Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 23



CHƯƠNG 23

Ngôi Đền Sự Thật
Chúng tôi chuẩn bị không mất nhiều thời gian lắm. Chúng tôi để một ít quần áo và ủng dự phòng trong túi Gladstone, chúng tôi cũng mang súng lục và súng trường mỗi người một khẩu, cùng với đạn dược đầy đủ, một biện pháp phòng ngừa, vì, dù có Thượng Đế, chúng tôi cũng nợ tính mạng của mình hết lần này đến lần khác. Phần còn lại, những khẩu súng trường nặng, chúng tôi đành bỏ lại.
Vài phút trước giờ đã định, chúng tôi lại chờ đợi trong phòng ngủ của Ayesha, thấy bà ấy đã sẵn sàng, chiếc áo choàng đen khoác bên ngoài đống vải quấn quanh.
“Các ngươi đã chuẩn bị cho cuộc mạo hiểm vĩ đại chưa?” bà ấy nói.
“Rồi,” Tôi trả lời, “về phần mình, Ayesha, tôi không tin vào nó.”
“À, Holly của ta,” bà ta nói, “ngươi thật giống những người Do Thái cổ xưa kia – trong ký ức họ đã chọc giận ta rất đau lòng – không tin, và hầu như không chấp nhận những gì họ không biết. Nhưng ngươi sẽ thấy; trừ khi chiếc gương của ta nói dối,” bà ta chỉ vào mặt nước như pha lê, “con đường đã mở ra như khi xưa. Giờ chúng ta hãy bắt đầu cuộc đời mới mà ai biết được nó sẽ kết thúc ở đâu?”
“A,” Tôi thốt lên, “ai biết được ở đâu ư?” rồi chúng tôi đi xuống hang động lớn ở trung tâm, tiến vào vùng ánh sáng ban ngày. Tại cửa hang, chúng tôi thấy một cái ổ sáu người khiêng, tất cả đều là người câm, đang đợi, tôi thấy nhẹ nhõm khi gặp ông bạn già Billali, người tôi có một tình cảm nhất định. Vì lí do không cần giải thích, Ayesha cho đó là cách tốt nhất, ngoại trừ bà ấy, chúng tôi đều đi bộ, chúng tôi không miễn cưỡng phải làm thế, sau khi đã ở khá lâu trong khu hang động này, tuy nhiên cái ổ kia có lẽ hợp với cái quách – một từ không phù hợp lắm, dù sao với những ngôi mộ đặc biệt này, chắc không tốn sức người khiêng đến vậy – ép người ở trong như người chết vẫn còn thở. Ngẫu nhiên hay do mệnh lệnh của Bà ấy, không gian trước cái hang diễn ra vũ hội kinh dị đã hoàn toàn bị dọn sạch. Không thấy một linh hồn nào, tất nhiên tôi không tin chuyến đi này mọi người đều biết, có lẽ trừ những người câm đợi Bà ấy, tất nhiên họ có thói quen giữ chặt những gì họ thấy cho bản thân.
Vài phút sau chúng tôi bước từng bước trên đồng bằng lớn được canh tác, hay lòng hồ, bị đóng khung như miếng ngọc lục bảo lớn đặt trong vách núi, lại có cơ hội nữa để tự hỏi về bản chất phi thường của nơi này, nơi dân tộc Kôr xưa kia đã lựa chọn làm thủ đô của họ, với số nhân công khổng lồ, sự khéo léo và kỹ thuật được những người sáng lập nên thành phố trưng dụng, để làm khô cạn một khối nước khổng lồ, sau đó giữ nó được tích tụ lại. Quả thực, qua kinh nghiệm của tôi, đây là một ví dụ vô song về những gì con người có thể làm khi đối đầu với tự nhiên, theo tôi, thành tựu này giống như Kênh đào Suez hay Đường Hầm Mont Cenis, nhưng không lớn lao và hùng vĩ như công trình cổ đại này.
Khi chúng tôi đi được khoảng nửa giờ, tự thưởng thức khoảnh khắc thú vị vui vẻ trong ngày dường như luôn tới trên khu đồng bằng Kôr rộng lớn, chuộc lỗi mức nào đó cho mong muốn của đất và gió biển – vì gió đều bị chắn bởi bức tường núi đá – chúng tôi bắt đầu nhìn thấy rõ khung cảnh Billali đã kể cho chúng tôi về những tàn tích của một thành phố vĩ đại. Ngay từ xa chúng tôi đã có thể thấy đống tàn tích này tuyệt vời thế nào, mỗi bước đi đều thấy rõ rệt hơn. Thành phố không quá lớn nếu so sánh với Babylon hay Thebes, hay những thành phố thời cổ đại xa xôi khác; có lẽ bức tường bên ngoài nó khoảng mười hai dặm vuông, hoặc ít hơn. Các bức tường không còn nguyên vẹn, như chúng tôi nhận ra khi đặt chân lên đó, không quá cao, có lẽ không quá bốn mươi feet, đó là độ cao hiện giờ khi chìm dưới đất một phần, hay vì nguyên nhân nào đó, bị sụp đổ. Nguyên nhân chắc chắn là dân tộc Kôr, dùng thành lũy to lớn hơn bất kỳ thứ gì bàn tay con người có thể tạo ra để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài, chỉ cần chúng xuất hiện, và bảo vệ chống lại các mối bất hòa dân sự. Mặt khác chúng cũng rộng rãi và cao lớn, hoàn toàn bằng đá, được đào từ khu hang động, bao quanh một con hào lớn rộng khoảng sáu mươi feet, một số vẫn đầy nước. Khoảng mười phút trước khi mặt trời chìm hoàn toàn xuống, chúng tôi tới được chỗ con hào này, đi xuống xuyên qua nó, leo qua vật giống như các mảnh tường xếp chồng lên tới đỉnh. Tôi ước nó nằm dưới sức mạnh ngòi bút của mình để trao ý tưởng về khung cảnh hùng vĩ bắt gặp cái nhìn của chúng tôi. Nơi đó hòa quyện trong sắc đỏ của mặt trời đang chìm xuống, là hàng dặm nối hàng dặm phế tích – cột đá, đền thờ, miếu, cung điện nhà vua, đa dạng với những miếng vá bằng bụi cây xanh. Tất nhiên, mái của các tòa nhà từ lâu đã sụp đổ và biến mất, nhưng vẫn có một số lượng cực lớn kiểu kiến trúc đó, kiên cố và bền bỉ bằng đá, rất nhiều bức tường và cột lớn vẫn còn đứng thẳng. [*]
[*] Liên hệ với trạng thái bảo tồn kỳ lạ đống phế tích này sau giai đoạn sụp đổ lớn như vậy – ít nhất sáu nghìn năm – phải nhớ rằng Kôr không bị thiêu cháy hay hủy diệt bởi kẻ thù hay động đất, mà bị bỏ hoang do tác động của một dịch bệnh khủng khiếp. Vì thế những ngôi nhà bị bỏ lại không hư hại gì; khí hậu của vùng đồng bằng này rất tốt và khô ráo, ít mưa gió; kết quả là đống di tích đó chỉ phải chống lại thời gian, chúng tác động chậm chạp lên các khối công trình lớn. – L.H.H.
Ngay phía trước chúng tôi rõ ràng là đường chính của thành phố, vì nó rất rộng, rộng hơn bờ kè sông Thames, sau đó chúng tôi phát hiện ra, nó được trải nhựa, hay đúng hơn là được xây bằng những khối đá được mài giũa, giống như dùng để thi công các bức tường, giờ nó đã được phủ đầy cỏ và cây bụi mọc lên từ lớp đất không sâu lắm. Nơi là công viên và vườn cây, ngược lại, giờ như rừng rậm. Quả thật, từ xa rất dễ lần ra vô vàn đường phố bằng cách đốt cháy đám cỏ ít ỏi mọc trên đó. Phía bên kia của con đường lớn này là những khối tàn tích rộng lớn, mỗi khối nói chung đều phân tách với láng giềng của nó bằng một không gian, tôi giả thiết, có lẽ từng là mảnh vườn, nhưng giờ chi chít cây bụi rậm rạp. Chúng đều được xây với loại đá cùng màu, hầu hết đều là cột lớn, nhiều đến mức chúng tôi có thể nhận ra trong ánh sáng mờ nhạt khi chúng tôi đi nhanh qua đường chính, tôi tin mình đã đúng khi nói rằng không có bàn chân người sống đặt vào đây hàng nghìn năm qua. [*]
[*] Billali kể cho tôi, người Amahagger tin rằng thành phố này bị ma ám, và không nên bước vào đây với bất cứ lý do gì. Quả thực, tôi có thể thấy bản thân ông ta không hoàn toàn thích làm việc này, chỉ giải khuây bằng cách cho rằng ông ta đang nằm dưới sự bảo vệ trực tiếp của Bà ấy. Bản thân Leo và tôi cũng rất tò mò, một dân tộc không phản đối sống cùng người chết, những người mà sự suồng sã có lẽ sẽ sinh ra khinh bỉ, và dùng thân xác họ làm nhiên liệu, lại kinh sợ với nơi cư trú mà những người đã mất chiếm đóng khi còn sống. Tuy nhiên cuối cùng, đó chỉ là sự không nhất quán của đám người hoang dã. – L.H.H.
Hiện tại chúng tôi đã tới một cái đống khổng lồ, đúng đắn là một đền thờ rộng ít nhất tám mẫu, được xếp theo trình tự cung điện, mỗi điện gần một điện khác nhỏ hơn, theo nguyên lý của bộ hộp xếp lồng nhau Trung Hoa, các cung điện phân tách với nhau bởi những hàng cột khổng lồ. Khi tôi đang nghĩ về nó, tôi cũng nhận ra điểm đáng chú ý về hình dáng những cây cột này, chúng không giống những gì tôi từng nhìn thấy hay nghe thấy, được tạo dáng thắt eo ở giữa, rồi phồng ra ở trên và dưới. Thoạt tiên chúng tôi nghĩ hình dáng đó biểu trưng cho dáng hình cơ thể phụ nữ, thói quen chung trong kiến trúc tôn giáo cổ xưa của nhiều tín ngưỡng. Nhưng hôm sau, khi tới sườn núi, chúng tôi phát hiện ra một lượng lớn cây cọ trông vô cùng trang nghiêm, cũng có chính xác hình dáng này, nên giờ không nghi ngờ gì nữa, nhà thiết kế đầu tiên của đống cột kia được truyền cảm hứng từ đường cong duyên dáng của những cây cọ này, hay đúng ra là tổ tiên của chúng khoảng tám hay mười nghìn năm trước, giống như bây giờ, vẫn trang hoàng đẹp đẽ cho các sườn núi từng tạo nên bờ của hồ núi lửa.
Mặt tiền của ngôi đền này rất lớn, tôi tưởng tượng, rộng như đền El-Karnac tại thành Thebes, một vài trong số những cây cột lớn nhất mà tôi đo được, đều có đường kính từ mười tám tới hai mươi feet, cao khoảng bảy mươi feet, đoàn rước nhỏ của chúng tôi đã dừng lại, Ayesha bước xuống khỏi cái ổ.
“Đây có một chỗ, Kallikrates,” bà ấy nói với Leo đang chạy tới giúp bà ấy bước xuống, “có thể ngủ. Hai nghìn năm trước, chàng và ta, cùng người Ai Cập kia từng nghỉ ở đó, nhưng từ đó ta không đặt chân đến đây nữa, không ai cả, không chừng nó đã sụp đổ,” đi theo bởi cả đoàn chúng tôi, bà ấy bước qua như bay hàng đống hoang phế đổ nát tới cung điện bên ngoài, rồi nhìn quanh trong bóng tối. Hiện giờ, dường như đã nhớ ra, bà ấy bước vài bước theo bức tường tới bên trái, rồi dừng lại.
“Nó đây,” bà ta nói, cùng lúc ra hiệu cho hai người câm đang chở đống đồ dùng cùng ít đồ cá nhân của chúng tôi lên trước. Một trong số họ cầm đèn đi lên, thắp nó sáng lên từ lò than (với người Amahagger, khi đi đường gần như đều luôn luôn mang theo người một lò than nhỏ và nhẹ, để cung cấp lửa). Đống bùi nhùi của lò than làm từ mảnh vỡ của xác ướp được hãm cẩn thận, nếu trộn với đất ẩm đúng cách, hợp chất tội lỗi này có thể cháy âm ỉ hàng giờ. [*] Ngay khi ngọn đèn được thắp lên, chúng tôi bước vào nơi đó trước khi Ayesha dừng lại. Xuất hiện một căn phòng được đào trong tường dày, từ thực tế vẫn có một bàn đá lớn bên trong nó, tôi nghĩ có lẽ đó là phòng khách, dành cho một trong những người giữ cửa của ngôi đền lớn này.
[*] Cuối cùng chúng ta cũng không tiến bộ hơn người Amahagger nhiều lắm trong vấn đề này. “Xác ướp” mà người Ai Cập cổ nghiền ra, tôi tin là loại sắc tố được các nghệ sĩ sử dụng rất nhiều, đặc biệt những người dùng tài năng tái sinh lại các tác phẩm bậc thầy ngày xưa. – Biên tập viên.
Chúng tôi dừng ở đây, sau khi lau sạch sẽ chỗ này làm nó trở nên tiện nghi như hoàn cảnh và bóng tối cho phép, chúng tôi ăn chút thức ăn lạnh, ít ra Leo, Job và tôi làm thế, còn Ayesha, tôi nghĩ tôi đã từng nói, không bao giờ chạm vào bất kỳ cái gì trừ bánh bột mì, trái cây và nước. Trong khi chúng tôi vẫn đang ăn, mặt trăng tròn đầy nhô lên trên tường núi, bắt đầu làm nơi đây tràn ngập ánh bạc.
“Có biết tại sao ta mang các ngươi tới đây đêm nay không, Holly của ta?” Ayesha nói, gối đầu lên tay và ngắm nhìn quả cầu lớn đang mọc lên, như nữ hoàng nơi thiên đường, phía trên những cây cột uy nghi của đền thờ. “Ta mang các ngươi, không, thật kì lạ, nhưng chàng có biết, Kallikrates, lúc này chàng nằm ở chỗ đó, chính là nơi cơ thể đã chết của chàng nằm xuống khi ta mang chàng trở lại khu hang động Kôr nhiều năm trước đây không? Giờ tất cả đã trở về tâm trí ta. Ta có thể thấy nó, cảnh tượng thật khủng khiếp!” bà ấy rùng mình.
Leo bật dậy khỏi đó và vội vàng thay đổi chỗ ngồi. Nhưng hồi tưởng có lẽ đã tác động tới Ayesha, rõ ràng hơi lôi cuốn cậu ấy.
“Ta mang các ngươi tới,” Ayesha lại tiếp tục, “có lẽ các ngươi sẽ thấy cảnh tượng tuyệt vời nhất mà mắt người từng thấy – ánh trăng tròn tỏa sáng trên xứ Kôr hoang phế. Khi các ngươi ăn xong – ta có thể dạy chàng không ăn gì ngoài hoa trái, Kallikrates, nhưng chỉ sau khi chàng tắm qua lửa. Ngày xưa ta cũng ăn thịt như kẻ súc vật. Sau khi xong, chúng ta sẽ đi ra ngoài, ta sẽ chỉ cho các người thấy ngôi đền vĩ đại này và Vị Thần mà người dân nơi này từng thờ phụng ở đây.”
Tất nhiên chúng tôi bật dậy ngay để bắt đầu. Ngòi bút của tôi lại thất bại. Đưa ra một chuỗi thước đo và chi tiết của vô số cung điện trong ngôi đền rất mệt mỏi, nếu tôi làm thế, tôi không biết phải mô tả những gì nhìn thấy thế nào, tráng lệ ngay cả trong đống đổ nát, gần như vượt quá năng lực nhận thức. Điện thờ nối tiếp điện thờ mờ ảo, hàng nối hàng những cây cột trụ hùng vĩ – vài cây cột trong số đó (đặc biệt tại các cửa ngõ) đều được chạm khắc từ bệ tới đỉnh cột – không gian nối tiếp không gian những căn phòng trống nói cho trí tưởng tượng hùng hồn hơn mọi đường phố đông đúc. Trên tất cả, im lặng chết chóc của xứ sở đã chết, cảm giác đơn độc hoàn toàn, và tinh thần ủ ê của Quá Khứ! Đẹp biết bao, buồn chán biết bao! Chúng tôi không dám nói to. Ayesha cũng kinh ngạc trước sự hiện hữu của đế chế cổ xưa, so với tháng ngày bà ấy đã trải qua, chỉ là một việc nhỏ; chúng tôi chỉ thì thầm, lời thì thầm như chạy từ cột này tới cột khác, cho tới khi chúng mất hút trong không gian im lặng. Ánh trăng sáng ngời rơi xuống cột trụ, điện thờ và những bức tường vỡ tan, che dấu nét vay mượn và những gì không hoàn hảo trong ánh bạc, khoác lên tấm áo uy nghi đã hoa râm cùng vinh quang đặc biệt của màn đêm. Thật tuyệt vời khi thấy trăng tròn nhìn xuống tòa miếu đổ nát của Kôr. Thật tuyệt vời khi nghĩ tới hàng nghìn năm qua, quả cầu chết chóc bên trên, thành phố chết bên dưới, cùng nhìn nhau, trong không gian cô đơn tột độ, rót cho nhau nghe câu chuyện về cuộc đời đã qua và vinh quang đã đi xa của chúng. Ánh sáng trắng rơi xuống, từng phút từng phút bóng tối yên lặng bò dọc các điện thờ đầy cỏ mọc, như linh hồn các linh mục xưa ám ảnh chỗ cư trú của vị thần được thờ phụng – ánh sáng trắng rơi xuống, bóng tối lớn dần lên tới khi vẻ đẹp hùng vĩ của mỗi khung cảnh cùng vẻ uy nghi không thể chế ngự được của Thần Chết như chìm vào tâm hồn chúng tôi, hét to hơn tiếng kêu la của những đội quân đang phô trương lộng lẫy mà nấm mồ đã nuốt chửng, và ký ức cũng bị lãng quên.
“Đi thôi,” Ayesha nói, sau khi chúng tôi nhìn mãi và nhìn mãi, tôi không biết bao lâu, “Ta sẽ chỉ cho các ngươi bông hoa đá trên vương miện Nhan Sắc và Kỳ Quan, nếu nó vẫn còn đứng đây thử thách thời gian bằng vẻ đẹp của nó, khiến trái tim con người khát khao như thứ sau tấm màn che,” không đợi câu trả lời, bà ấy dẫn chúng tôi qua hai điện thờ có trụ đá, sâu vào trong ngôi đền của tòa miếu cũ.
Nơi đây, giữa trung tâm điện thờ trong cùng, khoảng năm mươi thước vuông, hay ít hơn, chúng tôi đứng mặt đối mặt với tác phẩm Nghệ thuật có tính biểu tượng vĩ đại nhất mà một thiên tài đã trao cho thế giới. Ngay chính giữa điện thờ, đặt trên một phiến đá vuông dày là một quả bóng tròn bằng đá tối đen rất to lớn, đường kính khoảng hai mươi feet, đứng trên quả bóng là một nhân vật có cánh khổng lồ mang vẻ đẹp mê hoặc và thần thánh đến mức khi tôi lần đầu nhìn chằm chằm vào nó, bóng sáng tối dưới ánh trăng mềm mại, hơi thở của tôi như dừng lại, tim tôi ngừng đập một lúc.
Bức tượng đẽo từ đá cẩm thạch vẫn tinh khiết và trắng đến tận bây giờ, sau nhiều niên đại, tỏa sáng khi ánh trăng đang nhảy múa trên nó, chiều cao bức tượng, nói giỡn cùng phải trên hai mươi feet. Nhân vật có cánh mang hình phụ nữ với vẻ đẹp kỳ diệu và dáng hình tinh tế, kích thước dường như lấy ra từ vẻ đẹp người thật và tâm linh. Cô đang uốn người về phía trước và lơ lửng trên đôi cánh đã giang ra một nửa như thể giữ cô cân bằng. Cánh tay giang rộng như phụ nữ muốn ôm người mình yêu thương, trong khi thái độ của cô mang ấn tượng của vẻ cầu khẩn dịu dàng. Thân hình hoàn hảo duyên dáng để trần, - một điều kỳ lạ hiện ra – gương mặt có mạng che mỏng, vì vậy chúng tôi chỉ có thể theo dấu các đặc trưng đường nét. Một màn mỏng như sương tròn trịa phủ trên đầu, hai điểm cuối của nó rơi xuống ngực trái, bên dưới nó, giờ đã bị vỡ, một luồng không khí phía sau đi vào.
“Cô ấy là ai?” Tôi hỏi khi vừa rời mắt khỏi bức tượng.
“Ngươi không thể đoán ra ư, Holly?” Ayesha trả lời. “Trí tưởng tượng của ngươi đâu mất rồi? Đó là thần Sự Thật trên Thế Gian, đang kêu gọi con cháu tháo che mặt cho người. Hãy nhìn những gì viết trên bệ. Không nghi ngờ gì nữa, nó được lấy từ cuốn sách Kinh Thánh của người Kôr,” bà ấy dẫn đường tới chân bức tượng, nơi có văn tự bằng chữ tượng hình giống tiếng Trung Quốc thông thường được khắc sâu đến mức giờ vẫn đọc được rõ ràng, ít nhất với Ayesha. Theo phiên dịch của bà ấy, nó có nội dung như sau:
“Không có người nào vén màn che và nhìn vào gương mặt ta, vì nó rất đẹp ư? Dành cho người vén màn che của ta, ta sẽ trao cho anh ta hòa bình, những đứa con trí tuệ ngọt ngào và những công việc tốt.”
Rồi một giọng than khóc, “Dù tất cả những ai tìm kiếm theo ngươi đều mê đắm ngươi, than ôi! Ngươi là Đức Mẹ Đồng Trinh, ngươi sẽ thành Đức Mẹ Đồng Trinh khi Thời Khắc tới. Không ai nơi đây sinh ra người phụ nữ che mặt và sống động này, sẽ không có ai. Chỉ Thần Chết có thể rút ra màn che mặt của ngươi, ôi Thần Sự Thật!”
Và Thần Sự Thật giang cánh tay khóc than, vì những ai tìm kiếm người có lẽ sẽ không tìm thấy người, cũng không nhìn thẳng vào mặt người.
“Ngươi thấy đấy,” Ayesha nói, khi dịch xong, “Thần Sự Thật là nữ thần của dân tộc Kôr cổ xưa, vì người, họ đã xây dựng những đền thờ này, họ tìm kiếm người; biết rằng họ có thể không bao giờ tìm thấy, họ vẫn tìm kiếm.”
“Như vậy,” Tôi buồn bã nói thêm, “những người tìm kiếm giờ phút này, nhưng họ đã phát hiện ra; như Kinh Thánh này nói thì họ sẽ không tìm thấy; vì chỉ Thần Chết mới tìm thấy Thần Sự Thật.”
Rồi nhìn lại lần nữa vẻ đẹp biểu tượng hóa bị che mặt này – hoàn hảo và tinh khiết đến mức ai cũng ưa thích, ánh sáng tâm linh sống động chiếu xuyên qua nhà tù bằng cẩm thạch, dẫn con người tới những suy nghĩ cao cả và thanh tao – giấc mơ về vẻ đẹp của nhà thơ bị đóng băng trong đá, tôi sẽ không bao giờ quên khi tôi còn sống, chúng tôi quay người và đi trở lại xuyên qua những cung điện đầy ánh trăng về tới nơi chúng tôi xuất phát. Tôi không bao giờ thấy lại bức tượng nữa, điều tôi vô cùng hối tiếc, vì trên quả bóng bằng đá lớn biểu trưng cho Thế Gian với nhân vật đứng trên đó, các đường nét được vẽ lên, có lẽ nếu đủ sáng, chúng tôi có khi còn phát hiện ra cả bản đồ Vũ Trụ nổi tiếng của dân tộc Kôr. Dù sao đi nữa, nó cũng gợi ý về một tri thức khoa học mà những người tôn thờ đã chết từ lâu của Thần Sự Thật đã công nhận thực tế đó: trái đất hình tròn.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét