Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

Tại sao bạn nên xây dựng một công ty về AI ngay hôm nay?



Tại sao bạn nên xây dựng một công ty về AI ngay hôm nay
Mô hình mới. Cơ hội mới.

“Tôi trượt tới chỗ quả bóng sẽ tới, chứ không phải chỗ nó đang đứng.” – Wayne Gretzky

Chúng ta đang ở trên vách của một cái gì đó thực sự rất lớn. Lớn hơn điện, lớn hơn internet. Các chuyên gia đều nói thế. AI đã ở khắp mọi nơi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta: Khi Netflix khuyến nghị bạn nên xem Jane the Virgin và Thung lũng Silicon (bất kỳ thứ tương tự nào với thứ tôi đã xem trên Netflix chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên), đó là một kiểu AI. Một thuật toán đọc được khẩu vị của bạn và tiên đoán được bạn sẽ thích gì ở lần xem kế tiếp. Máy hút bụi cũng dùng AI. Và nếu bạn sống ở Trung Quốc, thậm chí máy rút giấy toilet cũng chạy trên AI!

Tại nơi làm việc, trí tuệ nhân tạo đang tiến hóa thành các trợ lý thông minh giúp chúng ta làm việc thông minh hơn, thành các máy bay không người lái phân phối những thứ chúng ta đặt mua trên Amazon, và tất nhiên thành cả các phương tiện tự điều khiển (ngày nay, máy bay hầu hết đều đã dùng AI).

AI không phải là một khái niệm mới. Khoảng từ những năm 1956, khi một giáo viên dạy khoa học máy tính ở MIT tên là John McCarthy đưa ra thuật ngữ này, giống như bộ râu dài hợp mốt trước khi nó thành trào lưu.

Ông ấy tin rằng: “mọi khía cạnh của việc học hoặc bất kỳ đặc điểm nào khác của trí tuệ về mặt nguyên lý đều có thể được mô tả chính xác để một chiếc máy có thể mô phỏng theo.

AI về mặt cơ bản, là một khái niệm đơn giản. Đây là định nghĩa của Pedro Domingos, một nhà nghiên cứu về AI tôi thực sự yêu thích khi học được nhiều điều từ ông ấy.

AI là gì?
AI là lĩnh vực con của khoa học máy tính đề cập đến việc máy tính xử lý những việc đòi hỏi trí thông minh của con người, ngược lại với xử lý thông thường.
Những việc đó có thể là:
-          Lý luận
-          Hiểu ngôn ngữ
-          Tri thức chung
-          Tầm nhìn
-          Học tập
-          Điều hướng
-          Thao tác mọi thứ
Trên đây là những lĩnh vực con của AI và nếu bạn thêm chúng vào những gì bạn có, bạn sẽ được một thực thể thông minh – nó là nhân tạo thay vì tự nhiên.” – Pedro Domingos

18 tháng trước khi tôi nói chuyện với bố mẹ tôi rằng tôi muốn bỏ việc làm nhân viên thị trường để xây dựng một phần mềm thông minh có thể tự động được nhiều việc phiền phức mà tôi phải làm trước đây, phản ứng tức thì của bố mẹ là hỏi “tại sao không phải bây giờ?”. Quả thực, AI luôn quanh quẩn đâu đó và giai đoạn từ những năm 70 tới cuối những năm 80, nó nhanh chóng nguội đi.

Thời kỳ “nguội” mà bố mẹ tôi đề cập tới chính là mùa đông AI nổi tiếng, từ đầu những năm 1970 tới cuối những năm 1980, dẫn đến việc giảm ngân quỹ cho các nghiên cứu AI. Thời điểm đáng chú ý là sự thất bại của Cỗ máy Lisp năm 1987, được coi là một dạng cao cấp của AI.

Nhưng có 3 lý do tại sao năm 2017 này lại khác 20 năm qua:
-          Năng lực tính toán đã bùng nổ. Chi phí chạy các thuật toán thông minh trên các server đã giảm dần. Chưa bao giờ việc đào tạo các mô hình toán học lại rẻ như bây giờ.
-          Lượng khổng lồ dữ liệu có chất lượng hiện tại đang có sẵn để đào tạo các mô hình. Sự ra đời của nền kinh tế kỹ thuật số và sự phổ biến của smartphone đã sinh ra hàng ty điểm dữ liệu mà giờ đây các công ty có thể biến chúng thành học tập.
-          Những bước nhảy vọt của lượng tử trong công nghệ, đáng chú ý nhất là Deep Learning. Các công ty lớn nhất thế giới gồm big 4: Google,  Amazon, Facebook, Apple (gọi là GAFA), đã đầu tư rất mạnh tay vào AI cũng như thông qua các vụ mua lại hoặc tuyển các nhà nghiên cứu AI hàng đầu thế giới. Họ đã công bố một vài phần các nghiên cứu, một số phẫn mã code, cho mọi người sử dụng.

Mùa đông AI không bao lâu nữa sẽ lại đến, bây giờ đang là Mùa xuân AI.

Đó là tại sao tôi và đồng sáng lập của mình một năm trước đã quyết định bây giờ là lúc để bắt đầu xây dựng một trợ lý ảo của riêng mình (phải, lúc đó thực tế là tháng 6 năm 2016). Aiden là một trợ lý thông minh cho những người làm về thị trường, được xây dựng như một hệ thống chuyên gia, được tăng cường bằng machine learning. Aiden bao gồm các phần sau trong hệ thống con của Ngành Trí tuệ nhân tạo:
-          Lý luận
-          Tri thức chung
-          Hiểu ngôn ngữ
-          Học tập

Aiden là cái người ta hay gọi thô kệch là chatbot, nhưng chúng tôi xem nó còn nhiều hơn thế: đồng nghiệp ảo trong tương lai.

Đây là trích lời Phil Libin bàn về những vấn đề cơ bản làm sao các doanh nhân “bot” (từ viết tắt của “robot”) xem xét việc khởi nghiệp của họ:
Đừng nghĩ bản thân như một nhà lập trình bot. Đừng gắn chặt bản thân bạn như thế. Hãy nghĩ bản thân bạn đang làm một sản phẩm vĩ đại và một sản phẩm không thể chỉ làm trong 2 hay 3 năm vì mớ công nghệ cho phép không tồn tại. Vì vậy những gì bạn có thể làm bây giờ, hơi kỳ diệu một chút, vì bạn cũng chưa chắc đã có thể làm nổi ở thời gian trước đây. Và bây giờ là thời gian tốt nhất để đi và xây dựng những thứ như thế, vì công cụ và khả năng đều đã có.

Thời gian chính là bây giờ.

Marie Outtier
Đồng sáng lập và CEO của Aiden

Gregory C. Allen: Bất cứ ai làm bá chủ công nghệ AI sẽ điều khiển thế giới



Putin và Musk đúng: Bất cứ ai làm bá chủ công nghệ AI sẽ điều khiển thế giới

Thứ sáu đầu tháng 9 vừa rồi, hàng triệu học sinh Nga đã theo dõi một địa chỉ truyền hình từ Tổng Thống Nga Vladimir Putin. Putin nói: “Trí tuệ nhân tạo là tương lai, không chỉ của nước Nga, mà còn của toàn bộ loài người. Bất cứ ai trở thành kẻ dẫn đầu trong lĩnh vực này sẽ trở thành kẻ thống trị thế giới.” Sau khi xem phát biểu của Putin, CEO của SpaceX và Tesla, Elon Musk đã viết trên Tweeter: “cạnh tranh về độ siêu việt của AI ở cấp độ quốc gia (là) nguyên nhất dễ thấy nhất của WW3”. (WW3 – World War 3: chiến tranh thế giới lần thứ 3)

Mặc dù trước đó chưa bao giờ được phát biểu thẳng thắn bởi bất kỳ lãnh đạo quốc gia nào, nhưng quan điểm của Putin về AI đã được lãnh đạo các cơ quan an ninh quốc gia Mỹ, Trung Quốc và nhiều nước khác trên thế giới chia sẻ nhanh chóng. Giống như tôi đã từng viết trong bài báo xuất bản bởi Trung tâm Khoa học và Quan hệ quốc tế Harvard Belfer (Harvard Belfer Center for Science and International Affairs), nghiên cứu AI gần như đang tạo ra một cuộc cách mạng trong công nghệ quân sự với phát minh ra phi thuyền và vũ khí hạt nhân. Nói cách khác, Musk đúng khi cho rằng mỗi quốc gia đều đang theo đuổi sự siêu việt của AI và sự theo đuổi này mang nhiều rủi ro mới.

Nhưng thay vì những mục tiêu đầy tham vọng của Putin, việc theo đuổi làm chủ AI của nước Nga có vẻ như không đi vào việc tạo ra các đột phá công nghệ trong AI. Cả Mỹ và Trung Quốc đều đang sở hữu những ngành công nghiệp công nghệ số lớn hơn, phức tạp hơn và tăng trưởng nhanh hơn của Nga.

Tuy nhiên, Nga vẫn có thể là người dẫn đầu trong việc vũ khí hóa AI khi theo đuổi chiến lược lớn của họ, chiến lược muốn chấm dứt quyền thống trị của Mỹ trong hệ thống quốc tế và tái thiết lập ảnh hưởng của Nga trên các vùng Sô viết cũ. Nga chưa bao giờ là người dẫn đầu trong công nghệ Internet, nhưng nước này đã xây dựng được một lực lượng hacker ảo lớn nhất và có năng lực nhất thế giới, đã phá vỡ phần trọng yếu trong lưới điện Ukraina, thâm nhập vào các cơ sở hạt nhân của Hoa Kỳ và gây ra sự hỗn loạn trong cuộc bầu cử thổng thống Mỹ 2016.

Thực ra, thậm chí ngay cả trước khi Putin đưa ra lời bình luận trên, thái độ của Nga cũng đã cho thấy hiểu biết sắc sảo về cách AI mang tới sức mạnh cho quân đội và cơ quan tình báo của họ - đặc biệt ý chí muốn phá vỡ các luật và chuẩn quốc tế hiện hành. Trong 5 năm vừa qua, Nga tích cực đầu tư vào các hệ thống robot quân sự mới và các hệ thống không người lái, đang thử nghiệm chúng trong các cuộc đụng độ của Nga ở Ukraina và Syria. Năm 2015, một vị tướng Quân đội Mỹ ở Châu Âu đã phát biểu rằng, khi người Ukraina nhìn thấy các phương tiện bay không người lái của Nga, “họ biết chỉ trong 10-15 phút nữa, sẽ có rocket thả xuống đầu họ.”

Ngày nay, robot quân sự và máy bay không người lái của Nga đều được điều khiển từ xa, nhưng trong tương lai, Nga lên kế hoạch xây dựng “hệ phức hợp robot thông minh”, có nghĩa là các khối robot quân sự sẽ được tăng cường sức mạnh nhờ các hệ thống AI để có thể tự chiến đấu và giết người mà không cần con người vận hành. Thực tế, Ủy Ban Công Nghiệp Quân Sự Nga đã phê chuẩn một kế hoạch tham vọng: tới năm 2030, 30% sức mạnh chiến đấu của Nga sẽ hoàn toàn là các nền tảng robot điều khiển từ xa và điều khiển bằng AI.

Ngoài chiến trường, Nga hi vọng sử dụng AI để tăng cường gián điệp và tuyên truyền. Các cơ quan tình báo của Nga đã tuyển hàng ngàn nhân viên làm việc ngày đêm tạo ra các bài báo và đoạn post trên mạng xã hội mang tin tức giả. Hàng chục triệu “robot” giả làm người thực trên mạng xã hội để đẩy lên các bài tuyên truyền ở Nga và nước ngoài. Các nhà nghiên cứu tại Dự án Nghiên Cứu Tính toán Tuyên Truyền của Học viện Internet Oxford phát hiện ra rằng gần một nửa số tài khoản Twitter bình luận về chính trị Nga đều là robot.

Theo lời khai trước Quốc hội của Nhân viên điều tra đặc biệt của FBI Clint Watts, các robot Nga đã chứng minh chúng rất giỏi trong việc điều khiển phương tiện truyền thông Mỹ phủ đầy tin tức giả và gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán của các công ty Mỹ. Nga làm được điều này với các robot khi chỉ sở hữu tự động hóa kỹ thuật số mức nguyên thủy. Nếu sử dụng AI, họ có khả năng làm mọi chuyện tồi tệ hơn rất nhiều. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Washington đã minh họa cho thấy công nghệ AI có khả năng tạo ra video và âm thanh như thật, bắt chước nguyên giọng nói và bề ngoài của bất kỳ ai. Trong tay các cơ quan tình báo của Putin, công nghệ AI có thể gây ra một cơn lũ tuyên truyền và lừa đảo mang tính chiến lược đạt hiệu quả hơn bất kỳ ai từng làm trong lịch sử nhân loại.

Mỹ vẫn đang dẫn đầu trong cả công nghệ AI và robot, dù vị thế này đang bị thu hẹp dần trong 10 năm qua. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã cho thấy sự kiềm chế và thận trọng đáng khâm phục. Lệch lạc trong những tin tức gần đây về “lệnh cấm robot sát thủ” thực tế chỉ là, Bộ Quốc Phòng Mỹ đang đổi mới một chính sách nhằm ngăn vũ khí tự động khỏi việc bị bàn quyết có nên cho sử dụng thứ nguy hiểm đó hay không.

Nga có từng thông qua một chính sách nào như thế không? Không chắc. Là nhà lãnh đạo cao nhất của một quốc gia có dân số đang giảm dần và một nền kinh tế đang suy yếu, không khó hiểu tại sao Putin muốn công nghệ có thể tập trung quyền lực trong tay một số ít người. Putin biết đất nước của ông không có khả năng trở thành người thống trị thế giới bằng cách đi tiên phong trong sự phát triển công nghệ AI, vì thế Nga đơn giản phải dẫn đầu trong ứng dụng tàn nhẫn của nó.

Gregory C. Allen
Dịch từ http://edition.cnn.com/2017/09/05/opinions/russia-weaponize-ai-opinion-allen/index.html
Ghi chú: Gregory C. Allen là người cộng tác tại Center for a New American Security (Trung Tâm An Ninh Hoa Kỳ Mới). Tháng 7 năm 2017, bài báo của ông “Trí tuệ nhân tạo và An ninh quốc gia” được Havard Belfer Center for Science and International Affairs xuất bản.

Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017

Dành cho giấc mơ khởi nghiệp: Lịch sử Thung Lũng Silicon - phần 1



Lịch sử Thung Lũng Silicon: Transistors, Stanford, và Đầu Tư Mạo Hiểm

Tường thuật lại bối cảnh ra đời của trung tâm sản sinh ra nhiều phát minh công nghệ nhất thế giới  — Thung Lũng Silicon




TL; DR
·                     William Shockley phát minh ra transistor (bóng bán dẫn) tại Bell Labs. Transistor là phiên bản đời đầu của mạch tích hợp (integrated circuit) sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ công nghệ hiện đại sau này.
·                     Sau đó ông rời Bell Labs để lập ra công ty Shockley Semiconductor ở California và tuyển những kỹ sư hàng đầu trợ giúp mình.
·                     Shockley Semiconductor là nơi khai sinh ra ngành công nghiệp bán dẫn, cũng là ngôi nhà chung của các công ty như Fairchild, AMD, và Intel.
·                     Cùng lúc đó, Fred Terman giải ngũ trở về và biến Stanford thành một trung tâm đổi mới công nghệ.
·                     Sinh viên Stanford được khuyến khích sử dụng kiến thức kỹ thuật của họ tạo ra các công ty trong đời thực.
·                     Thung lũng Silicon hiểu giá trị của cộng tác và giao tiếp, hỗ trợ dòng ý tưởng nhanh hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
·                     Ngành công nghiệp Đầu Tư Mạo Hiểm bắt đầu hình thành ở Thung lũng Silicon. Lợi nhuận thu về cao từ các công ty thuở sơ khai đã tạo cảm hứng thúc đẩy ngày càng nhiều tiền đổ về đây.




Nơi ra đời ngành công nghiệp bán dẫn

Từ ‘Silicon’ trong “Thung Lũng Silicon”

Năm 1940 William Shockley đã phát minh ra bóng bán dẫn tại Bell Labs. Ngay sau đó, ông nhận ra mình không thể đi xa hơn ở Bell nên xin nghỉ việc để tìm kiếm những gì ông muốn làm tiếp. Sau một thời gian ở Caltech và Washington DC, ông quyết định muốn sở hữu một công ty của riêng mình.
Sau đó Shockley bắt đẩu tuyển những kỹ sư hàng đầu trên cả nước Mỹ tới làm việc cho mình. Năm 1956, ông tuyển người, và họ chính thức mở cửa làm ăn kinh doanh.
Dù là nhà phát minh nổi tiếng, nhưng Shockley lại không phải là nhà quản lý giỏi. Năm 1957, chỉ sau một năm thành lập công ty, 8 nhân viên đơn giản là không thể làm việc nổi với ông thêm nữa. Tháng 9 năm đó, “8 nhân vật phản nghịch” đó – cái tên thường dùng để gọi họ sau này – đã quyết định thôi việc..
Hôm sau, 8 người đàn ông này ký một hợp đồng 1.3 triệu đô với một công ty ở New York tên là Fairchild Camera and Instruments để tạo ra công ty Fairchild Semiconductor. Fairchild hướng tới xây dựng các transistor theo cách họ muốn chứ không phải theo cách Shockley ra lệnh.
8 người đàn ông đó là: Julius Blank, Victor Grinich, Jean Hoerni, Gene Kleiner, Jay Last, Gordon Moore, Robert Noyce, và Sheldon Roberts. Mấy người trong số 8 người này sau này lại rời đi để sáng lập ra Intel, AMD, Nividia, và Kleiner Perkins.



8 nhân vật phản nghịch sau khi vừa thành lập xong Fairchild Semiconductor

Transistor đã trở nên cực kỳ phổ biến trong mọi thứ, từ radio tới điện thoại, máy tính, và giờ các nhà sản xuất muốn một thứ gì đó tốt hơn thế. Tất nhiên rồi, transistors nhỏ hơn đèn ống chân không, nhưng với một số thiết bị điện tử đời mới nhất, chúng vẫn chưa đủ nhỏ.
Sau khi một transistor được làm ra, nó phải được kết nối với dây dẫn và các linh kiện điện tử khác. Điều đó có nghĩa là transistor không thể nhỏ hơn thứ mà một người chỉ dùng cái nhíp vẫn có thể xử lý được.
Có hai người đã tìm ra giải pháp cho vấn đề này gần như cùng lúc. Độc lập với nhau, Jack Kilby và Robert Noyce nhận ra rằng tất cả các phần của một mạch, không chỉ transistor, đều có thể được làm bên ngoài silicon. Nếu có thể thành hiện thực, toàn bộ mạch có thể được xây dựng thành một khối tinh thể riêng biệt – khiến nó nhỏ hơn và dễ sản xuất hàng loạt hơn. Trong khi Kilby điên đầu với hàng loạt chi tiết để xây dựng từng thành phần riêng lẻ, thì Noyce nghĩ về một cách tốt hơn nhiều để kết nối toàn bộ các phần đó với nhau. Thế là mạch tích hợp (integrated circuit, người trong nghề chúng ta quen gọi là ‘con IC’) ra đời.


Robert Noyce với bản vẽ mạch tích hợp

Silicon dùng trong IC là nguồn gốc Thung lũng Silicon lấy làm tên cho mình. Năng lực sản xuất lớn, độ tin cậy và khả năng đóng gói theo từng khối theo thiết kế mạch của IC đảm bảo mức độ tăng trưởng nhanh chóng của nó. IC giờ được sử dụng trong mọi thiết bị điện tử, từ máy tính, điện thoại, tới các công nghệ hiện đại nhất.


Thiết kế mới của Công Viên Nghiên Cứu Stanford

Động cơ cải tiến của Fred Terman

Giống như nhiều cải tiến công nghệ khác, điện tử bắt đầu trong thời chiến. Trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II, Fred Terman rời vị trí giảng dạy ở Stanford để dẫn dắt một phòng nghiên cứu 850 người ở Đại Học Harvard.
Là người lãnh đạo nhiệm vụ quân sự tuyệt mật, Fred Terman bí mật nghiên cứu các phần mũi nhọn nhất, độc quyền trong lĩnh vực của mình. Khi chiến tranh gần kết thúc, ông nhận ra:
“Các nghiên cứu phục vụ chiến tranh [bây giờ] vẫn còn bí mật sẽ là cơ sở khôi phục và mở rộng nền công nghiệp điện tử thời hậu chiến… Stanford có cơ hội đạt được vị trí nào đó ở phương Tây tương tự như vị thế của Harvard ở phương Đông.”

Sau chiến tranh, ông tìm cách thu hút một số sinh viên giỏi nhất và khoa viện tốt nhất tới Stanford bằng cách bảo đảm tài trợ cho các dự án giúp tăng cường danh tiếng của Stanford trong lĩnh vực điện tử.
Điều này đã tập trung thúc đẩy đồng nghiệp và sinh viên thương mại hóa các ý tưởng của họ, trợ giúp bước nhảy vọt ban đầu về kỹ nghệ tại Stanford. Dần dần, danh tiếng của Stanford tăng trưởng và trở thành một nguồn cung công nghệ quân sự, sánh ngang với Harvard và MIT.
Nhưng sự ủng hộ thương mại hóa công nghệ của Terman đã vượt ra khỏi lĩnh vực quân sự. Terman thúc đẩy xây dựng Công Viên Nghiên Cứu Stanford (Stanford Research Park), một nơi chỉ phục vụ cho các công ty công nghệ tư nhân, mũi nhọn nằm vùng. Đó là mô hình đầu tiên thuộc dạng này, nhanh chóng trở thành ngôi nhà chung nổi tiếng của các nhà tiên phong trong lĩnh vực công nghệ như Lockheed, Fairchild, Xerox và General Electric.
Bạn có lẽ cũng sẽ bảo Công Viên Công Nghiệp Stanford là trung tâm liên kết mạng lưới gốc của một số bộ não sáng chói nhất trong lĩnh vực công nghệ, pha trộn giữa hàn lâm và công nghiệp, có mục tiêu phát triển tri thức công nghệ.
Kể từ đó, cây cầu nối của Stanford giữa trường đại học với ngành công nghiệp công nghệ trở nên mạnh mẽ, lôi cuốn, truyền cảm hứng và tinh thần doanh nhân cho rất nhiều sinh viên. Câu chuyện nổi tiếng nhất, tất nhiên, chính là của Terman và các học trò của mình William Hewlett và David Packard, hai người phát minh ra bộ dao động âm thanh cải tiến (audio oscillator). Terman đã thôi thúc cặp đôi này đưa đột phá của họ vào kinh doanh.
Dần dần, Hewlett – Packard (gọi tắt là HP) đã ra đời và chuyển vào công viên nghiên cứu, trở thành nhà sản xuất PC lớn nhất thế giới. Bill Hewlett và David Packard cùng đại gia đình doanh nghiệp của họ đã tặng trên 300 triệu đô cho Stanford.


Từ trái sang phải: Fred Packard, Bill Hewlett, and Fred Terman

Do gần gũi với hàng loạt cải tiến và phát minh đỉnh cao, các viện hàn lâm của Stanford đã có cơ hội định vị các thăng trầm công nghệ trong nền công nghiệp và tư bản hóa bằng cách đầu tư vào những nghiên cứu đột phá mới, chẳng hạn như đồ họa máy tinh, hệ thống GPS năng lượng thấp mà sau này trở thành Wi-Fi.



Một hệ thống mở

Nhiều nhà sáng lập các công ty ở Thung lũng Silicon đều có gốc gác từ miền Tây Nam. Dù họ có lẽ đã phải đi học đại học và sau đó làm việc ở Vùng Biển Phía Đông (East Coast – miền duyên hải hẹp từ Boston tới Washington DC), nhưng họ không thực sự chấp nhận hình thức và không khí nghẹt thở của Vùng Biển Phía Đông. Họ thấy sự tự nhiên của California phù hợp với sở thích của họ hơn. Họ cũng cảm thấy tự do trải nghiệm nhiều hơn với những cách tổ chức thể chế mới mẻ ở California.
Ý nghĩa cộng đồng tồn tại trong số những người làm về công nghệ ở Thung lũng Silicon không chỉ là một hiện tượng xã hội vui vẻ nhất thời. Nó cho phép các doanh nghiệp ở Thung lũng Silicon giải quyết các vấn đề kỹ thuật dễ dàng và nhanh chóng hơn nhiều so với các tổ chức lớn hơn ở Vùng Biển Phía Đông, nơi có nhiều điều luật cấm đoán. Điều này tạo cho Thung lũng Silicon một sự thích nghi và linh hoạt cực kỳ quan trọng đảm bảo sự sống còn trong nền công nghiệp – nơi khả năng thích nghi và linh hoạt còn quan trọng hơn cả bị mất các bí mật thương mại.
Trong cuốn sách Thiên Thần (Angel), Jason Calacanis đã giải thích:
Sản phẩm vĩ đại nhất mà Thung lũng Silicon đã từng tạo ra chính là Thung lũng Silicon, nơi thế hệ này nối tiếp thế hệ kia tái đầu tư và tự thúc đẩy nhau đạt tới những mức độ hiệu quả cao hơn nữa.
Thật sững sờ khi nhìn Google đạt 3 tỷ đô lợi nhuận hằng năm chỉ trong 9 năm, cho đến khi Facebook cũng làm chính xác cùng điều đó trong 7 năm. Facebook đã quan sát Google chiến đấu trên hàng tá thị trường và trở thành kẻ thống trị, sau đó họ làm điều đó trong ít thời gian hơn.
Airbnb và Uber quan sát Google và Facebook mở rộng khắp toàn cầu, đội ngũ quản lý của họ ghi nhớ những cái đó vào sổ tay và cải tiến thêm. Thế hệ khởi nghiệp kế tiếp sẽ lại làm điều tương tự.
Rất bình thường khi thấy những người làm cho Google chuyển sang Facebook vì các gói lương thưởng hấp dẫn hơn, mang theo toàn bộ kiến thức của họ về cỗ máy quảng cáo của Google. Sheryl Sandberg dành 7 năm ở Google xây dựng chương trình quảng cáo trước khi trở thành nhân vật số hai tại Facebook, sau Mark Zuckerberg.
Điều tương tự giờ cũng đang xảy ra với nhân viên của Facebook có kinh nghiệm trong các chiến lược quốc tế hóa để trở thành những nhà quản trị hàng đầu tại Uber và AirBnB.


Mạng lưới hoán chuyển tài năng giữa các hãng lớn ở Thung lũng Silicon năm 2011

Không giống như nhiều đồng nghiệp ở Vùng Biển Phía Đông, các doanh nghiệp ở Thung lũng Silicon hiểu rằng cộng tác và cạnh tranh đồng thời mới dẫn tới thành công. Ý tưởng này được phản ánh trong bộ luật của California cấm các thỏa thuận không cạnh tranh (NonCompete Agreements).  Ecosystem hỗ trợ thử nghiệm, xử lý rủi ro, chia sẻ các bài học thành bại.


Vị trí của nhiều nhà tư bản mạo hiểm ở Thung lũng Silicon

Đổ dầu vào lửa
Cuộc phóng thành công vệ tinh Sputnik của Sô Viết đủ khiến Quốc Hội Mỹ sợ hãi và phải thông qua đạo luật chính thức cho phép Bộ Doanh Nghiệp Nhỏ Hoa Kỳ (US Small Business Administration - SBA) cấp phép cho “các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh nhỏ lẻ - Small Business Investment Companies – SBICs” để hỗ trợ vốn và quản lý cho các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ. Giờ thay vì Chính phủ đầu tư vào công nghệ, các nhà quản lý quỹ tư nhân cũng có thể tìm kiếm và đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.


Cha đẻ của Tư Bản Mạo Hiểm

Công ty đầu tiên từng hưởng lợi từ việc chuyển đổi mô hình này là Fairchild Semiconductor, được thành lập bởi 8 kẻ phản nghịch đã rời bỏ Shockley Semiconductor. Arthur Rock là nhà đầu tư chính ở Fairchild Semiconductor năm 1961. Công ty của ông, Davis & Rock, được coi là công ty Đầu Tư Mạo Hiểm tư nhân đầu tiên.
Còn có 3 công ty nổi tiếng khác vào những năm 1960, đó là Draper, Gaither & Anderson (1961); Sutton Hill (1964); và Mayfield Funds (1963). Các công ty này đều đã tìm được những khoản lời khổng lồ khi đầu tư vào các công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon như Apple, Intel…
Năm 1969, toàn bộ cộng đồng đầu tư mạo hiểm có khoảng 20 người. Giống như phần còn lại của thung lũng, các nhà đầu tư mạo hiểm ban đầu này cũng chia sẻ nhiều ý tưởng với nhau.
Thực tế, có một lượng nhân sự chuyển qua lại giữa các công ty này. Bill Draper khởi nghiệp ở Draper, Gaither & Anderson và Sutton Hill. Mayfield Funds được đối tác của Arthur Rock là Tommy Davis tạo ra.
Luồng ý tưởng giữa các nhà đầu tư mạo hiểm làm gia tăng nhiều khái niệm ngày nay các nhà đầu tư công nghệ hay dùng, chẳng hạn như  tập trung vào nhà sáng lập hơn là công ty, làm chủ các doanh nghiệp hứa hẹn giống như “các doanh nghiệp thường trú”.
Ngay khi cả nước thu được toàn bộ số tiền làm ra ở Thung lũng Silicon, ngành công nghiệp này bắt đầu bùng nổ. Những người khổng lồ như Kleiner (1972), Sequoia Capital (1972), và New Enterprise Associates (1978) dù đều khởi nghiệp trong lĩnh vực gỗ mộc, đã mang ngày càng nhiều tiền của họ sang tiếp nhiên liệu cho sự sáng tạo và tăng trưởng của các công ty công nghệ cao.


Mike Markkula đưa ngân phiếu cho Steve Jobs (Vụ làm ăn được Sequoia tạo dựng)



Playbook App Author


Phần 2 sẽ đề cập đến sự ra đời của ngành công nghiệp máy tính và internet, và tại sao Thung lũng Silicon chiếm được lợi thế duy nhất riêng biệt.