Chương 3: Ánh sáng báo hiệu
Một tuần sau đó,
cơ hội lên núi của chúng tôi đã tới, vì bấy giờ đang giữa mùa đông, bão gió đã
ngừng, rất khó gặp sương giá khiến người ta không thể đi trên bề mặt tuyết. Tìm
hiểu từ các nhà sư mới biết được vào mùa này, cừu poli và các loại cừu sừng to
hay thú săn khác đều xuống núi trú ẩn trong thung lũng, nơi chúng có thể bới
tuyết tìm thức ăn, nên chúng tôi bảo chúng tôi sẽ ra ngoài đi săn. Lý do chúng
tôi đưa ra là mệt mỏi vì tù túng và cần tập thể dục, theo tôn giáo của chúng
tôi, không phạm tội khi sát sinh.
Các vị chủ nhà
đáp rằng cuộc phiêu lưu sẽ rất nguy hiểm, vì thời tiết có thể thay đổi bất cứ
lúc nào. Tuy nhiên họ kể cho chúng tôi rằng, trên sườn ngọn núi chúng tôi muốn
trèo lên có một hang động tự nhiên rất lớn, nếu cần thiết chúng tôi có thể vào
đó trú, với cái hang này, một trong số họ, một người trẻ tuổi hơn và năng động
hơn những người khác, đã sẵn lòng dẫn đường cho chúng tôi. Vì thế, sau khi làm
được chiếc lều rougri bằng da và chất đầy đồ lên con bò Tây Tạng của chúng tôi,
giờ đã ở trong tình trạng tốt nhất với đủ thức ăn và quần áo, vào một sáng tĩnh
mịch chúng tôi lên đường ngay khi vừa hửng sáng. Dưới sự hướng dẫn của nhà sư,
người bất chấp tuổi tác vẫn đi bộ rất tốt, giữa trưa chúng tôi đã tới sườn phía
bắc của đỉnh núi. Ở đó, như nhà sư nói, chúng tôi tìm thấy một cái động rất lớn
có lối vào ẩn sau một gờ đá ngầm chênh vênh. Rõ ràng cái động này là một nơi
tuyệt vời để trú ẩn cho các loài thú săn mồi bất kỳ mùa nào trong năm, vì nó
tích hàng đống phân lớn, chính điều đó xóa tan nỗi lo sợ thiếu nhiên liệu.
Thời gian còn lại
trong ngày, chúng tôi dùng để dựng lều trong hang động, chúng tôi đốt một đống
lửa lớn phía trước, và khảo sát các sườn của ngọn núi này, vì chúng tôi đã bảo
với nhà sư rằng cần tìm kiếm dấu vết cừu hoang. Quả thực, trên đường quay lại
hang, chúng tôi đã đi qua một bầy cừu cái đang ăn rêu trong chỗ trú ẩn nơi có
con suối nhỏ chảy ra khi hè tới. Chúng tôi thật may mắn tóm được hai con trong
số đó, do không có vận động viên nào từng tới đây, bọn chúng đều khá phục tùng,
những con vật khốn khổ. Vì thịt có thể giữ được mãi trong nhiệt độ này, giờ
chúng tôi đã có đủ thức ăn cho hai tuần, kéo hai con vật xuống sườn núi tuyết tới
hang động, chúng tôi lột da chúng trong ánh sáng sắp tàn.
Tối đó chúng tôi
ăn tối bằng thịt cừu tươi, một sự xa xỉ lớn, điều nhà sư cũng như chúng tôi vô
cùng thích thú, vì dù quan điểm sống của ông ấy là gì, ông ấy vẫn thích thịt cừu.
Sau đó chúng tôi trở vào trong lều và ôm nhau ngủ cho ấm, vì nhiệt độ phải vài
độ âm. Nhà sư già nghỉ ngơi khá tốt, nhưng Leo và tôi không ngủ được quá nhiều,
vì mải băn khoăn chúng tôi có thể thấy gì từ đỉnh núi đã xua tan cơn buồn ngủ.
Bình minh sáng
hôm sau, thời tiết vẫn tuyệt đẹp, người bạn đồng hành của chúng tôi trở lại tu
viện, chúng tôi bảo muốn đi cùng ông ấy bất cứ đâu trong một hai ngày nữa.
Bây giờ cuối
cùng chúng tôi còn lại một mình, không lãng phí dù một khắc, chúng tôi bắt đầu
trèo lên đỉnh. Nó cao hàng nghìn feet và vài chỗ khá dốc, nhưng tuyết đã đóng
băng rất sâu khiến việc trèo lên thật dễ dàng, vì thế giữa trưa chúng tôi đã tới
đỉnh. Bên dưới chúng tôi sa mạc trải dài, phía bên ngoài nó một vành đai rộng lớn
đầy núi non hình thù kỳ ảo phủ đầy tuyết, hàng trăm hàng trăm ngọn; trước mặt,
bên phải, bên trái, xa tít tắp nếu mắt thường có thể thấy được.
“Chúng đúng như cháu
đã nhìn thấy trong giấc mơ nhiều năm về trước đó,” Leo lẩm bẩm, “giống hệt, giống
vô cùng.”
“Ánh lửa ở đâu
đây?” tôi hỏi.
“Cháu nghĩ ở đằng
kia,” và cậu ấy chỉ vào phía bắc của mạn đông.
“Được, giờ nó
không có ở đó,” tôi đáp, “và nơi này rất lạnh.”
Vì vậy, nán lại
thật nguy hiểm, e rằng trời tối mất khi chúng tôi quay lại, chúng tôi lại trèo
xuống, về đến hang động lúc hoàng hôn. Bốn ngày liền sau đó chúng tôi làm y như
thế. Mỗi sáng chúng tôi trườn lên trên đống tuyết chán ngắt, mỗi chiều lại trượt
xuống, tới khi tôi thật sự mệt mỏi với bài thể dục này.
Vào đêm thứ tư,
thay vì đi ngủ trong lều, Leo một mình ngồi trước cửa hang. Tôi hỏi tại sao làm
vậy, nhưng cậu nóng nảy đáp rằng, vì cậu muốn làm thế, vì thế tôi kệ cậu ấy một
mình. Thật ra tôi có thể hiểu, cậu đang trong tâm trạng khó chịu kỳ lạ, vì cuộc
tìm kiếm thất bại làm cậu bị áp lực. Hơn nữa, cả hai chúng tôi đều biết rằng,
chuyện này không thể kéo dài, vì thời tiết có thể tàn phá bất cứ lúc nào, khiến
việc lên đỉnh núi thành bất khả thi.
Nửa đêm, Leo lay
người đánh thức tôi và bảo – “Lại đây, bác Horace, cháu chỉ cho bác cái này.”
Tôi miễn cưỡng
bò ra khỏi tấm chăn và chui ra ngoài lều. Mặc quần áo lúc này không cần thiết,
vì chúng tôi ngủ để nguyên quần áo. Cậu dẫn tôi tới cửa hang và chỉ về phía bắc.
Tôi nhìn theo. Đêm rất tối; nhưng phía xa xa xuất hiện một mảnh sáng mờ nhạt
trên bầu trời, có lẽ là do một đống lửa xa xôi phản chiếu lại.
“Bác nghĩ sao?”
cậu lo lắng hỏi.
“Không có gì đặc
biệt,” Tôi đáp, “nó có thể là bất kỳ thứ gì. Mặt trăng – không, không có gì, mặt
trời lúc bình minh – không, quá gần phương bắc, mặt trời không thể tới trong ba
giờ nữa. Cái gì đó đang cháy, một ngôi nhà, hay một giàn thiêu, nhưng làm sao lại
có những thứ như thế ở đây cơ chứ? Bác chịu.”
“Cháu nghĩ đó là
do khúc xạ, nếu chúng ta lên đỉnh, chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng sinh ra
nó,” Leo từ tốn nói.
“Đúng, nhưng
chúng ta không thể lên đó vào ban đêm.”
“Bác Horace,
chúng ta phải lên đó vào một đêm nào đó.”
“Đó sẽ là phút
cuối của chúng ta trong kiếp này,” tôi cười nói, “nếu ta đi được trên tuyết.”
“Chúng ta phải mạo
hiểm, hoặc cháu sẽ mạo hiểm. Nhìn kìa, ánh sáng đã nhạt dần,” ít ra cậu ấy đã
đúng, không nghi ngờ gì nữa. Đêm lại tối đen như hắc ín.
“Chúng ta sẽ nói
chuyện đó ngày mai,” tôi nói, rồi trở lại lều, vì tôi đang buồn ngủ và đầy hoài
nghi, nhưng Leo vẫn ngồi ở cửa hang.
Lúc bình minh,
tôi thức dậy và thấy bữa sáng đã nấu xong.
“Cháu phải khởi
hành sớm,” Leo giải thích.
“Cháu điên à?”
Tôi hỏi, “Chúng ta sẽ cắm trại ở trên đó như thế nào đây?”
“Cháu không biết,
nhưng cháu sẽ đi. Cháu phải đi, bác Horace.”
“Có nghĩa là cả
hai chúng ta phải đi. Thế còn con bò?”
“Nơi chúng ta có
thể trèo, nó cũng có thể đi theo.” Cậu trả lời.
Vì thế, chúng
tôi buộc lều và hành lý, cả thịt đã nấu chín, lên lưng con bò và khởi hành.
Chuyến đi bộ rất dài vì chúng tôi phải đi đường vòng nhiều lần để tránh sườn
tuyết đã đóng băng mà trong mấy lần trèo lên trước đó, chúng tôi đã phải dùng
rìu cắt thành hố để đặt chân, những hố đó con vật đang thồ đầy hàng không thể
leo được. Khi lên tới đỉnh, chúng tôi đào một cái hố, dựng lều ở đó bằng cách
đóng cọc lên tuyết. Lúc này trời bắt đầu tối, con bò cùng tất cả đi vào trong lều,
chúng tôi ăn xong và chờ đợi.
Ôi! Thật lạnh lẽo.
Sương giá thật ghê sợ, ở độ cao này gió thổi hơi thở băng giá xuyên qua lớp
chăn, như thể thiêu đốt da thịt bên dưới như sắt nung. Thật may chúng tôi đã
mang theo con bò, vì nếu không có sự ấm áp từ cơ thể xù xì của nó, tôi tin
chúng tôi đã chết, dù ở trong lều. Sau vài giờ quan sát, thực tế chúng tôi phải
làm thế, vì ngủ có nghĩa là chết, vẫn không nhìn thấy gì ngoài những vì sao cô
đơn, không nghe thấy gì trong bầu im lặng khủng khiếp, thậm chí ngay cả gió
cũng không gây tiếng ồn khi trượt trên tuyết. Tôi đã quen với tình thế như vậy,
các giác quan của tôi đều tê cóng và mắt muốn nhắm lại, bỗng nhiên Leo nói –
“Nhìn kìa, một ngôi sao màu đỏ bên dưới!”
Tôi nhìn theo, ở
xa kia trên bầu trời là vùng sáng kỳ lạ tương tự chúng tôi đã nhìn thấy đêm trước.
Còn hơn thế, vì bên dưới nó, gần như nằm trên đường thẳng với chúng tôi và ngay
trên những đỉnh của các ngọn núi xen vào, xuất hiện một dải lửa mờ nhạt và đối
lập với nó, một cái gì đó tối đen lộ ra. Trong lúc chúng tôi quan sát, ánh lửa
trải rộng ra, lan lên trên, độ sáng và sức mạnh tăng lên. Giờ đây trước nền rực
sáng đó, vật thể tối đen có thể nhìn thấy rõ hơn, ôi! Đó là đỉnh một cột trụ
cao vút có chiếc thòng lọng phủ lên. Đúng, chúng tôi có thể nhìn thấy từng đường
nét của nó. Đó là crux ansata, Biểu Tượng Của Sự Sống.
Biểu tượng đó biến
mất, ánh lửa chìm dần. Rồi ngọn lửa lại bùng lên rực rỡ hơn trước một lần nữa,
chiếc thòng lọng lại xuất hiện và lại biến mất. Lần thứ ba dải lửa bùng sáng
lên với cường độ như thế, không tia chớp nào có thể sáng hơn thế. Mọi thứ trên
bầu trời đều được thắp sáng, và qua lỗ kim tối đen của biểu tượng đó, giống như
ngọn hải đăng hay đèn dò đường của tàu thuyền, một đường sáng mạnh mẽ bắn lên
xuyên qua cả biển đỉnh núi non trùng điệp và sa mạc mênh mông, thẳng như mũi
tên tới đỉnh núi sừng sững chúng tôi đang ngồi. Đúng, nó sáng bừng trên tuyết,
nhuốm màu đỏ, và chiếu sáng gương mặt trắng bợt đang dại ra quan sát của chúng
tôi, dù bên phải và bên trái chúng tôi đều phủ bóng tối dày đặc. Chiếc la bàn nằm
trên tuyết trước mặt tôi, và tôi thậm chí có thể nhìn thấy kim của nó; bên
ngoài hình dáng một con cáo trắng đang bò lại gần đánh hơi thức ăn. Sau đó nó
biến mất nhanh như khi đến. Biểu tượng và tấm che bằng lửa sau nó cũng biến mất,
chỉ còn ánh sáng vẫn nán lại chút ít trên bầu trời xa xa.
Chúng tôi im lặng
một lúc, rồi Leo nói – “Bác có nhớ không, bác Horace, khi chúng ta nằm trên Tảng
Đá Xích Đu mà chiếc áo choàng của nàng đã cuốn lên người cháu ấy – “ khi cậu
nói những lời này, hơi thở như bắt chẹt lấy cổ họng – “ánh sáng đã được gửi tới
chúng ta để chào tạm biệt, và chỉ cho chúng ta đường thoát ra khỏi Nơi Tử Thần
đó như thế nào? Giờ cháu nghĩ nó lại được gửi tới chúng ta để chào đón và chỉ
ra con đường tới Nơi của Sự Sống mà Ayesha đang trú ngụ, chúng ta đã lạc mất
nàng một thời gian rồi.”
“Có lẽ vậy,” tôi
đáp lời ngắn gọn, vì vấn đề đã vượt ra ngoài phát ngôn hay tranh luận, thậm chí
vượt ra ngoài hiếu kỳ. Nhưng tôi biết giờ chúng tôi đã là diễn viên trong vở kịch
định mệnh phi thường; phần của chúng tôi đã viết xong và chúng tôi phải ra diễn,
cũng như con đường của chúng tôi đã được chuẩn bị sẵn và chúng tôi phải bước
trên đó tới kết cục không biết rõ. Sợ hãi và hoài nghi được bỏ lại phía sau, hy
vọng tất nhiên cũng chìm dần; những ảo cảnh làm điềm báo trong đêm đó đã thực sự
hiện ra hết và hạt mầm đáng thương mà bà ấy hứa hẹn dù đã qua đời vẫn nảy nở vô
hình suốt những tháng năm trống rỗng và tàn nhẫn kia, giờ đã tới lúc thu hoạch.
Không, chúng tôi
không sợ hãi nữa, thậm chí cả khi bình minh mang đầy gió thét gào, khiến chúng
tôi chật vật xuống núi, dường như có thể cướp đi mạng sống mỗi bước đi; thậm
chí cả khi hàng giờ chúng tôi phải tranh đấu trong bão tuyết xoay vần, khiến
chúng tôi như điếc và mù. Vì chúng tôi biết tính mạng này đã bị bỏ bùa. Chúng
tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy, nhưng chúng tôi vẫn được dẫn đi. Bám
theo con bò, chúng tôi vật vã đi xuống và về nhà, cho tới khi ra khỏi đống hỗn
loạn và bóng tối theo bản năng đưa chúng tôi không hề bị tổn thương gì về tới
trước cửa tu viện, nơi vị trụ trì già nua vui sướng ôm chầm lấy chúng tôi, còn
các nhà sư khác vội cầu nguyện cảm tạ trời đất. Vì họ chắc rằng chúng tôi đã chết.
Họ bảo, với cơn bão như vậy, trước đây chưa từng có ai sống sót.
Vẫn là giữa mùa
đông, ôi, tháng ngày chờ đợi mệt mỏi kinh khủng biết bao. Trong tay chúng tôi
có chìa khóa, còn cánh cửa đang nằm ngoài kia giữa núi non, nhưng chúng tôi vẫn
chưa đặt chìa vào ổ khóa của nó. Vì giữa chúng tôi và những thứ kia là sa mạc
mênh mông trải dài, nơi tuyết cuộn thành cột, chúng tôi không dám đi qua trừ
khi tuyết tan. Vì thế chúng tôi ngồi trong tu viện, dạy trái tim phải kiên nhẫn.
Cuối cùng mùa
xuân đã tới ngay cả chốn hoang dã đã đông lại này của Trung Á. Một đêm không
khí đã ấm lên, và đêm đó chỉ còn chút sương giá. Sau đó mây bay đầy trời, buổi
sáng tuyết không còn rơi nữa, mà có mưa, chúng tôi thấy các nhà sư già chuẩn bị
dụng cụ làm nông, họ bảo mùa gieo hạt sắp tới rồi. Trời mưa suốt ba ngày, tuyết
tan dần trước mắt chúng tôi. Vào ngày thứ tư, những cơn mưa như trút dội xuống
vùng núi, sa mạc một lần nữa mang màu nâu trần trụi, dù không quá lâu, vì tuần
kế tiếp sau đó, nó sẽ trải đầy hoa. Khi ấy, chúng tôi biết đã đến lúc lên đường.
“Nhưng các ngươi
đi đâu? Các ngươi đi đâu thế?” vị tu viện trưởng thất vọng hỏi chúng tôi. “Các
ngươi không vui khi ở đây sao? Các ngươi không muốn đắc Đạo sao, vì thuyết giảng
đạo hạnh của các ngươi có lẽ sẽ nổi tiếng đấy? Mọi thứ chúng ta có không phải
là của chính các ngươi sao? Ôi! Tại sao các ngươi lại muốn rời bỏ chúng ta chứ?”
“Chúng tôi là những
kẻ lang thang,” chúng tôi trả lời, “khi chúng tôi nhìn thấy dãy núi phía trước,
chúng tôi phải vượt qua.”
Kou-en khôn khéo
nhìn chúng tôi rồi hỏi – “Các ngươi tìm thứ gì bên kia dãy núi thế? Người anh
em, thật có công đức khi che dấu người già sự thật, vì những che dấu như thế chỉ
cách sự giả dối bằng chiều dài một hạt lúa mạch duy nhất mà thôi. Hãy nói cho
ta, ít ra những lời cầu chúc của ta sẽ đi theo các ngươi.”
“Thưa đức trụ
trì linh thiêng,” tôi nói, “thời gian trước trong thư viện, ngài đã thừa nhận với
chúng tôi.”
“Ôi! Đừng nói với
ta về chuyện đó,” ông giơ tay lên. “Tại sao ngươi muốn làm khổ ta?”
“Đó không phải
suy nghĩ của chúng tôi, ngài là người bạn tốt bụng nhất và con người đạo đức,”
tôi trả lời. “Nhưng thật tình cờ, câu chuyện của ngài rất giống câu chuyện của
chính chúng tôi, và chúng tôi nghĩ đã trải nghiệm với chính vị nữ tu sĩ đó.”
“Nói tiếp đi,”
ông bảo, vẻ rất quan tâm.
Rồi tôi kể tóm tắc
cho ông câu chuyện của chúng tôi; tôi kể khoảng hơn một giờ trong khi ông ngồi
đối diện lắc lư đầu như con rùa và không nói gì. Cuối cùng cũng kể xong.
“Bây giờ,” tôi
nói thêm, “hãy để ngọn đèn thông thái của ngài rọi sáng tăm tối của chúng tôi.
Ngài không thấy chuyện này thật kỳ diệu sao, hoặc không chừng ngài nghĩ chúng
tôi nói dối?”
“Hỡi người anh
em của tu viện Thế Giới vĩ đại,” Kou-en đáp bằng điệu cười khúc khích quen thuộc,
“tại sao ta phải nghĩ các ngươi nói dối, từ lúc mắt ta dán lên ngươi, ta đã biết
các ngươi là người trung thực? Hơn nữa, tại sao ta phải coi chuyện này là rất kỳ
diệu? Các ngươi mới vấp phải rìa của một sự thật mà chúng ta đã biết từ rất nhiều,
rất nhiều năm trước.”
“Vì bà ấy chỉ
cho các ngươi tu viện này trong ảo cảnh, rồi dẫn các ngươi tới chỗ bên kia dãy
núi mà bà ta biến mất, ngươi hy vọng người phụ nữ ngươi thấy đã chết này sẽ được
tái sinh ở đó. Tại sao không chứ? Không có gì không thể với những ai được dẫn dắt
trong chân lý, dù việc kéo dài kiếp sống trước đó của bà ta thật kỳ lạ và trái
ngược với lẽ thường. Không nghi ngờ gì nếu ngươi tìm thấy bà ta ở đó như ngươi
dự định, và cũng không nghi ngờ gì nếu khama hay danh tính của bà ta, chính là
người trong kiếp trước của bà ấy đã từng đưa ta vào tội lỗi.”
“Chỉ đừng hiểu lầm,
bà ta không bất tử; không có gì bất tử. Bà ta là một sinh vật được giữ lại nhờ
lòng kiêu hãnh và sự vĩ đại của chính bà ấy, nếu các ngươi nguyện ý, trên con
đường tới Cõi Niết Bàn. Lòng kiêu hãnh đó sẽ bị hạ thấp như nó đã bị đối xử như
thế; hàng lông my oai nghi đó sẽ bị nhuốm đầy bụi bặm của đổi thay và chết
chóc, linh hồn tội lỗi đó phải được thanh lọc bằng nỗi đau buồn và sự chia ly.
Người anh em Leo, nếu ngươi dành được bà ấy, rồi sẽ mất thôi, và rồi lại phải
trèo lại bậc thang đó. Người anh em Holly, với ngươi cũng như với ta, mất nghĩa
là được, thế nên chúng ta không quá đau khổ. Ôi! Hãy chờ đợi ở đây và cầu nguyện
với ta. Tại sao lại tự lao mình vào đá? Tại sao lại bỏ công sức rót nước vào một
cái cốc vỡ khi lẽ ra nó phải chìm vào trong dòng cát thời gian vô ích, thật
lãng phí trong khi ngươi đang chết khát, đúng không?”
“Nước làm cát
màu mỡ,” tôi đáp. “Nơi nào có nước, sẽ có sự sống, nỗi buồn là hạt giống của niềm
vui.”
“Tình yêu là qui
luật của sự sống,” Leo ngắt lời; “không có tình yêu, sẽ không có sự sống. Tôi
tìm kiếm tình yêu giúp tôi tồn tại. Tôi tin mọi chuyện này đều được ban cho một
kết cục mà chúng ta không biết. Định mệnh đã cuốn tôi vào – tôi sẽ thực hiện định
mệnh của tôi –“
“Nhưng làm thế sẽ
trì hoãn tự do của ngươi. Ta sẽ không tranh luận với ngươi nữa, người anh em,
ngươi phải theo đuổi con đường của chính mình. Giờ hãy nhìn xem, người phụ nữ
đó mang tới điều gì cho ngươi trong quá khứ, vị nữ tu mang đức tin sai trái kia?
Ngày xưa trong kiếp sống khác, theo ta hiểu câu chuyện của ngươi, ngươi đã
tuyên thề với một nữ thần tự nhiên tên là Isis, đúng không, chỉ là tuyên thề với
duy nhất bà ấy? Rồi một người phụ nữ cám dỗ ngươi, ngươi bỏ trốn cùng cô ấy.
Ngươi thấy gì từ đó? Nữ thần bị phản bội và đang muốn báo thù đã giết chết
ngươi, hay dù nếu không phải nữ thần đó, thì chính là kẻ khiến ngươi say sưa
trong sự thông thái của cô ta và cũng là kẻ thừa hành lệnh trả thù của nữ thần.
Kẻ thừa hành thông thái này – linh hồn phụ nữ hay ác quỉ kia - đã từ chối cái
chết vì yêu ngươi, nên chờ đợi vì biết rằng trong kiếp sống kế tiếp, cô ta có
thể lại tìm thấy ngươi, thật ra cô ta có thể thành công nhanh chóng hơn trên
Cõi Cực Lạc nếu cô ta chết chứ không phải sống cô độc trong đau khổ nhiều như vậy.
Rồi cô ta tìm thấy ngươi, và cô ta chết, hay dường như đã chết, còn bây giờ cô
ta được tái sinh, chắc chắn ngươi muốn gặp lại dù phải trải qua đau khổ. Ôi! Những
người bạn của ta, đừng vượt qua dãy núi; hãy chờ đợi ở đây cùng ta và hãy khóc
than cho tội lỗi của các ngươi.”
“Không,” Leo trả
lời, “chúng tôi đã thề sẽ hò hẹn, và chúng tôi không phá vỡ lời thề.”
“Hỡi người anh
em, thế thì hãy cứ hò hẹn, khi ngươi gặt hái thành quả hãy nghĩ tới lời ta, vì
ta chắc chắn ly rượu ngươi uống cạn từ vườn nho khao khát kia sẽ đỏ như máu, và
khi uống nó, ngươi sẽ không tìm thấy sự quên lãng hay thanh thản. Đam mê mù
quáng là nọc độc và sức mạnh, ngươi đang tìm kiếm để mang thêm một ác quỉ đội lốt
thiên thần vào sinh mệnh của mình, trong khi vẫn nghĩ rằng bản thể đó sẽ sinh
ra mọi tri thức và niềm vui lớn lao.”
“Ngươi khao khát
muốn sống đơn độc trong thánh thiện tới khi kiếp sống chia lìa của các ngươi
hòa trộn và biến mất trong Thế Giới Tốt Đẹp Không Kể Xiết, thứ hạnh phúc vĩnh hằng
trong Hư Vô. À! Giờ ngươi không tin ta; ngươi lắc đầu và cười nhạo; nhưng sẽ có
một ngày, có thể sau nhiều kiếp số, ngươi sẽ cúi đầu trong cát bụi và than khóc
với ta, ‘Người anh em Kou-en, những lời của ngài thật thông thái, chúng tôi đã
hành động thật ngu xuẩn;’” rồi ông già thở dài quay đi, bỏ chúng tôi lại.
“Thật là một niềm
tin thú vị,” Leo nhìn theo ông ấy và nói, “Sống nhiều kiếp trong khổ hạnh đơn
điệu để ý thức bị nuốt mất trong trốn tránh và thứ trừu tượng vô hình gọi là
‘Chốn Yên Bình Cực Lạc’. Cháu thà tham gia vào một thế giới tồi tệ và mang theo
hy vọng về những điều tốt đẹp. Cháu cũng không nghĩ ông ta biết gì về Ayesha và
số phận của nàng.”
“Bác cũng muốn vậy,”
Tôi đáp, “dù có lẽ cuối cùng ông ấy đúng. Ai nói được đây? Hơn nữa, cái gì là hợp
lý? Leo, chúng ta không có lựa chọn; chúng ta theo đuổi định mệnh của mình. Định
mệnh đó dẫn dắt chúng ta tới cái gì, chúng ta sẽ biết vào lúc thích hợp thôi.”
Rồi chúng tôi đi
nghỉ, vì đã muộn, dù tôi thấy hơi buồn ngủ đêm nay. Cảnh báo của vị tu viện trưởng,
người đàn ông tốt bụng, uyên bác, đầy trải nghiệm chín chắn và thông thái biết
lo xa đó đè nặng lên tôi. Ông ấy tiên đoán chúng tôi sẽ đau buồn và đổ máu bên
kia dãy núi, kết thúc trong cái chết và tái sinh đầy đau đớn. Phải rồi, có lẽ vậy,
nhưng không hướng tới đau đớn sẽ làm chúng tôi dừng chân. Ngay cả nếu như thế,
để nhìn lại gương mặt bà ấy, tôi cũng sẵn sàng đương đầu với tất cả. Nếu đó là
tâm trạng của tôi, chắc chắn cũng là tâm trạng của Leo!
Theo giả thuyết
kỳ lạ của Kou-en, Ayesha chính là vị nữ thần Ai Cập cổ, người mà Kallikrates trở
thành thầy tu đi theo bà ấy, hoặc ít ra cũng đại diện cho bà ta. Còn nàng
Amenartas dòng dõi hoàng tộc mà ông ấy bỏ trốn cùng, đã quyến rũ ông rời khỏi vị
nữ thần mà ông ta đã tuyên thệ. Vị nữ thần này đã hóa thân thành Ayesha – hoặc
sử dụng người phụ nữ có tên Ayesha và những đam mê của nàng ta làm công cụ của
bà ấy – để trả thù cả hai người kia ở Kôr, và ở đó vào đời sau, cây lao nàng ta
ném ra lại quay ngược trở lại chính đầu nàng ta.
Phải, bản thân
tôi thường nghĩ rất nhiều. Tôi chỉ chắc rằng Bà ấy có thể không phải là thần thánh thực sự, dù bà có thể mang những
phẩm chất của một vị thần, một nữ tu sĩ, một sứ giả, có trách nhiệm được giao
phó, trả thù hay tưởng thưởng, nhưng bản thân bà ấy là một con người có linh hồn,
có hy vọng và đam mê cần được thỏa mãn, và vận mệnh đã đáp ứng điều đó. Thật
ra, bây giờ, khi tất cả đã trôi qua, tôi thấy cần phải công nhận, giả thuyết đó
tác động tới tôi một chút, vì sự sống và quyền năng của thứ phẩm chất còn hơn cả
con người ấy không đủ để một mình tạo nên một linh hồn thần thánh. Nhưng mặt khác,
chắc chắn một lúc nào đó, Ayesha đã cho rằng mình bắt đầu là “con gái của Thượng
Đế”, và những người khác, đặc biệt Pháp Sư Simbri thời cổ, dường như đã tìm cách
trao tặng cho bà ấy nguồn gốc siêu nhiên. Nhưng tôi hy vọng tất cả những thứ đó
sẽ được kể vào đúng dịp.
Bên kia dãy núi là
cái gì? Ở đó chúng tôi sẽ tìm thấy nàng, người giữ thanh vương trượng và nắm giữ
sức mạnh của nữ thần Isis bị xúc phạm trên trần thế, và cả người phụ nữ đã mắc sai
lầm kia chứ? Nếu vậy, cuộc cạnh tranh ghê sợ và vô nhân đạo sẽ lên tới đỉnh điểm
xoay quanh con người của vị linh mục lầm lỗi kia ư? Chỉ vài tháng sau, thậm chí
vài ngày sau đó, chúng tôi sẽ có thể bắt đầu biết được thôi.
Hồi hộp với suy nghĩ này, cuối cùng tôi ngủ mất.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét