôi, ông ấy giúp tôi tắm gội và mặc quần áo sạch cho tôi, rồi đặt băng đeo ở cổ
cho phần còn lại của cánh tay. Trong lúc đó, Leo cũng mặc xong quần áo, chúng
tôi cùng nhau rời phòng, là những người rất khác với những kẻ lang thang hôi
hám, nhuốm đầy máu vừa bước vào lúc trước. Ở phòng ngoài, chúng tôi thấy thức
ăn đã được chuẩn bị cho mình, chúng tôi ăn với lòng biết ơn và không nói chuyện.
Sau đó, mờ mịt và mỏi mệt, chúng tôi trở về phòng kia, cởi áo ngoài, quăng mình
lên giường và nhanh chóng rơi vào giấc ngủ.
Một lần giữa
đêm, tôi đột nhiên tỉnh giấc, tôi không biết vào lúc mấy giờ, nhưng vài người
chắc đã thức dậy, tôi chỉ là một trong số họ, khi đó căn phòng đã bị mở ra
không một tiếng động. Trước khi mở mắt, tôi đã cảm nhận được ai đó đang ở bên
chúng tôi chỗ này. Tôi đã không nhầm. Ngọn đèn nhỏ vẫn cháy trong phòng, cái bấc
duy nhất đang nổi trong dầu, dưới ánh đèn, tôi thấy thân ảnh lờ mờ như bóng ma
đứng gần cửa. Tôi thực sự nghĩ đó là một con ma, giờ tôi mới nhớ ra, đó là người
dẫn đường như xác ướp của chúng tôi, người đó dường như đang nhìn chăm chú vào
chiếc giường nơi Leo nằm, hoặc tôi nghĩ vậy, vì đầu đang quay về hướng đó.
Lúc đầu, cô ấy
hoàn toàn đứng yên, sau đó cô ấy lớn tiếng rên rỉ, một tiếng rên trầm và kinh
khủng, như đi từ tận đáy lòng.
Cô ấy không câm
như tôi tưởng. Rõ ràng đang đau khổ, và thể hiện nỗi đau khổ theo cách của con
người. Nhìn kìa! Cô ấy đang vắt tay như trong nỗi đau đớn tột đỉnh. Giờ có lẽ
Leo cũng bắt đầu cảm thấy ảnh hưởng của cô ấy, vì cậu cựa mình và nói trong giấc
ngủ, nhỏ đến mức tôi chỉ có thể phân biệt theo giọng lưỡi cậu sử dụng, đó là tiếng
Ả Rập. Giờ tôi đã nghe được vài từ.
“Ayesha,” cậu ấy
nói, “Ayesha!”
Thân ảnh kia lướt
về phía cậu và dừng lại. Cậu ngồi dậy trên giường trong khi vẫn ngủ say, đôi mắt
vẫn nhắm chặt. Cậu giang đôi tay, như thể tìm kiếm ai đó cậu muốn ôm, và nói lại
trong giọng trầm thấp đầy khao khát – “Ayesha, ta đã tìm nàng lâu lắm rồi,
xuyên qua cả sự sống và cái chết. Hãy đến với ta, nữ thần của ta, tình yêu của
ta.”
Thân ảnh trượt lại
gần hơn, và tôi có thể thấy nó đang run rẩy, giờ cánh tay nó cũng mở rộng ra.
Cô
ấy dừng lại bên giường, Leo lại tự nằm xuống. Giờ chăn đã rơi xuống, để lộ ngực
cậu, trên đó có chiếc túi da cậu luôn luôn đeo, có chứa lọn tóc của Ayesha. Cậu
ấy đang ngủ say, thân ảnh đó dán mắt lên chiếc túi. Hiện giờ còn hơn thế, vì ngạc
nhiên, những ngón tay bọc vải trắng đã mở nắp túi, đúng, và lôi ra túm tóc dài
óng ánh. Cô ấy nhìn chằm chằm vào nó rất lâu và tha thiết, rồi nhẹ nhàng đặt lại
di vật vào đó, đóng túi lại và dường như khóc một chút. Trong lúc cô ấy đứng
đó, Leo lại mơ màng một lần nữa giang tay ra và nói, bằng giọng nặng trĩu khát
khao – “Hãy đến với ta, người yêu ơi, người đẹp của ta, người đẹp của ta!”
Trước
những lời đó, một tiếng kêu mang chút nghẹn ngào vang lên như của con cú đêm
đang kinh sợ, thân ảnh đó quay đi và lướt qua cửa ra vào.
Khi
tôi hoàn toàn chắc chắn cô ấy đã biến mất, tôi thở hổn hển thành tiếng.
Điều
này có nghĩa là gì, tôi tự hỏi trong cơn gấp gáp hoang mang. Chắc không phải là
mơ: đó là sự thật, vì tôi rõ ràng đã tỉnh. Quả thật, toàn bộ chuyện này có ý
nghĩa gì? Ai là vật ma quái như xác ướp dẫn đường cho chúng tôi lành lặn vượt
qua những hiểm nguy kia; Sứ Giả mà mọi người khiếp sợ, có thể làm ngừng khí thế
tấn công của đám người hoang dã chỉ bằng chuyển động bàn tay là ai? Tại sao cô ấy
lại tới đây vào đêm khuya như một linh hồn thăm lại người yêu thương? Tại sao sự
hiện diện của cô ấy khiến tôi tỉnh giấc còn Leo mơ màng? Tại sao cô ấy lấy lọn
tóc ra; thực ra làm sao cô ấy biết lọn tóc bị giấu trong đó? Và tại sao – ôi! Tại
sao, trước những lời dịu dàng và đầy khao khát kia, cô ấy lại bay mất như con
dơi đang sợ hãi?
Linh
mục Oros gọi người dẫn đường của chúng tôi là Mục Sư, và Thanh Gươm, là một
trong những người thực thi các mệnh lệnh. Nhưng có chuyện gì nếu chúng đều là
các mệnh lệnh của chính cô ấy? Chuyện gì đây nếu cô ấy chính là người chúng tôi
tìm kiếm, Ayesha? Tại sao tôi lại run sợ trước suy nghĩ này, nếu vậy, cuộc tìm
kiếm của chúng tôi đã kết thúc, chúng tôi đã thành công phải không? Ôi! Hẳn là
thế vì sinh vật kia mang điều gì đó kinh khủng, phi nhân tính và gây khiếp sợ.
Nếu Ayesha sống trong lớp vải xác ướp này, thì đó là một Ayesha khác với người
chúng tôi biết và tôn thờ. Tôi vẫn còn nhớ rõ thân ảnh quấn vải trắng của Bà ấy – Người chúng ta phải tuân lệnh, và
bao lâu sau mới tiết lộ gương mặt kiều diễm cho chúng tôi, chúng tôi đã đoán vẻ
đẹp và sự uy nghi ẩn sau tấm mạng che vì sức sống rạng ngời và thân thể yêu kiều
của bà không thể ngụy trang được.
Nhưng
còn sinh vật này? Tôi không muốn theo đuổi suy nghĩ đó. Tôi đã lầm lẫn rồi.
Không nghi ngờ nữa, cô ấy chính là những gì mà linh mục Oros đã nói – một con
người nửa siêu nhiên được ban cho những quyền năng cụ thể nào đó, cô ấy có thể
là gián điệp ở chỗ chúng tôi, có thể báo cáo lại mọi chuyện với người ban cho
những quyền năng này.
Để
an ủi bản thân, tôi cảm thấy buồn ngủ trở lại, vì mệt mỏi vượt qua cả nghi ngờ
và sợ hãi. Buổi sáng, khi tự nhiên chúng bớt sống động đi, tôi quyết định, vì
nhiều lý do, khôn ngoan nhất là không nói những gì tôi đã thấy cho Leo. Thực ra
tôi đã không làm thế cho đến vài ngày sau.
Khi
tôi tỉnh dậy, ánh sáng đã tràn đầy căn phòng, tôi thấy linh mục Oros đang đứng
bên giường tôi. Tôi ngồi dậy, hỏi ông ấy mấy giờ rồi, ông ấy mỉm cười trả lời bằng
giọng trầm lắng, đã gần hai giờ trưa, và nói thêm ông sẽ cố định cánh tay cho
tôi. Giờ tôi biết tại sao ông ấy nói nhỏ, vì Leo vẫn ngủ say.
“Hãy
để anh ta nghỉ ngơi tiếp,” ông ấy nói, rồi tháo lớp vải quấn tay tôi, “vì anh
ta đã chịu đau đớn rất nhiều,” ông ấy nói tiếp một cách rõ ràng, “và có lẽ sẽ
phải chịu nhiều đau đớn hơn.”
“Ngài
có ý gì, Oros thân mến?” tôi sắc bén hỏi lại. “Tôi nghĩ ngài đã bảo rằng chúng
tôi sẽ an toàn trên Ngọn Núi này.”
“Ta
kể cho ngươi, anh bạn” và ông ấy nhìn tôi.
“Holly
là tên tôi”.
“Anh
bạn Holly, thể xác các vị an toàn. Ta không nói gì về phần còn lại của các vị.
Con người không chỉ có da thịt và máu. Họ có đầu óc và linh hồn nữa, những cái
đó có thể bị tổn thương.”
“Ai
có thể làm chúng bị tổn thương chứ?” tôi hỏi.
“Anh
bạn,” ông ấy nghiêm nghị trả lời, “anh và bạn đồng hành của anh đã tới một vùng
đất bị ma ám, không phải chỉ là những kẻ lang thang, vì các người có thể đã chết
trước cả bây giờ, mà còn vì mục đích tìm kiếm để vén tấm màn bí ẩn đã bị che dấu
bao năm tháng. Phải, mục đích của các ngươi đã bị biết đến và có lẽ sẽ đạt được.
Nhưng nếu tấm mạng che đó được vén lên, cũng có khả năng các ngươi sẽ thấy linh
hồn mình run rẩy đến tuyệt vọng và điên cuồng. Nói đi, ngươi không sợ sao?”
“Cũng
hơi sợ,” tôi trả lời. “Nhưng con trai nuôi của tôi và tôi đã nhìn thấy những
chuyện ly kỳ và vẫn sống sót. Chúng tôi đã thấy Ánh Sáng của Sự Sống cuộn chảy
thần bí; chúng tôi đã làm khách của một người Bất Tử, và quan sát Tử Thần chinh
chiến với bà ấy rồi rời bỏ mà không chạm được vào chúng tôi. Ngài nghĩ xem,
chúng tôi giờ sẽ biến thành những kẻ hèn nhát ư? Không, chúng tôi sẽ bước tiếp
để thực hiện sứ mệnh của mình.”
Trước
những lời đó, Oros không thể hiện sự tò mò hay kinh ngạc; như thể tôi nói một
điều ông đã biết.
“Tốt,”
ông ấy đáp, mỉm cười, lịch sự gật cái đầu trọc, “trong một giờ nữa các ngươi sẽ
đi tiếp – để thực hiện sứ mệnh của các ngươi. Nếu ta đã cảnh cáo ngươi, hãy tha
lỗi cho ta, vì ta được ra lệnh làm thế, có lẽ để thử dũng khí của các ngươi. Liệu
có cần ta nhắc lại lời cảnh báo này với chàng trai – “ ông ấy lại nhìn tôi.
“Leo
Vincey” Tôi đáp.
“Leo
Vincey, phải, Leo Vincey,” ông ấy lặp lại, như thể cái tên đó quen thuộc với
ông ta nhưng vừa trượt khỏi đầu. “Nhưng ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta. Có cần
ta nhắc lại lời cảnh báo đó không?”
“Không;
nhưng ngài có thể làm vậy nếu ngài muốn khi cậu ấy tỉnh dậy.”
“Không,
ta nghĩ với ngươi thì có thể, nhưng sẽ phí lời, – tha thứ cho sự so sánh này –
vì những gì sói muốn” – ông ta nhìn tôi – “hổ không thể thoát được,” rồi ông ta
gật đầu về phía Leo. “Nào, nhìn xem vết thương trên tay ngươi đã tốt hơn bao
nhiêu rồi, không còn bị sưng nữa. Giờ ta sẽ băng lại, vài tuần nữa xương sẽ tốt
lại giống trước khi ngươi bị Khan Rassen săn đuổi trên bình nguyên. Dù sao,
ngươi sẽ gặp lại hắn sớm thôi, và cả cô vợ xinh đẹp của hắn nữa.”
“Gặp
lại hắn ư? Làm người chết trở thành sống trên Ngọn Núi này ư?”
“Không,
nhưng chắc chắn họ được mang tới đây để mai táng. Đó là đặc quyền của tầng lớp
thống trị ở Kaloon; ta cũng nghĩ, Khania sẽ có nhiều câu hỏi để hỏi Nhà Tiên
Tri.”
“Ai
là Nhà Tiên Tri?” tôi háo hức hỏi.
“Nhà
Tiên Tri,” ông ấy trả lời mơ hồ, “là Giọng Nói. Luôn là như vậy, không phải
sao?”
“Vâng;
tôi đã nghe được từ Atene, nhưng giọng nói hàm ý chỉ người nói. Người nói này là
người ngài gọi là Đức Mẹ phải không?”
“Cõ
lẽ vậy, anh bạn Holly ạ.”
“Đức
Mẹ này là một linh hồn ư?”
“Đó
là điều gây nhiều tranh cãi. Người ta nói với ngươi như thế trên Đồng Bằng,
đúng không? Các bộ lạc trên Ngọn Núi cũng nghĩ vậy. Nhưng ngươi có thể tự xét
đoán rồi chúng ta sẽ tranh luận vấn đề này sau. Được rồi, tay ngươi đã xong. Giờ
hãy cẩn thận đừng đánh vào nó hay bị ngã, nhìn kìa, bạn đồng hành của ngươi đã
thức dậy.”
Một
giờ sau đó, chúng tôi bắt đầu lên đường. Tôi lại trèo lên con ngựa của Khan, đã
được chăm sóc và cho ăn nên được nghỉ ngơi phần nào, trong khi đó một chiếc kiệu
được đưa cho Leo. Tuy nhiên cậu từ chối, bảo rằng giờ cậu đã hồi phục và không
muốn bị khiêng như một phụ nữ. Vì thế cậu đi bộ bên cạnh ngựa của tôi, dùng
giáo làm gậy. Chúng tôi đi qua hố lửa – giờ đã tắt, tro màu trắng, trong đó trộn
lẫn cả xác tên phù thủy và con mèo kinh khủng của hắn – đi trước là người dẫn
đường câm lặng của chúng tôi, trong lớp vải tái nhợt, người dân trong bộ lạc đã
trở lại ngôi làng quì lạy họ, và cứ duy trì như thế cho đến khi cô ấy biến mất.
Nhưng
một trong số họ lại đứng lên, xuyên qua đoàn linh mục hộ tống chúng tôi, chạy tới
chỗ Leo, quì xuống trước cậu và hôn lên tay cậu. Đó chính là người phụ nữ trẻ
được cậu cứu mạng, một cô gái có dáng vẻ cao quí, mái tóc dày màu đỏ, theo sau
là chồng cô, dấu tích gông cùm vẫn hiện trên cánh tay anh ta. Người hướng dẫn
có lẽ nhìn thấy cảnh đó, dù cô ấy làm vậy bằng cách nào tôi cũng không biết. Dù
sao cô đã quay lại và ra hiệu linh mục giải thích.
Gọi
người phụ nữ tới chỗ mình, ông ta lạnh lùng hỏi cô ấy làm sao dám chạm vào thân
thể người lạ này bằng đôi môi thấp hèn của cô. Cô đáp rằng, đó là vì lòng biết
ơn. Oros nói nếu vì lý do đó, cô được tha thứ; hơn nữa, để thưởng cho những gì
họ phải chịu đựng, ông được ra lệnh nâng chồng cô thành người cai trị bộ lạc để
làm hài lòng Đức Mẹ. Hơn nữa, ông ấy thông báo, tất cả phải tuân lệnh vị thủ
lĩnh mới theo phong tục, và nếu anh ta làm điều xấu, hãy thông báo, anh ta có
thể sẽ phải chịu trừng phạt. Rồi xua cặp đôi sang một bên, không nghe họ cám ơn
hay lời tung hô của đám đông, ông ấy đi mất.
Khi
xuống khe núi chúng tôi đã qua để vào ngôi làng này đêm trước, một tiếng tụng
kinh đập vào tai chúng tôi. Giờ con đường có lối rẽ, và chúng tôi nhìn thấy một
đám rước long trọng tiến lên hẻm núi ảm đạm không ánh mặt trời. Dẫn đầu, không
ai khác là Khania xinh đẹp cưỡi ngựa, theo sau là ông bác vĩ đại của cô ấy, vị
Pháp Sư già, sau họ là một đoàn linh mục cạo trọc đầu choàng áo trắng, mang một
quan tài ở giữa, trên bề mặt không được che phủ là thi thể của Khan, bọc vải
đen. Trông anh ta tốt hơn bất cứ lúc nào, vì giờ đây cái chết đã chạm tới người
đàn ông mất trí và phóng đãng này, mang theo chút phẩm giá mà anh ta thiếu khi
còn sống.
Chúng
tôi gặp nhau như thế. Nhìn thấy thân ảnh màu trắng của người dẫn đường, con ngựa
Khania cưỡi lồng lên bạo lực đến mức tôi nghĩ nó có thể ném cô ấy xuống. Nhưng
cô dùng roi và giọng nói làm chủ con vật, và gọi to – “Ai là kẻ xấu xí bọc vải
từ Ngọn Núi chặn giữa lối đi của Khania Atene và phu quân đã mất? Hỡi các vị
khách của ta, ta tìm các ngươi đến phát ốm rồi, hình như các ngươi đã được một
linh hồn xấu xa dẫn dắt tới gặp một định mệnh xấu xa. Kẻ dẫn đường kia của các
ngươi chắc hẳn phải là thứ gì đó rất đáng ghét và ghê tởm, vì nếu là phụ nữ, cô
ta sẽ không sợ lộ ra khuôn mặt.”
Giờ
vị Pháp Sư kéo tay áo chủ nhân của mình, còn linh mục Oros cúi chào cô ấy, cầu
xin cô im lặng và ngừng nói những lời mang điềm xấu đó trong không gian, mà cô ấy
cũng không biết chúng sẽ được mang tới nơi nào. Nhưng sự căm ghét bản năng dường
như đã nổi lên trong lòng Atene, cô không muốn im lặng, vì cô nói trực tiếp với
người dẫn đường của chúng tôi bằng từ “ngươi”, cách nói chúng tôi thấy rất
thông dụng trên Ngọn Núi, nhưng hiếm hoi ở Đồng Bằng.
“Hãy
để không gian mang chúng tới nơi chúng sẽ tới,” cô ấy kêu lên. “Nữ phù thủy
kia, hãy lột đống giẻ của ngươi ra, nó chỉ dành cho một xác chết quá thấp hèn để
xem. Hãy thể hiện cho chúng ta ngươi là ai, ngươi, con cú đêm bay lượn kia,
nghĩ rằng sẽ dọa ta sợ với dáng vẻ chết chóc chỉ dành che người chết đó sao.”
“Ngừng
lại, tôi cầu xin ngài, thưa quí bà, hãy ngừng lại,” Oros nói, cựa mình khỏi vẻ
bình tĩnh bất động. “Người đó là Mục Sư, đi cùng người đó là Quyền Năng.”
“Thế
thì nó không chống lại được Atene, Khania của Kaloon,” cô ấy trả lời, “hay ta
nghĩ vậy. Quyền Năng, hẳn là thế rồi! hãy để cô ta thể hiện quyền năng đi. Nếu
cô ta sở hữu thứ không phải của mình, thì chỉ là Phù Thủy của Ngọn Núi, kẻ giả
bộ là một linh hồn, cùng đám phù thủy mang các vị khách của ta đi mất” – rồi cô
chỉ vào chúng tôi – “và đưa chồng ta tới chỗ chết.”
“Cháu
gái, im lặng đi!” vị Pháp Sư già nói, gương mặt nhăn nhúm đã trắng bệch vì kinh
sợ, trong lúc đó Oros đưa tay lên như thể khẩn cầu Sức Mạnh vô hình – “O, xin
người hãy lắng nghe và nhìn đi, xin hãy thương xót, ta cầu xin người, hãy tha
thứ cho người phụ nữ này vì sự điên rồ của nàng, máu của vị khách sẽ không vấy
lên bàn tay tôi tớ của người, danh dự cổ xưa chúng ta tôn thờ sẽ bị hạ thấp
trong mắt loài người.”
Ông
ấy cầu nguyện nhưng tay vẫn giơ lên, dường như tôi thấy mắt ông dán lên người dẫn
đường, giống như chúng tôi. Trong khi ông ấy nói, tôi thấy bàn tay cô ta giơ
lên, giống như lúc cô ta giơ lên để giết, hay đúng hơn là kết tội thầy phù thủy.
Sau đó cô ta dường như suy tư, đứng giữa không trung, chỉ vào Khania. Cô ta
không cử động, không phát ra âm thanh, chỉ trỏ vào, và những lời tức giận ngưng
bặt trên môi Atene, sự giận dữ rời khỏi đôi mắt cô và màu sắc rời khỏi gương mặt
cô. Đúng, cô ấy trở nên trắng bệch và im lặng giống như cái xác trên chiếc quan
tài phía sau. Sau đó, bị thúc đẩy bởi quyền năng vô hình, cô đánh con ngựa mạnh
đến nỗi nó đâm vào chúng tôi chạy về hướng ngôi làng, đoàn tang lễ ngẩn người một
lúc.
Khi
Pháp Sư Simbri định đuổi theo Khania, linh mục Oros giữ dây cương ngựa của ông
ta và nói với ông ấy – “Thầy Phù Thủy, chúng ta từng gặp nhau trước đây, khi
cha người phụ nữ kia được mang đi chôn cất. Hãy cảnh báo nàng ấy, ngươi biết điều
gì đó về sự thật và quyền lực của bà ấy, hãy nói chuyện nhẹ nhàng hơn với người
cai trị vùng đất này. Hãy chuyển lời cho nàng ấy từ ta, rằng, nếu nàng không phải
là đại sứ của tử thần, do đó bất khả xâm phạm, nếu không chắc chắn giờ nàng đã
chia sẻ chung quan tài với chồng nàng rồi. Tạm biệt, ngày mai chúng ta sẽ lại
nói chuyện,” rồi buông dây cương của Pháp Sư, Oros đi qua.
Chúng
tôi nhanh chóng bỏ lại đám đưa tang phía sau và đi ra khỏi hẻm núi, rẽ lên sườn
Ngọn Núi, hướng về phía sườn tuyết màu sáng nằm không xa phía trên. Chính vào
lúc chúng tôi bước ra khỏi thung lũng mù mịt này, nơi đám thông nhô lên gần như
che khuất ánh sáng, đột nhiên chúng tôi lạc mất người dẫn đường.
“Cô
ấy đã quay trở lại – đối phó với Khania ư?” tôi hỏi Oros.
“Không!”
ông ấy trả lời bằng nụ cười nhẹ, “Ta nghĩ nàng ấy đã đi trước để thông báo các
vị khách của Hesea đã sắp tới.”
“Thật
sao,” tôi trả lời, khó nhọc nhìn chằm chằm vào sườn núi trống trải bên trên,
không một con chuột nào có thể đi qua mà không bị nhìn thấy. “Tôi hiểu rồi – cô
ấy đã đi trước,” và câu chuyện bị bỏ xuống. Nhưng điều tôi không hiểu nổi là –
cô ta biến mất như thế nào. Tuy nhiên Ngọn Núi như tổ ong với các hang động và
hành lang, tôi cho rằng cô ta đã đi vào một trong số đó.
Suốt
cả ngày còn lại, chúng tôi đi bộ lên trên, dần dần tới gần sườn tuyết hơn, đồng
thời thu thập thêm ít thông tin trong chừng mực có thể từ linh mục Oros. Đây là
tổng hợp của tất cả - Từ khi thế giới bắt đầu hình thành, theo ông ấy diễn tả, đó
là từ hàng nghìn hàng nghìn năm trước, Ngọn Núi này đã là ngôi nhà để thờ phụng
ngọn lửa đặc biệt, đại tư giáo đứng đầu là một phụ nữ. Tuy nhiên khoảng hai
mươi thế kỷ trước, vị tướng quân xâm lược tên là Rassen, đã tự phong mình là
Khan của Kaloon. Rassen đã lập một nữ tu sĩ mới trên Ngọn Núi, tín đồ của nữ thần
Ai Cập Hes, hay Isis. Vị nữ tu này đưa ra vài sửa đổi trong các học thuyết cổ
xưa, thay thế sự sùng bái ngọn lửa, sự tinh khiết và đơn giản, bằng một niềm
tin mới, trong đó giữ lại một số nghi lễ cổ, để tôn kính người đứng đầu tín ngưỡng
đó là Linh Hồn của Sự Sống, hay Mẹ Tự Nhiên, người ta coi nữ tu sĩ này là người
đại diện trần thế của Ngài.
Về
nữ tu sĩ này, Oros chỉ nói với chúng tôi rằng bà ấy “luôn luôn hiện diện”, dù
chúng tôi thu thập và biết rằng khi một nữ tu chết hay được “đưa vào ngọn lửa”,
như ông gọi, đứa con của bà ấy, dù thật hay là con nuôi, đều có một cái tên giống
nhau, “Hes” hay “Hesea” hay “Đức Mẹ”. Chúng tôi hỏi liệu có thể gặp được Đức Mẹ
này không, ông ấy trả lời, bà ấy rất hiếm khi ra mặt. Ông không nói gì về vẻ
ngoài và tính cách của bà ấy, ngoại trừ việc người trước bị biến đổi từ lần này
sang lần khác và khi bà ấy lựa chọn sử dụng nó, bà ấy có “tất cả quyền năng”.
Các
linh mục nam trong Học Viện, ông ấy bảo chúng tôi, có ba trăm người, chưa bao
giờ nhiều hay ít hơn, và cũng có đúng ba trăm nữ linh mục. Một số trong đó mong
muốn được phép kết hôn, con cháu họ lại được nuôi nấng thành thế hệ tu sĩ nam
và nữ mới. Họ đều là người cùng một dân tộc với nhau, mang đặc trưng chủng tộc
riêng biệt. Thực ra điều này rất rõ ràng, vì đoàn hộ tống chúng tôi tất cả đều
cực kỳ giống nhau, rất đẹp trai và vẻ bề ngoài vô cùng tinh tế, mắt đen, đầu cắt
sạch sẽ, da màu ô liu; có lẽ là một chủng tộc có nguồn gốc từ phương Đông mang
dòng máu cao quí, có một chút Ai Cập và Hy Lạp bị ném vào.
Chúng
tôi hỏi ông ấy cây cột trụ mang thòng lọng hùng vĩ nhô lên từ đỉnh Ngọn Núi là
tác phẩm của con người phải không. Ông ấy trả lời, Không; bàn tay của Mẹ Tự
Nhiên đã tạo nên nó, và ánh sáng chiếu xuyên qua nó đến từ lửa cháy ở miệng ngọn
núi lửa. Vị nữ tu sĩ đầu tiên đã nhận ra cây cột khổng lồ này là Biểu Tượng Sự
Sống quen thuộc trong tập tục thờ phụng của người Ai Cập, nên đã lập bàn thờ của
mình dưới bóng nó.
Phần
còn lại, Ngọn Núi hùng vĩ được cư ngụ bởi vô số người bán hoang dã, chấp nhận sự
cai trị của Hesea, tiến cống bà mọi thứ cần thiết, như thức ăn và kim loại. Tuy
nhiên các tu sĩ cũng tự gieo trồng được nhiều thịt và ngũ cốc trên những trang
trại có mái che, họ tìm ra kim loại bằng chính bàn tay mình. Tuy nhiên luật lệ
này mang tính đạo đức, vì bao thế kỷ qua, Học Viện không tìm cách chinh phạt và
Đức Mẹ hài lòng khi trừng phạt tội lỗi theo cách chúng tôi đã nhìn thấy. Đối với
những cuộc chiến tranh nhỏ lẻ giữa các bộ lạc và dân tộc vùng Đồng Bằng, họ
không có trách nhiệm, các thủ lĩnh thực hiện chúng đều bị phế truất, trừ khi họ
bị tấn công. Tuy nhiên tất cả các bộ lạc đều tuyên thệ bảo vệ Hesea và Học Viện,
bản thân họ cũng tranh cãi rất nhiều, nhưng nếu nhu cầu phát sinh, họ sẵn sàng
hi sinh vì bà ấy tới người cuối cùng. Một lần, chiến tranh đã nổ ra giữa các tu
sĩ trên Ngọn Núi và nhân dân Kaloon; họ đã cố gắng chuẩn bị cho trận chiến vĩ đại
cuối cùng này.
Đại
ý câu chuyện của ông ấy là như vậy, sau này chúng tôi biết, mỗi chi tiết cụ thể
đó đều là sự thật.
Gần
hoàng hôn, chúng tôi tới sơn cốc rộng lớn trải dài hàng ngàn mẫu, nằm dưới
tràng tuyết trên đỉnh và phủ đầy đất màu mỡ bị rửa trôi xuống từ bên trên, tôi
cho là như vậy. Chỗ này có mái che do kết cấu của nó và ngọn núi treo bên trên,
quay mặt về hướng tây nam, nhờ độ cao này, nó sản sinh ra ngô và các cây ôn đới
khác vô cùng phong phú. Học viện có trang trại ở đây, có vẻ được nuôi trồng rất
tốt. Sơn cốc tuyệt vời này không thể nhìn thấy được từ bên dưới, chúng tôi đi
vào đó qua một cánh cổng tự nhiên, có lẽ dễ dàng phòng thủ với chủ nhân.
Có
nhiều đặc thù khác, nhưng không cần thiết mô tả sâu hơn ngoài việc nói rằng, tôi
nghĩ đất đai được hưởng lợi từ sức nóng tự nhiên của núi lửa, khi nó tuôn trào
như thường thấy, các dòng dung nham luôn trào ra phía bắc và phía nam của sơn cốc.
Quả thật, chính các dòng dung nham đã tạo thành những vách đá phòng thủ bảo vệ.
Vượt
qua vùng đất như khu vườn này, chúng tôi tới một thị trấn nhỏ xinh đẹp bằng
dung nham đá. Nơi đây các tu sĩ cư ngụ, ngoại trừ những người theo bổn phận,
không ai trong các bộ lạc hay người lạ được phép đặt chân vào nơi này.
Đi
theo con đường chính trong thị trấn, chúng tôi đến trước mặt vách đá ngoài
cùng, và thấy mình đang đứng trước một cổng tò vò lớn đang đóng, cánh cổng bằng
sắt khổng lồ được rèn ra một cách thần kỳ. Dắt con ngựa đi, đoàn hộ tống bỏ lại
chúng tôi một mình với Oros. Khi chúng tôi tới gần hơn, cánh cổng lớn xoay bản
lề ngược lại. Chúng tôi đi qua – cảm giác tôi không thể tả nổi – rồi lò dò đi
xuống hành lang hẹp có điểm cuối là những cánh cửa cao bằng sắt. Chúng cũng
xoay mở theo hướng chúng tôi, ngay sau đó chúng tôi lại bị lảo đảo vì kinh ngạc
và gần như mù mịt trước ánh sáng dữ dội từ bên trong.
Bạn
là người đọc, hãy tưởng tượng đang ở gian giữa của điện thờ mênh mông. Sau đó
kích thước tăng lên gấp đôi gấp ba, bạn sẽ có khái niệm về đền thờ chúng tôi
nhìn thấy. Có lẽ ban đầu nó là một cái hang, ai biết được? Nhưng giờ bức tường
sâu hoắm, vô số cột mọc lên mái vòm xa xa phía trên chúng tôi, tất cả đều được
tạo ra nhờ công sức và theo cách thức của những người đã chết từ lâu; không
nghi ngờ gì đó hẳn là những tín đồ của ngọn lửa cổ xưa từ hàng nghìn năm trước.
Bạn
sẽ tự hỏi làm sao một nơi lại được chiếu sáng đến như vậy, nhưng tôi nghĩ bạn sẽ
không bao giờ đoán được. Đó là – bởi những cột lửa sống động đang xoắn lại! Tôi
đếm được mười tám cột lửa, nhưng có thể còn những cột khác. Chúng sinh ra từ
sàn một cách đều đặn theo từng hàng trong điện thờ tạo thành các lối đi. Ngay ở
mái nhà chúng lại tách ra, theo chiều cao và chu vi, khốc liệt như có lực khí
thiên nhiên đang điều khiển chúng, và biến mất thông qua những ống khói bằng đá
dày cộm. Chúng không có mùi hay có khói, ở nơi mênh mông lạnh lẽo này, sức nóng
nào cũng có thể nhận thấy, chỉ có một ánh sáng trắng cường độ lớn đủ để nung chảy
sắt, rít lên âm thanh sắc nét như hàng triệu con rắn đang giận dữ.
Ngôi
đền khổng lồ hoàn toàn vắng vẻ, ngoại trừ tiếng rít tràn ngập, còn lại hoàn
toàn im ắng; một nơi tuyệt vời, mang sức mạnh áp đảo.
“Những
cây nến này đã bao giờ tắt chưa?” Leo hỏi Oros, che bàn tay trước mắt vì chói
lóa.
“Làm
sao có thể chứ,” vị linh mục đáp, giọng nói trơn tru và rất thực tế, “nhìn này,
chúng sinh ra từ ngọn lửa vĩnh hằng được những người xây dựng khán đường này
tôn thờ? Thế nên ngay từ đầu chúng đã cháy và sẽ cháy vĩnh viễn, dù nếu chúng
ta muốn, chúng ta có thể tắt ánh sáng đi. 4 Xin mời theo ta: các
ngươi sẽ thấy những thứ còn hùng vĩ hơn.”
4 Điều này sau
đó tôi đã xác định chắc chắn, được thực hiện bằng cách đẩy một tảng đá rộng có
độ dày lớn hơn khẩu độ mà khí hay lửa đi qua rồi cắt ngang không khí. Những hòn
đá đó được thao tác qua lại bằng các ròng rọc nối với nhau qua những thanh sắt.
– L.H.H.
Thế
là chúng tôi đi theo trong im lặng đến kinh ngạc, ôi! Ba người chúng tôi mới nhỏ
bé và khốn khổ làm sao, đơn độc trong ngôi đền khổng lồ đượi soi rọi nhờ ánh
sáng chói lọi kia. Cuối cùng chúng tôi cũng tới cuối đền thờ, chỉ thấy ngay bên
phải và bên trái cũng chạy ra các gian ngang có cùng kích cỡ và được chiếu sáng
theo cùng cách thức kinh ngạc như vậy. Oros chặn chúng tôi dừng ở đây, và đợi một
lúc, tới khi từ gian ngang sinh ra lời cầu nguyện, chúng tôi nhận ra hai đám rước
mang áo choàng trắng tiến lên phía chúng tôi từ dưới sâu.
Khi
họ từ từ đi đến, chúng tôi nhìn thấy đám rước bên phải là đoàn các nam tu sĩ,
đám bên trái là đoàn các nữ tu sĩ, tất cả khoảng một trăm người.
Giờ
đây những người đàn ông xếp hàng trước mặt chúng tôi, trong khi phụ nữ xếp hàng
phía sau, theo sự ra hiệu từ Oros, tất cả họ cất lên lời tụng kinh hoang dại và
ly kì, chúng tôi lại nhìn chằm chằm về phía trước một lần nữa, lúc này dọc theo
hành lang hẹp, cặp cửa gỗ đã đóng lại ở cuối. Khi đám rước chúng tôi tới, cặp cửa
mở ra, phía trước chúng tôi, một kỳ quan uốn vòng của ngôi miếu kỳ diệu này
đang nằm đó, một khu tụng niệm hình elip khổng lồ. Giờ chúng tôi đã hiểu. Cách
bố trí ngôi đền là cách bố trí cây cột trụ có thòng lọng đứng trên đỉnh Ngọn
Núi, và chúng tôi đoán đúng, kích thước của chúng là như nhau.
Các
cột lửa bùng lên quanh hình elip đều đặn theo nhịp, nhưng phần còn lại nơi này
đều trống không.
Không,
không hoàn toàn thế, vì ở đầu khu tụng niệm, gần giữa hai cột lửa, một bàn thờ
bằng phẳng vuông vắn nhô lên, có kích thước một căn phòng nhỏ, phía trước, khi
đến gần hơn chúng tôi thấy treo rèm dệt bằng sợi bạc. Trên bàn thờ đặt một tượng
lớn bằng bạc, quay lưng lại tảng đá đen, dường như để thu lại và phản xạ ánh
sáng cường độ lớn của hai cột trụ rực lửa trên bề mặt được đánh bóng của nó.
Thật
là đẹp, nhưng rất khó mô tả. Thân ảnh có cánh đại diện cho một phụ nữ trưởng
thành bị bọc vải, hình dáng tinh khiết nhưng duyên dáng, nửa ẩn dấu dưới đôi
cánh nghiêng về phía trước. Được che chở, và hiện ra giữa đôi cánh, là hình ảnh
một chú bé, được siết chặt vào ngực người mẹ bên tay trái, còn tay phải giơ lên
bầu trời. Một tác phẩm về tình Mẹ, rõ ràng vậy, nhưng tôi viết thế nào đây về
những gì các gương mặt được chạm khắc kia truyền đạt lại?
Bắt
đầu với đứa trẻ. Đó là cậu bé mạnh mẽ, đầy sức khỏe và niềm vui với cuộc đời.
Nhưng cậu đang ngủ, và trong giấc ngủ có gì đó kinh hoàng phủ lên cậu màu tối
tăm của cái chết và quỉ dữ. Có sự sợ hãi trên khóe miệng ngọt ngào của cậu, và
đôi môi cùng cặp má dường như đang run rẩy. Cậu quàng cánh tay nhỏ lên cổ mẹ,
áp gần ngực bà, nhìn lên phía bà cho an toàn, tay phải cậu xòe ra chỉ xuống và
ra phía sau, như thể ám chỉ nguy hiểm đến từ đâu. Nhưng nó đã đi qua, gần như bị
quên lãng, vì đôi mắt ngước lên bày tỏ lòng tin hồi sinh, thanh thản trong lòng
đã đạt được.
Còn
người mẹ. Bà dường như không chế nhạo hay rầy la sự sợ hãi của đứa trẻ, vì
gương mặt đẹp đẽ của bà đầy lo lắng và cảnh giác. Nhưng nó mang một bầu không
khí dịu dàng không đổi và sức mạnh bất khả chiến bại; quan tâm cho người bất lực,
mạnh mẽ che chở khỏi mọi nguy hại. Đôi mắt lớn và bình tĩnh kể câu chuyện của họ,
đôi môi hé mở thì thầm câu chuyện về hy vọng, cẩn thận và bất tử; bàn tay giơ
lên tiết lộ hy vọng sinh ra từ đâu. Toàn bộ tình yêu dường như tụ tập trong
hình ảnh che chở đó, thật nhân bản, thật thiêng liêng; toàn bộ bầu trời như nằm
trên lối đi đã khai thông trước đôi cánh run rẩy đó. Và nhìn xem, mu bàn chân
cong lên, gót chân như nhảy lên, gợi ý những đôi cánh kia đang bị trói buộc,
mang theo gánh nặng Chúa ban cho thoát khỏi sự khủng bố trên trần thế, ẩn sâu
trong lòng phần bất biến còn lại.
Bức
tượng chỉ nói về một đứa bé đang sợ hãi trong cánh tay mẹ; ý nghĩa rõ ràng dựa
trên vẻ vô tri nhất mang tính biểu tượng hóa đơn giản của một thiên tài – Nhân
Loại được Thần Thánh cứu rỗi.
Trong
khi chúng tôi mải nhìn chằm chằm vào vẻ đẹp mê hoặc của nó, các nam nữ tu sĩ đã
đi sang phải và trái, xếp hàng luân phiên, một đàn ông rồi tới một phụ nữ,
trong vòng những cây cột lửa rực cháy mang hình chiếc thòng lọng thần thánh. Cảnh
thật tuyệt vời, cả trăm người họ phải đứng cách xa nhau và trong tầm nhìn của
chúng tôi, giống như lũ trẻ nhỏ đơn độc khoác quần áo lóng lánh, bài ca thờ phụng
của họ chạm đến chúng tôi như tiếng vọng ném ra từ vách núi phía xa xa. Rất
nhanh chóng, ảnh hưởng của thánh tích và các cư dân của nó áp đảo tuyệt vời, ít
ra tôi biết nó làm tôi tràn đầy cảm giác giống như sợ hãi.
Oros
chờ đợi tới khi vị tu sĩ cuối cùng đi tới vị trí định trước. Rồi ông ấy quay lại
và bảo, bằng âm thanh nhẹ nhàng, tôn kính – “Hãy tới đêm nay, ngay bây giờ, O,
hỡi những kẻ lang thang đáng mến, và hãy gửi lời chào tới Đức Mẹ,” và ông ấy chỉ
về phía bức tượng.
“Bà
ấy ở đâu?” Leo hỏi bằng giọng thì thầm, vì nơi này chúng tôi không dám nói to.
“Tôi không thấy ai cả.”
“Hesea
ngự ở kia,” ông ấy trả lời, cầm tay mỗi người chúng tôi, dẫn đi lên trước dọc
theo không gian trống trải rộng lớn của khu tụng niệm tới bàn thờ phía trước.
Khi
chúng tôi tới gần, lời tụng kinh phía xa của các tu sĩ tăng dần âm lượng, như
niềm vui mừng, chiến thắng, đối với tôi – có lẽ là dễ chịu – ánh sáng từ các cột
lửa xoắn có vẻ sáng hơn.
Cuối
cùng chúng tôi tới đó, Oros bỏ tay chúng tôi ra, tự quì lạy ba lần trước bàn thờ.
Rồi ông ấy đứng dậy, lùi lại sau chúng tôi, đứng im lặng cúi đầu và gập các
ngón tay lại. Chúng tôi cũng đứng im lặng, tâm hồn chúng tôi tràn đầy hy vọng
trộn lẫn sợ hãi như một cốc rượu.
Sức
lực của chúng tôi đã chấm dứt? Chúng tôi đã tìm thấy bà ấy, người chúng tôi
đang tìm kiếm, hay không chừng chúng tôi lại vướng vào tấm mạng kỳ quái thần bí
nào đó và sẵn sàng làm quen với bí mật của một nghi lễ tôn thờ thần bí mới nữa
chăng? Chúng tôi đã tìm kiếm năm này qua năm khác, chịu đựng mọi gian khổ thể
xác và linh hồn mà con người có thể chịu được, giờ chúng tôi sẽ biết mình có chịu
đựng trong vô vọng hay không. Đúng, và Leo có thể biết lời hứa hẹn có được cậu
hoàn thành hay không, hay người cậu yêu thương đã trở thành một giấc mơ xa xôi
chỉ được tìm thấy ngoài cánh cổng Tử Thần. Không ngạc nhiên khi cậu run rẩy và
trắng bệch trước đau thương và hồi hộp lớn lao này.
Thời
gian trở nên dài, rất dài. Hàng giờ, hàng năm, hàng niên đại, hàng kiếp, dường
như ào ạt chảy về phía chúng tôi khi chúng tôi đứng đó, trước tấm rèm bạc lấp
lánh che phía trước bàn thờ tối đen, bên dưới là vẻ bí ẩn của gương mặt như
nhân sư, hình ảnh vinh quang của một người bảo vệ, mang nụ cười băng giá của
tình yêu vĩnh hằng và lòng thương xót. Toàn bộ quá khứ đi ra trước chúng tôi
như thể vật lộn trong dòng nước tối tăm của hoài nghi. Từng thứ từng thứ một, từng
sự kiện nối tiếp từng sự kiện, chúng tôi nghe thấy câu chuyện bắt đầu ở Khu
Hang Động Kôr, theo dòng suy tư cứ dài ra mãi như thế, mở rộng và sáng lên
trong tâm hồn.
Ôi! Giờ chúng tôi đã biết, chúng cũng được mở
thông tới tâm hồn khác. Chúng tôi không thể thấy gì ngoài Bàn Thờ và Hình Nộm,
chúng tôi chỉ nghe thấy lời tụng kinh chậm rãi của các nam nữ tu sĩ và tiếng
rít như rắn của đống lửa bùng cháy. Nhưng chúng tôi thấy trái tim mình như một
quyển sách đã mở cho Người quan sát dưới đôi cánh che chở của Đức Mẹ.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét