Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 11



Chương 11: Cuộc Săn Giết

Chúng tôi về phòng, không gặp ai trên đường đi, và chúng tôi chuẩn bị mọi thứ ở đó. Thoạt tiên thay áo choàng cho ngày lễ bằng quần áo ấm hơn đã từng dùng khi tới thành phố Kaloon. Sau đó chúng tôi ăn uống mọi lương thực có thể ở phòng ngoài, vì không biết khi nào sẽ tìm được thức ăn, rồi bỏ đầy phần còn lại của thịt, rượu và vài nhu yếu phẩm vào hai túi giống như người dân ở đây vẫn đeo trên vai. Chúng tôi cũng dắt dao lớn dùng cho săn bắn vào thắt lưng và bản thân trang bị thêm mấy cây giáo ngắn đã làm ra lúc đi săn.
“Có lẽ hắn đã sắp sẵn âm mưu ám sát chúng ta, chúng ta cần phải bảo vệ bản thân tốt nhất có thể,” Leo đề nghị.
Tôi gật đầu, vì tiếng cười cuối cùng của Khan vẫn vang vọng trong tai tôi. Đó là một nụ cười rất độc ác.
“Tương đối đủ rồi,” Tôi nói. “Bác không tin tên điên đó. Nhưng hắn vẫn mong tống cổ được chúng ta đi.”
“Đúng, nhưng như hắn đã nói, người sống có thể quay lại, còn người chết thì không.”
“Atene nghĩ ngược lại,” tôi nhận xét.
“Nhưng nàng đe dọa chúng ta bằng cái chết,” Leo trả lời.
“Vì nỗi hổ thẹn và sự khao khát làm nàng trở nên điên cuồng,” tôi đáp, sau đó chúng tôi im lặng.
Giờ cánh cửa đã mở ra, Khan bước vào, quấn trong chiếc áo choàng lớn như thể muốn ngụy trang.
“Đi thôi,” anh ta nói, “nếu các ngươi đã sẵn sàng.” Rồi nhìn vào những cây giáo chúng tôi cầm, anh ta nói thêm: “Các ngươi không cần những thứ đó. Các ngươi không đi săn.”
“Không,” tôi trả lời, “nhưng ai biết được – chúng tôi có thể bị săn đuổi.”
“Nếu các ngươi tin thế, có lẽ tốt nhất nên ở lại đây tới khi Khania phát chán vì tên Râu Vàng và mở cửa cho các ngươi,” anh ta đáp lại, mắt vẫn liếc nhìn tôi đầy xảo quyệt.
“Tôi nghĩ là không,” tôi nói, và chúng tôi bắt đầu xuất phát, Khan dẫn đường và ra hiệu cho chúng tôi im lặng.
Chúng tôi đi qua những căn phòng trống tới hiên, rồi từ hiên xuống sân, ở đó anh ta thì thào bảo chúng tôi ẩn mình trong bóng tối. Vì trăng soi rất rạng rỡ đêm nay, tôi nhớ sáng rõ tới mức tôi có thể nhìn thấy từng ngọn cỏ mọc giữa các ô vỉa hè, bóng tối ít ỏi bị ném ra từ mỗi hình khối riêng lẻ trên bề mặt đá đã bị mài mòn. Giờ tôi tự hỏi chúng tôi sẽ đi qua cánh cổng thế nào, vì một người bảo vệ đang canh gác ở đó, khi tối muộn còn được tăng gấp đôi theo lệnh của Khania. Nhưng chúng tôi rời khỏi cánh cổng từ bên phải, trên con đường dẫn ra khu vườn có tường bao lớn, nơi Rassen đưa chúng tôi qua một cửa dấu sau lùm cây bụi được anh ta mở khóa với chìa mang theo.
Giờ đây chúng tôi đã ở bên ngoài bức tường cung điện, con đường của chúng tôi chạy qua khu trại của bầy chó. Khi chúng tôi đi tới đó, bầy chó săn tử thần to lớn không ngủ, vẫn lang thang qua lại như sư tử đang rình mò, bắt được hơi gió của chúng tôi liền rú lên chuỗi sủa vang đột ngột và kinh khủng. Tôi rùng mình trước âm thanh đó, vì nó thật đáng sợ trong sự im lặng thế này, tôi cũng nghĩ nó sẽ làm đám người trông giữ tỉnh giấc. Nhưng Khan đi tới đám cọc sắt và hiện diện, bầy súc vật đó biết anh ta nên dừng gầm rú.
“Đừng sợ,” anh ta nói khi quay lại, “những tay săn đuổi đó biết chúng bị bỏ đói đêm nay, thì ngày mai nhất định có vài phạm nhân được ném cho chúng.”
Giờ chúng tôi đã tới cổng cung điện. Ở đó Khan ra lệnh cho chúng tôi ẩn trong một lối đi có mái vòm rồi đi qua. Chúng tôi nhìn nhau, cùng một suy nghĩ xuất hiện trong đầu hai chúng tôi – hắn đi dẫn những kẻ giết người tới kết thúc đời mình. Nhưng chúng tôi đã sai, vì hiện tại nghe thấy âm thanh tiếng vó ngựa trên đá, và anh ta quay lại dẫn theo hai con ngựa trắng mà Atene đã ban cho chúng tôi.
“Ta đã tự tay thắng yên cho chúng,” anh ta thì thầm. “Ai có thể làm nhiều hơn thế để đẩy nhanh tốc độ tiễn khách chứ? Giờ lên ngựa đi, hãy giấu mặt trong áo choàng như ta, và đi theo ta.”
Chúng tôi lên ngựa, còn anh ta chạy lon ton trước chúng tôi như người hầu dẫn đường, giống các lãnh chúa của Kaloon thường sử dụng khi họ đi làm ăn hay giải trí. Rời khỏi đường chính, anh ta dẫn chúng tôi đi qua một ngã tư mang nhiều tiếng xấu trong thành phố, rồi đi xuống những con đường phụ quanh co. Ở đó chúng tôi gặp vài kẻ rượu chè, trong khi đám khách ăn sương lướt qua từng ô cửa, vén một bên mạng che mặt nhìn chúng tôi, nhưng chúng tôi không ra hiệu sẽ quay lại, họ cho rằng chúng tôi đang đi hẹn hò. Chúng tôi tới bến tàu bỏ hoang bên bờ sông và ra chỗ một cầu cảng nhỏ, cạnh đó đã có sẵn một phà rộng.
“Các ngươi phải đưa ngựa lên và chèo thuyền qua,” Rassen nói, “vì mọi cây cầu đều được canh gác, không muốn để phát hiện, ta sẽ không thể ra lệnh cho binh sĩ cho các ngươi đi qua.”
Vì thế hơi rắc rối một chút, chúng tôi thúc ép mấy con ngựa lên tàu, tôi giữ chúng bằng dây cương còn Leo đi lấy mái chèo.
“Giờ hãy đi theo con đường của các ngươi, những kẻ lang thang đáng nguyền rủa,” Khan kêu lên khi đẩy chúng tôi khỏi cầu cảng, “hãy cầu nguyện Linh Hồn Ngọn Núi để con Chuột già kia và học trò của hắn – tình yêu của ngươi, Râu Vàng, tình yêu của ngươi – đừng nhìn thấy các ngươi qua chiếc kính thần bí. Vì nếu vậy, chúng ta có lẽ lại gặp lại nhau thôi.”
Khi dòng nước bắt được chúng tôi, quét con thuyền ra giữa con sông, anh ta bắt đầu phá lên cười đầy ghê rợn, gọi với theo chúng tôi – “Đi nhanh lên, đi nhanh lên cho an toàn, hỡi những kẻ xa lạ kia; cái chết đang ở phía sau đấy.”
Leo dùng hết sức lùi lại trên dòng nước, vì thế con thuyền lơ lửng bên mép sông.
“Cháu nghĩ chúng ta tốt hơn nên trở lại mặt đất và giết tên kia, vì hắn đúng là một mối nguy hại,” cậu nói.
Cậu nói bằng tiếng Anh, nhưng Rassen đã tóm được chuỗi giọng nói của cậu nên đoán ra ý nghĩa nhờ sự xảo quyệt điên cuồng. Hắn thét lên – “Quá muộn rồi, lũ ngốc,” rồi cười lớn và quay lại, chạy trên cầu cảng nhanh đến mức chiếc áo choàng tung bay trên không trung sau anh ta, và biến mất trong bóng tối trước mắt.
“Chèo thôi,” tôi nói, Leo cúi mình chèo thuyền.
Nhưng con thuyền như cái phà khá cồng kềnh còn dòng nước chảy xiết, vì thế chúng tôi bị cuốn xuống một đoạn dài trước khi có thể vượt qua. Cuối cùng chúng tôi tới vùng nước tĩnh gần bờ phía xa, thấy chỗ đậu, điều khiển con thuyền lại và kéo ngựa lên bờ. Sau đó bỏ con thuyền trôi dạt, vì chúng tôi không có thời gian đánh chìm nó, chúng tôi tìm đai và cương, rồi lên ngựa, đi về phía cột khói phát sáng xa xa giống như ngọn hải đăng trên đỉnh Cung Điện Lửa.
Ban đầu hành trình của chúng tôi rất chậm, vì nơi này dường như không có đường đi, chúng tôi buộc phải đi qua các cánh đồng, tìm những cây cầu vượt qua kênh mương khi chúng quá rộng không thể nhảy qua. Mất hơn một giờ vì việc đó, chúng tôi mới tới một ngôi làng chưa thức dậy, rồi từ đó đi theo con đường có lẽ chạy tới ngọn núi, dù sau đó chúng tôi biết, con đường thực sự phải qua rất nhiều dặm. Bây giờ lần đầu tiên chúng tôi có thể cho chạy nước kiệu, đẩy nhanh tốc độ, dù không quá nhanh, vì chúng tôi muốn tha cho hai con ngựa và sợ chúng sẽ gục ngã khi trời chưa sáng.
Trước bình minh, mặt trăng chìm dần phía sau Ngọn Núi, bóng tối dày đặc buộc chúng tôi phải dừng lại, giữ chặt cương ngựa và thả chúng một chút để chúng ăn bắp non. Khi bầu trời chuyển màu xám, ánh sáng mờ nhạt từ cột khói dẫn dắt chúng tôi, rồi bình minh lên, trải đỏ rực xuống tuyết trắng mênh mông trên đỉnh núi xa xa, bắn tên xuyên qua vòng thòng lọng trên cây cột trụ. Chúng tôi để ngựa uống xong nước dưới kênh tưới bắp, rồi lên ngựa, từ từ cưỡi về phía trước.
Giờ đây thoát khỏi bóng tối của màn đêm, nỗi sợ hãi nặng nề dường như được nhấc ra khỏi tim và chúng tôi tràn đầy hy vọng, phải, rất vui vẻ. Thành phố đáng ghét đã lui lại phía sau. Phía sau chúng tôi là Khania với những khát khao không ngừng lớn dần, hướng tới diệt vong và nhan sắc gây bão táp của nàng, là phép tà thuật của ông thầy mắt hóa sừng của nàng, già nua và âm thầm tội lỗi, là sự điên cuồng của thứ sinh vật kỳ lạ nửa quỉ nửa thánh tử vì đạo mỗi khi chúng nổi cơn hung bạo, là kẻ hèn nhát – Khan, chồng nàng, là cung điện ô uế của hắn ta. Phía trước là ngọn lửa, dấu đi tuyết và điều thần bí đã tìm kiếm suốt bao năm trống rỗng qua. Giờ chúng tôi muốn làm sáng tỏ nó hoặc chết. Vì thế chúng tôi vui vẻ ép mình hướng về phía định mệnh, dù nó có thể là bất cứ thứ gì.
Suốt nhiều giờ chạy quanh co trên đường xuyên qua vùng đất canh tác, nơi nông dân lao động đặt cả dụng cụ xuống và tụ tập tại các nút xem chúng tôi đi qua, thật kỳ lạ, những ngôi làng nhà lợp mái bằng, phụ nữ vồ lấy con cái rồi bỏ chạy khi nhìn thấy chúng tôi. Họ tin chúng tôi là đám lãnh chúa từ cung điện tới làm việc với họ, gây hại cho người hay tài sản, nỗi kinh sợ của họ nói cho chúng tôi biết đất nước này đang khổ sở thế nào dưới cây gậy của kẻ áp bức. Đến trưa, dù đỉnh núi chỉ gần hơn một chút, nhưng đặc trưng của đất đai đã thay đổi. Giờ đây nó dốc lên thoai thoải và vì vậy, không thể được tưới tiêu.
Rõ ràng toàn bộ huyện lớn này phụ thuộc vào mưa theo mùa, mà mùa xuân vừa rồi không có mưa. Vì thế dù dân số đông đảo và mỗi sào đất đều đang được cày bừa, mùa màng vẫn thất bát. Màu xanh thật ít ỏi, bắp không đáng có đã hóa vàng vì thiếu độ ẩm, gia súc đói khát tìm kiếm thức ăn trên đồng cỏ, còn người nghèo lang thang trên cánh đồng hoặc cố đào đất cứng như đá.
Mọi người hình như biết chúng tôi là hai người nước ngoài tới đây đã gây huyên náo, nỗi sợ nạn đói làm họ trở nên táo bạo, họ chửi bới chúng tôi khi chúng tôi đi qua, đòi chúng tôi trả lại cho họ mưa đã bị chúng tôi đánh cắp, hoặc chúng tôi đang hiểu lời họ như vậy. Thậm chí cả phụ nữ và trẻ em trong các ngôi làng cũng quì lạy trước chúng tôi, chỉ lên Ngọn Núi rồi chỉ lên trời xanh, kêu khóc đòi chúng tôi mang mưa về cho họ. Quả thực có lần chúng tôi bị một đám nông dân được vũ trang bằng thuổng và lưỡi câu đe dọa, chắn giữa đường, nên buộc phải thúc ngựa phi nước đại vội vã vượt qua họ. Khi đi về phía trước, đất nước này càng khô cằn hơn và càng ít dân hơn, tới khi chúng tôi không còn nhìn thấy ai trông giữ bầy gia súc lang thang từ nơi này sang nơi khác tìm cỏ nữa.
Đến tối, chúng tôi đoán mình đã tới biên giới thường bị các bộ lạc trên Ngọn Núi tàn phá, vì nơi này có những tháp cao hùng vĩ bằng đá, rải rác ít cây thạch nam, chắc dùng làm nhà quan sát hoặc nơi ẩn náu. Tôi không biết quân lính có đóng ở đó hay không, vì chúng tôi không thấy ai cả. Có lẽ các pháo đài này thực sự là di tích của những ngày tháng mảnh đất Kaloon được người cai trị bảo vệ trước các đợt tấn công, đó hẳn là người rất khác với vị Khan hiện tại và những người tiền nhiệm ngay trước đó của anh ta.
Cuối cùng ngay cả các tháp quan sát cũng lui lại phía sau, lúc hoàng hôn chúng tôi thấy mình ở trên một đồng bằng rộng lớn không người, chúng tôi không nhìn thấy thứ gì sống được ở đó. Giờ đây chúng tôi quyết định dừng ngựa nghỉ ngơi một lúc, cho rằng sẽ đi tiếp nhờ ánh trăng, vì cơn thịnh nộ của Khania đang ở phía sau, chúng tôi không dám nán lại. Tối đó chắc chắn cô ấy đã phát hiện ra chúng tôi trốn thoát, vì trước khi mặt trời lặn, như cô ra lệnh, Leo phải đưa ra lựa chọn và cho cô ấy câu trả lời. Vì thế chúng tôi chắc chắn cô ấy sẽ nhanh chóng đuổi theo. Có lẽ các sứ giả của cô đã đánh thức cả nước hòng bắt giữ chúng tôi, còn binh lính đang đuổi theo con đường phía sau.
Chúng tôi tháo yên ngựa, để chúng lấy lại sức bằng cách lăn lộn trên cát, thả trên đống cỏ khô héo mọc xung quanh. Ở đây không có nước; nhưng đó không phải vấn đề lớn, vì cả ngựa và chúng tôi đã uống ở một cái hồ ít bùn tìm thấy không quá một giờ trước. Chúng tôi đang sắp ăn xong bữa ăn với lương thực mang theo, thật ra chúng tôi vô cùng đau nhức sau một đêm không ngủ và cuộc hành trình suốt ngày dài, còn ngựa của tôi, đầu gối sắp khụy xuống, đang nằm lăn qua lăn lại. Nó làm thế không dễ vì có dây buộc ở chân trước, tôi vu vơ dõi theo nỗ lực của nó, cuối cùng, sau lần thứ tư cố gắng, treo được vài giây bằng lưng, chân nó chơi vơi trên không trung, rồi chầm chậm đổ về phía tôi.
“Tại sao móng của nó đỏ như thế nhỉ? Nó tự cắt à?” Leo dửng dưng hỏi.
Thật tình cờ tôi cũng vừa nhận ra ánh đỏ này, lần đầu tiên, vì nó hoàn toàn khác đế guốc động vật, khi con ngựa lăn lộn tôi đã không nhìn ra. Vì thế tôi đứng dậy kiểm tra, do nghĩ có lẽ ánh sáng ban đêm đánh lừa chúng tôi, hoặc chúng tôi có lẽ vừa đi qua vùng đất bùn màu hung đỏ. Chắc chắn chúng màu đỏ, như loại thuốc nhuộm để ngâm sừng và các loại móng guốc. Hơn nữa, nó có mùi hăng và thơm khá khó chịu, loại mùi có lẽ sinh ra từ máu trộn với xạ hương và gia vị.
“Rất kỳ lạ,” Tôi nói. “Chúng ta hãy nhìn con vật của cháu đi, Leo.”
Chúng tôi làm thế và thấy móng nó cũng tương tự.
“Cõ lẽ là hỗn hợp gốc để bảo vệ sừng,” Leo đưa ra giả thiết.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi một ý tưởng ghê sợ hiện ra trong đầu.
“Bác không muốn làm cháu sợ,” tôi nói, “nhưng bác nghĩ tốt hơn chúng ta nên đóng yên và lên đường thôi.”
“Tại sao?” cậu hỏi.
“Vì bác tin rằng vị Khan bất lương kia đã cho ngựa của chúng ta dùng thuốc.”
“Để làm gì? Để chúng đi khập khiễng sao?”
“Không, Leo, để chúng lưu lại mùi hương nồng đậm trên vùng đất khô cằn.”
Cậu tái mặt. “Bác muốn nói – bầy chó săn kia ư?”
Tôi gật đầu. Rồi không lãng phí thêm thời gian nói chuyện, chúng tôi đóng yên vội vàng. Ngay lúc vừa gắn chặt dây cuối cùng vào yên ngựa, tôi nghĩ có âm thanh mờ nhạt vang đến tai mình.
“Nghe đi,” tôi nói. Nó lại dội đến, giờ không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là nó. Đó là âm thanh chó sủa.
“Lạy chúa! Bầy chó tử thần,” Leo nói.
“Đúng,” tôi lặng lẽ trả lời, lúc khủng hoảng này các dây thần kinh của tôi nhưng cứng lại và nỗi sợ hãi rời bỏ tôi, “Khan, anh bạn của chúng ta muốn săn đuổi từ xa. Đó là lý do tại sao hắn ta cười.”
“Chúng ta làm gì đây?” Leo hỏi. “Bỏ ngựa lại sao?”
Tôi nhìn Ngọn Núi. Sườn núi gần nhất cũng còn cách hàng dặm trường.
“Đủ thời gian để làm điều đó nếu chúng ta nỗ lực hết sức. Chúng ta không thể đi bộ tới ngọn núi đó, sau khi vật ngã ngựa, bầy chó sẽ săn đuổi chúng ta theo dấu chân hoặc ánh mắt. Không, chàng trai, hãy cưỡi như cháu chưa bao giờ cưỡi trước đây.”
Chúng tôi nhảy lên yên ngựa, trước khi ghì cương, tôi quay lại nhìn phía sau. Nhớ rằng chúng tôi đã vượt qua con dốc dài dẫn tới một sườn núi cách đó khoảng ba dặm, làm biên giới cho vùng đồng bằng rộng lớn chúng tôi đang đứng. Giờ mặt trời đã chìm dần sau sườn núi đó, dù vẫn còn sáng, nhưng cả vùng đồng bằng này đã chìm trong bóng tối. Vì thế, trong khi không vật ở xa nào có thể nhìn thấy được trên đồng bằng, thì bất kỳ thứ gì vượt qua sườn núi đều có thể nhìn thấy được trong bầu không khí sáng rõ đó, ít ra với những người trong tầm nhìn.
Đây là những gì chúng tôi nhìn thấy. Trên sườn núi đổ ra vô số vật nhỏ xíu, đi cuối cùng là một người đàn ông ngồi trên con ngựa tuyệt đẹp phi nước đại, dẫn theo một con ngựa khác bằng dây cương.
“Cả đàn được thả ra rồi,” Leo hung hăng nói, “Rassen mang theo cả con ngựa thứ hai. Giờ cháu biết tại sao hắn muốn chúng ta bỏ giáo lại,” cậu thét lên khi chúng tôi bắt đầu phi nước đại, “cháu nghĩ trước khi mọi chuyện xong xuôi, Pháp Sư có lẽ đã chứng minh ông ta là nhà tiên tri thực sự.”
Chúng tôi vượt qua bóng tối, hướng về Ngọn Núi. Trong khi đi, tôi tính toán các cơ hội của chúng tôi. Ngựa vẫn tốt dù trên bất kỳ vùng đất nào, chúng vẫn còn khỏe và lanh lợi, dù chúng tôi đã cưỡi đi xa nhưng chúng tôi không quá o ép chúng, tình trạng của chúng vẫn hoàn hảo. Nhưng không chắc bầy chó săn tử thần kia còn đủ lanh lợi, vì đuổi theo chúng tôi suốt đêm do hắn nghĩ sẽ tóm được chúng tôi lúc đang ngủ, Rassen muốn mang chúng đi theo thật dễ dàng, đuổi theo truy tìm chúng tôi giữa đám nông dân và chỉ tìm ra dấu chân chúng tôi sau khi ngôi làng cuối cùng đã bị bỏ lại phía sau.
Hắn có hai con ngựa cưỡi, chúng tôi không biết vì sao – dù sau này biết rằng, hắn muốn làm việc độc ác này một mình và không bị ai nhìn thấy – có lẽ hắn cũng bị đám tùy tùng đuổi theo sau nhưng trễ hơn. Do đó, trừ khi chúng tôi tới được nơi hắn không dám đuổi theo trước cả hắn– đó là sườn của Ngọn Núi cách nhiều dặm phía xa kia, nếu không hắn sẽ xé xác chúng tôi. Khả năng may mắn còn lại là đàn chó mệt mỏi và không muốn theo đuổi cuộc săn lùng.
Tuy nhiên, điều này có lẽ hiếm khi xảy ra, vì chúng cực kỳ nhanh và khỏe, hoang dại tới mức một khi ngửi được mùi máu từ vó ngựa đạp xuống, chúng sẽ thà gục chết vì kiệt sức còn hơn từ bỏ con đường. Thật ra cả Khania và Simbri đã thường kể cho chúng tôi rất nhiều. Còn một cơ hội nữa – chúng bị mất mùi, nhưng xét về bản chất, điều đó lại không thể. Ngay cả một đám người Anh theo dấu cá trích đỏ mình dày không phạm sai lầm nào suốt nhiều giờ, vẫn còn dựa vào thứ khác mạnh hơn – một hỗn hợp mùi khéo léo đã từng nghe kể có thể lưu lại suốt nhiều ngày. Cơ hội cuối cùng. Nếu chúng tôi buộc phải bỏ lại lũ ngựa, người cưỡi chúng có thể trốn thoát, chúng tôi có thể tìm được chỗ nào đó để ẩn nấp trên vùng đồng bằng mênh mông này. Nếu không, chúng tôi đã bị phát hiện ngay khi vừa phát ra mùi, - không, tỉ lệ cược đang chống lại chúng tôi, nhưng chuyện vẫn thường xảy ra như thế trước đây đấy thôi; trong khi đó chúng tôi đã đi được ba dặm, có lẽ sẽ có trợ giúp từ Ngọn Núi, trợ giúp vô hình không đoán trước được. Vì vậy chúng tôi nghiến răng tăng tốc như mũi tên xuyên qua ánh sáng.
Chúng tôi rất nhanh thất bại, khi đó mặt trăng đã dấu mình phía sau dãy núi, màn đêm tối dần.
Bây giờ bầy chó đã sắp đuổi kịp chúng tôi, vì bóng tối với chúng không là gì, còn chúng tôi lại không dám cưỡi quá nhanh, do sợ ngựa vấp ngã. Sau đó, lần thứ hai kể từ lúc chúng tôi tới mảnh đất Kaloon, ngọn lửa đột ngột bùng lên từ trên Đỉnh Ngọn Núi. Chúng tôi đã nhìn thấy nó trước đây, nó dường như bắn ra khắp các vùng trời từ một ngọn hải đăng ánh sáng khổng lồ, tập trung xuyên qua vòng thòng lọng trên cột trụ đá, đêm nay cũng vậy, ánh sáng chạy lan ra xa trên đầu chúng tôi như cây giáo lửa. Nhưng hiện tại chúng tôi ở gần nó hơn, chúng tôi thấy mình tắm trong ánh sáng mềm mại, thần bí, như lân quang trên đại dương mùa hè, phản xạ xuống từ các đám mây và tảng đá khổng lồ hình cây cột mang thòng lọng, rồi bị khuyếch tán bởi dải tuyết bên dưới.
Tia sáng lóe lên siêu thực, mờ ảo đó đã giúp chúng tôi rất nhiều, thật ra nhờ nó chúng tôi đã vượt qua được, hơn nữa mặt đất ở đây rất thô, đầy hố do những con sóc đá marmot đào ra. Rồi trợ giúp đến từ Ngọn Núi lên đến cực độ khi trăng lại mọc ra nhanh chóng ngay khi ánh lửa trên ngọn núi lửa biến mất, bỏ lại phía sau không gì ngoài cột trụ quen thuộc đầy khói đỏ mờ mịt.
Thật tầm thường khi nói về giai điệu của bầy chó đang trong cuộc săn đuổi, nhưng tôi thường đã tự hỏi giai điệu đó sẽ nghe như thế nào trong tai con nai hay con cáo đang chạy trốn vì mạng sống của chúng.
Giờ khi ở vị trí con mồi, định mệnh đã giúp tôi giải đáp câu hỏi đó, và tôi tự tin khẳng định rằng các giống loài đời sau trên thế gian cũng không thể sản sinh ra thứ âm thanh huyên náo ghê tởm hơn. Nó đã đến gần chúng tôi, trong yên lặng hoang vắng của màn đêm, các hợp âm như địa ngục từ âm lượng của chúng nghe thật kinh khủng, tôi thậm chí còn có thể phân biệt được từng nốt riêng biệt được tạo ra, đặc biệt là một tiếng sủa sâu như chuông ngân.
Tôi nhớ đã nghe tiếng sủa này khi ngồi trong khoang thuyền trên sông và nhìn anh chàng cao quí khốn khổ bị xé tới chết vì tội yêu Khania. Khi cuộc săn đuổi đó diễn ra trước mặt chúng tôi, tôi quan sát thấy tiếng sủa đó phát ra từ cổ họng con chó săn dẫn đầu, con vật khổng lồ, màu đỏ, có một tai đen như than, răng trắng bóng như ngà voi, miệng như lò nướng. Tôi thậm chí còn biết tên nó, vì sau đó Khan, kẻ coi đó là thú vui đặc biệt, đã từng chỉ nó cho tôi. Hắn gọi nó là Thủ Lãnh, vì không con chó nào dám đánh lại nó, và bảo tôi nó có thể một mình giết chết một người được vũ trang.
Giờ tiếng sủa của nó đang cảnh báo chúng tôi, con Thủ Lãnh chỉ cách không quá nửa dặm nữa!
Ánh trăng lên cho phép chúng tôi phi nước đại nhanh hơn, đặc biệt khi đất ở đây mịn hơn, phủ lớp cỏ khô mỏng, sau hai giờ tiếp theo, chúng tôi đã vượt xa bầy chó. Đúng, chỉ hai giờ, hoặc có thể ít hơn, nhưng dường như đã qua hàng thế kỷ. Sườn Ngọn Núi giờ không quá mười dặm trước mặt, nhưng lũ ngựa cuối cùng đã kiệt sức. Chúng đã hào hiệp chở chúng tôi, những con vật khốn khổ, dù trong lượng chúng tôi không nhẹ, mà sức lực của chúng có giới hạn. Mồ hôi vã ra trên người chúng, bên sườn thở hổn hển như ống phổi, chúng loạng choạng và hầu như không thể đáp trả khi chúng tôi quất roi. Đi nước đại dần thành nước kiệu, và tôi nghĩ chúng sắp phải tới chỗ chết rồi.
Chúng tôi vượt qua gò đất nhô hơi cao, rải rác bụi cây và đá, dốc xuống chỗ kia, cách chúng tôi vài dặm, con sông chảy qua, tạo thành các sườn đồi khổng lồ cho Ngọn Núi. Chúng tôi đi một đoạn nhỏ xuống sườn dốc này, chúng tôi buộc phải rẽ để vượt qua hai hốc đá lên đỉnh. Ở đó, không quá ba trăm thước, chúng tôi nhìn thấy đàn chó. Giờ số lượng đã ít hơn; không nghi ngờ một số đã gục ngã trong cuộc săn đuổi, nhưng vẫn còn rất nhiều con. Hơn nữa, không xa phía sau chúng là Khan, dù con ngựa thứ hai của hắn đã biến mất, hoặc có lẽ chính là con hắn đang cưỡi và phi nước đại còn con đầu tiên đã dừng lại.
Lũ ngựa khốn khổ của chúng tôi cũng nhìn thấy chúng, cảnh đó như chắp thêm cho chúng đôi cánh, giờ chúng biết phải chạy vì mạng sống của chính chúng. Chúng tôi có thể nói, chúng đã rùng mình run rẩy mỗi khi tiếng sủa đến gần, không phải run rẩy vì phấn khích vui vẻ của cuộc săn đuổi, mà của nỗi kinh hoàng tột độ, như tôi thường thấy khi có tiếng hổ gầm lảng vảng gần trại ngựa. Trên đường đi, dù chúng khỏe mạnh và ổn định, cũng không hề thất bại cho đến khi chỉ còn bốn dặm nữa là tới con sông phía trước, khi chúng tôi đã có thể nghe thấy tiếng nước chảy.
Chậm rãi nhưng chắc chắn, bầy chó sắp vượt qua chúng tôi. Chúng tôi đi qua một lùm cây bụi, nhưng khi đi được cách đó khoảng vài trăm thước dọc theo bình nguyên thoáng đãng này, cảm thấy lũ ngựa đã hoàn toàn kiệt sức, tôi hét to với Leo – “Cưỡi vòng trở lại bụi cây và nấp ở đó đi.” Chúng tôi làm thế, chỉ vừa tới được đó và xuống ngựa thì lũ chó săn chạy qua. Đúng, chúng chỉ cách chúng tôi trong vòng năm mươi thước, lê bước theo dấu chân của chúng tôi, tất cả đều chạy im lặng, vì giờ chúng quá mệt mỏi khi phải lãng phí hơi thở trong vô vọng. “Chạy đi,” tôi nói với Leo ngay khi chúng vừa đi qua, “vì chúng sẽ quay lại đây theo mùi hương hiện nay,” chúng tôi lại đi theo chính đường thẳng bầy chó đã đi, nhờ đó không phải xóa dấu vết.
Khoảng một trăm thước nữa là một tảng đá, may mắn chúng tôi có thể tới được đó trước khi lũ chó quay lại theo dấu chân ngựa, nhờ vậy chúng sẽ không thấy chúng tôi. Chúng tôi dừng lại đó chờ chúng vòng lại, đàn chó chạy qua bụi cây và đi tiếp ra sau. Rồi chúng tôi lại chạy lên trước càng xa càng tốt. Liếc lại phía sau, tôi thấy hai con ngựa khốn khổ của chúng tôi đang nhô lên nhô xuống xa xa trên bình nguyên, thật tốt khi vẫn chạy trên cùng đường thẳng mà chúng tôi đã đi qua. Thế là xong, được giải thoát khỏi sức nặng của chúng tôi và bị nỗi sợ hãi thôi thúc, chúng vẫn phi nước đại và dẫn theo lũ chó săn, dù chúng tôi biết chuyện này sẽ diễn ra không quá lâu. Tôi cũng nhìn thấy Khan, chắc đoán chúng tôi đang đi như chúng tôi dự tính, hắn đang cố gọi lũ chó rời khỏi hai con ngựa, nhưng chưa có hiệu quả, vì chúng vẫn không từ bỏ con mồi chúng đang nhìn thấy.
Tất cả điều này hiện ra trong nháy mắt, nhưng tôi nhớ bức tranh đó thật tuyệt. Đỉnh Ngọn Núi hùng vĩ phủ đầy tuyết nhô lên cột khói phát sáng và ném bóng mình ra xa hàng dặm trên sa mạc mênh mông; bình nguyên lác đác vài tảng đá cùng những bụi cây xám xịt; những con ngựa đến hồi tận số đang tranh đấu cùng bầy chó săn điên cuồng; con đường lần theo dấu vết của bầy chó to lớn đang nhảy lên lũ ngựa thật nhỏ bé và cô độc giữa nơi bao la này, thân ảnh của Khan và con ngựa của hắn ta như chấm đen trong bọt biển. Phía trên, bầu trời xanh dịu mát, ánh trăng tròn tỏa sáng rực rỡ trong tĩnh mịch, không một chi tiết nào dù nhỏ nhất có thể thoát khỏi ánh sáng đó.
Giờ tuổi trẻ và cả tuổi trung niên đã lùi xa tôi, dù là một người đàn ông rất khỏe suốt bao năm qua, tôi cũng không thể chạy như xưa. Tôi cũng vô cùng mệt mỏi, các chi đã cứng lại và xây xát khi cưỡi ngựa quá lâu, vì vậy tôi đi từ từ, điều tệ hơn là tôi va chân trái vào đá và rất đau. Tôi van nài Leo cứ tiếp tục và bỏ lại tôi, vì chúng tôi nghĩ chỉ cần tới được con sông, mùi của chúng tôi có thể biến mất trong nước; dù sao chúng tôi cũng sẽ có cơ hội sống. Ngay sau đó, tôi cũng nghe thấy tiếng sủa của con Thủ Lĩnh, và chờ đợi màn tiếp theo. Phải, nó đã gần chúng tôi hơn. Khan đã tính toán tìm ra con đường chúng tôi đi. Hiện tại chúng tôi phải đối mặt với kết cục này.
“Đi đi! Đi đi!” tôi nói. “Bác có thể giữ chân chúng vài phút và cháu có thể thoát. Đây là cuộc tìm kiếm của cháu, không phải của bác. Ayesha đang đợi cháu, chứ không phải bác, và bác cũng mệt mỏi với cuộc đời rồi. Bác muốn chết và sẽ thực hiện điều đó.”
Rồi tôi thở hổn hển, sau đó, cùng với những lời đó, tôi tập tễnh bám vào cánh tay Leo. Nhưng cậu chỉ trả lời bằng giọng trầm thấp – “Yên lặng, nếu không chúng sẽ nghe thấy bác,” rồi cậu đi và kéo theo tôi.
Giờ chúng tôi đã rất gần mặt nước, vì có thể nhìn thấy nó lấp lánh phía dưới, ôi! Tôi đã khao khát uống thật nhiều thế nào. Tôi nhớ đó là mong muốn trên hết trong đầu tôi, uống, và uống. Nhưng bầy chó săn đã gần chúng tôi hơn, gần tới mức có thể nghe được tiếng lộp cộp chân chúng va trên nền đất khô quyện với tiếng vó ngựa phi nước đại của Khan. Chúng tôi tới chỗ mấy tảng đá hơi nhô lên, ngay bên bờ sông, đột nhiên Leo nói – “Vô dụng, chúng ta không thể làm được. Dừng lại thôi và chúng ta hãy nhìn xem chuyện gì xảy ra tiếp theo.”
Vì thế chúng tôi lăn mình xuống, dựa lưng lên tảng đá. Đằng kia, khoảng một trăm thước, là bầy chó săn tử thần, nhưng tạ ơn Thượng Đế! Chỉ còn ba con. Số còn lại vẫn đang đuổi theo lũ ngựa phi như bay, chắc chắn cuối cùng chúng sẽ tóm được lũ ngựa thôi, dù chạy xa bao nhiêu đi nữa cũng phải dừng bước bị chúng nhai nuốt. Chúng đã ra khỏi cuộc chiến. Chỉ còn ba con, và Khan, thân ảnh điên cuồng phi nước đại cùng chúng; nhưng ba con thú đen đỏ này, có con Thủ Lĩnh, còn hai con kia cũng to lớn hung hăng không kém.
“Có lẽ tệ hơn rồi,” Leo nói. “Nếu bác cố giải quyết lũ chó, cháu sẽ cố hết sức với tên Khan kia,” rồi cậu cúi xuống xoa tay vào đá, vì tay đã bị ướt nước, tôi cũng làm theo. Sau đó chúng tôi nắm chặt giáo bên tay phải và dao tay trái, rồi chờ đợi.
Giờ lũ chó đã thấy chúng tôi và lao vào, gầm gừ sủa lên ghê sợ. Chúng lao tới nhanh chóng, tôi không xấu hổ nói rằng mình vô cùng khiếp sợ, vì lũ súc vật đó như bầy sư tử, thậm chí còn hung hãn hơn. Một con nhỏ nhất trong đó vượt lên hai con kia, nhảy lên cao nhắm thẳng cổ họng tôi.
Tôi không biết tại sao và làm thế nào, nhưng dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh lúc đó, tôi cũng nhảy lên lao vào nó, vì thế toàn bộ trọng lượng của nó đều rơi trên mũi giáo của tôi. Ngọn giáo đâm vào giữa chân trước của nó và thật sốc khi tôi bị đẩy ngược lại. Nhưng khi hạ chân xuống, tôi thấy con chó lăn trên mặt đất trước mặt tôi và bị trục giáo đang xoắn trong tay tôi nghiến qua.
Hai con khác nhảy vào Leo, nhưng không chộp được cậu, dù một con đã xé đi một mảnh lớn trên áo dài của cậu. Khá ngốc nghếch, cậu phi cây giáo vào nó nhưng trượt, vì thanh thép đó chỉ sượt dưới bụng nó và cắm sâu vào đất. Hai con chó đó không quay lại ngay lập tức. Có lẽ cảnh đồng đội chết làm chúng ngừng lại. Dù sao, chúng đứng gầm gữ ở một khoảng cách tương đối, dù giáo không còn nhưng đủ an toàn với chúng tôi.
Hiện tại Khan đang cưỡi trên ngựa và trừng trừng nhìn chúng tôi, gương mặt anh ta như quỉ dữ. Tôi hy vọng hắn sợ tấn công, nhưng lúc nhìn vào mắt hắn, tôi biết điều đó là không thể. Hắn hoàn toàn phát điên vì căm ghét, ghen tuông, và phấn kích kéo dài của cuộc săn đuổi, muốn đi giết hoặc bị giết. Trượt khỏi lưng ngựa, hắn rút một thanh kiếm ngắn – vì hắn đã mất cây giáo hoặc không mang gì theo – rồi huýt sáo với hai con chó, lấy thanh gươm chỉ vào tôi. Tôi thấy chúng nhảy lên và tôi thấy hắn chạy lại chỗ Leo, sau đó ai có thể kể được chính xác chuyện gì đã xảy ra đây?
Con dao của tôi đã cắm vào cơ thể của một con chó – nó lăn ra đất và nằm đó – vì chân sau của nó đã bị tê liệt, gào thét, gầm rít và cắn vào tôi. Còn con kia, con quái vật có tên Thủ Lĩnh, ngoặm vào dưới khuỷu tay phải của tôi, rồi tôi cảm thấy xương mình gãy ra trong quai hàm hầm hố của nó, đau đớn khiến tôi đánh rơi con dao, thế là tôi không còn vũ khí. Con vật kéo tôi khỏi tảng đá và bắt đầu làm tôi rung lắc, dù tôi đá vào bụng nó bằng tất cả sức mạnh. Tôi gục xuống và thật may mắn, tay trái tôi chạm vào viên đá bằng quả cam lớn, tôi nắm chặt lấy. Tôi lại đứng dậy và dùng viên đá đập vào hộp sọ của nó, nhưng nó vẫn không từ bỏ, điều này lại tốt với tôi, vì cú ngoặm tiếp theo có thể vào cổ họng tôi.
Chúng tôi xoắn vào nhau tới lui, người và chó. Có lúc tôi nghĩ đã thấy Leo và Khan cuộn nhau cùng lăn lộn trên mặt đất; lúc khác lại thấy hắn ta, Khan, đang ngồi trên hòn đá nhìn tôi, khiến tôi nghĩ hắn ta đã giết Leo và đang quan sát con chó hành hạ tôi tới chết.
Sau đó mọi thứ đều trở nên đen tối, có gì đó nhảy ra phía trước và tôi thấy con chó khổng lồ bị nhấc khỏi mặt đất. Hàm nó bạnh ra, cánh tay tôi được giải thoát và rơi bên cạnh. Đúng! Con vật đang xoáy tròn trong không khí. Leo giữ hai chân sau của nó và quay nó thành vòng tròn liên tục bằng tất cả sức mạnh tuyệt vời của cậu.
Uỵch!
Cậu đã làm đầu nó đập vào tảng đá, nó ngã xuống và nằm im, thành một đống bùi nhùi đen đỏ. Thật kỳ lạ, tôi không ngất đi; tôi cho rằng sự đau đớn và cú sốc thần kinh giữ tôi tỉnh táo, vì tôi còn nghe thấy Leo nói bằng giọng rất bình tĩnh giữa hơi thở hổn hển của cậu – “Phải, thế là xong, cháu nghĩ cháu đã hoàn thành lời tiên tri của Pháp Sư. Nhìn lại cho chắc chắn đi.”
Sau đó cậu đưa tôi tới một tảng đá, nằm ngửa trên đó là Khan, vẫn sống nhưng không thể cử động tay chân. Kẻ điên cuồng đó đã hoàn toàn mất mặt, hắn nhìn chúng tôi bằng đôi mắt u sầu, giống như mắt của đứa trẻ bệnh tật.
“Các ngươi là những người can đảm,” hắn chậm rãi nói, “cũng rất khỏe, đã giết được mấy con chó săn kia và làm gãy lưng ta. Thế là chuyện này đã xảy ra giống như tiên đoán của con Chuột già. Cuối cùng, ta săn đuổi Atene, chứ không phải ngươi, dù giờ nàng sống để trả thù ta, vì lợi ích của nàng, chứ không phải của ngươi. Râu Vàng, nàng cũng đang săn đuổi ngươi và cùng với bầy chó săn tử thần còn kinh khủng hơn những con chó kia, đó là những đam mê ngang trái của nàng. Tha thứ cho ta và bay nhanh tới Ngọn Núi đi, Râu Vàng, ta sẽ đến đó trước ngươi, vì ở đó cư ngụ một kẻ còn mạnh hơn Atene.”
Rồi quai hàm há ra và hắn đã chết.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...