Tựa đề tiếng Việt: Nữ Hoàng Ayesha trở lại
Người Dịch: Cheryl Pham
Giới Thiệu
Quả thật thực tế điều không mong đợi đã xảy
ra! Có lẽ nếu có ai đó trên trái đất mà Biên Tập Viên của tác phẩm này, đúng ra
là của câu chuyện trước đó, không nghĩ lại nghe về người đó, chính là Ludwig
Horace Holly. Điều này cũng có lý do chính đáng; biên tập viên đã tin rằng ông ấy
đã rời khỏi trái đất.
Khi lần cuối ngài Holly viết từ rất nhiều
năm trước đây, ngài để lại bản thảo về Bà
ấy, và bảo rằng ngài và người ngài đang bảo trợ, Leo Vincey, người yêu của
thánh nữ Ayesha, sắp sửa du hành tới Trung Á, tôi cho rằng họ hi vọng bà ấy có
thể thực hiện lời hứa và xuất hiện lại bên mình lần nữa ở đó.
Tôi thường vu vơ tự hỏi, chuyện gì đã xảy
ra với họ ở đó; họ đã chết rồi hay đang ăn không ngồi rồi lãng phí cuộc đời
mình như nhà sư trong ngôi chùa của các lạt ma Tây Tạng, hoặc đang nghiên cứu
ma thuật và thực hành phép tu khổ hạnh dưới sự hướng dẫn của các Bậc Thầy
phương Đông, với niềm tin có thể xây chiếc cầu nối từ những gì họ cần trải qua
để đến bên người bất tử yêu dấu của họ.
Bây giờ, cuối cùng khi tôi không còn nghĩ
về họ suốt nhiều tháng qua, không hề báo trước, câu trả lời cho những băn khoăn
đó đã tới!
Nghĩ mà xem, tôi – người Biên Tập Viên đã
nói ở trên, chỉ vì vẻ ngoài của gói bưu kiện bọc giấy nâu tồi tàn, không đăng
ký, gửi tới từ bàn tay vô danh nào đó, cho rằng nó quá quen thuộc và không có lợi
ích gì, đã đẩy nó sang một bên, suốt hai ngày liền nó bị quên lãng. Quả thực,
giờ nó sẽ vẫn đang nằm đó nếu không có một người khác di chuyển nó do tò mò, rồi
mở ra, và phát hiện ra một đống bản thảo bị đốt cháy trên gáy trong tình trạng
rất tệ, có hai chữ trên đó đề cập đến tôi.
Dù thật tuyệt vời, một khoảng thời gian đã
trôi qua từ lúc tôi nhìn thấy nó, giờ vẫn là nét chữ run rẩy do tuổi tác hay bệnh
tật của tác giả, tôi từng biết nét chữ này – không ai từng viết chữ “H” xoắn
vòng đặc biệt như thế trừ ngài Holly. Tôi xé mở phong bì niêm phong, và chắc chắn
thứ đầu tiên mắt tôi nhìn tới là chữ ký L.H. Holly. Đã lâu lắm rồi kể từ khi
tôi từng háo hức đến vậy khi đọc chữ đó. Và bức thư viết như sau:
“Quí ngài thân yêu của tôi – tôi chắc chắn
ngài vẫn còn sống, thật kỳ lạ phải nói rằng tôi cũng vẫn còn sống – trong một
ít thời gian nữa thôi.
Ngay khi tôi chạm vào thế giới văn minh một
lần nữa, tôi đã thấy cuốn sách ‘Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr’
của ngài, hay đúng hơn là cuốn sách của tôi, và đã đọc nó – lần đầu tiên đó là
bản dịch tiếng Hindu Bắc Ấn Độ. Chủ nhà của tôi – ông ta là bộ trưởng của một
cơ quan tôn giáo, một người đàn ông giàu có nhưng trí tuệ tầm thường – đã tỏ ra
ngạc nhiên khi ‘chuyện tình lãng mạn hoang dã’ đó lại thu hút tôi nhiều đến vậy.
