Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 3



Chương 3: Ánh sáng báo hiệu

Một tuần sau đó, cơ hội lên núi của chúng tôi đã tới, vì bấy giờ đang giữa mùa đông, bão gió đã ngừng, rất khó gặp sương giá khiến người ta không thể đi trên bề mặt tuyết. Tìm hiểu từ các nhà sư mới biết được vào mùa này, cừu poli và các loại cừu sừng to hay thú săn khác đều xuống núi trú ẩn trong thung lũng, nơi chúng có thể bới tuyết tìm thức ăn, nên chúng tôi bảo chúng tôi sẽ ra ngoài đi săn. Lý do chúng tôi đưa ra là mệt mỏi vì tù túng và cần tập thể dục, theo tôn giáo của chúng tôi, không phạm tội khi sát sinh.
Các vị chủ nhà đáp rằng cuộc phiêu lưu sẽ rất nguy hiểm, vì thời tiết có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên họ kể cho chúng tôi rằng, trên sườn ngọn núi chúng tôi muốn trèo lên có một hang động tự nhiên rất lớn, nếu cần thiết chúng tôi có thể vào đó trú, với cái hang này, một trong số họ, một người trẻ tuổi hơn và năng động hơn những người khác, đã sẵn lòng dẫn đường cho chúng tôi. Vì thế, sau khi làm được chiếc lều rougri bằng da và chất đầy đồ lên con bò Tây Tạng của chúng tôi, giờ đã ở trong tình trạng tốt nhất với đủ thức ăn và quần áo, vào một sáng tĩnh mịch chúng tôi lên đường ngay khi vừa hửng sáng. Dưới sự hướng dẫn của nhà sư, người bất chấp tuổi tác vẫn đi bộ rất tốt, giữa trưa chúng tôi đã tới sườn phía bắc của đỉnh núi. Ở đó, như nhà sư nói, chúng tôi tìm thấy một cái động rất lớn có lối vào ẩn sau một gờ đá ngầm chênh vênh. Rõ ràng cái động này là một nơi tuyệt vời để trú ẩn cho các loài thú săn mồi bất kỳ mùa nào trong năm, vì nó tích hàng đống phân lớn, chính điều đó xóa tan nỗi lo sợ thiếu nhiên liệu.
Thời gian còn lại trong ngày, chúng tôi dùng để dựng lều trong hang động, chúng tôi đốt một đống lửa lớn phía trước, và khảo sát các sườn của ngọn núi này, vì chúng tôi đã bảo với nhà sư rằng cần tìm kiếm dấu vết cừu hoang. Quả thực, trên đường quay lại hang, chúng tôi đã đi qua một bầy cừu cái đang ăn rêu trong chỗ trú ẩn nơi có con suối nhỏ chảy ra khi hè tới. Chúng tôi thật may mắn tóm được hai con trong số đó, do không có vận động viên nào từng tới đây, bọn chúng đều khá phục tùng, những con vật khốn khổ. Vì thịt có thể giữ được mãi trong nhiệt độ này, giờ chúng tôi đã có đủ thức ăn cho hai tuần, kéo hai con vật xuống sườn núi tuyết tới hang động, chúng tôi lột da chúng trong ánh sáng sắp tàn.
Tối đó chúng tôi ăn tối bằng thịt cừu tươi, một sự xa xỉ lớn, điều nhà sư cũng như chúng tôi vô cùng thích thú, vì dù quan điểm sống của ông ấy là gì, ông ấy vẫn thích thịt cừu. Sau đó chúng tôi trở vào trong lều và ôm nhau ngủ cho ấm, vì nhiệt độ phải vài độ âm. Nhà sư già nghỉ ngơi khá tốt, nhưng Leo và tôi không ngủ được quá nhiều, vì mải băn khoăn chúng tôi có thể thấy gì từ đỉnh núi đã xua tan cơn buồn ngủ.
Bình minh sáng hôm sau, thời tiết vẫn tuyệt đẹp, người bạn đồng hành của chúng tôi trở lại tu viện, chúng tôi bảo muốn đi cùng ông ấy bất cứ đâu trong một hai ngày nữa.
Bây giờ cuối cùng chúng tôi còn lại một mình, không lãng phí dù một khắc, chúng tôi bắt đầu trèo lên đỉnh. Nó cao hàng nghìn feet và vài chỗ khá dốc, nhưng tuyết đã đóng băng rất sâu khiến việc trèo lên thật dễ dàng, vì thế giữa trưa chúng tôi đã tới đỉnh. Bên dưới chúng tôi sa mạc trải dài, phía bên ngoài nó một vành đai rộng lớn đầy núi non hình thù kỳ ảo phủ đầy tuyết, hàng trăm hàng trăm ngọn; trước mặt, bên phải, bên trái, xa tít tắp nếu mắt thường có thể thấy được.
“Chúng đúng như cháu đã nhìn thấy trong giấc mơ nhiều năm về trước đó,” Leo lẩm bẩm, “giống hệt, giống vô cùng.”
“Ánh lửa ở đâu đây?” tôi hỏi.
“Cháu nghĩ ở đằng kia,” và cậu ấy chỉ vào phía bắc của mạn đông.
“Được, giờ nó không có ở đó,” tôi đáp, “và nơi này rất lạnh.”
Vì vậy, nán lại thật nguy hiểm, e rằng trời tối mất khi chúng tôi quay lại, chúng tôi lại trèo xuống, về đến hang động lúc hoàng hôn. Bốn ngày liền sau đó chúng tôi làm y như thế. Mỗi sáng chúng tôi trườn lên trên đống tuyết chán ngắt, mỗi chiều lại trượt xuống, tới khi tôi thật sự mệt mỏi với bài thể dục này.
Vào đêm thứ tư, thay vì đi ngủ trong lều, Leo một mình ngồi trước cửa hang. Tôi hỏi tại sao làm vậy, nhưng cậu nóng nảy đáp rằng, vì cậu muốn làm thế, vì thế tôi kệ cậu ấy một mình. Thật ra tôi có thể hiểu, cậu đang trong tâm trạng khó chịu kỳ lạ, vì cuộc tìm kiếm thất bại làm cậu bị áp lực. Hơn nữa, cả hai chúng tôi đều biết rằng, chuyện này không thể kéo dài, vì thời tiết có thể tàn phá bất cứ lúc nào, khiến việc lên đỉnh núi thành bất khả thi.
Nửa đêm, Leo lay người đánh thức tôi và bảo – “Lại đây, bác Horace, cháu chỉ cho bác cái này.”
Tôi miễn cưỡng bò ra khỏi tấm chăn và chui ra ngoài lều. Mặc quần áo lúc này không cần thiết, vì chúng tôi ngủ để nguyên quần áo. Cậu dẫn tôi tới cửa hang và chỉ về phía bắc. Tôi nhìn theo. Đêm rất tối; nhưng phía xa xa xuất hiện một mảnh sáng mờ nhạt trên bầu trời, có lẽ là do một đống lửa xa xôi phản chiếu lại.
“Bác nghĩ sao?” cậu lo lắng hỏi.
“Không có gì đặc biệt,” Tôi đáp, “nó có thể là bất kỳ thứ gì. Mặt trăng – không, không có gì, mặt trời lúc bình minh – không, quá gần phương bắc, mặt trời không thể tới trong ba giờ nữa. Cái gì đó đang cháy, một ngôi nhà, hay một giàn thiêu, nhưng làm sao lại có những thứ như thế ở đây cơ chứ? Bác chịu.”
“Cháu nghĩ đó là do khúc xạ, nếu chúng ta lên đỉnh, chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng sinh ra nó,” Leo từ tốn nói.
“Đúng, nhưng chúng ta không thể lên đó vào ban đêm.”
“Bác Horace, chúng ta phải lên đó vào một đêm nào đó.”
“Đó sẽ là phút cuối của chúng ta trong kiếp này,” tôi cười nói, “nếu ta đi được trên tuyết.”
“Chúng ta phải mạo hiểm, hoặc cháu sẽ mạo hiểm. Nhìn kìa, ánh sáng đã nhạt dần,” ít ra cậu ấy đã đúng, không nghi ngờ gì nữa. Đêm lại tối đen như hắc ín.
“Chúng ta sẽ nói chuyện đó ngày mai,” tôi nói, rồi trở lại lều, vì tôi đang buồn ngủ và đầy hoài nghi, nhưng Leo vẫn ngồi ở cửa hang.
Lúc bình minh, tôi thức dậy và thấy bữa sáng đã nấu xong.
“Cháu phải khởi hành sớm,” Leo giải thích.
“Cháu điên à?” Tôi hỏi, “Chúng ta sẽ cắm trại ở trên đó như thế nào đây?”
“Cháu không biết, nhưng cháu sẽ đi. Cháu phải đi, bác Horace.”
“Có nghĩa là cả hai chúng ta phải đi. Thế còn con bò?”
“Nơi chúng ta có thể trèo, nó cũng có thể đi theo.” Cậu trả lời.
Vì thế, chúng tôi buộc lều và hành lý, cả thịt đã nấu chín, lên lưng con bò và khởi hành. Chuyến đi bộ rất dài vì chúng tôi phải đi đường vòng nhiều lần để tránh sườn tuyết đã đóng băng mà trong mấy lần trèo lên trước đó, chúng tôi đã phải dùng rìu cắt thành hố để đặt chân, những hố đó con vật đang thồ đầy hàng không thể leo được. Khi lên tới đỉnh, chúng tôi đào một cái hố, dựng lều ở đó bằng cách đóng cọc lên tuyết. Lúc này trời bắt đầu tối, con bò cùng tất cả đi vào trong lều, chúng tôi ăn xong và chờ đợi.
Ôi! Thật lạnh lẽo. Sương giá thật ghê sợ, ở độ cao này gió thổi hơi thở băng giá xuyên qua lớp chăn, như thể thiêu đốt da thịt bên dưới như sắt nung. Thật may chúng tôi đã mang theo con bò, vì nếu không có sự ấm áp từ cơ thể xù xì của nó, tôi tin chúng tôi đã chết, dù ở trong lều. Sau vài giờ quan sát, thực tế chúng tôi phải làm thế, vì ngủ có nghĩa là chết, vẫn không nhìn thấy gì ngoài những vì sao cô đơn, không nghe thấy gì trong bầu im lặng khủng khiếp, thậm chí ngay cả gió cũng không gây tiếng ồn khi trượt trên tuyết. Tôi đã quen với tình thế như vậy, các giác quan của tôi đều tê cóng và mắt muốn nhắm lại, bỗng nhiên Leo nói – “Nhìn kìa, một ngôi sao màu đỏ bên dưới!”
Tôi nhìn theo, ở xa kia trên bầu trời là vùng sáng kỳ lạ tương tự chúng tôi đã nhìn thấy đêm trước. Còn hơn thế, vì bên dưới nó, gần như nằm trên đường thẳng với chúng tôi và ngay trên những đỉnh của các ngọn núi xen vào, xuất hiện một dải lửa mờ nhạt và đối lập với nó, một cái gì đó tối đen lộ ra. Trong lúc chúng tôi quan sát, ánh lửa trải rộng ra, lan lên trên, độ sáng và sức mạnh tăng lên. Giờ đây trước nền rực sáng đó, vật thể tối đen có thể nhìn thấy rõ hơn, ôi! Đó là đỉnh một cột trụ cao vút có chiếc thòng lọng phủ lên. Đúng, chúng tôi có thể nhìn thấy từng đường nét của nó. Đó là crux ansata, Biểu Tượng Của Sự Sống.
Biểu tượng đó biến mất, ánh lửa chìm dần. Rồi ngọn lửa lại bùng lên rực rỡ hơn trước một lần nữa, chiếc thòng lọng lại xuất hiện và lại biến mất. Lần thứ ba dải lửa bùng sáng lên với cường độ như thế, không tia chớp nào có thể sáng hơn thế. Mọi thứ trên bầu trời đều được thắp sáng, và qua lỗ kim tối đen của biểu tượng đó, giống như ngọn hải đăng hay đèn dò đường của tàu thuyền, một đường sáng mạnh mẽ bắn lên xuyên qua cả biển đỉnh núi non trùng điệp và sa mạc mênh mông, thẳng như mũi tên tới đỉnh núi sừng sững chúng tôi đang ngồi. Đúng, nó sáng bừng trên tuyết, nhuốm màu đỏ, và chiếu sáng gương mặt trắng bợt đang dại ra quan sát của chúng tôi, dù bên phải và bên trái chúng tôi đều phủ bóng tối dày đặc. Chiếc la bàn nằm trên tuyết trước mặt tôi, và tôi thậm chí có thể nhìn thấy kim của nó; bên ngoài hình dáng một con cáo trắng đang bò lại gần đánh hơi thức ăn. Sau đó nó biến mất nhanh như khi đến. Biểu tượng và tấm che bằng lửa sau nó cũng biến mất, chỉ còn ánh sáng vẫn nán lại chút ít trên bầu trời xa xa.
Chúng tôi im lặng một lúc, rồi Leo nói – “Bác có nhớ không, bác Horace, khi chúng ta nằm trên Tảng Đá Xích Đu mà chiếc áo choàng của nàng đã cuốn lên người cháu ấy – “ khi cậu nói những lời này, hơi thở như bắt chẹt lấy cổ họng – “ánh sáng đã được gửi tới chúng ta để chào tạm biệt, và chỉ cho chúng ta đường thoát ra khỏi Nơi Tử Thần đó như thế nào? Giờ cháu nghĩ nó lại được gửi tới chúng ta để chào đón và chỉ ra con đường tới Nơi của Sự Sống mà Ayesha đang trú ngụ, chúng ta đã lạc mất nàng một thời gian rồi.”
“Có lẽ vậy,” tôi đáp lời ngắn gọn, vì vấn đề đã vượt ra ngoài phát ngôn hay tranh luận, thậm chí vượt ra ngoài hiếu kỳ. Nhưng tôi biết giờ chúng tôi đã là diễn viên trong vở kịch định mệnh phi thường; phần của chúng tôi đã viết xong và chúng tôi phải ra diễn, cũng như con đường của chúng tôi đã được chuẩn bị sẵn và chúng tôi phải bước trên đó tới kết cục không biết rõ. Sợ hãi và hoài nghi được bỏ lại phía sau, hy vọng tất nhiên cũng chìm dần; những ảo cảnh làm điềm báo trong đêm đó đã thực sự hiện ra hết và hạt mầm đáng thương mà bà ấy hứa hẹn dù đã qua đời vẫn nảy nở vô hình suốt những tháng năm trống rỗng và tàn nhẫn kia, giờ đã tới lúc thu hoạch.
Không, chúng tôi không sợ hãi nữa, thậm chí cả khi bình minh mang đầy gió thét gào, khiến chúng tôi chật vật xuống núi, dường như có thể cướp đi mạng sống mỗi bước đi; thậm chí cả khi hàng giờ chúng tôi phải tranh đấu trong bão tuyết xoay vần, khiến chúng tôi như điếc và mù. Vì chúng tôi biết tính mạng này đã bị bỏ bùa. Chúng tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy, nhưng chúng tôi vẫn được dẫn đi. Bám theo con bò, chúng tôi vật vã đi xuống và về nhà, cho tới khi ra khỏi đống hỗn loạn và bóng tối theo bản năng đưa chúng tôi không hề bị tổn thương gì về tới trước cửa tu viện, nơi vị trụ trì già nua vui sướng ôm chầm lấy chúng tôi, còn các nhà sư khác vội cầu nguyện cảm tạ trời đất. Vì họ chắc rằng chúng tôi đã chết. Họ bảo, với cơn bão như vậy, trước đây chưa từng có ai sống sót.
Vẫn là giữa mùa đông, ôi, tháng ngày chờ đợi mệt mỏi kinh khủng biết bao. Trong tay chúng tôi có chìa khóa, còn cánh cửa đang nằm ngoài kia giữa núi non, nhưng chúng tôi vẫn chưa đặt chìa vào ổ khóa của nó. Vì giữa chúng tôi và những thứ kia là sa mạc mênh mông trải dài, nơi tuyết cuộn thành cột, chúng tôi không dám đi qua trừ khi tuyết tan. Vì thế chúng tôi ngồi trong tu viện, dạy trái tim phải kiên nhẫn.
Cuối cùng mùa xuân đã tới ngay cả chốn hoang dã đã đông lại này của Trung Á. Một đêm không khí đã ấm lên, và đêm đó chỉ còn chút sương giá. Sau đó mây bay đầy trời, buổi sáng tuyết không còn rơi nữa, mà có mưa, chúng tôi thấy các nhà sư già chuẩn bị dụng cụ làm nông, họ bảo mùa gieo hạt sắp tới rồi. Trời mưa suốt ba ngày, tuyết tan dần trước mắt chúng tôi. Vào ngày thứ tư, những cơn mưa như trút dội xuống vùng núi, sa mạc một lần nữa mang màu nâu trần trụi, dù không quá lâu, vì tuần kế tiếp sau đó, nó sẽ trải đầy hoa. Khi ấy, chúng tôi biết đã đến lúc lên đường.
“Nhưng các ngươi đi đâu? Các ngươi đi đâu thế?” vị tu viện trưởng thất vọng hỏi chúng tôi. “Các ngươi không vui khi ở đây sao? Các ngươi không muốn đắc Đạo sao, vì thuyết giảng đạo hạnh của các ngươi có lẽ sẽ nổi tiếng đấy? Mọi thứ chúng ta có không phải là của chính các ngươi sao? Ôi! Tại sao các ngươi lại muốn rời bỏ chúng ta chứ?”
“Chúng tôi là những kẻ lang thang,” chúng tôi trả lời, “khi chúng tôi nhìn thấy dãy núi phía trước, chúng tôi phải vượt qua.”
Kou-en khôn khéo nhìn chúng tôi rồi hỏi – “Các ngươi tìm thứ gì bên kia dãy núi thế? Người anh em, thật có công đức khi che dấu người già sự thật, vì những che dấu như thế chỉ cách sự giả dối bằng chiều dài một hạt lúa mạch duy nhất mà thôi. Hãy nói cho ta, ít ra những lời cầu chúc của ta sẽ đi theo các ngươi.”
“Thưa đức trụ trì linh thiêng,” tôi nói, “thời gian trước trong thư viện, ngài đã thừa nhận với chúng tôi.”
“Ôi! Đừng nói với ta về chuyện đó,” ông giơ tay lên. “Tại sao ngươi muốn làm khổ ta?”
“Đó không phải suy nghĩ của chúng tôi, ngài là người bạn tốt bụng nhất và con người đạo đức,” tôi trả lời. “Nhưng thật tình cờ, câu chuyện của ngài rất giống câu chuyện của chính chúng tôi, và chúng tôi nghĩ đã trải nghiệm với chính vị nữ tu sĩ đó.”
“Nói tiếp đi,” ông bảo, vẻ rất quan tâm.
Rồi tôi kể tóm tắc cho ông câu chuyện của chúng tôi; tôi kể khoảng hơn một giờ trong khi ông ngồi đối diện lắc lư đầu như con rùa và không nói gì. Cuối cùng cũng kể xong.
“Bây giờ,” tôi nói thêm, “hãy để ngọn đèn thông thái của ngài rọi sáng tăm tối của chúng tôi. Ngài không thấy chuyện này thật kỳ diệu sao, hoặc không chừng ngài nghĩ chúng tôi nói dối?”
“Hỡi người anh em của tu viện Thế Giới vĩ đại,” Kou-en đáp bằng điệu cười khúc khích quen thuộc, “tại sao ta phải nghĩ các ngươi nói dối, từ lúc mắt ta dán lên ngươi, ta đã biết các ngươi là người trung thực? Hơn nữa, tại sao ta phải coi chuyện này là rất kỳ diệu? Các ngươi mới vấp phải rìa của một sự thật mà chúng ta đã biết từ rất nhiều, rất nhiều năm trước.”
“Vì bà ấy chỉ cho các ngươi tu viện này trong ảo cảnh, rồi dẫn các ngươi tới chỗ bên kia dãy núi mà bà ta biến mất, ngươi hy vọng người phụ nữ ngươi thấy đã chết này sẽ được tái sinh ở đó. Tại sao không chứ? Không có gì không thể với những ai được dẫn dắt trong chân lý, dù việc kéo dài kiếp sống trước đó của bà ta thật kỳ lạ và trái ngược với lẽ thường. Không nghi ngờ gì nếu ngươi tìm thấy bà ta ở đó như ngươi dự định, và cũng không nghi ngờ gì nếu khama hay danh tính của bà ta, chính là người trong kiếp trước của bà ấy đã từng đưa ta vào tội lỗi.”
“Chỉ đừng hiểu lầm, bà ta không bất tử; không có gì bất tử. Bà ta là một sinh vật được giữ lại nhờ lòng kiêu hãnh và sự vĩ đại của chính bà ấy, nếu các ngươi nguyện ý, trên con đường tới Cõi Niết Bàn. Lòng kiêu hãnh đó sẽ bị hạ thấp như nó đã bị đối xử như thế; hàng lông my oai nghi đó sẽ bị nhuốm đầy bụi bặm của đổi thay và chết chóc, linh hồn tội lỗi đó phải được thanh lọc bằng nỗi đau buồn và sự chia ly. Người anh em Leo, nếu ngươi dành được bà ấy, rồi sẽ mất thôi, và rồi lại phải trèo lại bậc thang đó. Người anh em Holly, với ngươi cũng như với ta, mất nghĩa là được, thế nên chúng ta không quá đau khổ. Ôi! Hãy chờ đợi ở đây và cầu nguyện với ta. Tại sao lại tự lao mình vào đá? Tại sao lại bỏ công sức rót nước vào một cái cốc vỡ khi lẽ ra nó phải chìm vào trong dòng cát thời gian vô ích, thật lãng phí trong khi ngươi đang chết khát, đúng không?”
“Nước làm cát màu mỡ,” tôi đáp. “Nơi nào có nước, sẽ có sự sống, nỗi buồn là hạt giống của niềm vui.”
“Tình yêu là qui luật của sự sống,” Leo ngắt lời; “không có tình yêu, sẽ không có sự sống. Tôi tìm kiếm tình yêu giúp tôi tồn tại. Tôi tin mọi chuyện này đều được ban cho một kết cục mà chúng ta không biết. Định mệnh đã cuốn tôi vào – tôi sẽ thực hiện định mệnh của tôi –“
“Nhưng làm thế sẽ trì hoãn tự do của ngươi. Ta sẽ không tranh luận với ngươi nữa, người anh em, ngươi phải theo đuổi con đường của chính mình. Giờ hãy nhìn xem, người phụ nữ đó mang tới điều gì cho ngươi trong quá khứ, vị nữ tu mang đức tin sai trái kia? Ngày xưa trong kiếp sống khác, theo ta hiểu câu chuyện của ngươi, ngươi đã tuyên thề với một nữ thần tự nhiên tên là Isis, đúng không, chỉ là tuyên thề với duy nhất bà ấy? Rồi một người phụ nữ cám dỗ ngươi, ngươi bỏ trốn cùng cô ấy. Ngươi thấy gì từ đó? Nữ thần bị phản bội và đang muốn báo thù đã giết chết ngươi, hay dù nếu không phải nữ thần đó, thì chính là kẻ khiến ngươi say sưa trong sự thông thái của cô ta và cũng là kẻ thừa hành lệnh trả thù của nữ thần. Kẻ thừa hành thông thái này – linh hồn phụ nữ hay ác quỉ kia - đã từ chối cái chết vì yêu ngươi, nên chờ đợi vì biết rằng trong kiếp sống kế tiếp, cô ta có thể lại tìm thấy ngươi, thật ra cô ta có thể thành công nhanh chóng hơn trên Cõi Cực Lạc nếu cô ta chết chứ không phải sống cô độc trong đau khổ nhiều như vậy. Rồi cô ta tìm thấy ngươi, và cô ta chết, hay dường như đã chết, còn bây giờ cô ta được tái sinh, chắc chắn ngươi muốn gặp lại dù phải trải qua đau khổ. Ôi! Những người bạn của ta, đừng vượt qua dãy núi; hãy chờ đợi ở đây cùng ta và hãy khóc than cho tội lỗi của các ngươi.”
“Không,” Leo trả lời, “chúng tôi đã thề sẽ hò hẹn, và chúng tôi không phá vỡ lời thề.”
“Hỡi người anh em, thế thì hãy cứ hò hẹn, khi ngươi gặt hái thành quả hãy nghĩ tới lời ta, vì ta chắc chắn ly rượu ngươi uống cạn từ vườn nho khao khát kia sẽ đỏ như máu, và khi uống nó, ngươi sẽ không tìm thấy sự quên lãng hay thanh thản. Đam mê mù quáng là nọc độc và sức mạnh, ngươi đang tìm kiếm để mang thêm một ác quỉ đội lốt thiên thần vào sinh mệnh của mình, trong khi vẫn nghĩ rằng bản thể đó sẽ sinh ra mọi tri thức và niềm vui lớn lao.”
“Ngươi khao khát muốn sống đơn độc trong thánh thiện tới khi kiếp sống chia lìa của các ngươi hòa trộn và biến mất trong Thế Giới Tốt Đẹp Không Kể Xiết, thứ hạnh phúc vĩnh hằng trong Hư Vô. À! Giờ ngươi không tin ta; ngươi lắc đầu và cười nhạo; nhưng sẽ có một ngày, có thể sau nhiều kiếp số, ngươi sẽ cúi đầu trong cát bụi và than khóc với ta, ‘Người anh em Kou-en, những lời của ngài thật thông thái, chúng tôi đã hành động thật ngu xuẩn;’” rồi ông già thở dài quay đi, bỏ chúng tôi lại.
“Thật là một niềm tin thú vị,” Leo nhìn theo ông ấy và nói, “Sống nhiều kiếp trong khổ hạnh đơn điệu để ý thức bị nuốt mất trong trốn tránh và thứ trừu tượng vô hình gọi là ‘Chốn Yên Bình Cực Lạc’. Cháu thà tham gia vào một thế giới tồi tệ và mang theo hy vọng về những điều tốt đẹp. Cháu cũng không nghĩ ông ta biết gì về Ayesha và số phận của nàng.”
“Bác cũng muốn vậy,” Tôi đáp, “dù có lẽ cuối cùng ông ấy đúng. Ai nói được đây? Hơn nữa, cái gì là hợp lý? Leo, chúng ta không có lựa chọn; chúng ta theo đuổi định mệnh của mình. Định mệnh đó dẫn dắt chúng ta tới cái gì, chúng ta sẽ biết vào lúc thích hợp thôi.”
Rồi chúng tôi đi nghỉ, vì đã muộn, dù tôi thấy hơi buồn ngủ đêm nay. Cảnh báo của vị tu viện trưởng, người đàn ông tốt bụng, uyên bác, đầy trải nghiệm chín chắn và thông thái biết lo xa đó đè nặng lên tôi. Ông ấy tiên đoán chúng tôi sẽ đau buồn và đổ máu bên kia dãy núi, kết thúc trong cái chết và tái sinh đầy đau đớn. Phải rồi, có lẽ vậy, nhưng không hướng tới đau đớn sẽ làm chúng tôi dừng chân. Ngay cả nếu như thế, để nhìn lại gương mặt bà ấy, tôi cũng sẵn sàng đương đầu với tất cả. Nếu đó là tâm trạng của tôi, chắc chắn cũng là tâm trạng của Leo!
Theo giả thuyết kỳ lạ của Kou-en, Ayesha chính là vị nữ thần Ai Cập cổ, người mà Kallikrates trở thành thầy tu đi theo bà ấy, hoặc ít ra cũng đại diện cho bà ta. Còn nàng Amenartas dòng dõi hoàng tộc mà ông ấy bỏ trốn cùng, đã quyến rũ ông rời khỏi vị nữ thần mà ông ta đã tuyên thệ. Vị nữ thần này đã hóa thân thành Ayesha – hoặc sử dụng người phụ nữ có tên Ayesha và những đam mê của nàng ta làm công cụ của bà ấy – để trả thù cả hai người kia ở Kôr, và ở đó vào đời sau, cây lao nàng ta ném ra lại quay ngược trở lại chính đầu nàng ta.
Phải, bản thân tôi thường nghĩ rất nhiều. Tôi chỉ chắc rằng Bà ấy có thể không phải là thần thánh thực sự, dù bà có thể mang những phẩm chất của một vị thần, một nữ tu sĩ, một sứ giả, có trách nhiệm được giao phó, trả thù hay tưởng thưởng, nhưng bản thân bà ấy là một con người có linh hồn, có hy vọng và đam mê cần được thỏa mãn, và vận mệnh đã đáp ứng điều đó. Thật ra, bây giờ, khi tất cả đã trôi qua, tôi thấy cần phải công nhận, giả thuyết đó tác động tới tôi một chút, vì sự sống và quyền năng của thứ phẩm chất còn hơn cả con người ấy không đủ để một mình tạo nên một linh hồn thần thánh. Nhưng mặt khác, chắc chắn một lúc nào đó, Ayesha đã cho rằng mình bắt đầu là “con gái của Thượng Đế”, và những người khác, đặc biệt Pháp Sư Simbri thời cổ, dường như đã tìm cách trao tặng cho bà ấy nguồn gốc siêu nhiên. Nhưng tôi hy vọng tất cả những thứ đó sẽ được kể vào đúng dịp.
Bên kia dãy núi là cái gì? Ở đó chúng tôi sẽ tìm thấy nàng, người giữ thanh vương trượng và nắm giữ sức mạnh của nữ thần Isis bị xúc phạm trên trần thế, và cả người phụ nữ đã mắc sai lầm kia chứ? Nếu vậy, cuộc cạnh tranh ghê sợ và vô nhân đạo sẽ lên tới đỉnh điểm xoay quanh con người của vị linh mục lầm lỗi kia ư? Chỉ vài tháng sau, thậm chí vài ngày sau đó, chúng tôi sẽ có thể bắt đầu biết được thôi.
Hồi hộp với suy nghĩ này, cuối cùng tôi ngủ mất.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...