Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 24



CHƯƠNG 24

Đi trên Tấm ván gỗ
Ngày kế tiếp, những người câm đánh thức chúng tôi trước bình minh; lúc đó chúng tôi đã ngủ đẫy mắt, cọ rửa qua loa bên bờ suối tuôn trào từ đống tàn tích khu lòng chảo đá cẩm thạch ở trung tâm ngã tư Phía Bắc cung điện lớn bên ngoài, chúng tôi thấy Bà ấy đang đứng bên cái ổ sẵn sàng để khởi hành, trong khi Billali già nua và hai người câm khiêng ổ bận rộn thu thập hành lý. Như thường lệ, Ayesha che mặt giống Thần Sự Thật bằng đá cẩm thạch (dù sao, tôi tự hỏi liệu bà ấy có lấy ý tưởng che vẻ đẹp của mình từ bức tượng đó không nhỉ?). Nhưng tôi thấy dường như bà ấy rất chán nản, không có gì tự hào và vui vẻ khi sở hữu thứ sẽ phản bội bà ấy giữa hàng nghìn phụ nữ cùng kiểu, thậm chí ngay cả nếu họ che mặt như bà ấy. Bà ta ngước nhìn chúng tôi đi tới – bà khẽ cúi đầu – chào đón chúng tôi. Leo hỏi bà ấy ngủ thế nào.
“Mệt mỏi, Kallikrates của ta,” bà ấy trả lời, “mệt mỏi. Tối qua có những giấc mơ kỳ lạ và xấu xí bò vào não ta, ta không biết chúng báo trước điều gì. Hầu như ta cảm thấy như thể quỉ dữ phủ bóng đen lên ta; quỉ dữ có thể chạm vào ta bằng cách nào chứ? Ta tự hỏi,” bà ấy tiếp tục bằng vẻ dịu dàng nữ tính đột ngột, “ta tự hỏi liệu có gì đó sẽ xảy đến với ta chăng, vì vậy ta chỉ ngủ được một lúc và chờ chàng thức dậy, chàng có nghĩ giống ta không? Ta tự hỏi, Kallikrates của ta, liệu chàng có muốn trì hoãn tới lúc ta trở lại, như ta đã chờ đợi chàng trở lại từ bao thế kỷ qua?”
Rồi không đợi câu trả lời, bà ấy tiếp tục: “Đi thôi, chúng ta sẽ tạo ra được, vì chúng ta phải đi xa, trước ngày màu xanh đằng xa kia sinh ra, chúng ta cần đứng ở nơi của Sự Sống.”
Năm phút sau chúng tôi lại một lần nữa ở trên con đường xuyên qua thành phố đổ nát mênh mông, hiện ra lờ mờ trước mắt chúng tôi ở hai bên trong bình minh màu xám theo cách mỗi lúc một lớn và áp bức. Chỉ khi ánh bình minh đầu tiên bắn tới như mũi tên vàng xé tan cảnh hoang tàn này, chúng tôi đã đi tới cửa ngõ xa kế tiếp của bức tường bên ngoài, liếc nhìn lần nữa vẻ uy nghi cổ kính đầy cột trụ chúng tôi vừa đi qua, (trừ Job, người không bị đám phế tích này quyến rũ) thở dài tiếc nuối vì chúng tôi không có nhiều thời gian khám phá nó, đi qua con hào lớn, lại đến một đồng bằng xa hơn.
Khi mặt trời lên, tinh thần của Ayesha vẫn thế, tới bữa sáng bà ấy mới trở lại bình thường, bà ấy tươi cười bỏ xuống vẻ trầm mặc trước đó vì căng thẳng nơi bà ấy vừa ngủ đêm qua.
“Những kẻ man rợ kia thề rằng Kôr bị ma ám,” bà ấy nói, “thật ra ta tin lời họ, vì ta chưa bao giờ mệt mỏi đến thế chỉ sau một đêm. Giờ ta mới nhớ ra điều đó. Chính ở chỗ đó chàng nằm chết dưới chân ta, Kallikrates. Ta sẽ không bao giờ thăm lại nó nữa; đó là một nơi mang điềm xấu.”
Sau khi dừng lại nhanh chóng cho bữa sáng, chúng tôi tự thúc ép bằng ý chí cao độ rằng hai giờ chiều, chúng tôi sẽ tới chân bức tường đá lớn tạo thành miệng núi lửa, lúc này ngọn núi đã hiện lên cao và dốc đứng trước chúng tôi khoảng 1500 tới 2000 feet. Chúng tôi dừng ở đó, không quá ngạc nhiên, vì tôi chưa biết chúng tôi nên đi tiếp thế nào.
“Bây giờ,” Ayesha nói khi xuống ổ, “chúng ta bắt đầu phải bỏ sức lực, vì chúng ta sẽ chia tay những người này ở đây, từ lúc này về sau chúng ta phải tự mang vác;” rồi nói với Billali, “ngươi và những nô lệ này hãy ở đây, chờ chúng ta trở lại. Vào trưa mai chúng ta sẽ ở đây với các ngươi – nếu không, hãy chờ đợi.”
Billali cúi đầu khiêm tốn, nói rằng mệnh lệnh uy nghiêm của bà ấy sẽ được tuân theo và họ sẽ dừng ở đây tới khi họ già.
“Người đàn ông này, ôi Holly,” Bà ấy nói, chỉ vào Job; “tốt nhất hắn ta cũng nên ở lại, vì nếu trái tim hắn không cao cả và lòng dũng cảm của hắn không lớn, không chừng quỉ dữ sẽ vượt qua hắn. Những bí mật của nơi chúng ta tới không phù hợp với những con mắt bình thường.”
Tôi dịch lại cho Job, anh ta ngay lập tức tha thiết van nài tôi bằng nước mắt, đừng bỏ lại anh ta phía sau. Anh ta nói chắc chắn thấy không gì tệ hơn những thứ anh ta đã thấy, anh ấy sợ chết khiếp với ý nghĩ bị bỏ lại đơn độc với “kẻ câm”, những người mà anh ta nghĩ có lẽ sẽ chộp lấy cơ hội đặt chậu nung nóng lên anh ta.
Tôi dịch lại những gì anh ta nói cho Ayesha, bà ấy nhún vai trả lời, “Được thôi, để hắn ta đi, với ta không sao cả; để nó lên đầu hắn, hắn sẽ mang đèn và thứ này,” rồi bà ta chỉ vào một tấm gỗ phẳng, dài khoảng mười sáu feet, vốn được buộc theo chiều dài chiếc võng của bà ấy, tôi từng nghĩ làm rèm che sẽ tốt hơn, nhưng như bây giờ, chắc vì mục đích chưa biết nào đó liên quan đến công việc kỳ lạ chúng tôi định làm.
Tiếp theo dù khó khăn, nhưng tấm ván gỗ rất nhẹ, được đưa cho Job mang, cũng cầm một cây đèn. Tôi quàng một cây đèn khác trên lưng, cùng thùng dầu, trong khi Leo mang các đồ dùng và nước. Khi đã xong xuôi, Bà ấy ra lệnh Billali và sáu người câm khiêng ổ lui lại sau một lùm cây mộc lan đang nở hoa khoảng một trăm thước, và vẫn phải đứng đó trong đau khổ chết chóc tới khi chúng tôi biến mất. Họ cúi đầu khiêm tốn rồi đi, trước khi quay đi, ông già Billali bắt tay tôi thân thiện, thì thầm nói ông ấy mong chính tôi, chứ không phải ông ấy, mới là người đi trên chuyến thám hiểm tuyệt vời này cùng “Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh”, tôi đồng ý với ông ấy. Sau khi bọn họ đi một lúc, nhanh chóng hỏi chúng tôi liệu đã sẵn sàng chưa, Ayesha quay lại và nhìn lên vách núi dựng đứng.
“Lạy Chúa tôi, Leo,” Tôi nói, “chắc là chúng ta sẽ không trèo lên cái vách núi đó nhỉ!”
Leo nhún vai, trong cảnh nửa mê mệt, nửa chờ mong bí mật bao trùm, đúng lúc đó Ayesha đột nhiên bắt đầu trèo lên vách núi, tất nhiên chúng tôi phải theo bà ta. Thật tuyệt vời khi thấy vẻ nhẹ nhàng và uyển chuyển khi bà ấy nhảy từ hòn đá này sang hòn đá kia, tung mình qua gờ đá. Nhưng việc đi lên không khó như tưởng tượng, dù có một hai chỗ khó đi bị che khuất, thực ra đá vẫn thoai thoải trên sườn dốc, không hoàn toàn dốc đứng khi lên cao hơn. Không tốn nhiều sức lực, chúng tôi trèo lên độ cao khoảng năm mươi feet so với nơi chúng tôi vừa đứng dưới, vấn đề rắc rối duy nhất là quản lý tấm gỗ của Job, vì trong khi đi khoảng năm mươi hay sáu mươi bước về bên trái điểm xuất phát, chúng tôi đã phải đi ngang như cua. Hiện giờ chúng tôi tới một mỏm đá, thoạt trông khá hẹp, nhưng mở rộng ra khi chúng tôi đi vào đó, hơn thế nữa nó có sườn dốc như cánh hoa, vì thế chúng tôi đi theo nó dần dần tới một đường mòn hay nếp gấp của đá, nó càng lúc càng sâu hơn tới khi giống như làn đường Devonshire trên đá, hoàn toàn che khuất chúng tôi khỏi cái nhìn của bất kỳ ai ở sườn núi phía dưới, nếu có ai nhìn. Làn đường này (dường như được tự nhiên hình thành nên) dài khoảng năm mươi tới sáu mươi bước, rồi bỗng nhiên kết thúc trong một cái hang, cũng tự nhiên, chạy vuông góc với nó. Tôi chắc đó là một hang động tự nhiên, không được đào bằng bàn tay con người, vì hình dạng bất thường và méo mó, vẻ bề ngoài như một vụ nổ ga khủng khiếp thổi thẳng vào ngọn núi, theo đường ma sát ít nhất. Ngược lại, tất cả các hang động được tổ tiên Kôr đào đều được cắt gọt đều đặn hoàn hảo và đối xứng. Ở miệng hang, Ayesha dừng lại, ra lệnh cho chúng tôi thắp hai cây đèn lên, tôi làm theo, đưa một cây cho bà ấy còn cây kia giữ cho mình. Rồi bà ấy dẫn đầu đi xuống hang, chọn lựa kỹ đường đi, quả thực cần phải làm thế vì sàn hang rất không đều – đá tảng rải rác như lòng một con suối, vài nơi lại có hố sâu, rất dễ gẫy chân.
Chúng tôi đi theo vào hang được hai mươi phút, tôi có thể nhận thấy – rất nhiều khúc cong và ngã rẽ không dễ đi – dài khoảng một phần tư dặm.
Nhưng cuối cùng chúng tôi đã dừng lại ở điểm cuối hang, khi tôi vẫn đang cố nhìn xuyên bóng tối, một dòng khí quét xuống thổi tắt hai cây đèn.
Ayesha gọi chúng tôi, và chúng tôi rón rén tiến về phía bà ấy, vì bà ấy ở gần ngay phía trước, được bóng tối hùng vĩ tưởng thưởng cái nhìn tích cực. Trước mặt chúng tôi là một vực thẳm bằng đá đen, lởm chởm, tan tác và vỡ ra từ xa xưa do một chấn động khủng khiếp của Tự Nhiên, như thể bị chia rẽ vì sét đánh liên hồi. Cái vực này bao quanh bởi một vách núi, giả sử dù chúng tôi không thể nhìn thấy, phía xa hơn cũng vậy, có lẽ rất rộng, nhưng từ trong bóng tối tôi không nghĩ nó có thể rộng thế. Không thể đi theo đường viền của nó, nó chạy xa bao nhiêu, vì đơn giản điểm chúng tôi đang đứng rất xa so với bề mặt vách đá, ít nhất 1500 tới 2000 feet, chỉ một ánh sáng mờ nhạt chiếu xuống chúng tôi từ phía trên. Cửa hang chúng tôi đi vào có một mũi đá lớn rất gây tò mò, thò ra giữa không trung trong cái vực trước mặt chúng tôi, cách khoảng năm mươi thước, tới một đỉnh nhọn chỗ cuối, không giống thứ gì, hình dáng đó tôi có thể nghĩ tới cựa ở chân gà trống. Cái cựa lớn này gắn vào vách núi mẹ, tất nhiên, vách đó cũng to lớn. Ngược lại, vách này hoàn toàn không được chống đỡ.
“Chúng ta phải qua đây,” Ayesha nói. “Cẩn thận kẻo các ngươi chóng mặt, hoặc gió quét các ngươi xuống vực, thật ra nó không có đáy;” không cho chúng tôi thời gian để sợ, bà ấy bắt đầu bước theo mũi đá cựa gà, để chúng tôi đi theo sau bà ấy một cách tốt nhất có thể. Tôi ở bên cạnh bà ấy, rồi đến Job, vất vả kéo tấm ván gỗ, trong khi Leo đi phía sau. Một cảnh thật tuyệt vời khi thấy người phụ nữ dũng cảm này không hề sợ hãi lướt đi trong nơi đáng sợ này. Về phần tôi, khi đi được vài thước, giữa áp suất không khí và cảm giác sợ hãi có thể xảy ra trượt chân, tôi thấy cần phải dùng tay và đầu gối để bò, hai người kia cũng làm vậy.
Nhưng Ayesha không bao giờ hạ mình làm điều này. Bà ấy đi, nghiêng mình chống lại những cơn gió mạnh, dường như không bao giờ mất vị trí dẫn đầu và mất thăng bằng.
Vài phút sau chúng tôi vượt qua cây cầu kinh khủng này khoảng hai mươi bước, nó hẹp dẫn mỗi bước đi, rồi đột nhiên gió lớn quét dọc hẻm núi. Tôi thấy Ayesha nghiêng mình chống lại nó, nhưng cơn gió mạnh cuốn lấy chiếc áo choàng đen, xé nó khỏi người bà ấy, rồi nó đi xuống vỗ về cơn gió như con chim bị thương. Thật kinh sợ khi nhìn nó bay đi tới khi biến mất trong bóng tối đen ngòm. Tôi bám vào vách đá, nhìn quanh, trong khi giống một vật sống, mũi đá cựa gà to lớn khích lệ chúng tôi bằng âm thanh vo ve. Khung cảnh thực sự tuyệt vời. Chúng tôi lơ lửng ở đó trong bóng tối giữa đất và trời. Dưới chúng tôi là hàng trăm, hàng trăm bàn chân trống rỗng đang dần trở nên thẫm màu hơn, tới khi hoàn toàn đen hẳn, tôi không thể đoán được độ sâu. Phía trên là không gian vui vẻ, dải bầu trời xanh phía xa xa. Dưới vực thẳm, chúng tôi như trên đỉnh ngọn gió lớn đang gầm rú, cuốn theo mây và những vòng hơi mù sương, tới khi chúng tôi gần như mù và hoàn toàn bị nhầm lẫn.
Toàn bộ cảnh tượng rất hùng tráng và hoàn toàn phi phàm đến mức tôi tin nó thực sự ru ngủ cảm giác khiếp sợ của chúng tôi, nhưng khoảnh khắc này tôi thường thấy trong mơ, khi thức dậy khỏi ảo giác, mồ hôi lạnh lẽo ướt sũng.
“Đi tiếp! Đi tiếp!” thân ảnh màu trắng kêu lên trước chúng tôi, vì áo choàng đã biến mất, Bà ấy khoác một màu trắng, trông giống linh hồn đang cưỡi cơn gió mạnh bay xuống hơn là một phụ nữ; “Đi tiếp, hoặc các ngươi sẽ rơi xuống và bị nát thành từng mảnh. Hãy giữ mắt cố định trên mặt đất, và ôm chặt tảng đá.”
Chúng tôi nghe theo bà ấy, đau khổ bò theo con đường run rẩy, trước gió rít gào khóc than như rung lắc, khiến nó than thở như chiếc âm thoa lớn. Khi đi, tôi không biết bao lâu, giờ chỉ nhìn quanh khi tuyệt đối cần thiết, cuối cùng chúng tôi tới đỉnh mũi đá cựa gà, là một phiến đá hơi lớn hơn chiếc bàn bình thường một chút, đang đập mạnh và nhảy như động cơ hơi nước. Chúng tôi nằm trên đó, bám vào bề mặt, và nhìn nhau, trong khi Ayesha đứng nghiêng trước cơn gió, mái tóc dài chảy xuống, hoàn toàn không chú ý tới vực sâu bên dưới, chĩa ra trước mặt bà ấy. Rồi chúng tôi hiểu ra tại sao cần tấm ván gỗ hẹp, thứ Job và tôi đang khổ sở kéo theo. Trước chúng tôi là một không gian trống, Bên kia là gì chúng tôi không thể nhìn thấy, chỉ có bóng vách đá đối diện, hay chính là bóng tối của màn đêm.
“Chúng ta phải đợi một lúc,” Ayesha gọi; “sẽ sáng ngay thôi.”
Lúc đó tôi không thể tưởng tượng ra ý bà ấy là gì. Có ánh sáng nào nữa ở nơi kinh sợ này? Khi tôi vẫn đang tự hỏi, đột nhiên, như lưỡi gươm lửa vĩ đại, một chùm sáng từ mặt trời chiếu xuyên qua bóng tối ảm đạm, đập vào tảng đá chúng tôi nằm, chiếu sáng thân hình yêu kiều của Ayesha trong vẻ lộng lẫy phi phàm. Tôi chỉ ước tôi có thể mô tả được vẻ đẹp hoang sơ kỳ diệu của lưỡi gươm ánh sáng này, nằm dọc trong bóng tối và xô vào những vòng sương mù của vực sâu. Làm sao nó xuất hiện, lúc đó tôi không biết, nhưng tôi giả thiết có một hàm trũng hay hố sâu trong vách hang đối diện, khi mặt trời lặn, nó xuyên qua đó theo đường thẳng. Tôi có thể nói, tất cả chuyện này là hiệu ứng tuyệt vời nhất tôi từng thấy. Ngay tâm của bóng tối nơi thanh gươm rực sáng đâm vào, trong ánh sáng sống động phi thường nhất, sống động đến mức từ xa chúng tôi có thể thấy các hạt đá, trong khi bên ngoài nó – phải, trong vòng vài inch trên cạnh nhọn – không có gì ngoài bóng tối chụm thành nhóm.
Giờ đây theo đường đi của ánh sáng, như Bà ấy chờ đợi, đúng thời điểm chuyến đi này gặp được, cần biết rằng hàng nghìn năm qua vào mùa này, luôn xảy ra như vậy lúc hoàng hôn, chúng tôi nhìn những gì diễn ra trước mắt. Trong vòng mười một tới mười hai feet trên đỉnh tảng đá như cái lưỡi nơi chúng tôi đứng, tương đối xa đáy vực, một hình chóp như bánh đường mọc lên, đỉnh của nó đối diện chính xác với chúng tôi. Nhưng chỉ cái đỉnh cũng không giúp chúng tôi nhiều lắm, vì điểm gần nhất trên chu vi của nó cũng cách chúng tôi bốn mươi feet. Tuy nhiên trên miệng của đỉnh đó, tròn và hơi lõm vào, là một tảng đá phẳng rất lớn, giống như đá của sông băng – có lẽ từng có một con sông, nhưng những gì tôi biết đều ngược lại – điểm cuối tảng đá cách chúng tôi khoảng mười hai feet. Tảng đá lớn này không khác gì một hòn đá xích đu khổng lồ, thăng bằng chính xác trên cạnh hình chóp hay miệng núi lửa nhỏ, như nửa chiếc vương miện bên mép ly rượu; vì trong ánh sáng xuyên qua chơi đùa trên đó, chúng tôi có thể thấy nó đang dao động trong gió.
“Nhanh lên!” Ayesha nói; “tấm ván gỗ - chúng ta phải đi qua trong khi ánh sáng còn chiếu tới; giờ nó sắp đi mất rồi.”
“Ôi, Lạy Chúa, thưa ngài!” Job rên rỉ, “chắc bà ta không muốn chúng ta đi qua từ chỗ này tới chỗ kia trên thứ này đấy chứ,” tuân theo tôi, anh ta đẩy tấm gỗ dài về phía tôi.
“Đúng thế đấy, Job,” Tôi ngạc nhiên trong vui vẻ khủng khiếp, dù ý tưởng đi bộ trên tấm ván không làm tôi hài lòng hơn anh ta.
Tôi đẩy tấm gỗ cho Ayesha, giờ đang khéo léo chạy qua vực, điểm cuối của nó là tảng đá xích đu khổng lồ kia, đầu còn lại nằm trên đỉnh mũi đá cựa gà đầy kích thích. Sau khi đặt chân lên đó để tránh bị gió thổi bay đi, bà ấy quay sang tôi.
“Từ lần cuối ta ở đây, Holly,” bà ấy gọi, “giúp hòn đá di chuyển ít đi, ta không chắc nó chịu được trọng lượng của chúng ta hay không. Thế nên ta sẽ qua trước, vì ta sẽ không bị hại gì,” không làm gì thêm nữa, bà ấy đặt chân nhẹ nhàng và vững chắc lên cây cầu yếu ớt đó, một giây sau đã đứng an toàn trên tảng đá nhô ra.
“An toàn rồi,” bà ấy gọi. “Nhìn này, ngươi giữ lấy tấm ván! Ta sẽ đứng ở đầu kia tảng đá để không mất cân bằng với trọng lượng lớn hơn nhiều của các ngươi. Nào, đi thôi, Holly, hiện tại ánh sáng sắp rời chúng ta rồi.”
Tôi đấu tranh với cái đầu gối, nếu tôi từng cảm thấy kinh hãi trong đời, thì tôi không xấu hổ nói rằng, tôi do dự và muốn ở lại.
“Chắc chắn ngươi không sợ,” sinh vật kỳ lạ này lại gọi to lên khi gió tạm lắng, từ nơi bà ấy đứng, bước đi như con chim lên đỉnh cao nhất của hòn xích đu. “Sau đó Kallikrates cũng làm thế.”
Điều này trấn định tôi; rơi xuống vách đá và chết còn tốt hơn bị người phụ nữ này cười nhạo; vì vậy tôi nghiến răng, một lúc sau tôi đã trên tấm ván gỗ hẹp đáng sợ đang cong xuống, không gian không đáy bên dưới và quanh tôi. Tôi luôn ghét độ cao lớn, nhưng chưa bao giờ nhận ra toàn bộ nỗi sợ hãi tình thế này mang lại. Ôi, cảm giác phát ốm trên tấm ván giữ hai đầu để người chuyển động. Tôi chóng mặt, nghĩ mình phải rơi rồi; cột sống như kiến bò; dường như tôi đang rơi, niềm vui khi thấy mình ngã sóng soài trên tảng đá, lên xuống dưới chân tôi như chiếc thuyền trong lúc biển động, không thể diễn tả thành lời. Những gì tôi biết là trong thời gian đủ ngắn, tôi cảm ơn Thượng Đế đã bảo vệ tôi đến giờ.
Rồi tới lượt Leo, dù cậu trông khá lạnh lùng, cậu đi qua như vũ sư nhảy trên dây thừng. Ayesha giang tay nắm chặt tay cậu, tôi nghe bà ấy nói, “Thật dũng cảm, tình yêu của ta – thật dũng cảm! Tinh thần người Hy Lạp ngày xưa vẫn sống trong chàng!”
Giờ chỉ còn Job khốn khổ ở đầu kia vực. Anh ta bò tới tấm ván và kêu gào, “Tôi không thể làm được, thưa ngài. Tôi sẽ rơi xuống nơi kinh tởm này.”
“Cậu phải làm,” Tôi nhớ đã nói bằng vẻ mặt hài hước không phù hợp – “cậu phải làm, Job, nó dễ như bắt ruồi thôi.” Tôi cho rằng phải nói thế để thỏa mãn ý niệm của mình, vì cách nói đó truyền tải ý tưởng dễ dàng thật tuyệt vời, thực tế tôi không biết còn hành động nào khó hơn bắt ruồi – trừ khi trời ấp áp, thực ra là bắt muỗi.
“Tôi không thể, thưa ngài – tôi không thể, thật đấy.”
“Hãy bảo anh ta đi, hoặc để anh ta dừng lại và chết ở đó. Nhìn xem, ánh sáng đang biến mất dần! Một lát nữa thôi nó sẽ tắt!” Ayesha nói.
Tôi nhìn. Bà ấy đúng. Mặt trời đang xuống dưới cái hố trên vách núi, tia sáng xuyên qua đó tới chỗ chúng tôi.
“Nếu cậu dừng ở đó, Job, cậu sẽ chết một mình,” Tôi gọi to; “ánh sáng sắp đi mất rồi.”
“Đi thôi, hãy là một người đàn ông, Job,” Leo gầm lên; “Nó rất dễ.”
Được van nài, Job khốn khổ hét lên kinh hãi, gương mặt hấp tấp hướng xuống tấm ván gỗ - anh ta không dám, đổ lỗi cho mình, cố đi lên nó, bắt đầu thúc đẩy bản thân vượt qua trong cơn co giật, đôi chân khốn khổ của anh ta rủ xuống hai bên trong hư không bên dưới.
Cơn co giật tàn bạo trên tấm ván yếu ớt của anh ta làm tảng đá lớn, chỉ cân bằng vài inch trên phiến đá, dao động một cách đáng sợ, làm mọi chuyện trở nên tệ hơn, khi anh ta đi được nửa đường, tia sáng mờ nhạt bỗng nhiên biến mất, như ngọn đèn bị dập tắt trong phòng che màn, để toàn bộ không gian hoang dã trong bóng tối.
“Thôi nào, Job, vì Chúa!” Tôi hét lên trong đau đớn sợ hãi, trong khi tảng đá đã dần dịch chuyển sang cánh, rung chuyển dữ dội tới mức khó mà bám vào được. Tình hình thật sự kinh khủng.
“Chúa hãy thương xót con!” Job khốn khổ kêu khóc trong bóng tối. “Ôi, cái ván đang trượt!” rồi tôi nghe thấy tiếng động rất mạnh, và nghĩ thế là anh ta đã đi đời rồi.
Nhưng lúc đó, bàn tay giang rộng của anh ta siết chặt một cách đau đớn trong không trung, gặp bàn tay tôi, rồi tôi kéo lên – ôi, tôi đã kéo lên bằng tất cả sức mạnh mà Thượng Đế đáng kính trao dư thừa cho tôi – Job thở hổn hển trên tảng đá cạnh tôi trong niềm vui sướng. Nhưng tấm ván gỗ! Tôi cảm thấy nó trượt xuống, nghe thấy nó đập vào khối đá nhô ra, rồi biến mất.
“Lạy Chúa!” Tôi kêu lên. “Chúng ta sẽ quay lại thế nào đây?”
“Cháu không biết,” Leo trả lời trong bóng tối. “’Cực nhọc ngày nào biết ngày đó’, Con xin cảm ơn vì đã được ở đây.”
Nhưng Ayesha chỉ gọi bảo tôi nắm lấy tay bà ấy và đi theo sau bà ấy.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham 

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 23



CHƯƠNG 23

Ngôi Đền Sự Thật
Chúng tôi chuẩn bị không mất nhiều thời gian lắm. Chúng tôi để một ít quần áo và ủng dự phòng trong túi Gladstone, chúng tôi cũng mang súng lục và súng trường mỗi người một khẩu, cùng với đạn dược đầy đủ, một biện pháp phòng ngừa, vì, dù có Thượng Đế, chúng tôi cũng nợ tính mạng của mình hết lần này đến lần khác. Phần còn lại, những khẩu súng trường nặng, chúng tôi đành bỏ lại.
Vài phút trước giờ đã định, chúng tôi lại chờ đợi trong phòng ngủ của Ayesha, thấy bà ấy đã sẵn sàng, chiếc áo choàng đen khoác bên ngoài đống vải quấn quanh.
“Các ngươi đã chuẩn bị cho cuộc mạo hiểm vĩ đại chưa?” bà ấy nói.
“Rồi,” Tôi trả lời, “về phần mình, Ayesha, tôi không tin vào nó.”
“À, Holly của ta,” bà ta nói, “ngươi thật giống những người Do Thái cổ xưa kia – trong ký ức họ đã chọc giận ta rất đau lòng – không tin, và hầu như không chấp nhận những gì họ không biết. Nhưng ngươi sẽ thấy; trừ khi chiếc gương của ta nói dối,” bà ta chỉ vào mặt nước như pha lê, “con đường đã mở ra như khi xưa. Giờ chúng ta hãy bắt đầu cuộc đời mới mà ai biết được nó sẽ kết thúc ở đâu?”
“A,” Tôi thốt lên, “ai biết được ở đâu ư?” rồi chúng tôi đi xuống hang động lớn ở trung tâm, tiến vào vùng ánh sáng ban ngày. Tại cửa hang, chúng tôi thấy một cái ổ sáu người khiêng, tất cả đều là người câm, đang đợi, tôi thấy nhẹ nhõm khi gặp ông bạn già Billali, người tôi có một tình cảm nhất định. Vì lí do không cần giải thích, Ayesha cho đó là cách tốt nhất, ngoại trừ bà ấy, chúng tôi đều đi bộ, chúng tôi không miễn cưỡng phải làm thế, sau khi đã ở khá lâu trong khu hang động này, tuy nhiên cái ổ kia có lẽ hợp với cái quách – một từ không phù hợp lắm, dù sao với những ngôi mộ đặc biệt này, chắc không tốn sức người khiêng đến vậy – ép người ở trong như người chết vẫn còn thở. Ngẫu nhiên hay do mệnh lệnh của Bà ấy, không gian trước cái hang diễn ra vũ hội kinh dị đã hoàn toàn bị dọn sạch. Không thấy một linh hồn nào, tất nhiên tôi không tin chuyến đi này mọi người đều biết, có lẽ trừ những người câm đợi Bà ấy, tất nhiên họ có thói quen giữ chặt những gì họ thấy cho bản thân.
Vài phút sau chúng tôi bước từng bước trên đồng bằng lớn được canh tác, hay lòng hồ, bị đóng khung như miếng ngọc lục bảo lớn đặt trong vách núi, lại có cơ hội nữa để tự hỏi về bản chất phi thường của nơi này, nơi dân tộc Kôr xưa kia đã lựa chọn làm thủ đô của họ, với số nhân công khổng lồ, sự khéo léo và kỹ thuật được những người sáng lập nên thành phố trưng dụng, để làm khô cạn một khối nước khổng lồ, sau đó giữ nó được tích tụ lại. Quả thực, qua kinh nghiệm của tôi, đây là một ví dụ vô song về những gì con người có thể làm khi đối đầu với tự nhiên, theo tôi, thành tựu này giống như Kênh đào Suez hay Đường Hầm Mont Cenis, nhưng không lớn lao và hùng vĩ như công trình cổ đại này.
Khi chúng tôi đi được khoảng nửa giờ, tự thưởng thức khoảnh khắc thú vị vui vẻ trong ngày dường như luôn tới trên khu đồng bằng Kôr rộng lớn, chuộc lỗi mức nào đó cho mong muốn của đất và gió biển – vì gió đều bị chắn bởi bức tường núi đá – chúng tôi bắt đầu nhìn thấy rõ khung cảnh Billali đã kể cho chúng tôi về những tàn tích của một thành phố vĩ đại. Ngay từ xa chúng tôi đã có thể thấy đống tàn tích này tuyệt vời thế nào, mỗi bước đi đều thấy rõ rệt hơn. Thành phố không quá lớn nếu so sánh với Babylon hay Thebes, hay những thành phố thời cổ đại xa xôi khác; có lẽ bức tường bên ngoài nó khoảng mười hai dặm vuông, hoặc ít hơn. Các bức tường không còn nguyên vẹn, như chúng tôi nhận ra khi đặt chân lên đó, không quá cao, có lẽ không quá bốn mươi feet, đó là độ cao hiện giờ khi chìm dưới đất một phần, hay vì nguyên nhân nào đó, bị sụp đổ. Nguyên nhân chắc chắn là dân tộc Kôr, dùng thành lũy to lớn hơn bất kỳ thứ gì bàn tay con người có thể tạo ra để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài, chỉ cần chúng xuất hiện, và bảo vệ chống lại các mối bất hòa dân sự. Mặt khác chúng cũng rộng rãi và cao lớn, hoàn toàn bằng đá, được đào từ khu hang động, bao quanh một con hào lớn rộng khoảng sáu mươi feet, một số vẫn đầy nước. Khoảng mười phút trước khi mặt trời chìm hoàn toàn xuống, chúng tôi tới được chỗ con hào này, đi xuống xuyên qua nó, leo qua vật giống như các mảnh tường xếp chồng lên tới đỉnh. Tôi ước nó nằm dưới sức mạnh ngòi bút của mình để trao ý tưởng về khung cảnh hùng vĩ bắt gặp cái nhìn của chúng tôi. Nơi đó hòa quyện trong sắc đỏ của mặt trời đang chìm xuống, là hàng dặm nối hàng dặm phế tích – cột đá, đền thờ, miếu, cung điện nhà vua, đa dạng với những miếng vá bằng bụi cây xanh. Tất nhiên, mái của các tòa nhà từ lâu đã sụp đổ và biến mất, nhưng vẫn có một số lượng cực lớn kiểu kiến trúc đó, kiên cố và bền bỉ bằng đá, rất nhiều bức tường và cột lớn vẫn còn đứng thẳng. [*]
[*] Liên hệ với trạng thái bảo tồn kỳ lạ đống phế tích này sau giai đoạn sụp đổ lớn như vậy – ít nhất sáu nghìn năm – phải nhớ rằng Kôr không bị thiêu cháy hay hủy diệt bởi kẻ thù hay động đất, mà bị bỏ hoang do tác động của một dịch bệnh khủng khiếp. Vì thế những ngôi nhà bị bỏ lại không hư hại gì; khí hậu của vùng đồng bằng này rất tốt và khô ráo, ít mưa gió; kết quả là đống di tích đó chỉ phải chống lại thời gian, chúng tác động chậm chạp lên các khối công trình lớn. – L.H.H.
Ngay phía trước chúng tôi rõ ràng là đường chính của thành phố, vì nó rất rộng, rộng hơn bờ kè sông Thames, sau đó chúng tôi phát hiện ra, nó được trải nhựa, hay đúng hơn là được xây bằng những khối đá được mài giũa, giống như dùng để thi công các bức tường, giờ nó đã được phủ đầy cỏ và cây bụi mọc lên từ lớp đất không sâu lắm. Nơi là công viên và vườn cây, ngược lại, giờ như rừng rậm. Quả thật, từ xa rất dễ lần ra vô vàn đường phố bằng cách đốt cháy đám cỏ ít ỏi mọc trên đó. Phía bên kia của con đường lớn này là những khối tàn tích rộng lớn, mỗi khối nói chung đều phân tách với láng giềng của nó bằng một không gian, tôi giả thiết, có lẽ từng là mảnh vườn, nhưng giờ chi chít cây bụi rậm rạp. Chúng đều được xây với loại đá cùng màu, hầu hết đều là cột lớn, nhiều đến mức chúng tôi có thể nhận ra trong ánh sáng mờ nhạt khi chúng tôi đi nhanh qua đường chính, tôi tin mình đã đúng khi nói rằng không có bàn chân người sống đặt vào đây hàng nghìn năm qua. [*]
[*] Billali kể cho tôi, người Amahagger tin rằng thành phố này bị ma ám, và không nên bước vào đây với bất cứ lý do gì. Quả thực, tôi có thể thấy bản thân ông ta không hoàn toàn thích làm việc này, chỉ giải khuây bằng cách cho rằng ông ta đang nằm dưới sự bảo vệ trực tiếp của Bà ấy. Bản thân Leo và tôi cũng rất tò mò, một dân tộc không phản đối sống cùng người chết, những người mà sự suồng sã có lẽ sẽ sinh ra khinh bỉ, và dùng thân xác họ làm nhiên liệu, lại kinh sợ với nơi cư trú mà những người đã mất chiếm đóng khi còn sống. Tuy nhiên cuối cùng, đó chỉ là sự không nhất quán của đám người hoang dã. – L.H.H.
Hiện tại chúng tôi đã tới một cái đống khổng lồ, đúng đắn là một đền thờ rộng ít nhất tám mẫu, được xếp theo trình tự cung điện, mỗi điện gần một điện khác nhỏ hơn, theo nguyên lý của bộ hộp xếp lồng nhau Trung Hoa, các cung điện phân tách với nhau bởi những hàng cột khổng lồ. Khi tôi đang nghĩ về nó, tôi cũng nhận ra điểm đáng chú ý về hình dáng những cây cột này, chúng không giống những gì tôi từng nhìn thấy hay nghe thấy, được tạo dáng thắt eo ở giữa, rồi phồng ra ở trên và dưới. Thoạt tiên chúng tôi nghĩ hình dáng đó biểu trưng cho dáng hình cơ thể phụ nữ, thói quen chung trong kiến trúc tôn giáo cổ xưa của nhiều tín ngưỡng. Nhưng hôm sau, khi tới sườn núi, chúng tôi phát hiện ra một lượng lớn cây cọ trông vô cùng trang nghiêm, cũng có chính xác hình dáng này, nên giờ không nghi ngờ gì nữa, nhà thiết kế đầu tiên của đống cột kia được truyền cảm hứng từ đường cong duyên dáng của những cây cọ này, hay đúng ra là tổ tiên của chúng khoảng tám hay mười nghìn năm trước, giống như bây giờ, vẫn trang hoàng đẹp đẽ cho các sườn núi từng tạo nên bờ của hồ núi lửa.
Mặt tiền của ngôi đền này rất lớn, tôi tưởng tượng, rộng như đền El-Karnac tại thành Thebes, một vài trong số những cây cột lớn nhất mà tôi đo được, đều có đường kính từ mười tám tới hai mươi feet, cao khoảng bảy mươi feet, đoàn rước nhỏ của chúng tôi đã dừng lại, Ayesha bước xuống khỏi cái ổ.
“Đây có một chỗ, Kallikrates,” bà ấy nói với Leo đang chạy tới giúp bà ấy bước xuống, “có thể ngủ. Hai nghìn năm trước, chàng và ta, cùng người Ai Cập kia từng nghỉ ở đó, nhưng từ đó ta không đặt chân đến đây nữa, không ai cả, không chừng nó đã sụp đổ,” đi theo bởi cả đoàn chúng tôi, bà ấy bước qua như bay hàng đống hoang phế đổ nát tới cung điện bên ngoài, rồi nhìn quanh trong bóng tối. Hiện giờ, dường như đã nhớ ra, bà ấy bước vài bước theo bức tường tới bên trái, rồi dừng lại.
“Nó đây,” bà ta nói, cùng lúc ra hiệu cho hai người câm đang chở đống đồ dùng cùng ít đồ cá nhân của chúng tôi lên trước. Một trong số họ cầm đèn đi lên, thắp nó sáng lên từ lò than (với người Amahagger, khi đi đường gần như đều luôn luôn mang theo người một lò than nhỏ và nhẹ, để cung cấp lửa). Đống bùi nhùi của lò than làm từ mảnh vỡ của xác ướp được hãm cẩn thận, nếu trộn với đất ẩm đúng cách, hợp chất tội lỗi này có thể cháy âm ỉ hàng giờ. [*] Ngay khi ngọn đèn được thắp lên, chúng tôi bước vào nơi đó trước khi Ayesha dừng lại. Xuất hiện một căn phòng được đào trong tường dày, từ thực tế vẫn có một bàn đá lớn bên trong nó, tôi nghĩ có lẽ đó là phòng khách, dành cho một trong những người giữ cửa của ngôi đền lớn này.
[*] Cuối cùng chúng ta cũng không tiến bộ hơn người Amahagger nhiều lắm trong vấn đề này. “Xác ướp” mà người Ai Cập cổ nghiền ra, tôi tin là loại sắc tố được các nghệ sĩ sử dụng rất nhiều, đặc biệt những người dùng tài năng tái sinh lại các tác phẩm bậc thầy ngày xưa. – Biên tập viên.
Chúng tôi dừng ở đây, sau khi lau sạch sẽ chỗ này làm nó trở nên tiện nghi như hoàn cảnh và bóng tối cho phép, chúng tôi ăn chút thức ăn lạnh, ít ra Leo, Job và tôi làm thế, còn Ayesha, tôi nghĩ tôi đã từng nói, không bao giờ chạm vào bất kỳ cái gì trừ bánh bột mì, trái cây và nước. Trong khi chúng tôi vẫn đang ăn, mặt trăng tròn đầy nhô lên trên tường núi, bắt đầu làm nơi đây tràn ngập ánh bạc.
“Có biết tại sao ta mang các ngươi tới đây đêm nay không, Holly của ta?” Ayesha nói, gối đầu lên tay và ngắm nhìn quả cầu lớn đang mọc lên, như nữ hoàng nơi thiên đường, phía trên những cây cột uy nghi của đền thờ. “Ta mang các ngươi, không, thật kì lạ, nhưng chàng có biết, Kallikrates, lúc này chàng nằm ở chỗ đó, chính là nơi cơ thể đã chết của chàng nằm xuống khi ta mang chàng trở lại khu hang động Kôr nhiều năm trước đây không? Giờ tất cả đã trở về tâm trí ta. Ta có thể thấy nó, cảnh tượng thật khủng khiếp!” bà ấy rùng mình.
Leo bật dậy khỏi đó và vội vàng thay đổi chỗ ngồi. Nhưng hồi tưởng có lẽ đã tác động tới Ayesha, rõ ràng hơi lôi cuốn cậu ấy.
“Ta mang các ngươi tới,” Ayesha lại tiếp tục, “có lẽ các ngươi sẽ thấy cảnh tượng tuyệt vời nhất mà mắt người từng thấy – ánh trăng tròn tỏa sáng trên xứ Kôr hoang phế. Khi các ngươi ăn xong – ta có thể dạy chàng không ăn gì ngoài hoa trái, Kallikrates, nhưng chỉ sau khi chàng tắm qua lửa. Ngày xưa ta cũng ăn thịt như kẻ súc vật. Sau khi xong, chúng ta sẽ đi ra ngoài, ta sẽ chỉ cho các người thấy ngôi đền vĩ đại này và Vị Thần mà người dân nơi này từng thờ phụng ở đây.”
Tất nhiên chúng tôi bật dậy ngay để bắt đầu. Ngòi bút của tôi lại thất bại. Đưa ra một chuỗi thước đo và chi tiết của vô số cung điện trong ngôi đền rất mệt mỏi, nếu tôi làm thế, tôi không biết phải mô tả những gì nhìn thấy thế nào, tráng lệ ngay cả trong đống đổ nát, gần như vượt quá năng lực nhận thức. Điện thờ nối tiếp điện thờ mờ ảo, hàng nối hàng những cây cột trụ hùng vĩ – vài cây cột trong số đó (đặc biệt tại các cửa ngõ) đều được chạm khắc từ bệ tới đỉnh cột – không gian nối tiếp không gian những căn phòng trống nói cho trí tưởng tượng hùng hồn hơn mọi đường phố đông đúc. Trên tất cả, im lặng chết chóc của xứ sở đã chết, cảm giác đơn độc hoàn toàn, và tinh thần ủ ê của Quá Khứ! Đẹp biết bao, buồn chán biết bao! Chúng tôi không dám nói to. Ayesha cũng kinh ngạc trước sự hiện hữu của đế chế cổ xưa, so với tháng ngày bà ấy đã trải qua, chỉ là một việc nhỏ; chúng tôi chỉ thì thầm, lời thì thầm như chạy từ cột này tới cột khác, cho tới khi chúng mất hút trong không gian im lặng. Ánh trăng sáng ngời rơi xuống cột trụ, điện thờ và những bức tường vỡ tan, che dấu nét vay mượn và những gì không hoàn hảo trong ánh bạc, khoác lên tấm áo uy nghi đã hoa râm cùng vinh quang đặc biệt của màn đêm. Thật tuyệt vời khi thấy trăng tròn nhìn xuống tòa miếu đổ nát của Kôr. Thật tuyệt vời khi nghĩ tới hàng nghìn năm qua, quả cầu chết chóc bên trên, thành phố chết bên dưới, cùng nhìn nhau, trong không gian cô đơn tột độ, rót cho nhau nghe câu chuyện về cuộc đời đã qua và vinh quang đã đi xa của chúng. Ánh sáng trắng rơi xuống, từng phút từng phút bóng tối yên lặng bò dọc các điện thờ đầy cỏ mọc, như linh hồn các linh mục xưa ám ảnh chỗ cư trú của vị thần được thờ phụng – ánh sáng trắng rơi xuống, bóng tối lớn dần lên tới khi vẻ đẹp hùng vĩ của mỗi khung cảnh cùng vẻ uy nghi không thể chế ngự được của Thần Chết như chìm vào tâm hồn chúng tôi, hét to hơn tiếng kêu la của những đội quân đang phô trương lộng lẫy mà nấm mồ đã nuốt chửng, và ký ức cũng bị lãng quên.
“Đi thôi,” Ayesha nói, sau khi chúng tôi nhìn mãi và nhìn mãi, tôi không biết bao lâu, “Ta sẽ chỉ cho các ngươi bông hoa đá trên vương miện Nhan Sắc và Kỳ Quan, nếu nó vẫn còn đứng đây thử thách thời gian bằng vẻ đẹp của nó, khiến trái tim con người khát khao như thứ sau tấm màn che,” không đợi câu trả lời, bà ấy dẫn chúng tôi qua hai điện thờ có trụ đá, sâu vào trong ngôi đền của tòa miếu cũ.
Nơi đây, giữa trung tâm điện thờ trong cùng, khoảng năm mươi thước vuông, hay ít hơn, chúng tôi đứng mặt đối mặt với tác phẩm Nghệ thuật có tính biểu tượng vĩ đại nhất mà một thiên tài đã trao cho thế giới. Ngay chính giữa điện thờ, đặt trên một phiến đá vuông dày là một quả bóng tròn bằng đá tối đen rất to lớn, đường kính khoảng hai mươi feet, đứng trên quả bóng là một nhân vật có cánh khổng lồ mang vẻ đẹp mê hoặc và thần thánh đến mức khi tôi lần đầu nhìn chằm chằm vào nó, bóng sáng tối dưới ánh trăng mềm mại, hơi thở của tôi như dừng lại, tim tôi ngừng đập một lúc.
Bức tượng đẽo từ đá cẩm thạch vẫn tinh khiết và trắng đến tận bây giờ, sau nhiều niên đại, tỏa sáng khi ánh trăng đang nhảy múa trên nó, chiều cao bức tượng, nói giỡn cùng phải trên hai mươi feet. Nhân vật có cánh mang hình phụ nữ với vẻ đẹp kỳ diệu và dáng hình tinh tế, kích thước dường như lấy ra từ vẻ đẹp người thật và tâm linh. Cô đang uốn người về phía trước và lơ lửng trên đôi cánh đã giang ra một nửa như thể giữ cô cân bằng. Cánh tay giang rộng như phụ nữ muốn ôm người mình yêu thương, trong khi thái độ của cô mang ấn tượng của vẻ cầu khẩn dịu dàng. Thân hình hoàn hảo duyên dáng để trần, - một điều kỳ lạ hiện ra – gương mặt có mạng che mỏng, vì vậy chúng tôi chỉ có thể theo dấu các đặc trưng đường nét. Một màn mỏng như sương tròn trịa phủ trên đầu, hai điểm cuối của nó rơi xuống ngực trái, bên dưới nó, giờ đã bị vỡ, một luồng không khí phía sau đi vào.
“Cô ấy là ai?” Tôi hỏi khi vừa rời mắt khỏi bức tượng.
“Ngươi không thể đoán ra ư, Holly?” Ayesha trả lời. “Trí tưởng tượng của ngươi đâu mất rồi? Đó là thần Sự Thật trên Thế Gian, đang kêu gọi con cháu tháo che mặt cho người. Hãy nhìn những gì viết trên bệ. Không nghi ngờ gì nữa, nó được lấy từ cuốn sách Kinh Thánh của người Kôr,” bà ấy dẫn đường tới chân bức tượng, nơi có văn tự bằng chữ tượng hình giống tiếng Trung Quốc thông thường được khắc sâu đến mức giờ vẫn đọc được rõ ràng, ít nhất với Ayesha. Theo phiên dịch của bà ấy, nó có nội dung như sau:
“Không có người nào vén màn che và nhìn vào gương mặt ta, vì nó rất đẹp ư? Dành cho người vén màn che của ta, ta sẽ trao cho anh ta hòa bình, những đứa con trí tuệ ngọt ngào và những công việc tốt.”
Rồi một giọng than khóc, “Dù tất cả những ai tìm kiếm theo ngươi đều mê đắm ngươi, than ôi! Ngươi là Đức Mẹ Đồng Trinh, ngươi sẽ thành Đức Mẹ Đồng Trinh khi Thời Khắc tới. Không ai nơi đây sinh ra người phụ nữ che mặt và sống động này, sẽ không có ai. Chỉ Thần Chết có thể rút ra màn che mặt của ngươi, ôi Thần Sự Thật!”
Và Thần Sự Thật giang cánh tay khóc than, vì những ai tìm kiếm người có lẽ sẽ không tìm thấy người, cũng không nhìn thẳng vào mặt người.
“Ngươi thấy đấy,” Ayesha nói, khi dịch xong, “Thần Sự Thật là nữ thần của dân tộc Kôr cổ xưa, vì người, họ đã xây dựng những đền thờ này, họ tìm kiếm người; biết rằng họ có thể không bao giờ tìm thấy, họ vẫn tìm kiếm.”
“Như vậy,” Tôi buồn bã nói thêm, “những người tìm kiếm giờ phút này, nhưng họ đã phát hiện ra; như Kinh Thánh này nói thì họ sẽ không tìm thấy; vì chỉ Thần Chết mới tìm thấy Thần Sự Thật.”
Rồi nhìn lại lần nữa vẻ đẹp biểu tượng hóa bị che mặt này – hoàn hảo và tinh khiết đến mức ai cũng ưa thích, ánh sáng tâm linh sống động chiếu xuyên qua nhà tù bằng cẩm thạch, dẫn con người tới những suy nghĩ cao cả và thanh tao – giấc mơ về vẻ đẹp của nhà thơ bị đóng băng trong đá, tôi sẽ không bao giờ quên khi tôi còn sống, chúng tôi quay người và đi trở lại xuyên qua những cung điện đầy ánh trăng về tới nơi chúng tôi xuất phát. Tôi không bao giờ thấy lại bức tượng nữa, điều tôi vô cùng hối tiếc, vì trên quả bóng bằng đá lớn biểu trưng cho Thế Gian với nhân vật đứng trên đó, các đường nét được vẽ lên, có lẽ nếu đủ sáng, chúng tôi có khi còn phát hiện ra cả bản đồ Vũ Trụ nổi tiếng của dân tộc Kôr. Dù sao đi nữa, nó cũng gợi ý về một tri thức khoa học mà những người tôn thờ đã chết từ lâu của Thần Sự Thật đã công nhận thực tế đó: trái đất hình tròn.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 22



CHƯƠNG 22

Job có Linh Cảm
Chín giờ sáng hôm sau, Job, trông vẫn còn sợ hãi và kinh hoàng, đi vào gọi tôi, đồng thời thở hắt ra vì biết ơn khi thấy chúng tôi vẫn còn sống trên giường, dường như ngoài dự đoán của anh ta. Khi tôi nói với anh ta kết cục đáng sợ của Ustane khốn khổ, dù rất biết ơn vì chúng tôi sống sót, nhưng anh ta vẫn sốc, dù không thích Ustane lắm. Cô ấy gọi anh ta là “đồ con lợn” bằng tiếng Ả Rập pha tạp, còn anh ta gọi cô ấy là “đồ mất nết” theo tiếng Anh chuẩn, nhưng những trò đùa thú vị đó đã bị lãng quên khi đối mặt với thảm họa đầy rẫy trong lòng bàn tay Nữ Hoàng.
“Tôi không muốn nói gì không thể chấp nhận được, thưa ngài,” Job nói khi nghe xong câu chuyện của tôi, “nhưng quan điểm của tôi cho rằng Bà ấy này là một quí bà cao tuổi, có lẽ là vợ cậu ấy, nếu cậu ấy chính là người đó, tôi cho rằng cậu ấy chính là người đó, vì bản thân cậu ấy không thể xấu xa đến vậy. Mụ Phù Thủy làng Endor là kẻ ngốc so với bà ấy: lạy chúa phù hộ cho bà ta không làm gì nữa để kéo hết các đức ngài trong Kinh Thánh ra đây, nơi những nấm mồ đầy dã thú này, nếu không tôi phải trồng cải xoong trên đống vải flannel cũ kỹ kia mất. Đây đúng là một đất nước của ma quỷ, thưa ngài, còn bà ta là chủ nhân của đám ma quỉ đó; nếu chúng ta có thể biến mất khỏi nơi này, đúng là ngoài mong đợi của tôi. Tôi không thấy còn cách nào thoát khỏi nó. Mụ phù thủy đó sẽ không để chàng trai trẻ tốt đẹp như Ngài Leo ra đi.”
“Đi thôi,” Tôi nói, “Dù sao đi nữa bà ta đã cứu mạng cậu ấy.”
“Phải, và bà ta sẽ lấy đi linh hồn của cậu ấy để trả nợ cho việc đó. Bà ta sẽ biến cậu ấy thành phù thủy, như chính bà ta. Tôi cho rằng thật xấu xa nếu có gì để làm với loại người này. Đêm qua, thưa ngài, tôi tỉnh giấc và đọc một chút Kinh Thánh mà người mẹ già nua khốn khổ của tôi đưa cho, về những gì sẽ xảy đến với các nữ phù thủy, cho đến khi tóc tôi dựng đứng. Chúa ơi, bà già đó có thể nhìn ra sao nếu bà ta thấy nơi Job của bà ta đã tới chứ!”
“Phải, đúng là một đất nước kỳ quái, con người cũng kỳ quái, Job,” Tôi thở dài đáp lại, vì dù không mê tín như Job, nhưng tôi vẫn phải thừa nhận đã bị co lại (sẽ không chịu điều tra) trước những gì thuộc về Tạo Hóa.
“Ngài đã đúng, thưa ngài,” anh ta trả lời, “nếu ngài không nghĩ tôi rất ngu ngốc. Tôi muốn nói với ngài rằng, giờ đây ngài Leo đã hết đường rồi” – (Leo đã dậy sớm và đi dạo rồi) – “và tôi biết đây là đất nước cuối cùng tôi nhìn thấy trên đời. Đêm qua tôi đã mơ, tôi mơ thấy cha già của tôi mặc bộ đồ ngủ, giống như đám người này mặc khi họ muốn mặc trang phục đầy đủ dịp đặc biệt, cầm ít cỏ lông ông ấy hái trên đường trong tay, vì hôm qua tôi đã thấy rất nhiều loại cỏ này, khoảng ba trăm thước từ cửa cái hang thú vật này.”
“’Job’, ông ấy trang trọng nói với tôi, một vẻ hài lòng tỏa sáng trên người ông ấy, giống mục sư Methody khi ông ta bán cho người hàng xóm một con ngựa bị đánh dấu với giá hời hai mươi pound để làm việc – ‘Job, thời gian đã hết rồi, Job ạ; nhưng cha không bao giờ muốn tới săn đuổi con ở nơi này, Job ạ. Những việc thế này mà cha phải chõ mũi vào; thật không hay ho gì khi bắt người cha già yếu khốn khổ của con chạy như vậy, để cha đơn độc khi đầy ngập kẻ xấu xa như mưa nơi vùng đất Kôr này.’”
“Cảnh báo thường xuyên,” Tôi đưa ra giả thuyết.
“Phải, thưa ngài, - tất nhiên, thưa ngài, chỉ có những gì ông nói bọn họ – ‘chú ý, những kẻ cực kỳ bạo lực’ – thưa ngài, tôi chắc chắn không nghi ngờ điều đó, như những gì tôi biết về họ, và cách họ đặt chậu nung nóng,” Job tiếp tục một cách buồn bã. “Dù sao đi nữa, ông chắc chắn thời gian đã hết, rồi đi mất khi nói chúng ta nên sớm nhìn ra nhiều thứ hơn là quan tâm đến nhau, và tôi cho rằng ông đang suy nghĩ về thực tế là tôi và cha chưa bao giờ giận nhau lâu quá ba ngày, tôi dám chắc mọi thứ sẽ tương tự khi chúng tôi gặp lại nhau.”
“Chắc chắn,” tôi nói, “cậu không nghĩ cậu sắp chết vì đã mơ gặp cha già của cậu đấy chứ; nếu như có người chết vì mơ thấy cha họ, thì chuyện gì xảy ra với người mơ thấy mẹ vợ anh ta nhỉ?”
“A, thưa ngài, ngài đang cười nhạo tôi,” Job nói; “nhưng ngài thấy đấy, ngài không biết cha tôi. Nếu đó là ai đó khác – Bác Mary của tôi chẳng hạn, bà ấy không bao giờ làm quá sức một việc gì – tôi sẽ không nghĩ nhiều về điều đó; nhưng bố tôi là người ăn không ngồi rồi, ông không nên có mười bẩy người con, ông chưa bao giờ tự đặt mình vào vị trí đó để nhìn nhận. Không, thưa ngài; tôi biết ngài như một thương nhân. Phải, tôi không thể giúp gì; tôi cho rằng mọi người đều phải ra đi vào lúc này hay lúc kia, dù thật khó khăn khi phải chết ở một nơi như thế này, nơi chôn chất người Thiên Chúa Giáo không phải vì lượng vàng họ sở hữu. Tôi đã cố làm một người tốt, thưa ngài, làm hết bổn phận trung thành của tôi, và nếu không phải vì cách thức kiêu ngạo cha tôi tới đêm qua – một kiểu hít hít ngửi ngửi tôi không thích – như thể ông không muốn thử thách tôi – tôi cảm thấy khá dễ dàng trong đầu. Dù sao thưa ngài, tôi đã là một người đầy tớ tốt của ngài và ngài Leo, chúa phù hộ ngài ấy! – tại sao nhỉ, dường như một ngày tôi từng dẫn cậu ấy xuống phố bằng xe ngựa; - nếu ngài có thể thoát khỏi chỗ này – vì cha không ám chỉ gì đến ngài, nên có lẽ ngài có thể thoát – tôi hy vọng ngài sẽ nghĩ về đống xương trắng của tôi một cách hài lòng, và đừng làm gì nữa với bản văn tự tiếng Hy Lạp trên những cái chậu hoa, thưa ngài, nếu tôi cả gan được nói điều đó.”
“Thôi đi, thôi đi, Job,” Tôi nghiêm giọng nói, “Thật vớ vẩn, cậu thấy đấy. Cậu không ngu ngốc đến mức cho hết những ý tưởng kiểu đó vào đầu đấy chứ. Chúng ta đã sống sót dù trải qua nhiều chuyện ly kì, và tôi mong chúng ta sẽ tiếp tục làm được điều đó.”
“Không, thưa ngài,” Job trả lời với giọng tin tưởng khiến tôi không vui, “không hề vớ vẩn. Tôi là người có số phận bi đát, tôi cảm thấy thế, đó là một cảm xúc không thoải mái vô cùng, thưa ngài, vì không ai có thể giúp hay hỏi chuyện sẽ ra sao. Nếu ngài ăn tối và nghĩ về thuốc độc, nó sẽ chống lại dạ dày ngài, nếu ngài đi dạo trên những hang thỏ tối tăm này và nghĩ về dao kéo, Lạy Chúa, ngài sẽ chỉ thấy rùng mình phía sau lưng! Tôi không phải người đặc biệt, thưa ngài, cũng không sắc sảo như cô gái khốn khổ kia, giờ cô ta cũng đi rồi. Tôi rất tiếc phải nói thế, dù tôi không chấp nhận đạo đức của cô ta trong việc kết hôn, việc tôi thấy tự phong quá nhanh. Thưa ngài,” Job khốn khổ tái mặt khi nó điều này, “tôi vẫn hy vọng đó sẽ không phải là trò cái chậu nung nóng.”
“Vớ vẩn,” Tôi quát lên giận dữ, “Vớ vẩn!”
“Tốt rồi, thưa ngài,” Job nói, “không phải nơi tôi khác biệt với ngài, thưa ngài, nhưng nếu ngài định đi đâu, thưa ngài, tôi có thể đề nghị ngài mang tôi theo cùng được không, vì tôi sẽ rất vui được đối mặt nhìn giờ khắc đó đến, chỉ để giúp nó được suôn sẻ, như nó vốn thế. Còn bây giờ, thưa ngài tôi sẽ làm bữa sáng,” rồi anh ta đi, bỏ tôi lại trong tâm trạng rất không thoải mái. Tôi gắn bó sâu sắc với Job già dặn, một trong những người đàn ông tốt nhất và trung thực nhất tôi từng có trong đời, thực sự là người bạn hơn là một đầy tớ, ý nghĩ về chuyện gì đó sẽ xảy ra với anh ta tạo thành cục bướu sưng lên trong cổ họng tôi. Sau cuộc nói chuyện ngớ ngẩn đó, tôi có thể nhận ra bản thân anh ta hoàn toàn tin rằng sẽ có gì đó sắp xảy ra, dù trong hầu hết tình huống, những niềm tin kiểu này đều biến mất hoàn toàn dưới ánh trăng – niềm tin cụ thể này được đặc biệt hình thành do môi trường xung quanh tăm tối và không quen thuộc nơi nạn nhân đang được đặt trong đó – chuyện này vẫn mang theo ít nhiều lạnh lẽo tràn tới trái tim tôi, thật đáng sợ khi rõ ràng đối tượng đích thực của đức tin có xu hướng suy nghĩ như vậy, dù điều này thật vô lý. Giờ bữa sáng đã tới, và cả Leo vừa đi dạo ngoài hang đã trở lại – để làm cho đầu óc tỉnh táo, cậu ấy nói vậy – tôi rất vui khi nhìn thấy cả hai người, vì họ đã mang đến cho tôi sự thư thái, thoát khỏi những suy nghĩ tối tăm. Sau bữa sáng, chúng tôi đi dạo tiếp, quan sát vài người Amahagger gieo hạt trên một lô đất để làm ra loại bia của họ. Họ làm theo giống như ghi chép – một người với chiếc túi da dê gắn chặt quanh eo đi lên đi xuống trên lô đất, rắc hạt giống khi anh ta đi qua. Đó là một hành vi tích cực của tộc người đáng sợ này khi hài lòng gieo hạt trên cánh đồng, có lẽ vì hành động đó liên kết họ với phần còn lại của nhân loại.
Khi chúng tôi trở về, Billali gặp chúng tôi, thông báo rằng Bà ấy rất vui khi chúng tôi chờ đợi bà ấy, sau đó chúng tôi đi vào nơi bà ấy hiện diện, không phải không lo lắng, vì Ayesha chắc chắn có ngoại lệ cho việc này. Quen thuộc với sức mạnh, gieo hạt giống đam mê, kỳ bí và kinh hãi, nhưng chắc chắn không gieo hạt giống khinh bỉ.
Chúng tôi thường gặp những người câm, sau khi họ đi, Ayesha sẽ tháo che mặt, một lần nữa Leo lại ôm bà ấy, dù tự vấn lòng mình đêm trước, cậu vẫn sốt sắng và nhiệt tình hơn phép lịch sự yêu cầu.
Bà ấy đặt bàn tay trắng trẻo lên đầu cậu, nhìn vào mặt cậu đầy trìu mến. “Chàng có tự hỏi, Kallikrates của ta,” bà ấy nói, “khi nào chàng sẽ coi ta như chính chàng, khi nào chúng ta sẽ thực sự người này vì người kia? Ta sẽ nói cho chàng. Trước tiên, chàng phải là người giống ta, thực ra không cần bất tử, vì ta không phải thế, mà chỉ cần được bao bọc, cứng rắn chống lại Thời Gian tấn công, mũi tên của Thời Gian sẽ lướt qua áo giáp sự sống vinh quang của chàng như tia sáng mặt trời xuyên qua nước. Ta sẽ không thể kết hôn với chàng, vì chàng và ta khác nhau, vẻ rực rỡ chói sáng của ta có thể thiêu cháy chàng, không chừng sẽ phá hủy chàng. Chàng cũng không thể chịu đựng được việc nhìn vào ta quá lâu mà không khiến mắt chàng đau đớn, cảm xúc của chàng sẽ quay cuồng, thế nên” (hơi gật đầu) “giờ ta sẽ che mặt lại.” (Dù sao bà ta cũng không làm điều này.) “Không: nghe này, chàng sẽ không phải chịu đựng, vì tối nay, một giờ trước khi mặt trời lặn, chúng ta sẽ bắt đầu, tới đêm mai, nếu mọi thứ đều tốt đẹp, con đường cho ta không biến mất, ta cầu xin để được như thế, chúng ta sẽ đứng ở nơi của Sự Sống, chàng sẽ tắm trong ngọn lửa, và đi ra vinh quang, không ai trước chàng được như thế, và Kallikrates, chàng sẽ gọi ta là vợ, còn ta sẽ gọi chàng là chồng.”
Leo lẩm bẩm gì đó đáp lại câu nói gây kinh ngạc kia, tôi không biết gì, bà ta cười nhỏ trước sự bối rối của cậu ấy và tiếp tục.
“Còn ngươi cũng vậy, Holly; ta cũng sẽ ban cho ngươi ân huệ này, và ngươi sẽ mãi mãi thanh xuân, ta sẽ làm thế - phải, vì ngươi khiến ta vui lòng, Holly, vì ngươi không phải kẻ ngu ngốc như hầu hết đám con cháu loài người, vì dù ngươi nằm trong bầy triết gia nhảm nhí như những kẻ thời xưa, nhưng ngươi cũng không quên đáp lại lời đẹp đẽ thế nào trước mắt phụ nữ.”
“Này, nhà nghiên cứu sinh già!” Leo thì thầm, quay về sự vui vẻ ngày xưa của cậu, “bác được trả công cho lời khen tặng ư? Cháu không bao giờ nghĩ bác lại thế!”
“Tôi xin cảm ơn người, Ayesha,” Tôi đáp một cách thật trân trọng, “nhưng nếu có một nơi như người mô tả, nếu ở nơi kỳ lạ này có thể tìm thấy một vật chất mạnh mẽ giúp thoát khỏi Thần Chết khi ông ta tới tóm chúng ta, tôi cũng không muốn. Đối với tôi, Ayesha, thế giới không mềm mại như cái lồng để tôi nằm trong đó vĩnh viễn. Người mẹ có trái tim sắt đá là trái đất của chúng ta, sỏi đá là bánh mì bà ấy cho những đứa con mình làm thức ăn hằng ngày. Đá để ăn và nước để khi khát, nắm đấm để giáo dục cẩn thận. Những người đang sống kia, ai muốn chịu điều này? Ai muốn mang trên lưng ký ức về những giờ khắc và tình yêu đã mất, về nỗi buồn của người láng giềng không hề vơi bớt, và những điều khôn ngoan nhưng không chứa niềm an ủi? Chết thật khó khăn, vì xác thịt của chúng ta co lại đến con sâu cũng sẽ không cảm nhận thấy, đến những thứ vô danh gió thổi buông rèm che mất tầm nhìn của chúng ta. Nhưng với tôi, càng khó khăn hơn để sống, tươi xanh như lá, nhưng lại thối ruỗng mục nát trong lõi, rồi cảm nhận con sâu hồi ức bí ẩn gặm nhấm trái tim.”
“Ngươi hãy suy nghĩ đi, Holly,” bà ta nói; “Cuộc đời dài lâu, sức mạnh và vẻ đẹp là những thước đo mang ý nghĩa mạnh mẽ, và là tất cả những gì con người mong muốn.”
“Ôi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi đáp, “Những thứ con người mong muốn là gì? Chúng không phải là bong bóng sao? Không phải là tham vọng mà là một cái thang vô tận không có chiều cao để trèo lên tới bậc cuối cùng không thể trèo nổi nữa hay sao? Vì chiều cao dẫn tới chiều cao, không có nơi ngừng nghỉ trên đó, từng bậc nối tăng từng bậc, không có giới hạn con số. Của cải không thể thỏa mãn, rồi trở nên buồn chán, hài lòng và vui vẻ không còn nữa, hay phải mua một giờ yên bình của trí óc? Có kết cục nào khôn ngoan mà chúng ta hy vọng đạt được không? Thực ra chúng ta càng học hỏi nhiều, chúng ta sẽ vẫn không thể chỉ xoay quanh sự thiếu hiểu biết của bản thân đấy ư? Sống mười nghìn năm để chúng ta có thể tìm ra bí mật của mặt trời, vũ trụ xa hơn các mặt trời, và Bàn Tay treo chúng ta lên thiên đường ư? Trí khôn của chúng ta không phải kẻ đói khát cồn cào kêu gọi ý thức mỗi ngày được tiếp thêm tri thức vào linh hồn trống rỗng của chúng ta đó sao? Không phải ánh sáng của cái hang lớn này, dù được chiếu sáng, cũng không thấy hết bóng tối sâu thẳm quanh nó ư? Có điều tốt đẹp nào chúng ta thu được nhờ tuổi đời dài đằng đẵng như thế không?”
“Không, Holly của ta, có tình yêu – tình yêu làm mọi thứ trở nên đẹp đẽ, phả khí trong lành vào cát bụi chúng ta bước qua. Với tình yêu, cuộc đời sẽ trôi đi trong vinh quang từ năm này sang năm khác, như âm nhạc tuyệt vời mang sức mạnh níu giữ trái tim người nghe trên những cánh đại bàng, vượt qua xấu hổ nhơ bẩn và điên rồ của trái đất.”
“Có lẽ vậy,” Tôi trả lời; “nhưng nếu người yêu dùng cây sậy gẫy đâm chúng ta, hay nếu tình yêu trong vô vọng, - thì chuyện gì sẽ tới? Con người sẽ chôn nỗi buồn thương xuống sỏi đá khi anh ta cần viết chúng lên nước ư? Không, thưa , tôi sẽ sống cuộc đời của tôi, trở nên già nua cùng thế hệ của tôi, rồi chết đi như đã định, và bị lãng quên. Vì tôi hy vọng bất tử trong một không gian nhỏ bé không chừng người có thể ban cho, nó chỉ dài một ngón tay thôi, so với thước đo của thế giới vĩ đại này, hãy nhớ điều này! Sự bất tử mà tôi mong chờ, mà đức tin đã hứa với tôi, là tự do thoát khỏi những cam kết buộc chặt linh hồn tôi. Trong khi xác thịt tôi vẫn còn tồn tại, nỗi buồn, điều xấu xa và những cái đuôi bọ cạp tội lỗi cũng tồn tại; nhưng khi xác thịt rời bỏ chúng ta, tinh thần sẽ tỏa sáng mạnh mẽ trong vẻ lộng lẫy của cái thiện vĩnh hằng, vì không gian chung để hít thở rất hiếm những suy nghĩ cao quí truyền cảm hứng tột đỉnh cho con người, hay hương thơm tinh khiết từ lời cầu nguyện của người thiếu nữ, những thứ có thể minh chứng vô cùng trần tục đó đều sẽ phảng phất trôi qua đây thôi.”
“Ngươi đã nhìn thật xa,”Ayesha khẽ cười đáp lại, “và nói rõ ràng như cây kèn đồng cùng âm thanh không chút do dự. Còn ta nghĩ về cái ngươi nói “thứ vô danh” làm gió thổi rèm che chắn chúng ta. Không chừng ngươi nhìn bằng con mắt của một người mang Đức Tin, thấy vẻ chói sáng của nó, dù đã qua lăng kính trí tưởng tượng của ngươi. Thật kỳ lạ trước những bức hình về tương lai con người có thể vẽ ra bằng cây bút của Đức Tin và màu sắc phong phú của trí tưởng tượng! Ta có thể kể cho ngươi – nhưng để làm gì chứ? Tại sao lại cướp của kẻ ngốc món trang sức của hắn ta? Hãy để chuyện này trôi qua đi, ta cầu xin đó, Holly, khi ngươi cảm thấy tuổi già chầm chậm bò về phía mình, lão hóa và nhầm lẫn làm suy giảm bộ não ngươi, ngươi sẽ không được hối tiếc cay đắng vì đã từ chối ân huệ tối cao ta ban cho ngươi. Nhưng phải như vậy, con người không bao giờ hài lòng với những gì tay họ chạm được tới. Nếu cây đèn trong tầm với chiếu sáng anh ta giữa tối tăm, anh ta sẽ muốn ném nó xuống vì không có các vì sao. Hạnh phúc nhảy múa vội vã trước anh ta, như đám lửa nhấp nháy trong đầm lầy, anh ta phải bắt lấy ngọn lửa, anh ta phải giữ lấy ngôi sao! Vẻ đẹp chẳng là gì với anh ta, vì làn môi ngọt ngào hơn thế; của cải chẳng là gì, vì người khác có thể hạ anh ta xuống với những đồng bạc nặng hơn; danh vọng không là gì, vì sẽ có những người vĩ đại hơn anh ta. Ngươi đã nói thế, ta vừa quay lại những lời ngươi nói. Ta nghĩ ngươi thật ngu ngốc, Holly của ta, ngươi đã ném cây đèn đi.”
Tôi không trả lời, vì tôi không thể - đặc biệt trước mặt Leo – nói với bà ấy rằng, từ khi tôi nhìn thấy mặt bà ấy, nó luôn hiện lên trước mặt tôi, tôi không mong kéo dài sự tồn tại khi luôn bị ám ảnh và tra tấn bởi ký ức về bà ấy, bởi những cay đắng khi tình yêu không được thỏa mãn. Nhưng thực sự là thế, than ôi, giờ phút này là thế!
“Bây giờ,” Bà ấy tiếp tục, đổi giọng và chủ đề, “hãy nói cho ta, Kallikrates của ta, vì ta không biết, chàng làm thế nào tìm kiếm ta ở đây? Đêm qua chàng đã nói rằng Kallikrates – người chàng nhìn thấy – là ông tổ của chàng. Thế là sao? Hãy nói cho ta – chàng đừng nói quá nhiều!”
Được van nài, Leo kể cho bà ấy câu chuyện kỳ diệu về chiếc quan tài và mảnh gốm được viết bởi bà tổ của cậu, Amenartas người Ai Cập, đã dẫn đường chúng tôi tới chỗ bà ấy. Ayesha chăm chú lắng nghe, khi cậu ấy nói xong, bà ấy nói với tôi.
“Ta đã không nói cho ngươi vào ngày đó, khi chúng ta nói về thiện ác, Holly ạ - đó là ngày người ta yêu đang bệnh tật ốm yếu – rằng thiện trở thành ác, và ác thành thiện – người gieo hạt không biết mùa màng sẽ thế nào, cũng không biết nơi nào gió mạnh tới sẽ làm cây đổ? Giờ hãy nhìn xem: Amenartas người Ai Cập kia, đứa con hoàng tộc của sông Nile, kẻ căm ghét ta, kẻ ta cũng căm ghét, khi đó vì cô ta đã thắng ta – giờ hãy xem đi, cô ta đã mang người yêu của mình tới vòng tay ta! Vì cô ta, ta đã giết chàng, bây giờ, than ôi, nhờ cô ta, chàng lại trở lại bên ta! Cô ta muốn làm ta thành quỉ dữ, gieo hạt giống để ta chỉ có thể gặt được cỏ lác, than ôi, cô ta đã cho ta nhiều hơn tất cả những gì thế gian này có thể cho ta, vì chàng, hình vuông kỳ lạ đã khớp khít vào vòng tròn thiện ác, Holly ạ!
“Như vậy,” bà ấy tiếp tục sau khi dừng một lúc – “cô ta đã kêu gọi con trai mình tiêu diệt ta nếu hắn có thể, vì ta đã giết cha hắn. Còn chàng, Kallikrates của ta, là cha, theo một nghĩa nào đó, chàng cũng giống như con trai; chàng muốn trả thù cho sai lầm của ta không, sai lầm mà người mẹ xa xôi đó của chàng muốn làm với ta, Kallikrates? Nhìn đi,” bà ấy quì gối xuống, khiến vạt áo trắng bị trượt xuống sâu hơn nơi bộ ngực trắng ngà – “nhìn đi, trái tim ta đang đập ở đây, với con dao bên sườn chàng, nặng, dài, và sắc nhọn, con dao thực sự để giết chết một nữ hoàng. Hãy cầm lấy nó, và báo thù đi. Hãy đâm đi, đâm đi! – chàng sẽ được toại nguyện, Kallikrates, và trôi qua một đời người hạnh phúc, vì chàng đã trả thù được cho điều sai trái này, tuân theo lời ủy thác của quá khứ.”
Cậu ấy nhìn vào bà, đưa tay nâng bà ấy dậy.
“Đứng dậy đi, Ayesha,” cậu buồn bã nói; “người biết rằng tôi không thể đâm người, không, không phải vì cô ấy, người ngươi đã giết đêm qua. Tôi nằm dưới sức mạnh của người, là nô lệ thực sự của người. Tôi có thể giết người thế nào đây? – tôi sẽ tự giết mình ngay sau đó thôi.”
“Chàng đã bắt đầu yêu ta, Kallikrates,” bà ấy mỉm cười đáp lại. “Giờ hãy kể cho ta về đất nước của chàng – đó là một dân tộc vĩ đại, phải không? Có một hoàng đế giống như Rome! Chắc chắn chàng muốn quay về đó, ta nghĩ chàng sẽ không muốn cư trú trong khu hang động Kôr này. Không, một khi chàng đã trở thành người giống như ta, chúng ta sẽ cùng đi tới đó – đừng sợ, ta sẽ tìm ra đường – chúng ta sẽ tới nước Anh của chàng, sống như chúng ta được sống. Hai nghìn năm qua ta đã đợi ngày này, phải nhìn những hang động đáng ghét và đám người có gương mặt u ám này, giờ trái tim ta như trẻ thơ hướng về lễ hội. Vì chàng sẽ thống trị nước Anh – “
“Nhưng chúng tôi đã có một nữ hoàng,” Leo vội vã ngắt lời.
“Vô ích, vô ích,” Ayesha nói; “bà ta sẽ bị lật đổ.”
Lúc này cả hai chúng tôi thở ra vì cảm thán đến mất tinh thần, rồi bảo rằng, chúng tôi nên sớm nghĩ đến việc đảo chính.
“Nhưng vẫn có điều kì lạ,” Ayesha kinh ngạc nói; “nữ hoàng là người được người dân yêu mến ư! Chắc thế giới phải thay đổi nhiều từ khi ta cư ngụ ở Kôr.”
Chúng tôi lại giải thích rằng, nhân vật trong hoàng triều đã thay đổi, người trong thời chúng tôi sống đều được quần chúng nhân dân biết suy nghĩ chính đáng tôn trọng và yêu quí trong vương quốc rộng lớn của bà. Chúng tôi cũng kể cho bà ấy, sức mạnh thực sự của quốc gia năm trong tay nhân dân, thực tế chúng tôi đều được cai trị bằng cách bầu cử từ cộng đồng người dân ở các tầng lớp thấp hơn và ít học hơn.
“À,” bà ấy nói, “nền dân chủ, - thế thì chắc chắn có một bạo chúa rồi, vì ta đã từng nhìn thấy các nền dân chủ quá lâu rồi, chúng không có ý chí rõ ràng, cuối cùng lập nên một bạo chúa, và tôn sùng ông ta.”
“Phải,” tôi nói, “chúng tôi cũng có các bạo chúa.”
“Được,” bà ấy cam chịu đáp lại, “dù sao chúng ta cũng có thể tiêu diệt các bạo chúa này, và Kallikrates sẽ thống trị mảnh đất đó.”
Tôi ngay lập tức báo cho Ayesha biết, ở Anh, “nổ” không phải trò giải trí có thể say mê mà được miễn hình phạt, những nỗ lực hành động như vậy có thể bị luật pháp quan tâm đến và có thể kết thúc trên giàn giáo.
“Luật pháp,” bà ấy cười một cách khinh miệt – “Luật pháp ư! Ngươi không hiểu, Holly ạ, ta ở trên luật pháp, Kallikrates của ta sao lại không thế chứ? Tất cả luật pháp của loài người đối với chúng ta như gió bắc tràn qua ngọn núi. Gió có thể uốn cong ngọn núi sao, hay ngọn núi sẽ bẻ cong cơn gió?”
“Giờ hãy về đi, Ta cầu xin ngươi, và cả chàng cũng thế, Kallikrates của ta, vì ta muốn chuẩn bị sẵn sàng cho hành trình của chúng ta, cả hai người cũng thế, người đầy tớ kia cũng thế. Nhưng đừng mang quá nhiều thứ theo, vì ta tin rằng chúng ta sẽ ra đi trong ba ngày tới. Rồi chúng ta sẽ tới đó, ta sẽ lập kế hoạch để chúng ta có thể chia tay vĩnh viễn đống mồ mả của Kôr. Phải, chắc chắn chàng sẽ hôn tay ta thôi!”
Chúng tôi đi ra, còn tôi bắt đầu cảm nhận sâu sắc về bản chất kinh khủng của vấn đề đang mở ra trước mặt. Bà ấy đáng sợ rõ ràng quyết định tới nước Anh, khiến tôi rùng mình nghĩ tới những gì có thể xảy ra khi bà ta tới đó. Tôi biết sức mạnh của bà ta là gì, không nghi ngờ gì chuyện bà ta sẽ thực hiện chúng hoàn hảo. Có thể điều khiển được bà ta một lúc, nhưng lòng tự hào, ý chí tham vọng của bà ấy chắc chắn sẽ phá vỡ để trả thù cho hàng thế kỷ dài cô đơn. Nếu cần thiết, và nếu nhan sắc không bất lực trước cơ hội này, bà ấy sẽ tàn phá theo cách của mình để đạt tới bất cứ kết cục nào bà ta định ra, vì bà ta không thể chết, và tôi biết, bà ta cũng không thể bị giết, [*] điều gì có thể làm bà ấy dừng chân? Cuối cùng, tôi hơi hoài nghi, bà ta có lẽ muốn thống trị tuyệt đối toàn bộ liên hiệp vương quốc Anh, rồi toàn trái đất, dù tôi chắc bà ấy sẽ nhanh chóng làm chúng tôi thành đế chế vinh quang nhất và thịnh vượng nhất mà thế giới từng thấy, nhưng cái giá sẽ là sự hy sinh khủng khiếp của bao sinh mạng.
[*] Tôi rất tiếc phải nói rằng tôi không bao giờ có thể chắc chắn liệu Bà ấy có bất khả xâm phạm trước các tai nạn thông thường trong cuộc sống không. Có lẽ vậy, một hành trình sai lầm nào đó có thể đặt dấu chấm hết cho bà ấy sau nhiều thế kỷ. Thực ra, bà ta đã trao cho Leo quyền giết bà ta, nhưng có lẽ chỉ là một thử nghiệm kiểm tra thái độ và tinh thần của cậu trước mặt bà ấy. Ayesha không bao giờ tạo ra xung đột mà không có mục đích cụ thể nào đó. – L.H.H.
Câu chuyện như một giấc mơ hay một phát minh kỳ lạ của bộ não tự biện, thực tế - một thực tế tuyệt vời – mà thế giới nên sớm được kêu gọi phải chú ý. Ý nghĩa của chuyện này là gì? Sau khi suy nghĩ rất nhiều, tôi chỉ có thể kết luận rằng sinh vật kỳ diệu này, tình yêu đam mê giữ bà ấy nhiều thế kỷ trong xiềng xích đến vậy, tương đối vô hại, giờ sẽ được Thượng Đế sử dụng làm phương tiện để thay đổi trật tự thế giới, có thể dựng nên một sức mạnh không thể chống lại hay bị hoài nghi như các qui định của Định Mệnh, biến đổi nó về chất tới một thứ tốt đẹp hơn.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham