Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

Tại sao bạn không nên chia sẻ các mục tiêu của mình cho mọi người?


Tại sao bạn không nên chia sẻ các mục tiêu của mình?

Cuộc đua tạo ra chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới là một trận chiến hiếm thấy giữa anh em nhà Wright và một quý ông ít được biết đến hơn với cái tên Samuel Pierpont Langley.

Bạn sẽ khám phá ra lý do tại sao bạn chưa bao giờ nghe nói đến cái tên sau ở đoạn dưới đây.

Có lẽ bạn đã đọc đâu đó trong sách giáo khoa lịch sử bắt buộc thời tiểu học – anh em nhà Wright chịu trách nhiệm tạo ra chiếc máy bay thành công đầu tiên. Bạn hẳn còn nhớ câu chuyện diễn biến thế nào…

“đó là một ngày gió lạnh, ngày 17 tháng 12 năm 1903, trên đồi Kill Devil ở Bắc Carolina… Orville lo lắng nhìn anh trai Wilbur trèo vào trong chiếc máy bay họ mất nhiều năm để hoàn thiện… thật kỳ diệu nó bay được 59 giây với khoảng cách 852 feet…”

Trong khi ngày nay “anh em nhà Wright” trở thành cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu bất kỳ ai khi họ nghe thấy từ “bay”, thì ngày xửa ngày xưa đó, cặp đôi này chỉ là những kẻ yếu thế.

Thực tế, trong cuộc đua trên bầu trời, hầu hết nước Mỹ đều dành tiền cho người đàn ông mà tôi đề cập phía sau, Langley.

Ông là một nhà thiên văn học cực kỳ thẳng thắn, nhà vật lý và người tiên phong trong lĩnh vực hàng không – một người mang sứ mệnh làm nên lịch sử. Tầm cỡ và uy tín cao của Langley khiến Thư ký Học Viện Smithsonian trao cho ông toàn bộ sự tín nhiệm và đề cử mà ông cần để kéo cả nước Mỹ về phía ông.

Chưa kể, ông còn được hậu thuẫn cực tốt từ Bộ Chiến Tranh, nơi đóng góp 50.000 đô la giúp ông là người đầu tiên có một con chim trên bầu trời.

Chuyện hơi dài dòng, nhưng bất chấp tất cả kỳ vọng, cỗ máy để bay của Langley cuối cùng rơi và cháy, trong khi cái máy bay của anh em nhà Wright lại cất cánh.

Một bên đã có toàn bộ thế giới, những nguồn lực khổng lồ và đầy tiền bên cạnh, còn bên kia chỉ có một cửa hàng xe đạp nhỏ và niềm đam mê bay.

Thế nên, hãy để tôi hỏi bạn điều này… bạn có thể đoán tại sao anh em nhà Wright lại đạt được mục tiêu còn Langley thất bại không?

Khen ngợi sớm khiến bạn cảm thấy như đã chiến thắng

Chiến thắng của anh em nhà Wright trước Langley đã được quyết định bởi niềm đam mê, động lực nội tại (Langley bị điều khiển chủ yếu bởi địa vị) và có lẽ cả lời ngợi khen.



Trong khi Langley chia sẻ tham vọng của mình với cả thế giới và được đánh giá cao về những kỳ tích mà ông chưa đạt được, thì anh em nhà Wright lại nhận được rất ít sự chú ý.

Một số chuyên gia cho rằng có thể lời khen ngợi sớm khiến cá nhân nhận được lời khen cảm thấy nhưng mình đã chiến thắng… và khiến họ ít có khả năng theo đuổi mục tiêu hơn.

Ví dụ, trong bài nghiên cứu của Peter Gollwitzer “When Intentions Go Public” (Khi nào công khai kế hoạch), ông đã đặt ra câu hỏi này:

Các nhà khoa học có khả năng nghiên cứu nhiều hơn nếu họ kể cho đồng nghiệp nghe về các dự định của họ hay nếu họ giữ những dự định đó cho riêng bản thân?

Gollwitzer và nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện nhiều nghiên cứu, dưới đây là một trích đoạn ngắn từ phát hiện của họ:

“Việc người khác chú ý đến những dự định liên quan đến danh tính cụ thể của một người dường như tạo ra một cảm giác hoàn thành sớm liên quan đến mục tiêu của danh tính đó.”

Bằng tiếng Anh, Gollwitzer thấy rằng khi cá nhân đặt ra mục tiêu gắn liền với danh tính của họ rồi chia sẻ nó cho người khác biết, thì người đó sẽ ít có khả năng đạt được mục tiêu.

Ví dụ, nếu mục tiêu của bạn là bắt đầu uống  nhiều nước hơn, và bạn nói với bạn bè, gia đình mình rằng bạn sẽ bắt đầu uống nhiều nước, điều này thực sự ít hoặc không có ảnh hưởng tới việc bạn thực sự uống thêm nước hay không.

Tại sao? Vì uống nhiều nước hơn không phải là thứ bạn gắn với danh tính của mình.

Nói cách khác, nếu mục tiêu của bạn là giảm 40 lbs và 2-3 size vòng eo, đăng nó lên Facebook có lẽ không phải ý tưởng hay. Bề ngoài của bạn là thứ quen thuộc nhất bạn có thể nhận ra. Vì thế, nếu bạn nói với mọi người kế hoạch giảm cân, mọi người sẽ nói với bạn rằng bạn tuyệt thế nào, và trông sẽ hay ho hơn ra sao, vì thế bạn sẽ càng ít có khả năng giảm cân được.

Phát hiện này có chút phản trực giác, khi chúng ta luôn được các giáo viên dạy cách phát triển bằng cách thiết lập mục tiêu, chia sẻ mục tiêu, từ đó khiến bản thân có trách nhiệm đạt được điều đó.

Nhưng lý thuyết này chắc chắn vẫn có trọng lượng (vì nó vẫn khiến nhiều người chú ý), và trong số đó có một loạt các doanh nhân rất thành công, như Derek Sivers, nhà sáng lập CD Baby.

Sivers đã nói chuyện trong TED Talk về chủ đề này gần một thập kỷ trước. Để chứng minh quan điểm của mình, anh đã yêu cầu khán giả tưởng tượng xem họ cảm thấy thế nào khi chia sẻ mục tiêu của mình cho người khác:

“Hãy tưởng tưởng những lời chúc mừng và ấn tượng hình ảnh của họ về bạn cao thế nào. Bạn có thấy tuyệt khi nói về điều đó to lên không? Bạn có cảm thấy gần mục tiêu hơn một bước rồi không? Giống như nó đã trở thành một phần bản sắc của bạn rồi phải không?
Vâng, tin xấu đây. Bạn nên ngậm miệng lại. Cảm giác tốt đẹp kia sẽ khiến bạn ít có khả năng làm điều đó.”

Sivers tiếp tục giải thích rằng đó là vì “cảm giác ấm áp” này sẽ giữ chúng ta lại, không còn biết tranh đấu để thực sự đạt được mục tiêu.

Khi chúng ta cởi mở chia sẻ mục tiêu của mình, chúng ta đã trải qua một cảm giác thành công mà thông thường chỉ diễn ra sau khi đã hoàn thành mục tiêu.

Kết quả thì sao? Chúng ta không thực sự theo đuổi mục tiêu.

Các giải pháp thay thế để chia sẻ mục tiêu của bạn

Gần đây tôi đã chia sẻ ba chiến thuật kinh doanh trong đời thực để đạt được “mục tiêu to lớn” của bạn. Nhưng giờ hãy nói về những gì có thể thực sự vận hành khi mục tiêu của bạn đạt được thành công.

Vì hai phương pháp tiếp cận tới điều này đều trực quan nhưng hiệu quả, và nó liên quan đến hai triết lý, gọi là “Thiết lập sự sợ hãi”, và, nỗ lực bao quanh mình bằng sự cạnh tranh.

Chấp nhận sự sợ hãi trong việc chia sẻ mục tiêu

Doanh nhân, nhà đầu tư thiên thần và nhà văn Tim Ferriss, đã có một buổi nói chuyện thật khó tin với TED Talk về làm cách nào để thiết lập sự sợ hãi lại là công cụ đạt được mục tiêu.

Anh khuyên rằng thay vì ám ảnh với việc chia sẻ mục tiêu của bạn, bạn nên đối mặt trực diện với tất cả những nỗi sợ hãi đang ngăn cản bạn đạt được mục tiêu.

Ví dụ, nếu mục tiêu của bạn là bắt đầu khởi nghiệp. Ferriss khuyên bạn nên viết ra tất cả những nỗi sợ hãi của bạn liên quan tới khởi nghiệp.

Có thể là “Mất toàn bộ tiền”, “Bị sa thải khỏi công việc đang làm”, “Bị chê cười nếu thất bại”.

Một khi bạn viết ra chúng, bạn nên viết cả cách bạn dùng để ngăn chặn những nỗi sợ này (hoặc giảm thiểu khả năng chúng xảy ra).

Ví dụ, với nỗi sợ đầu tiên “mất toàn bộ tiền”, biện pháp ngăn chặn của bạn có thể là “Tôi chỉ đầu tư 2.500 đô trước để tôi không thể mất toàn bộ tiền”.

Cuối cùng, sau khi viết xong các biện pháp, bạn nên viết xuống cách bạn sửa chữa những gì bạn sợ sẽ xảy ra nếu chúng thực sự giúp ngăn những điều đó xảy ra.

Chẳng hạn, để sửa chữa việc mất 2500 đô, bạn có lẽ cần viết “Nhận một công việc làm thêm – làm bartender – cùng với công việc chính cho đến khi tôi kiếm đủ 2500 đô trở lại.”

Bằng cách tập trung vào thiết lập sợ hãi quanh việc chia sẻ mục tiêu, bạn sẽ loại bỏ nỗi sợ khiến bạn không đạt được mục tiêu của mình.

Tự bao quanh mình bằng sự cạnh tranh

Ngoài việc thiết lập sự sợ hãi, bao quanh bản thân bằng sự cạnh tranh cũng là ý hay.

Hàng tá cạnh tranh lành mạnh cũng có thể tốt cho doanh nghiệp của bạn. Ở JotForm, họ dùng cạnh tranh với các lợi thế của mình (các sự kiện như hackweeks) để đạt được mục tiêu phát hành sản phẩm.

Một nghiên cứu hai năm trước trên tờ Preventive Medicine Reports, đã mang tới chút ánh sáng về việc cạnh tranh tác động đáng kể lên mục tiêu của chúng ta thế nào.

Nghiên cứu đưa 800 sinh viên đại học và sau đại học tại ĐH Pennsylvania vào một chương trình thể dục kéo dài 11 tuần, mỗi người được chỉ định làm việc một mình hoặc theo nhóm.

Ngoài ra, các nhóm được thiết kế để hỗ trợ hoặc cạnh tranh nhau.

Kết thúc nghiên cứu, người ta thấy rằng các sinh viên trong các nhóm cạnh tranh có 90% đạt được mục tiêu bài tập theo lịch trình so với các nhóm khác.

Không chỉ có con số đáng kinh ngạc này, thí nghiệm còn chứng minh rằng cạnh tranh có thể tạo ra mức độ cam kết cao hơn giữa những người theo đuổi mục tiêu.

Khi bạn vây quanh mình bằng sự cạnh tranh, không có nghĩa là bạn phải chia sẻ mục tiêu với đối thủ. Bạn không phải nói cho đối thủ hay người khác rằng lớp thể dục, chương trình đào tạo cross – fit hay giải bóng rổ thực ra để thực hiện mục tiêu giảm 50 lbs của bạn.

Nhưng bằng cách có mặt và đặt bản thân vào môi trường cạnh tranh, bạn sẽ có nhiều khả năng thúc đẩy sự chăm chỉ hơn và hiện diện thường xuyên hơn – hai yếu tố có thể giúp bạn đạt được mục tiêu.

Khoa học đằng sau việc đạt được mục tiêu luôn là một chủ đề thú vị.

Trong khi vẫn có nhiều doanh nhân ủng hộ ý tưởng rằng bạn không bao giờ cần tới mục tiêu, tôi gần đây đã giải thích tại sao thiết lập mục tiêu lớn có thể làm bạn khốn khổ.

Dù bạn quyết định có chia sẻ mục tiêu của mình hay không, những gì tôi thu được trong 12 năm làm kinh doanh là bạn nên có con đường của riêng mình.

Những gì phù hợp với người khác không phải luôn vận hành với bạn. Và những gì phù hợp với bạn hôm nay không thể luôn phù hợp với bạn ngày mai.

Aytekin Tank
Ngày 16 tháng 5 năm 2018



Voltaire: Tìm kiếm mục đích cuộc đời


Tìm kiếm mục đích cuộc đời

Ít nhà triết học nào tạo ra ảnh hưởng to lớn lên nền triết học Pháp như Voltaire. Sinh năm 1694, Francois – Marie Arouet thuở nhỏ sống ở Paris, Pháp. Ông được giáo dục theo kinh điển Dòng Tên tại trường Cao Đẳng Louis – le – Grand.

Sau khi học xong, ông muốn trở thành nhà văn. Nhưng bố ông lại muốn ông theo chân mình thành một luật sư. Để xoa dịu cha, Arouet giả vờ học luật trong khi vẫn không ngừng sáng tác.

Arouet trở nên nổi tiếng trong giới đồng nghiệp nhờ tính châm biếm và sự thông thái. Không may, những tính cách kiểu này sớm dìm ông trong nước sôi lửa bỏng. Sau khi chế nhạo chính quyền, ông bị giam tại nhà ngục Bastille gần một năm. Sau khi được thả, ông quyết định đổi tên thành “Voltaire”.

Giống như nhiều nhà triết học thời kỳ Khai sáng, Voltaire ủng hộ tự do cá nhân, lý luận và đặt câu hỏi về các học thuyết tôn giáo. Các cuộc tranh luận với chính quyền khiến ông phải sống lưu vong khỏi nước Pháp. Kết quả là ông đi khắp nơi, từ Anh tới Brussels, cuối cùng là Phổ.

Voltaire đã viết một lượng đồ sộ các vở kịch và thơ ca, cùng với các tác phẩm lịch sử và triết học. Các tác phẩm của ông rơi vào một trong ba loại: một số ít phổ biến đến khó tin, một số nhiều thất bại, và một số tác phẩm đáng chú ý khiến những người xung quanh nổi giận. Cuộc đời ông cũng phản ánh đúng khuôn mẫu ấy. Ông có thể được chào đón ở những vùng đất mới, chỉ sau khi đã bị đuổi đi.

Ở Geneva, một lần nữa ông lại được chào đón trong vòng tay rộng mở. Nhưng các tác phẩm của ông đã kích động một số tri thức Thụy Sĩ, rồi các vở kịch của ông bị ngừng lại. Sau đó là tranh cãi và phê bình.

Một Voltaire mệt mỏi về ẩn dật ở Ferney, ngôi làng người Pháp nằm gần biên giới Thụy Sĩ. Chính ở vùng thôn quê này, ông đã trải qua một trong những quãng thời gian hạnh phúc và hiệu suất nhất trong đời. Lúc này, ông viết tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Candide (Tác phẩm xuất bản tại Việt Nam với cái tên Chàng Ngây Thơ).

Câu chuyện về Cadide

Xuất bản năm 1759, tác phẩm hư cấu bắt đầu trong lâu đài một nam tước ở Đức, nơi chàng trai trẻ Cadide sống một cách yên bình. Gia sư của chàng, tiến sĩ Pangloss, một người theo chủ nghĩa lạc quan, dạy chàng “mọi thứ đều sẽ hoàn thiện.”

Trải qua một loại sự kiện, Candide đi khắp Nam Mỹ và Châu Âu, nơi chàng chứng kiến và trải nghiệm nhiều bất hạnh từ thiên tai tới bạo lực bất công. Chàng bắt đầu nghi ngờ đặt câu hỏi liệu mọi thứ có thật đều trở nên hoàn thiên không, ý nghĩa nào đằng sau những sự kiện khủng khiếp chàng đã chứng kiến.

Candide là một lời phê phán về triết học trên mọi khía cạnh của thời kỳ Khai Sáng, thói đạo đức giả của các lãnh đạo tôn giáo, va những hành động vô nhân đạo được thực hiện dưới tên công lý. Nhiều sự kiện thực đã được phản ánh trong đó, như Chiến Tranh Bảy Năm, trận động đất thảm họa ở Lisbon năm 1755, vụ hành hình Đô Đốc John Byng khiến nhiều người giận dữ vào thời điểm đó.

Cuốn sách là một tác phẩm ngắn nhưng thú vị. Đừng bị lừa bởi thứ mỏng manh ấy. Đằng sau tấm màn che châm biếm và hài hước, nhiều vấn đề quan trọng đã được đưa ra – một số trong đó vẫn còn giá trị tới ngày nay.

Dưới đây là ba mối nguy hiểm mà câu chuyện đã thảo luận:

1.              Sự nguy hiểm của chủ nghĩa lạc quan

Xuyên suốt câu chuyện, Pangloss nhắc nhở Candide rằng rồi tất cả sẽ trở nên hoàn thiện, sẽ đạt đến trạng thái tốt nhất. Lợn được tạo ra để ăn, đó là lý do tại sao chúng ta ăn thịt lợn. Chân là để mang giày, đó là lý do tại sao chúng ta đi giày. Và cuối cùng, Vịnh Lisbon được tạo ra để nhân vật Jacques chết chìm trong đó.

Các lý lẽ nhằm hợp lý hóa của Pangloss rất đỉnh, nên nhân vật của ông được sử dụng để chế giễu các triết gia tin rằng mọi thứ xảy ra đều vì một lý do cụ thể nào đó. Theo Voltaire, nguy hiểm của chủ nghĩa lạc quan là nó dẫn tới sự không hành động. Khi Candide cố gắng cứu Jacques khỏi chết đuối, Pangloss đã ngăn chàng lại để chứng minh rằng Jacques chết đuối là hợp lý.

Điều này nghe có vẻ phi lý. Nhưng chúng ta trở thành nạn nhân của niềm tin rằng tư duy tích cực là một phần cốt lõi của thành công. Chúng ta nghĩ rằng nếu mình có thể nghĩ tích cực thì mọi thứ sẽ vận hành theo cách chúng vốn dĩ được tạo ra để làm vậy. Không may, các nghiên cứu chỉ ra rằng tưởng tượng về một kết quả cụ thể nào đó thực ra có thể cản trở hành động.

Thay vì chỉ tập trung vào kết quả cuối cùng, hãy bắt đầu với hành động. Lên kế hoạch cho bữa ăn hôm nay sẽ tốt hơn là nghĩ ra một con số trọng lượng cụ thể bạn giảm được vài tháng tới. Luyện tập một nhạc cụ sẽ giúp bạn đi xa hơn việc tưởng tượng bản thân đang đứng trước khán phòng chật ních khán giả. Bán hàng hóa ngoài trạm xăng mới sửa chữa lại có tính cạnh tranh hơn việc tô vẽ ý tưởng của bạn trong một công ty toàn cầu.

Khởi đầu nhỏ là một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả.

2.              Nguy hiểm của sự thành công

Mọi người đều thích thành công. Chúng ta nỗ lực vì nó, nói về nó, và bị thu hút bởi nó. Thật không may, thành công có thể thu hút mọi người vì những lý do sai trái.

Candide gặp vận may khi tìm thấy một mớ tài sản toàn vàng bạc, trang sức và cừu. Sau đó chàng đi chơi với một thương nhân hay đi đây đó – kẻ đã lừa gạt chàng. Candide đã thu hút cả những người bạn chỉ tiếp cận chàng với mục đích duy nhất là chiếm tài sản của chàng rồi biến mất.

Cuộc hành trình của chàng cho thấy “thành công” của chàng có cả mặt tốt và mặt xấu. Chàng dùng chúng để mua tự do cho các bạn và tìm được những người thực sự hữu ích. Nhưng không may chàng cũng thu hút những kẻ chỉ muốn có các tài nguyên của chàng, làm giảm sự lạc quan của chàng với cuộc đời.

Câu chuyện dạy chúng ta rằng thành công, dưới nhiều hình thức khác nhau, không như hứa hẹn. Như Candide đã thu được, đạt được thành công không có nghĩa là các vấn đề của bạn biến mất. Thay vào đó, chúng thay đổi thành một loạt các vấn đề khác.

3.              Nguy hiểm của việc không hoạt động

Hành trình tìm kiếm ý nghĩa của Candide cũng là hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Tại một số giai đoạn trong câu chuyện, Candide tới được nơi có thể khiến chàng hạnh phúc, nhưng rồi nó chỉ mang lại sự không hài lòng. Ví dụ, chàng thấy mình thật thần kỳ khi ở El Dorado, vùng đất yên bình rộng lớn giàu có. Nhưng chàng chỉ có thể nghĩ tới việc trở về quê hương cùng tài sản.

Khi Candide đoàn tụ với bạn bè và người yêu, một lần nữa chàng có thể được hạnh phúc. Họ đã thoát khỏi chiến tranh, bạo lực, và thiên tai. Nhưng họ trở nên bất an và chán nản. Chỉ khi Candide gặp một người nông dân làm việc chăm chỉ khiến chàng nhận ra một thứ họ cần: mục đích.

Candide nói: “Chúng ta phải chăm sóc khu vườn của mình.” Vì thế, họ dừng việc ngồi lê la và quyết định cùng nhau làm việc. Cuối cùng họ cũng hài lòng.

Nhiều người trong chúng ta khao khát một ngày nào đó mình có thể ngừng làm việc. Chúng ta mệt mỏi với những khó khăn vất vả hàng ngày. Nhưng khi chúng ta dừng lại, chúng ta cũng mất đi ý thức về mục đích.

Candide đã cho thấy sự nguy hiểm của việc chỉ ngồi triết học hóa mọi thứ mà không làm gì. Rất dễ bị cuốn vào những thứ ngoài tầm kiểm soát. Khi ta nghĩ về những gì người khác đang làm hoặc mấy tin đồn nhảm, ta đã đánh mất tầm nhìn vào việc cải thiện tình hình của bản thân.

Thay vào đó, hãy hướng vào khu vườn của bạn thôi.

Chăm sóc khu vườn của bạn

Sau khi Voltaire chuyển đến vùng nông thôn yên tĩnh, ông không được hưởng cảnh thanh bình lâu. Theo phong cách của Voltaire, ông lại khuấy động dân làng với những quan điểm của riêng mình.

Ông tiếp tục đấu tranh vì quyền lợi cá nhân, chống lại bao biện tôn giáo, và tham gia vào chính trị địa phương. Cuối cùng, người dân địa phương cổ vũ những nỗ lực của ông và làng Ferney được đổi tên thành Ferney – Voltaire.

Sau 28 năm lưu vong, Voltaire cuối cùng trở về Paris. Ông lại được tôn vinh và ca ngợi. Bằng cách chăm chút khu vườn của mình, Voltaire đã tìm thấy phần thưởng và ý nghĩa trong công việc của mình.


Theo Melissa Chu
Ngày 14 tháng 5 năm 2018


Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Dành cho người khởi nghiệp: Sức mạnh của việc Không Làm Gì


Sức mạnh của việc không làm gì



Ảnh gốc xuất bản trên jotform.com

Con cá sấu già đang nằm nổi bên bờ sông khi một con cá sấu trẻ hơn bơi tới bên cạnh nó.
“Tôi nghe nhiều người nói rằng bác là tay thợ săn ác liệt nhất con sông này. Làm ơn hãy dạy tôi các kỹ thuật của bác.”

Bị đánh thức khỏi giấc ngủ ngắn trong một ngày đẹp trời, con cá sấu già liếc nhìn con cá sấu trẻ với đôi mắt bò sát của mình, không nói gì và sau đó lại ngủ thiếp đi trên mặt nước.

Cảm thấy thất vọng và thiếu tôn trọng, cá sấu trẻ bơi ngược dòng đuổi theo mấy con cá da trơn, để lại phía sau một loạt bong bóng. Nó nhủ thầm: “Mình sẽ cho bác ta thấy.”

Cuối ngày, con cá sấu trẻ trở lại bên cá sấu già, kẻ vẫn đang ngủ và bắt đầu khoe khoang về cuộc săn mồi thành tựu của nó.
“Tôi đã bắt được hai con cá da trơn đầy thịt hôm nay. Bác bắt được gì rồi? Không có gì ư? Có lẽ bác không mạnh như người ta nói.”

Không hề bị ảnh hưởng, con cá sấu già lại nhìn cá sấu trẻ, không nói gì, nhắm mắt lại và tiếp tục nổi trên mặt nước khi những chú cá nước ngọt nhỏ xíu bơi nhẹ nhàng cùng đám tảo trên bụng nó.

Một lần nữa, con cá sấu trẻ tức giận vì không thể nhận được phản ứng nào từ vị cao tuổi kia, lần thứ hai nó bơi về thượng nguồn để xem có thể tiếp tục săn được cái gì.

Sau vài giờ lùng bắt, nó săn được một con cò nhỏ. Mỉm cười, nó giữ con cò trong hàm và bơi trở lại bên con cá sấu già, kiên quyết thể hiện ai mới là thợ săn thực sự.

Khi con cá sấu trẻ uốn người quay tròn, nó thấy con cá sấu già vẫn trôi nổi chỗ cũ bên bờ sông.

Tuy nhiên, có gì đó đã thay đổi – một con linh dương đầu bò to lớn đang thưởng thức việc uống nước buổi chiều chỉ cách đầu con cá sấu già vài mét.

Trong một chuyển động nhanh như chớp, con cá sấu già lao ra khỏi nước, quấn cái hàm quanh con linh dương khổng lồ và kéo nó xuống nước.

Kinh hoàng, con cá sấu trẻ bơi lên khỏi mặt nước với con chim nhỏ còn treo bên miệng. Nó nhìn cá sấu già đang thưởng thức bữa ăn 500 kg của mình và hỏi:
“Làm ơn… hãy nói cho tôi … làm sao…. Làm sao bác làm được điều đó?”

Nhìn qua con linh dương đầu bò, cá sấu già cuối cùng cũng đáp lại:

“Ta chả làm gì cả.”



Làm gì quan trọng hơn khoe khoang

Khi lần đầu xây dựng JotForm, tôi giống như con cá sấu trẻ tuổi, tin rằng tôi luôn phải làm gì đó mới có kết quả.

Hồi đó, nếu ai đó nói với tôi rằng có thể thu được kết quả lớn hơn nếu chẳng làm gì, tôi sẽ quay đi và tiếp tục dồn dập với ngày làm việc 16 giờ.

Tôi nghĩ để thành công, tôi phải liên tục xây dựng, làm việc, tăng trưởng và phát triển những thứ tiếp theo – bất kể “thứ” đó là gì.

Tất cả chúng ta đều có vấn đề với sự bận rộn. Nhưng bận rộn và thành công lại không đi cùng nhau. Và tôi nghĩ, nếu chúng ta đặt “không làm gì” ở thang ưu tiên cao hơn, chúng ta có lẽ tự thấy bản thân sẽ bắt được nhiều linh dương hơn cá da trơn.

Điều đó xảy ra đúng với tôi, và tôi hy vọng nó cũng đúng với bạn nữa.

Nhưng làm ít hơn hoặc không làm gì thì nói dễ hơn làm, đặc biệt với xã hội đắm chìm trong cảnh cực kỳ bận rộn này. Hãy xem xét kỹ hơn nỗi ám ảnh không lành mạnh của chúng ta với việc bận rộn…

Căn bệnh “cực kỳ bận rộn”

Nhân loại đã phải vật lộn với sự bận rộn từ lúc mới bắt đầu – hay ít nhất từ năm 425 TCN khi Homer đi tới Trái Đất.

Odyssey kể câu chuyện về những người ăn Hoa sen – một tộc người kỳ lạ suốt ngày lười biếng, chỉ ăn hoa sen và không làm gì cả. Và điều lạ lùng hơn cả chuyện viễn tưởng là những người này hài lòng với cuộc sống của họ.

Homer đã viết rằng sau khi một số thủy thủ trong đoàn người của Odyssey ăn Hoa sen của tộc người ăn Hoa sen (nói nhanh gấp 3 lần), họ bắt đầu giống tộc người ăn Hoa sen – hài lòng, thư giãn và hơi thờ ơ.

Sợ nếu toàn bộ đám người của mình ăn Hoa sen sẽ không còn động lực trở về nhà, Odyssey ra lệnh trói những người bị ảnh hưởng vào băng ghế và buộc con tàu khởi hành ngay lập tức.

Thật thú vị, phản ứng của Odyssey đối với cảm giác “không làm gì” này nghe giống với CEO công ty, các nhà sáng lập doanh nghiệp startup, hay huấn luyện viên bóng đá ở trường học mà chúng ta biết ngày nay – những người nghiện làm việc vất vả nên khinh miệt bất cứ thứ gì có thể ám chỉ tới cảm giác tự mãn.

Họ dù ở đỉnh của một tảng băng xã hội lớn hơn nhiều mà còn cảm thấy bị đóng băng vì sợ hãi khi nghĩ tới việc chẳng làm gì cả.

Cả thế giới hiện nay đo lường giá trị theo thuật ngữ bận rộn hơn là chất lượng công việc. Nói cách khác, nó đã trở thành một thứ biểu tượng – trạng thái “đang bận”.

Đã bao nhiêu lần bạn từng nghe hoặc bản thân rơi vào cuộc trò chuyện như thế này…
-                      Gần đây cậu thế nào, Mark?
-                      Ôi trời, bận phát điên mất thôi!
-                      Thật tuyệt khi nghe điều đó, anh bạn – cứ duy trì thế nha!

Chúng ta vô thức phát triển cách đo giá trị của một người dựa trên số giờ họ làm việc, số tiền trên đĩa của họ - dù họ có đang chạy như gà bị cắt tiết hay không.



Trong cuốn sách Tuần làm việc 4 giờ (4 hour Work Week) của Tim Ferriss, anh chàng vui vẻ với ý tưởng này bằng cách nói thẳng rằng nếu bạn muốn thăng tiến, bạn nên trông có vẻ bận rộn hơn bằng cách làm việc với nhiều giờ hơn, tranh giành với mọi người và liên tục trả lời email.

Nhưng sớm hay muộn, tất cả chúng ta đều phải tự hỏi bản thân: sứ mệnh của chúng ta là gì – liệu có phải là công việc bận rộn nhất hay việc tạo ra ảnh hưởng lớn nhất?

Và thật thú vị khi nhìn vào một số bộ óc vĩ đại nhất trên Trái Đất này, chúng ta đều thấy có một điểm chung thú vị - họ đều giành thời gian để không làm gì cả.

Sức mạnh của việc không làm gì

Làm cho một giai đoạn thời gian trong đời bạn không làm gì cả có thể là một thách thức – đặc biệt trong tuần làm việc khi chúng ta bị ném vào vô số cuộc họp, thông báo và danh sách các nhiệm vụ ngày càng tăng.

Những người sáng lập doanh nghiệp bận rộn bắt đầu triển khai cái gọi là “Think Weeks” (Những tuần lễ để suy nghĩ) vào lịch trình hằng năm của họ - đó là những khoảng thời gian họ dành để đọc, nghĩ, và sống bên ngoài thế giới đang bị đóng gói để vận hành doanh nghiệp của họ.

Trong khi những nhà sáng lập doanh nghiệp trẻ như Mike Karnjanaprakorn của Skillshare mới bắt đầu chấp nhận thực hành cách làm này, giống như các tên tuổi lớn như Steve Jobs, Mark Zuckerberg và Tim Ferriss, chính Bill Gates mới là người đầu tiên tạo ra cái Think Week nổi tiếng này.

Suốt nhiều năm điều hành Microsoft, Gates thường rút lui vào những tuần lễ Think Weeks dài khoảng hai lần mỗi năm – không phải là kì nghỉ, mà là khoảng thời gian thực sự không làm gì cả.

Gates rất kiên quyết thực hiện các Think Weeks của mình đến mức gia đình, bạn bè và cả nhân viên Microsoft cũng bị cấm. Ngày nay, Gates cho rằng phần lớn sự thành công của Microsoft đến từ những ý tưởng và khái niệm lớn ông tình cờ thu nhặt được trong khi không làm gì cả.

Thực hiện việc “Không làm gì”

Bạn không cần thiết phải cấm gia đình và bạn bè trong tuần lễ Think Week của mình. Để tôi lấy một ví dụ.

Mỗi năm, tôi dành ít nhất một tuần nghỉ ngơi, thoát khỏi công ty của tôi và quay trở lại quê nhà giúp bố mẹ tôi thu hoạch ô liu.



Tất cả những suy nghĩ về tăng trưởng hay tỉ lệ chuyển đổi của doanh nghiệp sẽ biến mất khi bạn chọn ô liu. Đó là thiền định và giúp mình bình tĩnh.

Tôi biết việc hái ô liu sẽ không đưa tôi đến đỉnh cao của TechCrunch, nhưng đó là thước đo thành công cá nhân. Bằng cách nào đó, một số ý tưởng hay nhất của tôi thường đến trong giai đoạn này.

Đối với những người không thể dành một tuần mỗi năm mà không làm gì cả, tôi khuyên bạn nên thực hiện một cách tiếp cận hơi khác một chút – thực hiện lễ Sabbath kĩ thuật số.

Vào thứ bảy hay chủ nhật, hãy ép bản thân tránh xa tất cả các hình thức công nghệ - một cách thực hành được gọi là Sabbath kỹ thuật số.

Hãy tắt điện thoại và giấu nó trong tủ quần áo. Hãy gập laptop lại, tống nó dưới giường. Và cố gắng bằng mọi nỗ lực tránh xem Netflix.

Hãy cho bộ não không gian suy nghĩ bằng cách bước ra khỏi cái máy xay thường nhật và không làm gì cả. Tâm trí bạn sẽ có thời gian để va chạm với những ý tưởng mới hoặc xử lý những cái cũ theo chiều sâu hơn.

Bạn có thể tìm thấy thành công đơm hoa từ việc thực hành như chú cá sấu già trong phần đầu bài viết này.

Trong khi chúng ta tự nhủ mình có thể đạt được nhiều hơn bằng cách bon chen xô đẩy trên đường đời, đôi khi chỉ cần nhắm mắt lại và trôi nổi tự nhiên lại tốt hơn.

Và hãy đợi, cho đến khi con linh dương đầu bò xuất hiện.

Aytekin Tank
Ngày 7 tháng 6 năm 2018


Dành cho các startup founders: Chiến lược chọn khu đất cao


Tâm lý học cho người sáng lập: Chiến lược chọn khu đất cao


Một người có thể thành doanh nhân vĩ đại nhất mọi thời đại. Còn người kia là Steve Jobs.

Tôi có hai câu chuyện để chia sẻ.

Một câu chuyện về doanh nhân có thể được cho là vĩ đại nhất mọi thời đại: Steve Jobs. Còn câu chuyện kia cũng về một doanh nhân (nhưng vì anh chàng mới chỉ 19 tuổi nên vẫn ngoài vòng phán xét): cậu em trai tôi, Tiger. Mục đích của những câu chuyện này là minh họa cho một bộ lệnh tâm lý học cực kỳ mạnh mẽ: chiến lược chọn khu đất cao.

Antennagate
(Đây là một cách chơi chữ của giới truyền thông – họ xem vụ bê bối này giống như vụ Watergate khi mà chính phủ đương nhiệm của tổng thống Nixon âm thầm theo dõi và do thám đảng đối lập và che đậy cho các hoạt động này. Tương tự vậy, giới truyền thông cho rằng Apple đang che đậy những vấn đề nghiêm trọng của iPhone 4, từ đó gây ra những thiệt hại to lớn cho người dùng (Antenna = Ăng-ten))

Đầu tiên: Steve Jobs. Tám năm trước Steve đã giới thiệu iPhone 4. Đây là một sản phẩm quan trọng của Apple. Các cuộc chiến smartphone đã bắt đầu nóng lên, và Apple cũng đang cảm nhận được sức nóng từ cả Android và Blackberry. Tôi vừa mới bỏ việc để dành toàn thời gian khởi nghiệp, vì thế tôi nhớ rất rõ vụ phát hành iPhone 4, đó cũng là lý do chính khiến tôi chuyển từ xài Android sang iPhone. Chiếc điện thoại này thật đẹp, giống chiếc đồng hồ cổ hơn là một thiết bị công nghệ. Đây là thời điểm trước khi “chiếc iPhone tốt nhất mà chúng tôi từng tạo ra” trở thành biểu tượng lan truyền khắp nơi và mỗi lần lặp lại như một bước nhảy vọt lượng tử so với phiên bản tiền nhiệm.

Vài ngày sau buổi phát hành chính thức, khủng hoảng nổ ra. Các báo cáo và tin tức lan truyền rằng khi cầm chiếc iPhone mới theo một cách nào đó có thể làm mất tín hiệu thu nhận. Người dùng cảm thấy bị xúc phạm. Các blogger trút nỗi tức giận lên Apple. Có vẻ như năng lực bóp méo thực tại nổi tiếng của Steve đang sụp đổ. Bất kỳ CEO nào khác khi gặp khủng hoảng cũng đều tìm cách biến mất, rồi thuê một công ty PR dập lửa cho. Họ sẽ đưa ra một lời xin lỗi công khai và hứa hẹn “sẽ làm tốt hơn lần tới”. Đó không phải Steve. Ông ấy đã tổ chức một cuộc họp báo và đích thân nói chuyện với giới truyền thông. Ông không xin lỗi. Ông không giải thích. Ông chẳng làm bất cứ điều gì một công ty PR có thể nghĩ ra để giải quyết tình huống này. Ông ấy đã làm gì? Đây là câu trả lời của ông: “Tất cả các điện thoại đều có vấn đề.”

Tinh thần Mamba
(Mamba là một loài rắn cực độc ở Châu Phi)

Bây giờ tới lượt người đồng sáng lập với tôi, cũng là cậu em trai Tiger của tôi. Bước vào trung học cơ sở, mục tiêu của anh chàng hơi khác so với các bạn cùng lớp. Trong khi họ bận rộn với các kỳ thi SAT và nộp đơn vào đại học, anh chàng lại nộp đơn xin làm kỹ sư phần mềm toàn thời gian. Tại sao vậy? Vì theo như tôi nhớ, Tiger luôn có tinh thần kiểu Mamba. Kobe Bryant là cầu thủ yêu thích của cậu, và giống như Kobe, cậu cũng mang một động cơ bệnh hoạn để đạt được thành công và chiến thắng. Lần đầu tiên tôi nhận ra điều đó là khi còn nhỏ, tôi mời các bạn đại học của mình cùng chơi Scrabble và Tiger đã đánh bại toàn bộ tất cả chúng tôi ngay khi cậu cảm thấy tệ, thay vì giúp đỡ chúng tôi. Hai chi tiết minh họa cho sự điên rồ của tình huống đó. Một: Tiger khi đó mới năm tuổi. Hai: Trận đầu tiên đã chênh lệch đến mức các bạn tôi và tôi quyết định chơi cùng một đội để hạ gục thằng bé. Vâng, bạn đọc chính xác rồi đấy. Sáu sinh viên ĐH California hai mươi tuổi đối đầu với một đứa trẻ năm tuổi và bị thua tơi tả. Theo tôi nhớ được, cậu có số điểm gấp 4 lần chúng tôi. Đó là cậu em tôi khi còn bé như hạt lạc. Đạo đức cũng như tính cạnh tranh của cậu cực kì khắc nghiệt đến nỗi bố mẹ hổ người Châu Á của chúng tôi thực sự gây áp lực buộc cậu dừng làm những việc tệ hại.

Với kiểu suy nghĩ đó, không ngạc nhiên khi Tiger muốn đi theo bước chân thần tượng của mình và bỏ học đại học. Với Kobe, mục tiêu là giải NBA. Với Tiger, đó là một công việc lập trình phần mềm ở một công ty công nghệ. Tôi nhớ đã nói chuyện với cậu về quyết định này lúc ấy. Bố mẹ chúng tôi nghĩ cậu lẩn thẩn rồi. Tôi cố động viên, nhưng trong đầu tôi không thực sự cho rằng cậu sẽ thành công. Các công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon vẫn thường từ chối cả những sinh viên tốt nghiệp giỏi nhất và chói sáng nhất từ Stanford hay Berkeley đó thôi. Làm gì có cơ hội cho một thằng nhóc 16 tuổi cơ chứ? Đó là một khởi đầu chậm, nhưng chắc là đủ số lời mời làm việc để cậu bước vào. Đầu tiên chỉ làm part time, sau đó làm internship (thực tập), rồi tới những offer toàn thời gian dù lương thấp. Tới một ngày, Tiger nhắn tin cho tôi và tôi suýt rơi cả điện thoại vì không tin nổi. PayPal đã dành cho cậu một lời đề nghị làm việc toàn thời gian để gia nhập đội ngũ Braintree core payments. Tiền lương của cậu còn cao hơn những gì tôi trả cho những người tốt nghiệp đại học ở Yahoo. Ít nhất tôi cũng rất tiếc phải nói vậy.

Làm sao cậu làm được điều đó? Tôi sẽ để cậu giải thích theo ngôn ngữ của mình, nhưng tóm lại, cậu đã biến tuổi trẻ từ điểm yếu dễ nhận thấy thành điểm mạnh. Đó là một ví dụ hoàn hảo về cách điều khiển hình ảnh. Thông điệp của Tiger tới các nhà tuyển dụng tiềm năng là: “Tuổi trẻ = năng lượng cao”.

Chiếm khu đất cao

Kẻ chiếm giữ vị trí cao không phải về đạo đức, hoặc có thái độ thánh thiện hơn bạn. Nói một cách đơn giản, đó là quá trình đưa một cuộc tranh cãi ra khỏi bãi cỏ đầy những thứ hỗn độn và ồn ào, rồi đặt lên mặt đất cao hơn – nơi mọi người đều đồng ý.

Bạn đã bao giờ tham gia buổi tranh luận chính trị trực tuyến nào chưa? Hầu hết thời gian, đảm bảo là cảnh hủy diệt lẫn nhau do thiên kiến xác nhận (sẽ post một bài liên quan tới nó vào lúc khác). Cách duy nhất để ra khỏi bề mặt đầy cỏ dại là thu nhỏ nó lại, rồi tìm ra điểm chung khiến chúng không thể bị chỉ trích.

Steve Jobs đã làm điều đó với “tất cả các điện thoại đều có vấn đề”. Mọi người biết điều đó là sự thật, nhưng một khi Steve đã nói điều đó, tình huống được khuếch đại hoàn toàn. Toàn bộ chi tiết của vụ antennagate có là vụ việc lớn hay không đều bốc hơi hết, và mọi người bắt đầu nhìn vào các nhà sản xuất điện thoại khác để xem liệu Steve có đúng hay không (tất nhiên, ông ấy đúng!). Các bài viết về vụ antennagate cơ bản đều biết mất chỉ qua một đêm.

Chiến lược chọn khu đất cao của Tiger là “tuổi trẻ = năng lượng cao”. Khi một nhà tuyển dụng nhìn vào đám cỏ dại, có nhiều lý do để họ không tuyển một học sinh trung học. Nhưng bằng cách kết hợp thương hiệu tuổi trẻ của cậu với năng lượng, cậu đã trở thành kỹ sư trẻ nhất trong lịch sử PayPal.

Lưu ý rằng hai câu phát biểu mà tôi tô đậm đều đơn giản và mơ hồ về mục đích. Một chiến lược chọn khu đất cao không thể phức tạp hay cụ thể, vì điều đó sẽ mời gọi tư duy phê phán. Mục tiêu là chấm dứt các phê phán bằng logic thông qua hấp dẫn cảm xúc.

Vậy khi nào bạn có thể dùng chiến lược chọn khu đất cao? Nó được xài tốt nhất khi việc phê bình theo logic có khả năng gây ra kết thúc bất lợi hoặc bế tắc cho bạn. Đây là tâm lý kiểu Ctrl + Alt + Delete. Quan trọng phải nhớ rằng đây không phải là cách để dành chiến thắng, mà chỉ để kết thúc với việc đổ máu tối thiểu. Là một doanh nhân lúc mới khởi nghiệp, logic không thuộc về bạn. Hầu hết mọi thứ liên quan đến logic sẽ không chịu được những bình luận quan trọng. Khi bạn đang mời gọi nhà đầu tư, bạn đang bán một giấc mơ. Khi bạn nói chuyện với khách hàng, bạn đang bán một tương lai tiềm năng. Khi bạn tuyển dụng nhân viên, bạn đang tạo ra một kịch bản lý tưởng có khả năng sẽ không thành hiện thực. Trong mỗi tình huống, câu trả lời logic đều luôn là Không. Để nhận được cái gật đầu đồng ý, lựa chọn tốt nhất của bạn là chiến lược tìm khu đất cao. Ví dụ:

Nhà đầu tư: Chúng tôi muốn đầu tư nhưng số liệu của bạn không hấp dẫn.
Cái bẫy ở đây là để phê phán số liệu của bạn. Đó là một sai lầm! Những gì bạn nên nói là:
Anh nói đúng, các số liệu hiện tại không phải là những gì chúng tôi muốn. Nhưng chúng tôi là một công ty nhỏ, nhanh nhẹn với những người sáng lập có năng lực, và chúng tôi sẽ vượt qua các đối thủ lớn hơn. Với sự giúp đỡ của anh, chúng ta có thể thực hiện hành trình đó cùng nhau. Hãy tưởng tượng tới lúc nhìn lại ngày hôm nay khi chúng ta đã phát hành ra công chúng!

Nhìn xem bạn đã làm gì này? Chúng ta đã chuyển từ bãi cỏ (các số liệu) đến một điểm không thể phê phán (các công ty nhỏ thì nhanh nhẹn hơn). Chúng ta cũng mời nhà đầu tư vào một cuộc phiêu lưu sử thi. Ai lại không thích điều đó cơ chứ? Cuối cùng, chúng ta đã giúp họ suy nghĩ vượt ra khỏi phạm vi bán hàng (là một bài khác, post vào dịp khác).

Nếu bạn nghi ngờ tính hiệu quả của chiến thuật này, hãy chú ý tới lần tiếp theo bạn chứng kiến một vụ tranh cãi. Nó kết thúc như thế nào? Có phải vì ai đó có logic siêu đẳng? Hay vì ai đó đã nhảy tới khu đất cao hơn?

Tôi thường muốn tránh chính trị nhưng vương quốc chính trị lại trĩu trịt những ví dụ về chiến lược chọn khu đất cao. Để tránh thiên vị, tôi sẽ sử dụng một ví dụ từ mỗi phe.

Khi Barack Obama cố thông qua kế hoạch chăm sóc sức khỏe của mình, cuộc tranh luận nằm trên bãi cỏ với: phí bảo hiểm, các điều kiện tồn tại từ trước, dự báo ngân sách dài hạn,… Làm sao để Obama cắt phăng những nhiễu loạn này? “Người Mỹ đang chết một cách không cần thiết do chăm sóc sức khỏe kém. Chúng ta cần làm tốt hơn.” Thế là bùm! Chiến lược chọn khu đất cao. Thông qua.

Vài tháng sau, Kanye West lên tiếng ủng hộ Tổng thống Trump. Internet bùng nổ. Kanye có đi vào đám cỏ chính trị và chính sách để bảo vệ nhiều vi phạm của Trump không? Không. Ông ấy đã nói gì? (hãy kiểm tra những dòng tweets của ông ấy nếu bạn không tin tôi) “Hiện nay có quá nhiều sự căm ghét ở đất nước này. Tại sao không thử yêu thương?” Thế là BÙM. Chiến lược chiếm khu đất cao. Phương tiện truyền thông huyên náo khuếch đại nó lên.

Giờ tôi biết cả hai con người trên đều chẳng thay đổi nhiều cái đầu nữa. Mọi người tôi vừa đề cập vẫn còn gây nhiều tranh cãi (vì đó là bản chất của chính trị, cũng là lý do tại sao nó là một ví dụ tuyệt vời). Nhưng trong cả hai trường hợp, tranh cãi tầm quốc gia đã bị giảm đi một cách hiệu quả.

Vì thế, nếu lần tới bạn thấy mình phải chiến đấu trong cỏ dại, hãy ngẩng đầu lên và tìm kiếm vùng đất cao hơn. Bạn có thể phải ngạc nhiên với kết quả đấy.

Bignoggins
Ngày 22 tháng 8 năm 2018



Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2018

Qui Tắc Một Phần Trăm: Kẻ thắng lấy hết


Qui Tắc 1 Phần Trăm: Tại sao một số ít người nhận gần hết thành quả

Đâu đó cuối những năm 1800 – không ai nhớ chính xác là khi nào – một người đàn ông tên Vilfredo Pareto đã gây huyên náo với những gì xảy ra trong khu vườn của mình khi ông có một phát hiện nhỏ nhưng thú vị.

Pareto nhận thấy rằng một lượng nhỏ các hạt đậu trong vườn đã tạo ra phần lớn các cây đậu.

Bấy giờ Pareto là một người rất đam mê toán học. Ông là một nhà kinh tế học và một trong những di sản lâu dài của ông đã biến kinh tế học thành một môn khoa học dựa trên những con số và các sự kiện thực tế. Không giống nhiều nhà kinh tế học đương thời, các nghiên cứu và sách của Pareto đầy các phương trình toán học. Và các hạt đậu trong vườn đã làm bộ não toán học của ông chuyển động.

Điều gì sẽ xảy ra nếu phân bố không đều này cũng có mặt trong các lĩnh vực khác của cuộc sống?



Nguyên lý Pareto

Lúc đó, Pareto đang nghiên cứu về sự giàu có của các quốc gia. Vì là người Ý, nên ông bắt đầu bằng việc phân tích sự phân bố của cải ở Ý. Vô cùng ngạc nhiên, ông phát hiện ra rằng khoảng 80% đất đai ở Italia được sở hữu bởi chỉ khoảng 20% dân số. Tương tự với các hạt đậu trong vườn của ông, hầu hết các tài nguyên đều được điều khiển bởi một lượng nhỏ người chơi.

Pareto tiếp tục phân tích của mình với các quốc gia khác và một mẫu hình bắt đầu xuất hiện. Ví dụ, sau khi xem xét hồ sơ thuế thu nhập ở Anh, ông nhận thấy khoảng 30% dân số Anh kiếm được khoảng 70% tổng số thu nhập.

Tiếp tục nghiên cứu, Pareto phát hiện ra các con số này không bao giờ giống nhau, nhưng xu hướng này nhất quán một cách đáng kinh ngạc. Phần lớn các phần thưởng dường như luôn tích lũy chỉ cho một số lượng nhỏ người. Ý tưởng về một số nhỏ các thứ lại chiếm hết phần lớn các kết quả trở nên nổi tiếng với cái tên Nguyên lý Pareto, hay phổ biến hơn là Qui luật 80/20.

Bất bình đẳng ở khắp mọi nơi

Những thập kỷ sau đó, công trình của Pareto thực tế đã trở thành kinh thánh cho các nhà kinh tế học. Một khi ông ấy đã mở mắt cho cả thế giới bằng ý tưởng này, người ta bắt đầu nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi. Và qui tắc 80/20 ngày càng phổ biến hơn bao giờ hết.

Ví dụ, tính đến hết mùa giải 2015-2016 tại Hiệp Hội Bóng Rổ Quốc Gia, 20% tên tuổi đã giành 75.3% số chức vô địch. Hơn nữa, chỉ có 2 thương hiệu – Boston Celtics và Los Angeles Lakers – thắng gần như một nửa số chức vô địch trong lịch sử NBA. Giống như các hạt đậu của Pareto, một số nhỏ các đội sẽ chiếm phần lớn các giải thưởng.

Con số còn cực đoan hơn trong bóng đá. Trong khi có tới 77 quốc gia từng tham gia thi đấu World Cup, nhưng chỉ có 3 quốc gia – Brazil, Đức, Ý - đã từng vô địch 13 trong tổng số 20 lần World Cup đầu tiên.

Các ví dụ về nguyên lý Pareto tồn tại trong mọi thứ, từ bất động sản tới bất bình đẳng thu nhập, hay các khởi nghiệp công nghệ. Những năm 1950, 3 phần trăm số người Guatemala sở hữu 70% đất đai ở quốc gia này. Vào năm 2013, 8.4% dân số thế giới quản lý 83.3% tài sản của thế giới. Năm 2015, chỉ một mình cỗ máy tìm kiếm Google đã nhận 64% câu truy vấn tìm kiếm trên Internet.

Tại sao điều này xảy ra? Tại sao một số ít người, đội nhóm và tổ chức lại hưởng phần lớn thành tựu trên đời? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ từ tự nhiên.


Sức mạnh của lợi thế tích lũy

Rừng mưa nhiệt đới Amazon là một trong những hệ sinh thái đa dạng nhất trên Trái Đất. Các nhà khoa học đã liệt kê khoảng 16000 loài cây khác nhau ở Amazon. Nhưng bất chấp mức độ đa dạng đáng kinh ngạc này, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chỉ có 227 loài cây “siêu thực vật” chiếm gần một nửa rừng mưa. Nghĩa là chỉ 1.4% số loài cây chiếm 50% số cây ở Amazon.

Nhưng tại sao?

Hãy tưởng tượng hai cái cây trồng bên cạnh nhau. Mỗi ngày chúng sẽ cạnh tranh nhau ánh sáng mặt trời và đất. Nếu một cây có thể mọc nhanh hơn một chút so với cây kia thì nó có thể vươn cao hơn, bắt nhiều ánh sáng mặt trời hơn và hấp thụ nhiều mưa hơn. Ngày hôm sau, năng lượng bổ sung này cho phép cây tăng trưởng nhiều hơn nữa. Mô hình này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi cái cây mạnh hơn loại bỏ cây còn lại và chiếm phần lớn ánh sáng, đất và dinh dưỡng với công phu sư tử ngoạm.

Từ vị trí thuận lợi này, cái cây chiến thắng có khả năng tốt hơn trong việc phân tán hạt giống và sinh sản, điều này cho phép các giống loài nhận thêm một chỉ dấu lớn hơn trong thế hệ kế tiếp. Quá trình này cứ lặp đi lặp lại cho tới khi những cái cây ưu thế hơn một chút trong cuộc cạnh tranh thống trị toàn bộ khu rừng.

Các nhà khoa học gọi hiện tượng này là “lợi thế tích lũy”. Một thứ bắt đầu chỉ là một lợi thế nhỏ, nhưng lớn dần theo thời gian. Một cái cây ban đầu chỉ cần một cành nhỏ để dẫn đầu cuộc cạnh tranh, sau đó chiếm toàn bộ khu rừng.

Hiệu ứng Kẻ thắng Lấy Hết

Điều này tương tự như trong cuộc sống của con người.

Giống như những cái cây trong rừng nhiệt đới, loài người thường cạnh tranh trước những tài nguyên tương tự. Các chính trị gia cạnh tranh phiếu bầu. Các tác gia cạnh tranh cho vị trí trên top danh sách bán chạy nhất. Các vận động viên cạnh tranh nhau một tấm huy chương vàng. Các công ty cạnh tranh nhau cùng một đối tượng khách hàng tiềm năng. Các show truyền hình cạnh tranh nhau cùng một khung giờ để gây sự chú ý nhất tới bạn.

Sự khác biệt đôi khi chỉ mỏng như dao cạo, nhưng người thắng cuộc sẽ được hưởng phần thưởng vượt trội hơn hẳn.

Hãy tưởng tượng tình huống hai phụ nữ bơi lội trong Thế vận hội Olympics. Một người có thể chỉ nhanh hơn người kia 1/100 giây, nhưng cô ta sẽ được huy chương vàng. Mười công ty cùng quảng cáo cho một khách hàng tiềm năng, nhưng chỉ một trong số họ giành được dự án. Bạn chỉ cần tốt hơn đối thủ một chút nhỏ thôi cũng đảm bảo chiếm tất cả phần thưởng. Hoặc, trong tình huống bạn đi xin việc. Hai trăm ứng cử viên cùng cạnh tranh 1 vị trí, và chỉ cần tốt hơn một chút xíu thôi so với ứng viên khác đã đủ để bạn giành được công việc trọn vẹn.

Tình huống trong đó sự khác biệt nhỏ về hiệu suất dẫn đến phần thưởng vượt trội được gọi là Hiệu ứng Kẻ Thắng Lấy Hết.

Chúng thường xảy ra trong những tình huống liên quan đến so sánh tương đối, nơi hiệu suất của bạn liên quan tới những người xung quanh là yếu tố quyết định thành công của bạn.

Không phải mọi thứ trong đời đều là cuộc cạnh tranh kiểu Kẻ thắng dành hết, nhưng gần như mọi lĩnh vực trong cuộc sống đều bị các tài nguyên hữu hạn ảnh hưởng ít ra là một phần nào đó. Bất kì quyết định liên quan đến sử dụng tài nguyên hữu hạn như thời gian hay tiền bạc sẽ tự nhiên dẫn tới tình huống Kẻ Thắng lấy Hết.

Trong những tình huống như thế, chỉ tốt hơn một chút thôi, dù rất nhỏ, so với đối thủ, có thể dẫn tới phần thưởng vượt trội vì người thắng là người dành tất cả. Bạn chỉ hơn đối thủ 1%, hay 1 giây, hay 1 đô la, nhưng bạn lại ôm trọn 100% vinh quang. Lợi thế của việc tốt hơn một chút không phải là phần thưởng nhiều hơn một chút mà là toàn bộ phần thưởng. Kẻ thắng lấy toàn bộ, phần còn lại không nhận được gì.



Kẻ Thắng Lấy Hết dẫn tới Kẻ Thắng Lấy Hầu Hết

Hiệu ứng Kẻ Thắng Lấy Hết trong cạnh tranh cá nhân có thể dẫn đến hiệu ứng Kẻ Thắng Lấy Hầu Hết trong trò chơi rộng lớn của cuộc đời.

Từ vị trí lợi thế này – huy chương vàng trong tay hay tiền trong nhà băng, hay một ghế trong phòng bầu dục – người thắng sẽ bắt đầu quá trình tích lũy các lợi thế, điều đó khiến họ dễ dàng hơn để chiến thắng lần kế tiếp. Thứ bắt đầu chỉ với biên độ nhỏ sẽ dần dần hướng về qui luật 80/20.

Nếu một con đường chỉ thuận tiện hơn một chút so với con đường khác, sẽ có nhiều người đi qua hơn, nhiều doanh nghiệp xây dựng dọc theo nó hơn. Mà một khi nhiều doanh nghiệp được xây dựng, người ta sẽ có thêm nhiều lý do để sử dụng con đường và khiến nó trở nên ngày một đông đúc. Và bạn có thể nói: “20 phần trăm các con đường chiếm 80% lượng giao thông.”

Nếu một doanh nghiệp có công nghệ cải tiến hơn doanh nghiệp khác, thì nhiều người sẽ mua sản phẩm của họ hơn. Khi doanh nghiệp đó kiếm được nhiều tiền hơn, họ có thể đầu tư thêm công nghệ, trả lương cao hơn, thuê được người giỏi hơn. Theo thời gian, kể cả đối thủ cạnh tranh có bắt kịp, vẫn có lý do để khách hàng gắn bó với doanh nghiệp đầu tiên. Chẳng bao lâu, một công ty sẽ thống trị ngành này.

Nếu một tác giả lọt vào danh sách best – seller, thế là các nhà xuất bản sẽ quan tâm hơn tới quyển sách kế tiếp của ông ấy. Khi quyển sách thứ hai ra đời, nhà xuất bản sẽ dành nhiều tài nguyên và năng lực tiếp thị hơn cho nó, và điều đó khiến nó dễ dàng lọt vào danh sách best – seller lần thứ hai. Giờ bạn đã bắt đầu hiểu tại sao chỉ có vài cuốn sách bán được hàng triệu bản trong khi phần lớn phải tranh đấu dữ dội mới bán được vài ngàn bản.

Biên độ giữa tốt và vĩ đại hẹp hơn chúng ta tưởng. Cái bắt đầu chỉ là một khía cạnh nhỏ ưu thế hơn trong cuộc cạnh tranh sẽ được tích lũy cho mỗi cuộc thi kế tiếp. Chiến thắng một cuộc đấu sẽ cải thiện khả năng chiến thắng của bạn trong trận đấu kế tiếp. Mỗi chu kỳ bổ sung sẽ trát thêm xi măng vào trạng thái của những kẻ ở top đầu.

Theo thời gian, những ai chỉ tốt hơn một chút sẽ chiếm hầu hết phần thưởng. Những người chỉ không tốt bằng một chút nhỏ thôi thì trận kế sẽ chả có gì. Ý tưởng này đôi khi còn gọi là Hiệu ứng Matthew, ám chỉ một đoạn trong Kinh Thánh: “Phàm những ai đang có, sẽ được cho thêm, và còn được dư thừa; còn những kẻ không có, ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi.”

Bây giờ, chúng ta hãy quay trở lại câu hỏi tôi đã đặt ra ở đầu bài viết này. Tại sao một số ít người, đội nhóm, và tổ chức lại hưởng phần lớn thảnh quả trên đời?

Qui tắc 1 phần trăm

Những khác biệt nhỏ về hiệu suất có thể dẫn tới những phân phối rất bất bình đẳng khi được lặp đi lặp lại theo thời gian. Đây là một lý do nữa minh chứng cho giải thích tại sao thói quen lại quan trọng đến vậy. Những cá nhân và tổ chức có thể làm những điều đúng đắn, một cách càng ngày càng nhất quán, sẽ có khả năng duy trì một hoặc vài lợi thế cạnh tranh rất nhỏ, dần dần sẽ tích lũy lượng phần thưởng to lớn không hề cân xứng theo thời gian.

Bạn chỉ cần tốt hơn một chút so với đối thủ của bạn, nhưng nếu bạn có thể duy trì lợi thế đó hôm nay, ngày mai, ngày kia, rồi bạn có thể lặp đi lặp lại quá trình chiến thắng từng chút nhỏ một như thế. Và cảm ơn Hiệu ứng Kẻ Thắng Lấy Hết, mỗi chiến thắng sẽ mang lại cho bạn phần thưởng vượt trội.

Bạn có thể gọi đó là Qui Tắc 1 phần trăm. Qui tắc 1 phần trăm phát biểu rằng: theo thời gian, phần lớn các phần thưởng trong một lĩnh vực nào đó sẽ tích lũy cho những cá nhân, đội ngũ, tổ chức duy trì được lợi thế lớn hơn 1% so với số còn lại. Bạn không cần phải giỏi gấp đôi để nhận được gấp đôi phần thưởng. Bạn chỉ cần giỏi hơn họ một chút rất nhỏ thôi.

Qui tắc 1 phần trăm không chỉ đơn thuần tham chiếu tới một thực tế rằng những khác biệt nhỏ sẽ được tích lũy thành những lợi thế đáng kể, mà còn phản ánh ý tưởng cho rằng những kẻ tốt hơn 1% sẽ thống trị các lĩnh vực và ngành nghề tương ứng của chính họ. Do đó, quá trình tích lũy lợi thế là một động cơ điều khiển qui luật 80/20 đang bị che dấu đi.

James Clear