Hiển thị các bài đăng có nhãn công nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn công nghệ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 3, 2018

Hồi cuối của Chủ nghĩa Tư Bản


Hồi cuối của Chủ Nghĩa Tư Bản


Dự án Một Vành Đai Một Con Đường của Trung Quốc

Khi cúi chào Trung Quốc, Apple đã bắt chúng ta phải nhìn nhận sâu hơn về vai trò thực sự của kinh doanh trong xã hội.
“Trung Quốc có thể nổi lên trong vài năm tới như là nhà cung cấp vốn lớn nhất thế giới.” – Viện Brookings, tháng giêng năm 2017.

Cuộc xung đột các triết lý cạnh tranh kinh tế cơ bản đã trở thành bản tin nổi bật nhất trong tuần, cùng với số phận của chủ nghĩa tư bản dân chủ đang lơ lửng treo trên bàn cân. Và dù có vẻ quá sớm để gọi tên người chiến thắng, xu hướng cho thấy chắc chắn nó không tốt đẹp như cách chúng ta hiểu về nền dân chủ ở Phương Tây.

Đầu tiên, tin tức. Cúi đầu trước pháp luật Trung Quốc, Apple sẽ lưu khóa dữ liệu khách hàng người Trung Quốc ở bên trong Trung Quốc – đảm bảo các thông tin này nằm dưới sự giám sát của pháp luật Trung Quốc, một hệ thống như Yonatan Zunger đã chỉ ra, hoàn toàn khác biệt với Hoa Kỳ, nơi Apple từ trước tới giờ vẫn bảo vệ khách hàng Trung Quốc của mình.

Tại sao lại có chuyện này? Chắc chắn nó sẽ thổi bay quyền riêng tư của các khách hàng người Trung Quốc của Apple, nhưng lại một lần nữa, giả thiết cho rằng một công ty – dù hùng mạnh như Apple – có thể áp đặt các chính sách của họ lên nhà nước Trung Hoa là quá ngây thơ. Không, theo quan điểm của tôi, đó là vấn đề vì nó tạo một tiền lệ cho cách tiếp cận tới chủ nghĩa tư bản theo kiểu đặt lợi nhuận trên nguyên tắc, bất kể tác động bên ngoài hay hậu quả lâu dài. Và tất cả chúng ta đều cần phải quan ngại.

Giờ không thể tranh cãi rằng phiên bản cơ bắp nhất của chủ nghĩa tư bản toàn cầu là thương hiệu hiện đang được nhà nước Trung Quốc vận hành. Hãy gọi nó là chủ nghĩa tư bản độc đoán – vì nó là một hệ thống kinh tế theo định hướng thị trường, trong đó thị trường bị nhà nước độc quyền kiểm soát. Thương hiệu này của chủ nghĩa tư bản được hình thành dựa trên các nền tảng chính trị khác nhau căn bản từ thứ chủ nghĩa tư bản dân chủ chúng ta đang cổ xúy ở Mỹ. Và dù bất kỳ lý do nào, kể cả việc Mỹ đang rút lui khỏi tiến trình toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản độc quyền cũng đang phát triển với tốc độ chóng mặt, tài trợ cho các khoản đầu tư khổng lồ vào AI và các công nghệ khác, các tài nguyên và hàng hóa quan trọng, và cả các khu vực chiến lược. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư lớn nhất vào Mỹ Latin, Pakistan, Châu Phi. Trong khi đó Mỹ đã thất bại khi đầu tư vào chính cơ sở hạ tầng của mình, Trung Quốc đã trải qua một năm kêu gọi cho dự án hàng tỷ đô “con đường tơ lụa mới” – hứa hẹn củng cố ảnh hưởng của quốc gia này lên một nửa thế giới.

Khi Hoa Kỳ rút lui khỏi lập trường toàn cầu hóa, các tập đoàn vốn xuất thân và đặt trụ sở tại Mỹ - niềm tự hào của hệ thống kinh tế của chúng ta – sẽ không còn nữa. Tại sao? Tăng trưởng là mục tiêu thiêng liêng nhất của chủ nghĩa tư bản, và người Trung Quốc biết điều đó.

Điều đó mang chúng ta tới Apple.

Trung Quốc là thị trường tăng trưởng quan trọng nhất của Apple. Vì hầu hết chỉ kinh doanh phần cứng, công ty này đã thoát khỏi sự kiểm soát của chính phủ vốn cản trở sự tiếp cận thị trường Trung Quốc với các công ty điều khiển thông tin như Google hay Facebook. Nhưng khi dịch vụ của Apple và các doanh nghiệp iCloud đã phát triển thành động lực mới then chốt của lợi nhuận, Apple thấy mình đang đứng trước ngã tư đường. Liệu nó có nên duy trì các nguyên tắc chủ nghĩa tư bản dân chủ của mình, thứ vốn rất ít khi cân bằng được quyền cá nhân với quyền nhà nước? Apple đã thể hiện điều đó khi khẳng định lập trường trong vụ iPhone của tay sát thủ San Bernadino vài năm trước. Hay liệu nó nên cúi mình trước những ràng buộc của chủ nghĩa tư bản độc đoán của Trung Quốc – nơi đặt lợi ích của nhà nước lên trên lợi ích cá nhân?

Cuối tuần chúng ta đã có câu trả lời. Phải, gần như tất cả các công ty toàn cầu đều phải sống trong màu xám khi kinh doanh ở Trung Quốc. Nhưng hầu như mọi người đều cho rằng bán chất giặt tẩy, ô tô, hay giày chỉ là một hoạt động phi chính trị thuần túy. Nhưng còn việc tham gia vào việc kinh doanh cung cấp cho nhà nước quyền truy cập vào dữ liệu cá nhân nhạy cảm nhất của khách hàng thì sao? Đây là điều hầu hết các công ty dữ liệu ở Thung Lũng Silicon không muốn (hoặc không thể) vượt qua.

Giờ hết rồi. Apple hiện tại đã đặt tăng trưởng và lợi nhuận của mình lên trên các nguyên tắc trước kia, những nguyên tắc – vốn đứng vững trong chủ nghĩa tư bản dân chủ - đang trở nên suy yếu nghiêm trọng. Tiền lệ này quá nổi bật – và tôi nghĩ sẽ còn nhiều quân domino nữa ngã xuống. Có lẽ trong mười năm tới, mọi công ty công nghệ lớn – kể cả Google và Facebook – cũng sẽ chơi theo luật của Trung Quốc chăng? Nếu vậy, nó sẽ tác động thế nào tới những nguyên tắc xã hội của chúng ta? Tôi rùng mình khi nghĩ tới ngày đó.

John Battelle
Ngày 26 tháng 2 năm 2018

Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017

Dành cho giấc mơ khởi nghiệp: Lịch sử Thung Lũng Silicon - phần 1



Lịch sử Thung Lũng Silicon: Transistors, Stanford, và Đầu Tư Mạo Hiểm

Tường thuật lại bối cảnh ra đời của trung tâm sản sinh ra nhiều phát minh công nghệ nhất thế giới  — Thung Lũng Silicon




TL; DR
·                     William Shockley phát minh ra transistor (bóng bán dẫn) tại Bell Labs. Transistor là phiên bản đời đầu của mạch tích hợp (integrated circuit) sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ công nghệ hiện đại sau này.
·                     Sau đó ông rời Bell Labs để lập ra công ty Shockley Semiconductor ở California và tuyển những kỹ sư hàng đầu trợ giúp mình.
·                     Shockley Semiconductor là nơi khai sinh ra ngành công nghiệp bán dẫn, cũng là ngôi nhà chung của các công ty như Fairchild, AMD, và Intel.
·                     Cùng lúc đó, Fred Terman giải ngũ trở về và biến Stanford thành một trung tâm đổi mới công nghệ.
·                     Sinh viên Stanford được khuyến khích sử dụng kiến thức kỹ thuật của họ tạo ra các công ty trong đời thực.
·                     Thung lũng Silicon hiểu giá trị của cộng tác và giao tiếp, hỗ trợ dòng ý tưởng nhanh hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
·                     Ngành công nghiệp Đầu Tư Mạo Hiểm bắt đầu hình thành ở Thung lũng Silicon. Lợi nhuận thu về cao từ các công ty thuở sơ khai đã tạo cảm hứng thúc đẩy ngày càng nhiều tiền đổ về đây.




Nơi ra đời ngành công nghiệp bán dẫn

Từ ‘Silicon’ trong “Thung Lũng Silicon”

Năm 1940 William Shockley đã phát minh ra bóng bán dẫn tại Bell Labs. Ngay sau đó, ông nhận ra mình không thể đi xa hơn ở Bell nên xin nghỉ việc để tìm kiếm những gì ông muốn làm tiếp. Sau một thời gian ở Caltech và Washington DC, ông quyết định muốn sở hữu một công ty của riêng mình.
Sau đó Shockley bắt đẩu tuyển những kỹ sư hàng đầu trên cả nước Mỹ tới làm việc cho mình. Năm 1956, ông tuyển người, và họ chính thức mở cửa làm ăn kinh doanh.
Dù là nhà phát minh nổi tiếng, nhưng Shockley lại không phải là nhà quản lý giỏi. Năm 1957, chỉ sau một năm thành lập công ty, 8 nhân viên đơn giản là không thể làm việc nổi với ông thêm nữa. Tháng 9 năm đó, “8 nhân vật phản nghịch” đó – cái tên thường dùng để gọi họ sau này – đã quyết định thôi việc..
Hôm sau, 8 người đàn ông này ký một hợp đồng 1.3 triệu đô với một công ty ở New York tên là Fairchild Camera and Instruments để tạo ra công ty Fairchild Semiconductor. Fairchild hướng tới xây dựng các transistor theo cách họ muốn chứ không phải theo cách Shockley ra lệnh.
8 người đàn ông đó là: Julius Blank, Victor Grinich, Jean Hoerni, Gene Kleiner, Jay Last, Gordon Moore, Robert Noyce, và Sheldon Roberts. Mấy người trong số 8 người này sau này lại rời đi để sáng lập ra Intel, AMD, Nividia, và Kleiner Perkins.



8 nhân vật phản nghịch sau khi vừa thành lập xong Fairchild Semiconductor

Transistor đã trở nên cực kỳ phổ biến trong mọi thứ, từ radio tới điện thoại, máy tính, và giờ các nhà sản xuất muốn một thứ gì đó tốt hơn thế. Tất nhiên rồi, transistors nhỏ hơn đèn ống chân không, nhưng với một số thiết bị điện tử đời mới nhất, chúng vẫn chưa đủ nhỏ.
Sau khi một transistor được làm ra, nó phải được kết nối với dây dẫn và các linh kiện điện tử khác. Điều đó có nghĩa là transistor không thể nhỏ hơn thứ mà một người chỉ dùng cái nhíp vẫn có thể xử lý được.
Có hai người đã tìm ra giải pháp cho vấn đề này gần như cùng lúc. Độc lập với nhau, Jack Kilby và Robert Noyce nhận ra rằng tất cả các phần của một mạch, không chỉ transistor, đều có thể được làm bên ngoài silicon. Nếu có thể thành hiện thực, toàn bộ mạch có thể được xây dựng thành một khối tinh thể riêng biệt – khiến nó nhỏ hơn và dễ sản xuất hàng loạt hơn. Trong khi Kilby điên đầu với hàng loạt chi tiết để xây dựng từng thành phần riêng lẻ, thì Noyce nghĩ về một cách tốt hơn nhiều để kết nối toàn bộ các phần đó với nhau. Thế là mạch tích hợp (integrated circuit, người trong nghề chúng ta quen gọi là ‘con IC’) ra đời.


Robert Noyce với bản vẽ mạch tích hợp

Silicon dùng trong IC là nguồn gốc Thung lũng Silicon lấy làm tên cho mình. Năng lực sản xuất lớn, độ tin cậy và khả năng đóng gói theo từng khối theo thiết kế mạch của IC đảm bảo mức độ tăng trưởng nhanh chóng của nó. IC giờ được sử dụng trong mọi thiết bị điện tử, từ máy tính, điện thoại, tới các công nghệ hiện đại nhất.


Thiết kế mới của Công Viên Nghiên Cứu Stanford

Động cơ cải tiến của Fred Terman

Giống như nhiều cải tiến công nghệ khác, điện tử bắt đầu trong thời chiến. Trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II, Fred Terman rời vị trí giảng dạy ở Stanford để dẫn dắt một phòng nghiên cứu 850 người ở Đại Học Harvard.
Là người lãnh đạo nhiệm vụ quân sự tuyệt mật, Fred Terman bí mật nghiên cứu các phần mũi nhọn nhất, độc quyền trong lĩnh vực của mình. Khi chiến tranh gần kết thúc, ông nhận ra:
“Các nghiên cứu phục vụ chiến tranh [bây giờ] vẫn còn bí mật sẽ là cơ sở khôi phục và mở rộng nền công nghiệp điện tử thời hậu chiến… Stanford có cơ hội đạt được vị trí nào đó ở phương Tây tương tự như vị thế của Harvard ở phương Đông.”

Sau chiến tranh, ông tìm cách thu hút một số sinh viên giỏi nhất và khoa viện tốt nhất tới Stanford bằng cách bảo đảm tài trợ cho các dự án giúp tăng cường danh tiếng của Stanford trong lĩnh vực điện tử.
Điều này đã tập trung thúc đẩy đồng nghiệp và sinh viên thương mại hóa các ý tưởng của họ, trợ giúp bước nhảy vọt ban đầu về kỹ nghệ tại Stanford. Dần dần, danh tiếng của Stanford tăng trưởng và trở thành một nguồn cung công nghệ quân sự, sánh ngang với Harvard và MIT.
Nhưng sự ủng hộ thương mại hóa công nghệ của Terman đã vượt ra khỏi lĩnh vực quân sự. Terman thúc đẩy xây dựng Công Viên Nghiên Cứu Stanford (Stanford Research Park), một nơi chỉ phục vụ cho các công ty công nghệ tư nhân, mũi nhọn nằm vùng. Đó là mô hình đầu tiên thuộc dạng này, nhanh chóng trở thành ngôi nhà chung nổi tiếng của các nhà tiên phong trong lĩnh vực công nghệ như Lockheed, Fairchild, Xerox và General Electric.
Bạn có lẽ cũng sẽ bảo Công Viên Công Nghiệp Stanford là trung tâm liên kết mạng lưới gốc của một số bộ não sáng chói nhất trong lĩnh vực công nghệ, pha trộn giữa hàn lâm và công nghiệp, có mục tiêu phát triển tri thức công nghệ.
Kể từ đó, cây cầu nối của Stanford giữa trường đại học với ngành công nghiệp công nghệ trở nên mạnh mẽ, lôi cuốn, truyền cảm hứng và tinh thần doanh nhân cho rất nhiều sinh viên. Câu chuyện nổi tiếng nhất, tất nhiên, chính là của Terman và các học trò của mình William Hewlett và David Packard, hai người phát minh ra bộ dao động âm thanh cải tiến (audio oscillator). Terman đã thôi thúc cặp đôi này đưa đột phá của họ vào kinh doanh.
Dần dần, Hewlett – Packard (gọi tắt là HP) đã ra đời và chuyển vào công viên nghiên cứu, trở thành nhà sản xuất PC lớn nhất thế giới. Bill Hewlett và David Packard cùng đại gia đình doanh nghiệp của họ đã tặng trên 300 triệu đô cho Stanford.


Từ trái sang phải: Fred Packard, Bill Hewlett, and Fred Terman

Do gần gũi với hàng loạt cải tiến và phát minh đỉnh cao, các viện hàn lâm của Stanford đã có cơ hội định vị các thăng trầm công nghệ trong nền công nghiệp và tư bản hóa bằng cách đầu tư vào những nghiên cứu đột phá mới, chẳng hạn như đồ họa máy tinh, hệ thống GPS năng lượng thấp mà sau này trở thành Wi-Fi.



Một hệ thống mở

Nhiều nhà sáng lập các công ty ở Thung lũng Silicon đều có gốc gác từ miền Tây Nam. Dù họ có lẽ đã phải đi học đại học và sau đó làm việc ở Vùng Biển Phía Đông (East Coast – miền duyên hải hẹp từ Boston tới Washington DC), nhưng họ không thực sự chấp nhận hình thức và không khí nghẹt thở của Vùng Biển Phía Đông. Họ thấy sự tự nhiên của California phù hợp với sở thích của họ hơn. Họ cũng cảm thấy tự do trải nghiệm nhiều hơn với những cách tổ chức thể chế mới mẻ ở California.
Ý nghĩa cộng đồng tồn tại trong số những người làm về công nghệ ở Thung lũng Silicon không chỉ là một hiện tượng xã hội vui vẻ nhất thời. Nó cho phép các doanh nghiệp ở Thung lũng Silicon giải quyết các vấn đề kỹ thuật dễ dàng và nhanh chóng hơn nhiều so với các tổ chức lớn hơn ở Vùng Biển Phía Đông, nơi có nhiều điều luật cấm đoán. Điều này tạo cho Thung lũng Silicon một sự thích nghi và linh hoạt cực kỳ quan trọng đảm bảo sự sống còn trong nền công nghiệp – nơi khả năng thích nghi và linh hoạt còn quan trọng hơn cả bị mất các bí mật thương mại.
Trong cuốn sách Thiên Thần (Angel), Jason Calacanis đã giải thích:
Sản phẩm vĩ đại nhất mà Thung lũng Silicon đã từng tạo ra chính là Thung lũng Silicon, nơi thế hệ này nối tiếp thế hệ kia tái đầu tư và tự thúc đẩy nhau đạt tới những mức độ hiệu quả cao hơn nữa.
Thật sững sờ khi nhìn Google đạt 3 tỷ đô lợi nhuận hằng năm chỉ trong 9 năm, cho đến khi Facebook cũng làm chính xác cùng điều đó trong 7 năm. Facebook đã quan sát Google chiến đấu trên hàng tá thị trường và trở thành kẻ thống trị, sau đó họ làm điều đó trong ít thời gian hơn.
Airbnb và Uber quan sát Google và Facebook mở rộng khắp toàn cầu, đội ngũ quản lý của họ ghi nhớ những cái đó vào sổ tay và cải tiến thêm. Thế hệ khởi nghiệp kế tiếp sẽ lại làm điều tương tự.
Rất bình thường khi thấy những người làm cho Google chuyển sang Facebook vì các gói lương thưởng hấp dẫn hơn, mang theo toàn bộ kiến thức của họ về cỗ máy quảng cáo của Google. Sheryl Sandberg dành 7 năm ở Google xây dựng chương trình quảng cáo trước khi trở thành nhân vật số hai tại Facebook, sau Mark Zuckerberg.
Điều tương tự giờ cũng đang xảy ra với nhân viên của Facebook có kinh nghiệm trong các chiến lược quốc tế hóa để trở thành những nhà quản trị hàng đầu tại Uber và AirBnB.


Mạng lưới hoán chuyển tài năng giữa các hãng lớn ở Thung lũng Silicon năm 2011

Không giống như nhiều đồng nghiệp ở Vùng Biển Phía Đông, các doanh nghiệp ở Thung lũng Silicon hiểu rằng cộng tác và cạnh tranh đồng thời mới dẫn tới thành công. Ý tưởng này được phản ánh trong bộ luật của California cấm các thỏa thuận không cạnh tranh (NonCompete Agreements).  Ecosystem hỗ trợ thử nghiệm, xử lý rủi ro, chia sẻ các bài học thành bại.


Vị trí của nhiều nhà tư bản mạo hiểm ở Thung lũng Silicon

Đổ dầu vào lửa
Cuộc phóng thành công vệ tinh Sputnik của Sô Viết đủ khiến Quốc Hội Mỹ sợ hãi và phải thông qua đạo luật chính thức cho phép Bộ Doanh Nghiệp Nhỏ Hoa Kỳ (US Small Business Administration - SBA) cấp phép cho “các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh nhỏ lẻ - Small Business Investment Companies – SBICs” để hỗ trợ vốn và quản lý cho các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ. Giờ thay vì Chính phủ đầu tư vào công nghệ, các nhà quản lý quỹ tư nhân cũng có thể tìm kiếm và đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.


Cha đẻ của Tư Bản Mạo Hiểm

Công ty đầu tiên từng hưởng lợi từ việc chuyển đổi mô hình này là Fairchild Semiconductor, được thành lập bởi 8 kẻ phản nghịch đã rời bỏ Shockley Semiconductor. Arthur Rock là nhà đầu tư chính ở Fairchild Semiconductor năm 1961. Công ty của ông, Davis & Rock, được coi là công ty Đầu Tư Mạo Hiểm tư nhân đầu tiên.
Còn có 3 công ty nổi tiếng khác vào những năm 1960, đó là Draper, Gaither & Anderson (1961); Sutton Hill (1964); và Mayfield Funds (1963). Các công ty này đều đã tìm được những khoản lời khổng lồ khi đầu tư vào các công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon như Apple, Intel…
Năm 1969, toàn bộ cộng đồng đầu tư mạo hiểm có khoảng 20 người. Giống như phần còn lại của thung lũng, các nhà đầu tư mạo hiểm ban đầu này cũng chia sẻ nhiều ý tưởng với nhau.
Thực tế, có một lượng nhân sự chuyển qua lại giữa các công ty này. Bill Draper khởi nghiệp ở Draper, Gaither & Anderson và Sutton Hill. Mayfield Funds được đối tác của Arthur Rock là Tommy Davis tạo ra.
Luồng ý tưởng giữa các nhà đầu tư mạo hiểm làm gia tăng nhiều khái niệm ngày nay các nhà đầu tư công nghệ hay dùng, chẳng hạn như  tập trung vào nhà sáng lập hơn là công ty, làm chủ các doanh nghiệp hứa hẹn giống như “các doanh nghiệp thường trú”.
Ngay khi cả nước thu được toàn bộ số tiền làm ra ở Thung lũng Silicon, ngành công nghiệp này bắt đầu bùng nổ. Những người khổng lồ như Kleiner (1972), Sequoia Capital (1972), và New Enterprise Associates (1978) dù đều khởi nghiệp trong lĩnh vực gỗ mộc, đã mang ngày càng nhiều tiền của họ sang tiếp nhiên liệu cho sự sáng tạo và tăng trưởng của các công ty công nghệ cao.


Mike Markkula đưa ngân phiếu cho Steve Jobs (Vụ làm ăn được Sequoia tạo dựng)



Playbook App Author


Phần 2 sẽ đề cập đến sự ra đời của ngành công nghiệp máy tính và internet, và tại sao Thung lũng Silicon chiếm được lợi thế duy nhất riêng biệt.

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...