Tôi trả lời rằng những ai có nhiều trải nghiệm với những biến cố khó khăn trong
đời thường quan tâm tới sự lãng mạn. Ngài có biết những biến cố khó khăn mà tôi
đề cập tới là gì không, tôi tự hỏi người xuất sắc như ngài có thể sẽ nói gì
đây?
Tôi thấy ngài đã kinh doanh tốt đẹp và làm
việc trung thực. Mọi chỉ dẫn đều đươc tuân thủ, không gì được thêm vào hay bỏ
đi. Do đó, ngài là người hai mươi năm trước tôi đã tin tưởng phó thác câu chuyện
mở đầu, nay cũng là người tôi muốn phó thác phần kết của nó. Ngài là người đầu
tiên biết về Bà ấy – người chúng ta phải
tuân lệnh, người đã ngồi cô độc từ thế kỷ này qua thế kỷ kia, mang vẻ đẹp bất
biến trong khu mồ Kôr, chờ đợi người yêu đã mất tái sinh, và Định Mệnh đã mang
người đó trở lại cho bà ấy.
Đúng vậy, do đó ngài cũng sẽ là người đầu
tiên biết Ayesha, Hesea và Linh Hồn Núi, nữ tu sĩ của Oracle từ thời Alexander
Đại Đế trị vì những cột trụ rực lửa trong Đền Thờ, người giữ vương trượng cuối
cùng của Ngài hay thần Isis trên trái đất. Ngài cũng là người đầu tiên của loài
người tôi sẽ tiết lộ kết cục thần bí của bi kịch lạ lùng bắt đầu tại Kôr, hay
không chừng cả ở Ai Cập và những nơi khác thời xa xưa.
Tôi đang rất suy yếu; tôi đang vật lộn để được
trở lại ngôi nhà cũ của tôi để chết ở đó, kết cục của tôi đã trong tầm tay. Tôi
đã yêu cầu bác sĩ ở đây, sau khi tất cả kết thúc, hãy gửi cho ngài bản ghi
chép, trừ khi tôi đổi ý và đốt sạch nó. Ngài cũng sẽ nhận được một tập bản vẽ
thô có thể hữu ích với ngài, và một cái trống, dụng cụ luôn được dùng tới trong
các lễ tôn thờ các nữ thần Tự Nhiên của người Ai Cập cổ, thần Isis và thần
Hathor, những người ngài sẽ thấy thật đẹp đẽ và cổ xưa. Tôi trao chúng cho ngài
vì hai lý do; vì sự biết ơn cùng tôn trọng của tôi, và vì đó là bằng chứng duy
nhất còn lại bên tôi về sự thật tôi viết trong bản thảo đi kèm, ngài sẽ thấy nó
thường xuyên được đề cập tới. Có lẽ ngài cũng sẽ đánh giá chúng như một món đồ
kỷ niệm về sinh vật kỳ lạ nhất và đẹp đẽ nhất từng thấy trên đời kia. Đó là
vương trượng của bà ấy, cây gậy quyền lực mà tôi thấy bà ấy chào đón Thần Bóng
Tối trong Đền Thờ, và là món quà bà ấy dành cho tôi.
Nó cũng có đức hạnh; một phần sức mạnh của
Ayesha ám ảnh biểu tượng này khiến cả các linh hồn cũng phải cúi đầu, nhưng nếu
ngài muốn khám phá chúng, hãy thận trọng với cách sử dung chúng.
Tôi cũng không còn sức mạnh và ý chí để viết
thêm. Bản ghi chép sẽ tự nó nói lên tất cả. Hãy dùng nó vào việc ngài muốn, hãy
tin nó hoặc không tùy ngài. Tôi không quan tâm ai biết nó có phải là thật hay
không.
Ayesha là ai, là gì, không, Ayesha là cái
gì thế? Một tinh chất nhập thế, một linh hồn của Tự Nhiên được vật chất hóa
không thể tiên đoán được, một người xinh đẹp, một kẻ độc ác và bất tử; mang tâm
hồn cô độc, chỉ có thể được cứu vớt nhờ Nhân Loại và sự hy sinh đáng thương của
họ ư? Ngài nói xem! Tôi đã suy đoán người tới giải đáp những bí ẩn này.
Tôi chúc ngài hạnh phúc và may mắn. Tạm biệt
ngài và tất cả.
L. Horace Holly”
Tôi đặt bức thư xuống, tràn đầy thứ cảm
xúc mà tôi thật vô dụng nếu cố phân tích hay mô tả nó, rồi mở phong thư thứ
hai, tôi cũng sẽ in nội dung của nó ra đây, chỉ bỏ qua một số phần không liên
quan, như tên của người viết, với lưu ý rằng ông ấy yêu cầu tôi làm vậy.
Bức thư này đề tên một nơi xa xôi trên bờ
biển Cumberland như sau:
“Kính thưa ngài – là bác sĩ chăm sóc ngài
Holly trong cơn bạo bệnh cuối cùng, tôi có nghĩa vụ tuân thủ lời hứa của tôi với
ngài ấy, làm trung gian trong một vụ kinh doanh kì lạ, dù sự thật tôi biết rất
ít về nó, nhưng nó rất lôi cuốn tôi. Với hiểu biết nghiêm túc của mình, tôi
cũng vẫn chỉ yêu cầu duy nhất rằng không được đề cập tên tôi trong chuyện này,
hay địa phương tôi đang thực tập làm việc.
Khoảng mười ngày trước tôi được gọi tới gặp
ngài Holly trong một căn nhà cổ vùng Vách Đá vốn để không nhiều năm, ngoại trừ
những người chăm sóc, căn nhà là tài sản của ngài ấy và họ đã ở trong gia đình
ngài qua nhiều thế hệ. Người quản gia đi gọi tôi đã nói với tôi, chủ nhân của
bà vừa trở về từ nước ngoài, một nơi nào đó ở Châu Á, bà ta bảo ngài ấy bị đau
tim – sắp chết, bà ấy tin là như vậy; cả hai giả thuyết đều được chứng minh là
chính xác.
Tôi thấy bệnh nhân đang ngồi trên giường
(để tim dễ chịu hơn), là một ông già trông kỳ dị. Ngài ấy có đôi mắt đen, nhỏ
nhưng đầy lửa và rất thông minh, bộ râu trắng như tuyết tuyệt đẹp che phủ lồng
ngực rộng phi thường, mái tóc cũng trắng, liếm lên trán và mặt nhiều tới mức có
thể thấy râu trên hai má. Đôi tay đặc biệt dài và khỏe, dù một tay dường như bị
động vật xé nát. Ngài ấy nói với tôi rằng một con chó đã gây ra chuyện này,
nhưng nếu vậy, hẳn phải là một con chó có sức mạnh khác thường. Ngài ấy rất xấu
xí, hãy tha thứ nếu tôi bịa đặt. Tôi không thể miêu tả những gì tôi muốn nói tốt
hơn nên đành viết thế này, gương mặt ngài ấy không giống bất kỳ xác chết bình
thường nào tôi từng thấy trong kinh nghiệm hữu hạn của mình. Nếu tôi là một nghệ
sĩ khao khát khắc họa một linh hồn thông thái sáng suốt và nhân từ, nhưng kì dị,
tôi sẽ lấy ngay gương mặt đó làm mẫu.
Ngài Holly hơi phật lòng khi tôi được gọi
tới, có lẽ việc này ngài ấy không biết. Ngay sau đó chúng tôi trở nên khá thân
thiện, nhưng ngài ấy bày tỏ lòng biết ơn với sự giúp đỡ mà tôi có thể mang tới,
dù tôi không hy vọng làm được gì nhiều hơn. Mỗi lần gặp, ngài ấy lại nói về những
điều tốt đẹp ở những đất nước ngài ấy từng đi qua, rõ ràng trong rất nhiều năm,
một cuộc phiêu lưu kỳ lạ mà ngài ấy chưa bao giờ nói rõ ràng với tôi. Hai lần
trong lúc mê sảng, ngài ấy nói bằng những ngôn ngữ tôi cho rằng giống như tiếng
Hy Lạp và Ả Rập; đôi khi cả tiếng Anh nữa, ngài ấy dường như tự nói với một con
người là đối tượng ngài ấy kính trọng, tôi cho rằng có lẽ gần như là tôn thờ.
Tuy nhiên những gì ngài ấy nói tôi không thích nhắc lại, vì tôi chỉ nghe được
trong khả năng chuyên môn.
Một ngày, ngài ấy chỉ vào một cái hộp thô
làm bằng loại gỗ ngoại (chính là thứ giờ tôi chuyển tới cho ngài bằng xe lửa
theo bổn phận), đưa cho tôi tên và địa chỉ của ngài, rồi nói rằng, nếu không có
gì sai sót, hãy chuyển cho ngài sau khi ngài ấy chết. Ngài ấy cũng yêu cầu tôi
cầm một tập bản thảo, giống với cái hộp, cũng gửi cho ngài.
Ngài ấy thấy tôi đang nhìn những tờ giấy cuối
cùng bị đốt gần xong, thì nói (Tôi ghi lại chính xác từng từ):
‘Phải, phải, giờ điều đó chả thể giúp gì
được, nó phải ra đi thôi như nó vốn dĩ phải thế. Ngài thấy đấy cuối cùng tôi đã
quyết tâm phá hủy nó, nó đã nằm trong đống lửa khi mệnh lệnh tới – mệnh lệnh rõ
ràng, không thể phạm sai lầm – và tôi chộp lấy nó lần nữa.’
‘Mệnh lệnh’ ngài Holly muốn nói là gì, tôi
không biết, vì ngài ấy không muốn nói về chuyện này nữa.
Tôi kể lại cảnh cuối. Một đêm khoảng mười
một giờ, biết rằng giờ phút kết thúc của bệnh nhân sắp tới, tôi đi lên xem ngài
ấy, cho rằng tiêm thêm một chút strychnine có thể giữ tim đập lâu hơn chút nữa.
Trước khi tới căn nhà, tôi gặp người chăm sóc chạy tới tìm tôi trong kinh hoàng
tột độ, tôi hỏi chủ nhân của bà đã qua đời hay chưa. Bà ấy trả lời Không; nhưng
ngài ấy đã ra đi – rời khỏi giường và có lẽ đi chân đất, ngài ấy rời khỏi ngôi
nhà, lần cuối cùng được trông thấy bởi cháu trai bà ấy trong đám thông Scotland
nơi chúng tôi đang nói chuyện. Cậu bé phát hoảng vì sự dí dỏm của ngài ấy vì
cho rằng mình đang thấy một con ma, đã kể lại với bà ấy như vậy.
Đêm đó ánh trăng rất sáng, đặc biệt tuyết
vừa rơi xuống, phản xạ ánh sáng của trăng. Tôi đi bộ và bắt đầu tìm kiếm trong
rừng thông, tận tới khi ra khỏi đám thông, tôi mới thấy vết chân trần trên tuyết.
Tất nhiên tôi đi theo, gọi cả người quản gia tới và đánh thức chồng bà ấy, vì
không còn ai sống gần đó. Dấu vết rất dễ lần theo trên tuyết sạch. Nó chạy tới
sườn ngọn đồi sau nhà.
Giờ trên đỉnh đồi này là một di tích cổ
xưa bằng tảng đá nguyên khối thẳng đứng người nguyên thủy đặt ở đó, dân địa
phương gọi là Chiếc Nhẫn của Quỉ - một dạng Stonehenge thu nhỏ trong thực tế.
Tôi từng thấy nó vài lần, tôi từng hiện diện ở đó không lâu trước đây trong buổi
họp của một nhóm các nhà khảo cổ học tranh luận về nguồn gốc và mục đích của
nó. Tôi nhớ có một quí ông uyên bác nhưng hơi lập dị đã đọc một bài viết ngắn
nói về ngực bị che lại thô sơ, đầu bị cắt thành căn buồng bằng đá cromlech cao
và đỉnh bằng phẳng, hay một ngôi mộ đá đứng một mình giữa tâm chiếc nhẫn.
Ông ta nói nó biểu trưng cho nữ thần Ai Cập
Isis, nơi này từng là nơi thiêng liêng vài nghi lễ thờ phụng nữ thần diễn ra,
hoặc một nữ thần Tự Nhiên nào đó có những tính chất tương tự, giả thuyết đó các
quí ngài uyên bác khác đều coi là phi lý. Họ cho rằng thần Isis không bao giờ đặt
chân tới nước Anh, dù theo quan điểm của tôi, tôi không biết tại sao người
Phoenicia hay thậm chí người La Mã – những người ít nhiều đã chấp nhận cúng bái
nữ thần này – lại không thể mang nó tới đây chứ. Nhưng tôi không biết gì về những
chuyện thế này và không tranh luận với họ.
Tôi cũng nhớ rằng ngài Holly đã quen với
nơi này, vì ngài ấy từng đề cập về nó với tôi hôm trước, khi hỏi liệu các tảng
đá vẫn không thay đổi gì giống thời ngài ấy còn trẻ chứ. Ngài ấy cũng nói thêm,
câu nói đó đập vào làm tôi thức tỉnh, đó là nơi ngài ấy muốn chết. Khi đó tôi
đã trả lời rằng, tôi e ngài ấy không bao giờ có thể đi bộ lại một đoạn xa như
thế nữa, tôi thấy ngài ấy hơi mỉm cười.
Phải, đoạn đối thoại đó cho tôi một manh mối,
không bị bối rối với những dấu chân nữa, tôi nhanh chóng tới Chiếc Nhẫn, cách
khoảng nửa dặm. Rồi tôi cũng tới được nơi đó, và ở đó – phải, ở đó – đứng bên
ngôi mộ, đầu trần, chỉ mặc đồ ngủ, ngài Holly đứng trong tuyết, thân hình kỳ dị
nhất mà tôi từng thấy.
Quả thực tôi sẽ không bao giờ quên được
khung cảnh hoang dại ấy. Chiếc vòng của những tảng đá đơn thô kệch chỉ thẳng
lên trời đầy sao, một vẻ cô độc và long trọng mãnh liệt: kiến trúc đá tảng hai
khối trilithon cao lớn vượt hẳn trên chúng ở tâm chiếc vòng, bóng của nó bị ánh
trăng sáng ném ra phía sau, nằm trải dài và đen ngòm trên tràng tuyết rực rỡ,
cái bóng rõ ràng tới mức tôi có thể phân biệt được từng chuyển động của ngài ấy,
thậm chí cả cái nhìn say mê trên gương mặt như sắp chết của ngài ấy, thân hình
khoác bộ đồ trắng của ngài Holly. Ngài ấy dường như thốt ra lời gọi – bằng tiếng
Ả Rập, tôi nghĩ vậy – một lúc lâu sau tôi tới được chỗ ngài ấy, lúc đó mới có
thể bắt được đủ âm tiết của tiếng gọi vang vọng kia, rồi thấy ngài ấy giang tay
vẫy vẫy. Tay phải ngài ấy giữ thanh vương trượng xoay vòng, biểu đạt mong muốn
tôi gửi cho ngài những bản vẽ. Tôi có thể thấy ánh sáng đồ trang sức lóe lên
căng ra trên những sợi dây, trong im lặng vô cùng, có thể nghe thấy tiếng leng
keng của những chiếc chuông vàng.
Tôi dường như cũng nhận ra một sự hiện diện
khác, ngài sẽ hiểu tại sao tôi mong muốn và đòi hỏi danh tính bản thân phải bị
che dấu. Đương nhiên tôi không muốn bị trộn lẫn vào một câu chuyện mê tín, mà bề
ngoài của nó có vẻ không thể xảy ra và rất phi lý. Dưới hoàn cảnh đó, tôi nghĩ
tốt nhất nên kể cho ngài những gì tôi đã thấy, hay nghĩ rằng tôi đã thấy, có thứ
gì đó tụ lại trong bóng tối ngôi mộ trung tâm, hay hiện ra từ căn buồng thô sơ
kia – tôi không chắc chắn – một thứ gì đó tươi sáng và lộng lẫy từ từ hình
thành thân ảnh một phụ nữ trên trán bùng lên ngọn lửa như vì sao.
Do tầm nhìn hay phản xạ, hay bất kì cách
gì, nó làm tôi giật mình đến độ tôi đi tới chỗ nghỉ chân tránh gió của một
trong những tảng đá nguyên khối, tự thấy bản thân không thể cất tiếng gọi được
cho người đàn ông quẫn trí tôi đang đuổi theo.
Trong khi tôi đứng đó, rõ ràng ngài Holly
cũng đã nhìn thấy thứ gì đó. Cuối cùng ngài ấy quay người hướng về vầng hào
quang sáng chói trong bóng tối, thốt ra tiếng kêu; một tiếng kêu vui vẻ điên dại,
và bước về phía trước; rồi dường như nó rơi trên mặt ngài ấy.
Khi tôi tới chỗ ánh sáng vừa biến mất, tất
cả những gì tôi thấy là ngài Holly, cánh tay vẫn giang rộng, cây vương trượng vẫn
bị nắm chặt trong tay, nằm chết trong bóng tối của khối kiến trúc đá
trilithon.”
Phần còn lại trong bức thư của vị bác sĩ
không cần được trích dẫn vì chỉ liên quan tới vài giải thích chắc chắn không thể
tin được về nguồn gốc thân ảnh tạo ra từ ánh sáng đó, các chi tiết về cơ thể của
Holly, và ông ta làm thế nào đáp ứng thỏa mãn nhân viên pháp lý để không cần
thêm cuộc điều tra nào nữa.
Chiếc hộp ông ấy nói tới đã đến nơi an
toàn. Những bản vẽ bản thân chúng, tôi không cần nói gì, chiếc trống hay cây
vương trượng thì tôi có vài lời. Nó được tạo dáng tinh thể với hình dạng nổi tiếng
của Crux-ansata (cây thập giá chìa khóa), hay biểu tượng sự sống của người Ai Cập;
cây gậy, chữ thập và vòng dây kết hợp làm một. Xuyên từ bên này qua bên kia
vòng dây là những sợi dây vàng, trên dây xâu các hạt ba màu, kim cương lấp
lánh, sapphire xanh nước biển và ruby đỏ như máu, sợi thứ tư trên đỉnh treo bốn
cái chuông vàng nhỏ.
Khi lần đầu tiên nắm lấy nó, bàn tay tôi lắc
nhẹ phấn kích, những chiếc chuông phát ra âm thanh như tiếng nhạc êm đềm ngọt
ngào nghe như hợp âm vang xa trong đêm yên lặng trên biển cả. Tôi cũng nghĩ có
lẽ do ưa thích, như cảm giác run rẩy truyền từ một thứ thiêng liêng đẹp đẽ vào
cơ thể tôi.
Về phép màu được ghi trong bản thảo, tôi
không bình luận. Mỗi độc giả có thể tự phán xét về nó và ý nghĩa bên trong của
nó. Điều duy nhất rõ ràng với tôi – giả sử ngài Holly nói thật về những gì ngài
ấy và Leo Vincey thấy và trải nghiệm, ít ra tôi tin vậy – dù mọi cách hiểu về
phép màu nhiệm này đã được Ayesha và những người khác đưa ra, nhưng không có
cách nào hoàn toàn thỏa mãn đầy đủ.
Quả thực giống như ngài Holly, tôi nghiêng
về giả thuyết Bà ấy – nếu tôi vẫn có
thể gọi nàng bằng tên đó dù những trang tiếp theo hiếm khi đưa cho nàng tên gọi
đó – đưa ra, chẳng hạn như huyền thoại về nữ thần Isis mơ hồ, câu chuyện bằng tranh
kỳ diệu về vụ cháy rừng, giống như tấm mạng che mặt dấu đi sự thật về mục đích của
nàng cuối cùng cũng hé lộ trong bài hát nàng chưa bao giờ cất lên.
Biên Tập Viên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét