Chương 8: Bầy chó săn Tử Thần
Có lẽ đã mười giờ
sáng hôm sau, hoặc hơn một chút, khi Pháp Sư Simbri bước vào phòng tôi và hỏi
tôi ngủ thế nào.
“Như một khúc gỗ,”
tôi trả lời, “như một khúc gỗ. Một người bị đánh thuốc cũng không thể ngủ ngon
hơn được.”
“Thật ra, anh bạn
Holly ạ, trông anh rất mệt mỏi.”
“Những giấc mơ
làm phiền tôi đôi chút,” tôi trả lời. “Tôi bị dằn vặt từ những chuyện thế này.
Nhưng chắc chắn nhìn mặt ngài, Simbri thân mến, ngài đúng là đã hoàn toàn không
thể ngủ được, vì tôi chưa bao giờ thấy ngài có vẻ mệt mỏi đến thế này.”
“Ta đang rất mệt
mỏi,” ông ta bảo và thở dài. “Đêm qua ta dành thời gian làm việc – quan sát
trên Những Cánh Cổng.”
“Những cánh cổng
nào?” tôi hỏi. “Những cánh cổng chúng tôi bước qua để vào vương quốc này ư, nếu
vậy, tôi cũng muốn quan sát chúng hơn là du ngoạn qua chúng.”
“Những Cánh Cổng
của Quá Khứ và Tương Lai. Đúng, ngươi đã đi qua hai cánh cổng, nếu ngươi muốn
nghĩ vậy; vì ngươi đã không đi ra khỏi Quá Khứ kỳ diệu để hướng tới một Tương
Lai ngươi không thể đoán được, đúng không?”
“Nhưng cả hai
ngài đều rất quan tâm,” tôi giả thiết.
“Có lẽ thế,” ông
ta trả lời, rồi nói thêm, “Ta tới để nói với ngươi rằng, trong vòng một giờ nữa,
ngươi sẽ khởi hành tới thành phố, nơi Khania đã tới để chuẩn bị cho ngươi.”
“Vâng; ngài chỉ
kể cho tôi cô ấy đã đi vài ngày trước. Được rồi, tôi đã khỏe lại và sẵn sàng đi
bộ, nhưng còn con trai tôi thì sao?”
“Anh ta đang
bình phục, anh ta đang bình phục. Nhưng ngươi sẽ được chính mắt nhìn thấy anh
ta thôi. Đó là ý muốn của Khania. Nô lệ đang mang áo choàng cho ngươi rồi kìa,
ta sẽ để chúng lại cho ngươi.”
Vì vậy, với sự
giúp đỡ của họ, tôi tự mặc quần áo, thoạt nhìn khá tốt, áo trong bằng vải lanh
sạch sẽ, quần dài và vest bằng len rộng rãi, cuối cùng là áo khoác từ lông lạc
đà nhuộm đen mặc rất thoải mái, nhìn bề ngoài không khác gì một cái áo khoác
dài. Một chiếc mũ phẳng cùng chất liệu và đôi ủng làm từ da chưa thuộc hoàn
thành bộ trang phục của tôi.
Tôi đã sẵn sàng
khi mấy người hầu da vàng vô cùng cung kính đỡ tôi trên tay và đưa tôi theo các
lối đi xuống cầu thang của ngôi nhà Cánh Cổng để ra cửa chính. Nơi đây, trong
niềm vui sướng tột cùng, tôi thấy Leo, trông nhợt nhạt và khó khăn, nhưng ngược
lại đã khỏe mạnh như tôi dự đoán sau trận ốm. Cậu mặc trang phục giống tôi,
nhưng quần áo của cậu có chất lượng tốt hơn, chiếc áo choàng màu trắng có thêm
mũ trùm đầu, tôi cho rằng để bảo vệ vết thương trên đầu cậu khỏi giá lạnh và mặt
trời. Chiếc áo trắng kia tôi nghĩ rất phù hợp với cậu, vì nhờ nó, không có gì
trở nên kỳ cục hay quá vượt trội. Cậu nhảy ngay tới chỗ tôi và nắm lấy tay tôi,
hỏi tôi thế nào và tôi đã bị dấu đi đâu, chào đón tất cả như tôi nhìn thấy, là
vẻ ấm áp không hề mất đi trên người Simbri đang đứng bên cạnh.
Tôi trả lời, giờ
đã đủ khỏe để chúng tôi lại bên nhau, còn phần còn lại tôi muốn kể cho cậu nghe
sau.
Rồi họ mang
chúng tôi lên kiệu, mỗi kiệu có hai con ngựa, một con đi trước và con kia đi
sau giữa hai càng xe dài. Chúng tôi ngồi trong đó, theo sự ra hiệu của Simbri,
những người nô lệ thúc cương ngựa và chúng tôi lên đường, bỏ lại phía sau ngôi
nhà Cánh Cổng cũ kĩ ảm đạm mà chúng tôi là những người lạ đầu tiên tới đó suốt
nhiều thế hệ qua.
Sau khoảng hơn một
dặm, con đường chạy xuống hẻm núi đá quanh co, tới khi đột ngột rẽ ngoặt, và đất
nước Kaloon nằm trải dài trước mặt chúng tôi. Dưới chân chúng tôi là một con
sông, có lẽ chính là con sông chúng tôi gặp trong vực thẳm, phủ đầy tuyết trên
núi, là khởi nguồn của nó. Chỗ này nó chảy rất nhanh, nhưng trên những vùng đất
phù sa mênh mông bên dưới nó lại trở thành dòng suối rộng hiền hòa uốn khúc giữa
vùng đồng bằng vô hạn tới khi biến mất trong màu xanh lá phía xa xa.
Nhưng ở phía bắc,
vùng rộng lớn mượt mà đơn điệu này bị phá vỡ bởi Ngọn Núi đã chỉ dẫn chúng tôi
từ xa về Cung Điện Lửa. Khoảng cách từ chúng tôi tới đó rất lớn, hơn một nghìn
dặm, tôi có thể nói đó là khung cảnh uy nghi nhất trong bầu không gian thoáng
đãng này. Nhiều dặm quanh chân núi trên mặt đất mọc lên những ngọn đồi nhỏ màu
nâu gồ ghề, chúng hướng tới chính Ngọn Núi thần thánh, một điểm màu trắng rực rỡ
cao hai mươi nghìn feet giữa trời.
Đúng, trên đó
nơi miệng núi lửa một cây cột trụ khổng lồ đứng thẳng, có một vòng đá khổng lồ
nữa xuyên qua, nằm trong bóng tối, dứt khoát chống lại bầu trời xanh bên ngoài
và tràng tuyết chói mắt bên dưới.
Chúng tôi nhìn
chằm chằm nó đầy sợ hãi, ngọn hải đăng mang hy vọng này chúng tôi biết, có lẽ
là một tượng đài của họ, thậm chí có cảm giác định mệnh của chúng tôi muốn tự
xướng lên đằng kia. Tôi nhớ tất cả mọi người đi cùng chúng tôi đều thể hiện sự
cung kính bằng cách cúi đầu khi họ nhìn thấy khung cảnh đỉnh núi kia, rồi đặt
ngón trỏ của tay phải bắt chéo với ngón trỏ của tay trái, một biểu tượng sau
này chúng tôi biết được, dùng để ngăn chặn ảnh hưởng ma quái của nó. Đúng, thậm
chí Simbri cũng cúi đầu, uốn mình trước phong tục mê tín di truyền mà tôi hiếm
khi nghi ngờ ông ta.
“Ngài cũng từng
tới Ngọn Núi?” Leo hỏi ông ta.
Simbri lắc đầu
và lảng tránh trả lời.
“Người dân của Đồng
Bằng không được đặt chân tới Ngọn Núi. Giữa các sườn núi của nó có con sông tưới
nước, hàng đám người hoang dã và dũng cảm sinh sống, chúng ta thường xảy ra chiến
tranh với chúng; vì khi chúng đói, chúng sẽ tấn công cướp bóc gia súc và mùa
màng của chúng ta. Hơn nữa, ở đó, khi Ngọn Núi hoạt động, chảy ra hàng suối đá
nóng chảy đỏ rực, tro nóng lại rơi xuống và giết chết người đi qua.”
“Đám tro đó có từng
rơi xuống đất nước của ngài không?” Leo hỏi.
“Chúng đã từng
rơi xuống khi Linh Hồn Ngọn Núi tức giận, đó là lý do tại sao chúng ta sợ bà ấy.”
“Ai là Linh Hồn
đó?” Leo háo hức nói.
“Ta không biết,”
ông ta không kiên nhẫn trả lời. “Con người có thể thấy nhìn thấy linh hồn sao?”
“Ngài trông như
thể ngài có lẽ đã từng thấy cách đây không lâu lắm,” Leo đáp lại, dán mắt nhìn
gương mặt như sáp và đôi mắt khó chịu của ông già. Vì giờ đây vẻ bình tĩnh trên
lớp sừng đã biến mất khỏi con mắt của Simbri, như thể có gì đó đã ám ảnh ông ấy.
“Ngươi làm ta thấy
quá vinh dự rồi, chúa tể ạ,” ông ta đáp; “trình độ và khả năng của ta chưa đạt
được xa đến vậy. Nhưng nhìn kìa, kia là bãi đỗ, có thuyền đợi chúng ta, vì phần
còn lại của hành trình là trên nước.”
Những con thuyền
này rất rộng rãi và thoải mái, có vòm và đuôi phẳng, đôi khi buồm được kéo lên,
chúng được thiết kế để kéo, chứ không phải được chèo bằng mái. Leo và tôi đi
vào chỗ rộng nhất, vui sướng vì được bỏ lại một mình, trừ người cầm lái.
Phía sau chúng
tôi là con thuyền khác, nơi của đám người phục vụ và nô lệ, vài người như binh
lính, vì họ mang cung và gươm. Giờ đám ngựa được tháo ra khỏi kiệu, kiệu được
đóng gói lại, chằng dây da xanh buộc chặt vào những vòng sắt bên mạn thuyền, những
con vật được bọc yên được gắn vào hệ thống dây đợ để lai kéo thuyền. Sau đó
chúng tôi lên đường, đám ngựa được bố trí hai con một song song trên mỗi thuyền
nhỏ, đi nước kiệu dọc theo đường kéo làm sẵn bằng các cầu gỗ thường được trang
bị ở bất kỳ kênh đào hay nhánh sông nào đổ vào sông chính.
“Cảm ơn Thượng Đế,”
Leo nói, “cuối cùng chúng ta lại bên nhau! Bác có nhớ không, bác Horace, khi
chúng ta vào vùng đất Kôr cũng thế, trên một con thuyền? Câu chuyện lại lặp lại.”
“Bác hoàn toàn
tin rồi,” tôi trả lời. “Bác có thể tin bất kỳ điều gì. Leo, bác nói này, chúng
ta đang là con muỗi mắc trong cái mạng nhện, Khania kia là con nhện và Simbri,
vị Pháp Sư là người bảo vệ cái mạng. Nhưng hãy kể cho bác tất cả những gì cháu
nhớ được về mọi chuyện xảy ra với cháu, nhanh lên, vì bác không biết họ bỏ lại
chúng ta một mình bao lâu.”
“Vâng,” cậu nói,
“tất nhiên cháu nhớ chúng ta tới được Cánh Cổng sau khi người phụ nữ và ông già
kia kéo chúng ta khỏi con sông, và bác Horace, nói về nhện lại nhắc cháu nhớ tới
lúc bị treo trên đầu sợi dây bằng da con bò. Không phải cháu cần nhớ lại, mà vì
cháu hầu như không thể quên được nó. Bác có biết không, cháu cắt sợi dây vì cảm
thấy mình sắp phát điên, và mong chết trong tỉnh táo. Chuyện gì xảy ra với bác?
Bác đã trượt xuống à?”
“Không; bác nhảy
theo cháu. Có lẽ tốt nhất chúng ta nên chết cùng nhau, vì thế chúng ta có thể bắt
đầu lại cùng nhau.”
“Ông bác Horace
già can đảm của cháu!” cậu trìu mến nói, nước mắt bắt đầu rơi ra từ đôi mắt xám
của cậu.
“Thật thú vị,
nhưng không quá lâu,” cậu trả lời màu mè. “Cháu đi vào giấc ngủ, và khi tỉnh dậy,
cháu thấy một phụ nữ xinh đẹp đang đứng nghiêng trước mặt, bác Horace – thoạt
tiên cháu nghĩ đó chính là – bác biết là ai rồi mà, và nàng hôn cháu; nhưng có
lẽ tất cả chỉ là một giấc mơ.”
“Đó không phải
là mơ,” tôi trả lời. “Bác đã nhìn thấy chuyện này.”
“Cháu rất tiếc
khi nghe vậy – rất tiếc. Dù sao đó là một phụ nữ đẹp – Khania – vì sau đó cháu
gặp nàng nhiều lần, và nói chuyện với nàng bằng tiếng Hy Lạp hiện đại ở mức tốt
nhất của mình – dù sao, Ayesha cũng biết tiếng Hy Lạp cổ mà, thật kỳ lạ.”
“Bà ấy biết vài
ngôn ngữ cổ, người khác cũng vậy. Tiếp đi.”
“Vâng, nàng chăm
sóc cháu rất tốt, nhưng theo cháu biết, tận tới đêm qua, không gì cảm động hơn
thế, cháu đủ cảm xúc để từ chối nói về quá khứ đầy sự kiện của chúng ta. Cháu
giả vờ không hiểu, nói rằng chúng ta là những nhà thám hiểm, v.v… và cố hỏi
nàng chúng ta đang ở đâu, vì cháu quên mất đã nói thấy bác biến mất. Cháu nghĩ
nàng bắt đầu tức giận với cháu, vì nàng muốn biết gì đó, cháu đoán vậy, cháu muốn
một vụ giao dịch có hời. Nhưng cháu không nhận được gì ngoài việc biết nàng là
Khania – một người quyền lực. Không nghi ngờ về điều đó, vì khi một nô lệ hay
người hầu đi vào ngắt lời nàng trong lúc nàng đang cố vẽ ra các sự kiện về
cháu, nàng ta đã gọi người ném anh ta khỏi cửa sổ, anh ta chỉ tự cứu mình bằng
cách chạy thật nhanh xuống cầu thang.”
“Phải rồi, cháu
có thể không chú ý gì tới nàng ta, nhưng nàng có lẽ hơi chú ý tới cháu, đó là tại
sao nàng quan tâm tới một khách lạ dịu dàng đến vậy, cháu không biết nữa – trừ
khi, trừ khi – ôi, nàng ta là ai, bác Horace?”
“Nếu cháu tiếp tục,
bác sẽ nói cho cháu những gì bác nghĩ hiện giờ. Nghe một câu chuyện tại một thời
điểm thôi.”
“Rất tốt. Cháu
hoàn toàn khỏe lại, nói tương đối thôi, tới đỉnh điểm là đêm qua, khiến cháu lại
buồn. Sau khi vị tiên tri già, ngài Simbri, mang cho cháu bữa tối, ngay lúc
cháu nghĩ chuẩn bị đi ngủ, Khania đi vào một mình, mặc như một nữ hoàng. Cháu
có thể nói với bác rằng nàng ấy thực sự trông rất cao quí, như công chúa trong
truyện thần tiên, có vương miện, có mái tóc đen nhánh như hạt dẻ tuôn chảy
quanh người.”
“Đúng vậy, bác
Horace, sau đó nàng bắt đầu làm tình với cháu một cách tao nhã, hoặc cháu nghĩ
vậy, nàng nhìn cháu và thở dài, nói rằng chúng cháu đã biết nhau trong quá khứ
- quả thực cháu tập trung rất tốt – nàng ám chỉ mong muốn chúng cháu tiếp tục
tình bạn. Cháu ngăn nàng bằng mọi cách có thể; nhưng một người đàn ông đều sẽ cảm
thấy bất lực khi nằm trên giường trước một phụ nữ vô cùng xinh đẹp và rất cao
quí đứng trước mặt đang ngợi ca anh ta.”
“Cuối cùng, để
lái đi câu hỏi của nàng và chấm dứt chuyện này, cháu nói với nàng ấy rằng cháu
đang tìm vợ mình, người cháu đã để mất, vì dù sao cuối cùng, Ayesha cũng chính
là vợ cháu mà, bác Horace. Nàng ấy mỉm cười đề nghị cháu không cần nhìn đâu xa;
nói ngắn gọn, người vợ đã mất kia đã được tìm thấy rồi – chính là nàng ấy, người
đã tới cứu cháu thoát chết trên con sông. Quả thực, nàng ấy tin tưởng như vậy
và bảo cháu chắc chắn sẽ tin dần dần rằng, nàng không phải chỉ đang vui đùa,
cháu cũng cảm thấy rất muốn tin nàng, vì cuối cùng, Ayesha bây giờ có lẽ đã biến
đổi.”
“Sau đó vào đoạn
cuối trong mưu kế của mình, cháu nhớ ra lọn tóc – những gì còn lại của chúng ta
về Ayesha,” và Leo chạm tay vào ngực. “Cháu lấy nó ra và so sánh nó với tóc của
Khania, lúc đó nàng ta trở nên hoàn toàn khác biệt, ghen tuông, cháu nghĩ vậy,
vì tóc đó dài hơn của nàng ta và hoàn toàn không giống.”
“Bác Horace,
cháu kể bác nghe này, cái chạm vào lọn tóc đó – vì nàng ta đã chạm vào nó – dường
như khiến nàng ấy hành động đúng bản chất tự nhiên của nàng ta hơn, như axit
nitric với vàng giả vậy. Nó biến thành đen; tất cả những gì tồi tệ của nàng ta
hiện ra. Trong cơn giận dữ, tiếng nàng ta thật thô tục; đúng, nàng ta như một kẻ
thô tục, và bác biết đấy, khi Ayesha giận dữ, nàng có thể độc ác như chúng ta đã
biết, chắc chắn rất khủng khiếp, nhưng nàng không bao giờ thô tục, thậm chí còn
chói sáng hơn nữa.”
“Phải, từ lúc đó
cháu chắc chắn rằng Khania này có thể là bất cứ ai, nhưng nàng ta không có gì với
Ayesha; họ khác nhau đến mức họ không thể là cùng một người – giống như lọn tóc
vậy. Vì thế cháu im lặng nằm đó nghe nàng ta nói, dụ dỗ, đe dọa, cuối cùng nàng
ta đứng dậy đi ra khỏi phòng, cháu nghe tiếng khóa cửa phía sau. Đó là tất cả
những gì cháu kể với bác, hoàn toàn đầy đủ, vì cháu không nghĩ Khania đang làm
bộ với cháu, nói thật cháu sợ nàng ấy.”
“Đúng,” tôi nói,
“thế là đủ rồi. Giờ hãy ngồi đây, đừng đi đâu hay nói to, vì người cầm lái có
thể là một gián điệp, và bác có thể cảm nhận được ánh mắt của ông già Simbri vẫn
dán lên lưng chúng ta. Cũng đừng ngắt lời, vì thời gian ở riêng bên nhau của
chúng ta có thể rất ngắn.”
Rồi tôi ngồi kể
cho cậu ấy mọi thứ tôi biết, trong khi cậu ấy lắng nghe đầy kinh ngạc.
“Lạy Chúa! Ôi
câu chuyện là thế sao,” cậu thốt lên khi tôi kết thúc. “Giờ đây vị Hesea gửi bức
thư từ Ngọn Núi kia là ai? Và Khania là ai đây?”
“Bản năng nói với
cháu nàng là ai, Leo?”
“Amenartas?” cậu
thì thào nghi ngờ. “Người phụ nữ đã viết trên mảnh gốm, người mà Ayesha bảo đó
là công chúa Ai Cập – vợ cháu hai nghìn năm trước ư? Amenartas tái sinh ư?”
Tôi gật đầu.
“Bác nghĩ vậy. Tại sao không? Như bác đã nói đi nói lại với cháu, bác luôn chắc
chắn một điều, nếu chúng ta được phép xem phần tiếp của vở kịch, chúng ta sẽ
tìm thấy Amenartas, hay thực ra là linh hồn của Amenartas, đóng vai chính trong
đó; cháu nhớ ra bác đã viết vậy trong bản thảo trước đấy thôi.”
“Nếu nhà sư già
theo Phật giáo Kou-en có thể nhớ được quá khứ của mình, như hàng nghìn người
trong số họ thề rằng có chuyện đó, ông ấy chắc chắn danh tính mình vẫn tiếp tục
từ quá khứ, tại sao người phụ nữ này không thể chứ, với chuyện nan giải này, trợ
giúp nàng ấy lại là trò ma thuật của Pháp Sư, bác của nàng, hoàn toàn có thể
triệu hồi lại quá khứ của nàng ấy đúng không?”
“Leo, tại sao
nàng ta vẫn không chịu nổi ảnh hưởng nó tác động lên mình, khi không hề có sai
lầm hay đã tự tìm kiếm theo cách riêng của mình rồi, mà vẫn điên cuồng rơi vào
tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với người đàn ông nàng ta vẫn luôn từng yêu?”
“Lập luận thế là
đủ rồi, bác Horace, nếu vậy cháu thấy tiếc thương cho Khania, người không có
nhiều lựa chọn trong vấn đề này – đã bị buộc phải làm thế, có thể nói là như vậy.”
“Đúng, nhưng lúc
đó bàn chân cháu lại rơi vào một cái bẫy khác. Hãy tự bảo vệ mình, Leo, hãy tự
bảo vệ mình. Bác tin đây là thử thách dành cho cháu, không nghi ngờ gì, sẽ còn
nhiều thứ theo sau. Nhưng bác tin, với cháu, chết sẽ tốt hơn làm ra bất kì sai
lầm nào.”
“Cháu hiểu rõ điều
đó,” cậu trả lời; “và bác đừng sợ. Khania có thể là bất kì cái gì với cháu
trong quá khứ - nếu thực sự đúng vậy – chuyện này thế là xong. Cháu tìm kiếm
Ayesha, duy nhất một mình Ayesha thôi, và thần Vệ Nữ sẽ không dụ dỗ cháu rời khỏi
nàng.”
Sau đó trong hy
vọng và sợ hãi, chúng tôi bắt đầu nói về Hesea bí ẩn, người đã gửi bức thư từ
Ngọn Núi, ra lệnh cho Pháp Sư Simbri gặp chúng tôi: vị nữ tu sĩ hay linh hồn mà
ông ta bảo là ‘hùng mạnh do tuổi tác’ và có ‘những người phục phụ trên mặt đất
và trong không gian’.
Hiện giờ, mũi
tàu đã cập vào bờ sông, nhìn quanh tôi thấy Simbri đã rời thuyền và chuẩn bị tiến
tới chỗ chúng tôi. Ông ta đến ngồi nghiêm túc trên một chỗ trước mặt chúng tôi,
giải thích rằng màn đêm sắp buông xuống, ông ấy muốn đưa chúng tôi theo đoàn để
bảo vệ trong đêm tối.
“Và để xem chừng
khiến chúng ta không trốn được khỏi ông ta,” Leo lẩm bẩm.
Rồi những người
điều khiển quất ngựa đi ra, chúng tôi lại tiếp tục.
“Hãy nhìn phía
sau các ngươi,” Simbri nói, “các ngươi sẽ thấy thành phố nơi các ngươi ngủ đêm
nay.”
Chúng tôi quay lại,
nơi đó, cách khoảng mười dặm, nhận ra một thị trấn mái bằng, không lớn lắm. Vị
trí của nó khá đẹp, vì nằm trên một đảo lớn cảo hàng trăm feet so với bề mặt đồng
bằng, con sông chia làm hai nhánh dưới chân nó, sau đó chúng tôi phát hiện ra
chúng lại hợp lại phía xa.
Gò đất mênh mông
nơi thành phố này được xây dựng trên đó có vẻ đã qua bàn tay con người tu tạo,
nhưng rất có thể đất hình thành nên nó bị rửa sạch nhiều niên đại đã qua trong
lũ lụt, do đó lớp bùn đọng lại ở trung tâm con sông rộng tăng dần thành cái đảo
hiện tại. Ngoại trừ một dinh thự có cột cao vút lên nằm trên đỉnh thành phố và
được bao quanh bởi những khu vườn, chúng tôi không nhìn thấy tòa nhà lớn nào
nơi này.
“Thành phố này
tên là gì?” Leo hỏi Simbri.
“Kaloon,” ông ta
trả lời, “mảnh đất này vẫn mang tên đó khi cha ông ta, những kẻ chinh phạt,
hành quân theo dãy núi tới đây hơn hai nghìn năm trước. Họ vẫn giữ cái tên cổ
xưa, nhưng lãnh thổ của Ngọn Núi họ gọi là Hes, vì họ bảo vòng thòng lọng trên
đỉnh kia là biểu tượng của nữ thần mang tên đó, cũng là người vị tướng của họ
tôn thờ.”
“Các nữ tu sĩ vẫn
sống ở đó chứ?” Leo hỏi, cố gắng lần lượt tìm ra sự thật.
“Đúng, và cả các
nam tu sĩ nữa. Học Viện của họ do những người chinh phạt xây dựng lên, những kẻ
đã chinh phục toàn bộ vùng đất. Hay đúng hơn, nó là chỗ Học Viện dành cho những
người đã tạo ra Nơi Thiêng Liêng và Đền Thờ, ở đây vị thánh của nó là lửa trong
Ngọn Núi, chính là của dân tộc Kaloon ngày nay.”
“Thế giờ ai được thờ ở đó?”
“Nữ thần Hes,
người ta nói vậy; nhưng chúng ta biết rất ít về chuyện này; vì chúng ta và cư
dân Ngọn Núi đều đã là kẻ thù nhiều thế hệ rồi. Chúng giết chúng ta và chúng ta
giết chúng, vì người ta ghen tị với điện thờ, nơi không ai được phép tới thăm để
tham khảo ý kiến vị Tiên Tri, để cầu nguyện hay để dâng hiến mỗi khi tai họa, mỗi
khi một vị Khan chết đi, hay khi nguồn nước của con sông cạn dần và mùa màng thất
bát, khi tro bụi rơi xuống và động đất rung chuyển vùng đất, hoặc khi dịch bệnh
lớn tràn tới. Dù sao, trừ khi chúng tấn công, nếu không chúng ta đều để bọn
chúng cô độc ở đó, mọi người dân đều được huấn luyện cách dùng vũ khí, có thể
đánh nhau nếu cần, chúng ta là những người yêu hòa bình, chỉ nuôi trồng trên mảnh
đất này từ thế hệ này qua thế hệ khác, rồi trở nên giàu có. Hãy nhìn quanh
ngươi đi. Khung cảnh không thanh bình sao?”
Chúng tôi đứng
trên thuyền và nhìn chăm chú khung cảnh đồng quê phía trước. Nơi nơi đều xuất
hiện những đàn gia súc đang ăn cỏ trên đồng, từng bầy la ngựa, hay những cánh đồng
vuông vắn trồng ngô và in rõ cây cối. Dân làng cũng mặc áo dài xám, lao động
trên mảnh đất, cực nhọc một ngày kết thúc, đưa đàn gia súc về nhà theo các con
đường bên bờ đê thủy lợi, hướng về thôn xóm nằm trên những gò đất nhô lên giữa
những lùm cây dương cao cao.
Dáng vẻ ngược lại
với sa mạc khô cằn và núi non ghê sợ chúng tôi lang thang suốt bao năm qua, đất
nước này hiện ra trong mắt chúng tôi thật duyên dáng, quả thật nhìn ánh đỏ của
ráng chiều chìm dần ngày xuân, đẹp như vẻ đẹp của Hà Lan. Ai cũng có thể hiểu
được chủ đất và nông dân ở đây đều là những người thanh bình, của cải thật cám
dỗ với những bộ lạc hoang dã đói khát trên dãy núi.
Cũng thật dễ
đoán khi những người sống sót trong quân đoàn của Alexander dưới quyền vị tướng
Ai Cập vượt qua dải núi đá phủ đầy tuyết và nhìn thấy đất nước ngọt ngào này, với
nhà cửa, gia súc, đồng cỏ chín muồi, họ hẳn phải than khóc, “Chúng ta sẽ không
phải hành quân, đánh nhau và chịu mọi gian khổ nữa. Chúng ta sẽ dừng chân ở đây
để sống và chết.” Chắc chắn họ đã làm thế, lấy vợ trong số phụ nữ của dân tộc ở
vùng đất họ vừa chinh phục – có lẽ chỉ sau một trận đánh nhỏ.
Giờ khi ánh sáng
mờ dần, những vòng khói đang lơ lửng phía ngọn núi lửa xa xa bắt đầu bùng lên
khủng khiếp. Chúng càng lúc càng đỏ hơn và giận dữ hơn khi đêm tới, cuối cùng
chúng biến thành những tảng lửa bùng cháy đẩy ra từ lòng núi lửa, ném những
chùm sáng xuyên qua con mắt trên trán, chính là chiếc thòng lọng khổng lồ trên
đỉnh núi. Những chùm sáng bắn ra rất xa, rất xa, tạo ra con đường sáng chói
trên mặt đất, làm nổi bật các đỉnh trắng xóa của dãy núi bao quanh làm tường chắn.
Trên cao trong không trung, vượt qua con đường, vượt qua những mái nhà mờ ảo của
thành phố Kaloon, vượt trên con sông, phải, ngay thẳng trước chúng tôi, trên
dãy núi, không nghi ngờ gì – xuyên qua những nơi chúng tôi không thể theo tới –
qua sa mạc tới đỉnh cao chót vót sườn bên kia nơi chúng tôi từng nằm tắm trong
vẻ rực rỡ của nó. Thật là một khung cảnh kỳ diệu và ấn tượng vô cùng, cũng khiến
những người đồng hành của chúng tôi tràn đầy sợ hãi, vì người cầm lái trên thuyền
và những người điều khiển đẩy thuyền đi đều rên to và bắt đầu thốt ra lời cầu
nguyện. “Họ nói gì vậy?” Leo hỏi Simbri.
“Họ nói, Linh Hồn
Ngọn Núi đang tức giận, và truyền ánh sáng từ chỗ kia bay xuống gọi là Con Đường
của Hes, để gây ra tội lỗi với mảnh đất của chúng ta. Do đó, họ phải cầu nguyện
bà ấy đừng tàn phá họ.”
“Thế ánh sáng đó
không phải lúc nào cũng chiếu như thế sao?” cậu lại hỏi.
“Không, rất hiếm.
Một lần vào ba tháng trước, và giờ là đêm nay, nhưng nhiều năm qua chưa hề như
vậy. Chúng ta hãy cầu nguyện để nó không mang bất hạnh tới Kaloon và dân cư nơi
đây.”
Ánh sáng ghê sợ
vẫn tiếp tục vài phút sau đó, rồi nó ngừng lại đột ngột như lúc bắt đầu, chỉ
còn lại ánh mờ nhạt trên đỉnh núi.
Giờ trăng đã
lên, một quả cầu trắng sáng lấp lánh, dưới ánh sáng của nó, chúng tôi nhận ra
đã gần vào thành phố. Nhưng vẫn có gì đó để xem trước khi chúng tôi tới nơi trú
ngụ. Trong lúc chúng tôi đang ngồi im lặng trên thuyền – sự im lặng bị phá vỡ bởi
tiếng vỗ nhẹ của nước tĩnh lặng ở hai bên và tiếng bắn lên liên tục của sợi dây
kéo bị chùng trên bề mặt – chúng tôi nghe thấy một âm thanh xa xôi như trong cuộc
săn đuổi đầy tiếng kêu khóc.
Nó càng lúc càng
gần, âm lượng to lên mỗi lúc, tới khi thật gần. Giờ vang vọng lại trên mặt đất
chỗ lai dắt thuyền – không phải với đám ngựa kéo, mà là thứ khác trên bờ tây
dòng sông – nghe như nhịp đập của tiếng vó ngựa phi nước đại đầy giận dữ. Hiện
tại nó đã hiện ra, một con vật trắng mịn đẹp đẽ, trên lưng có một người cưỡi.
Nó phi qua chúng tôi như một tia chớp, nhưng người đàn ông nó mang theo quay đầu
lại, chúng tôi nhìn thấy gương mặt anh ta dưới ánh trăng; cũng nhìn thấy sự đau
đớn vì sợ hãi viết rõ trên đó và trong mắt anh ta.
Con vật hiện ra
từ bóng tối. Nó lại biến mất trong bóng tối, theo sau nó là thứ nhạc điệu khủng
khiếp. Nhìn kìa! Một con chó xuất hiện, một con chó khổng lồ màu đỏ, rỏ đầy rãi
trên đất từ mõm khi phi nhanh qua, sau đó chồm lên và phát ra tiếng sủa sâu từ
cuống họng, như tiếng chuông. Những con khác theo sau, rồi lại những con khác nữa:
phải có cả trăm con, mỗi con đều sủa vang như đang đánh hơi.
“Bầy chó săn tử
thần!” tôi thì thào, siết chặt cánh tay Leo.
“Đúng,” cậu đáp
lại, “chúng đang chạy theo kẻ xấu xa khốn khổ kia. Đây là cuộc săn người.”
Khi cậu nói vậy,
có một bóng hình thứ hai xuất hiện, phục sức lộng lẫy, áo choàng trên vai, tay
cầm cây roi dài, anh ta vẫy tay. Anh ta to lớn nhưng các khớp lỏng lẻo, khi đi
qua anh ta cũng quay mặt lại, và chúng tôi nhận ra đó là gương mặt của một người
điên. Không nghi ngờ gì về điều đó; vẻ điên rồ bùng lên trong đôi mắt trống rỗng
và vang lên trong tiếng cười hoang dại gầm rít đó.
“Khan! Khan!”
Simbri nói, và tôi có thể thấy ông ta đang sợ hãi.
Giờ anh ta cũng
biến mất, theo sau là những người bảo vệ anh ta. Tôi đếm có tám người, đều mang
roi, họ quất ngựa bằng những cây roi đó.
“Thế là sao,
Simbri đáng mến?” tôi hỏi, khi những âm thanh đã mờ dần phía xa.
“Có nghĩa là,
anh bạn Holly ạ,” ông ta đáp, “Khan đang phán xét theo cách của ngài – săn đuổi
tới chết ai đó làm ngài tức giận.”
“Vì tội gì thế?
Và ai là kẻ khốn khổ kia?”
“Hắn là một lãnh
chúa lớn của vùng này, một trong những người bà con hoàng tộc, tội lỗi của hắn
là hắn đã nói với Khania rằng hắn yêu nàng, sẵn sàng gây chiến với chồng nàng
và giết Ngài, nếu nàng hứa sẽ cưới hắn. Nhưng nàng ghét hắn, cũng như ghét tất
cả đàn ông, và mang chuyện đó nói trước Khan. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Thật hạnh phúc
khi hoàng tử có người vợ đức hạnh đến vậy!” tôi không thể giúp gì ngoài nói ngọt
ngào và đầy hàm ý như thế, ông già Pháp Sư xấu xa quay đầu lại trước lời đó và
bắt đầu vuốt chòm râu trắng.
Nhưng chỉ một
lúc sau, chúng tôi lại nghe thấy tiếng sủa của bầy chó săn tử thần một lần nữa.
Đúng, chúng đang đâm đầu hướng thẳng tới chỗ chúng tôi, lúc này chạy dọc theo
vùng đất. Con ngựa trắng và người cưỡi nó lại xuất hiện trở lại, cả hai hoàn
toàn kiệt sức, vì con vật khốn khổ đó hiếm khi chạy vào đường kéo thuyền. Do đã
ngoặm được, con chó đỏ to lớn với cái tai đen kẹp chặt sườn nó, khi bị hàm răng
năng chạm vào, nó hí to lên trong kinh sợ theo cách chỉ một con ngựa có thể.
Người cưỡi ngựa nhảy khỏi lưng nó, trước sự kinh hoàng của chúng tôi, anh ta chạy
tới bờ sông, rõ ràng nghĩ rằng muốn nương tựa nhờ thuyền chúng tôi. Nhưng trước
khi anh ta chạm được vào nước, những con quái vật như quỉ dữ đã nhảy chồm vào
anh ta.
Những gì tiếp theo tôi sẽ không mô tả nữa, nhưng
tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng bầy sói đáng lo ngại kia, và cả vị
Khan điên cuồng đã thét lên trong niềm vui tàn bạo, cổ vũ bầy chó săn tử thần
hoàn thành công việc đẫm máu đó.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét