Hiển thị các bài đăng có nhãn Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - bản dịch tiếng Việt của SHE (H.R. Haggard)



Dịch từ tác phẩm gốc:
SHE: A HISTORY OF ADVENTURE
Người dịch: Cheryl Pham
Việt Nam, tháng 5 - 2015

H. Rider Haggard

Henry Rider Haggard (1856-1925) – Tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng với các tác phẩm phiêu lưu lãng mạn liên quan đến Nam Phi. She (1897) – là tác phẩm thành công nhất của Haggard, kể về cuộc hành trình đầy ấn tượng của Horace Holly và người ông bảo trợ Leo Vincey khi họ đi tìm kiếm nữ hoàng da trắng và Ngọn Lửa của Sự Sống. Những thứ đó liên quan đến họ qua những bản văn tự Hy Lạp cổ kể về lịch sử gia đình Vincey, đồng thời cũng mang theo lời kêu gọi con cháu của Kallikrates trả thù kẻ đã giết ông ta.

Free download tại đây:

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 28



CHƯƠNG 28

Vượt qua Dãy Núi
Việc tôi hồi tưởng lại kế tiếp là cảm giác đông cứng kinh khủng nhất, một loại ý tưởng mơ hồ trôi qua bộ não đang nửa thức nửa tỉnh khi cho mình là một tấm thảm vừa bị đánh đập. Tôi mở mắt, thứ đầu tiên rơi xuống là gương mặt đáng kính của người bạn già Billali, đang ngồi bên cạnh chiếc giường mới được tạo ra tôi đang nằm trên đó, trầm ngâm vuốt bộ râu dài. Hình ảnh của ông ta ngay lập tức khiến đầu óc tôi hồi tưởng lại tất cả những gì chúng tôi vừa trải qua, đặc biệt dáng vẻ Leo khốn khổ nằm đối diện tôi, gương mặt đông lại như thạch, những lọn tóc đẹp đẽ từ vàng biến thành trắng xóa, [*] tôi lại nhắm mắt lại và rên rỉ.
[*] Thật tò mò, mái tóc của Leo gần đây đã lấy lại được màu sắc ban đầu ở mức độ nào đó – phải nói là, giờ nó có màu xám vàng, và tôi không phải không hy vọng tới lúc nó sẽ hoàn toàn quay về màu gốc. – L.H.H.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, Khỉ Đầu Chó của ta,” ông già Billali nói.
“Bao lâu rồi, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Một vòng mặt trời và một vòng mặt trăng, ngươi đã ngủ một ngày một đêm, con Sư Tử cũng vậy. Nhìn kìa, hắn vẫn còn ngủ.”
“Ngủ là phước lành,” Tôi trả lời, “vì nó sẽ nuốt hết mọi hồi ức.”
“Hãy nói cho ta,” ông ấy nói, “chuyện gì đã xảy ra với các ngươi, chuyện kỳ lạ về cái chết của Bà ấy - người không thể chết, là thế nào. Ngươi hãy nghĩ mà xem, con trai của ta: nếu chuyện này là thật, thì nguy hiểm của ngươi và nguy hiểm của con Sư Tử là rất lớn – không, gần như các ngươi sẽ phải đội chậu nung nóng, dạ dày các ngươi sẽ bị những kẻ đói khát kia ăn như thú vật. Ngươi không biết người Amahagger, các con của ta, những cư dân của hang động, rất căm ghét các ngươi ư? Chúng ghét các ngươi vì các ngươi là người lạ, chúng ghét các ngươi hơn nữa vì đám anh em chúng bị Bà ấy tra tấn vì quyền lợi của các ngươi. Chắc chắn nếu một khi chúng biết được không có gì phải sợ Hiya, người kinh khủng mà chúng ta phải tuân lệnh, chúng sẽ giết các ngươi bằng cái chậu. Nhưng hãy kể ta nghe câu chuyện của ngươi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta.”
Được khích lệ, tôi bắt đầu kể cho ông ấy – không phải tất cả, quả thực, vì tôi không nghĩ nó đáng để làm vậy, như đủ cho mục đích của tôi, đó là khiến ông ta hiểu Bà ấy thực sự không còn nữa, đã rơi vào ngọn lửa, và bị thiêu cháy - vì sự thật có thể khiến ông ấy khó hiểu. Tôi cũng kể vài cảnh rùng rợn chúng tôi đã vượt qua khi trốn thoát, để tăng ấn tượng tốt với ông ấy. Nhưng rõ ràng tôi thấy ông ấy không tin khi nghe nói về cái chết của Ayesha. Thực ra ông ta tin rằng chúng tôi nghĩ bà ấy đã chết, nhưng ông ấy cho là sẽ phù hợp hơn khi nói, bà ấy sẽ biến mất một thời gian. Ông ta bảo, trong thời của cha ông ta, có một lần bà ấy cũng làm vậy khi biến mất suốt mười hai năm, còn có một truyền thuyết ở đất nước này kể rằng, nhiều thế kỷ trước không ai từng nhìn thấy bà ấy suốt một thế hệ, sau đó bà ấy đột ngột xuất hiện lại, tiêu diệt người phụ nữ đang đảm nhiệm vị trí Nữ Hoàng. Tôi không nói gì về điều này, mà chỉ gật đầu buồn bã. Than ôi! Tôi biết quá rõ rằng Ayesha sẽ không thể xuất hiện nữa, hay Billali có thể không bao giờ gặp lại bà ấy.
“Còn bây giờ,” Billali kết luận, “ngươi muốn làm gì, Khỉ Đầu Chó của ta?”
“Không,” Tôi nói, “Tôi không biết, thưa cha. Chúng tôi có thể trốn thoát khỏi đất nước này sao?”
Ông ấy gật đầu.
“Rất khó. Vì ngươi không thể vượt qua Kôr, như ngươi đã thấy đấy, ngay khi những kẻ tàn bạo kia thấy các ngươi một mình, thế là xong,” ông ta cười và làm hành động như thể ông ta đang bị đặt chậu nung nóng trên đầu. “Nhưng có một con đường trên vách núi ta từng nói với ngươi, nơi họ lùa gia súc ra ngoài đồng cỏ. Ra khỏi đồng cỏ là hành trình ba ngày xuyên qua đầm lầy, sau đó ta không biết, nhưng ta nghe nói hành trình bẩy ngày từ đó sẽ tới một con sông hùng vĩ chảy ra vùng nước đen. Nếu các ngươi có thể tới đó, không chừng có thể trốn thoát, nhưng ngươi có thể tới đó bằng cách nào đây?”
“Billali,” Tôi nói, “ngài biết đấy, tôi từng cứu mạng ngài một lần. Giờ hãy trả lại món nợ này, thưa cha, xin hãy cứu tôi và bạn tôi, con Sư Tử. Đó sẽ là một việc khiến ngài hài lòng nghĩ tới khi giờ khắc của ngài đến, một việc có qui mô chống lại cái ác trong những năm tháng của ngài, nếu ngài đã từng làm điều ác. Nếu ngài đúng, nếu Bà ấy chỉ tự dấu mình đi thôi, chắc chắn khi bà ấy quay lại sẽ thưởng cho ngài.”
“Con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông già trả lời, “đừng nghĩ ta có trái tim vô ơn. Ta vẫn nhớ ngươi đã cứu ta khi lũ chó kia đứng đó nhìn ta chết đuối. Đo đi đo lại ta sẽ cho ngươi, nếu các ngươi có thể cứu được, chắc chắn ta sẽ cứu các ngươi. Nghe đây: bình minh ngày mai hãy chuẩn bị, vì các cái ổ sẽ ở đây để mang các ngươi qua rặng núi, qua đầm lầy. Ta sẽ làm điều này, sẽ nói rằng theo lời của Bà ấy, các ngươi không tuân lệnh Bà ấy, nên các ngươi sẽ làm thức ăn cho linh cẩu. Sau đó khi đã vượt qua đầm lầy, các ngươi phải tự chiến đấu, không chừng, nếu vận số tốt, các ngươi sẽ sống sót đi tới vùng nước đen ta đã nói cho ngươi. Còn bây giờ, nhìn xem, con Sư Tử đã tỉnh dậy rồi, các ngươi phải ăn thức ăn ta đã làm sẵn cho các ngươi.”
Tình trạng của Leo khi tỉnh dậy cho thấy không quá tệ như dự đoán từ vẻ bề ngoài của cậu, cả hai chúng tôi cố ăn hết bữa ăn thịnh soạn, thực ra chúng tôi nên buồn bã. Sau khi xuống suối tắm rửa, chúng tôi trở lại và ngủ tiếp tới tận sáng, lúc đó chúng tôi ăn một lần nữa đủ cho năm người. Billali hôm đó hoàn toàn biến mất, không nghi ngờ, ông ấy đang thu xếp ổ và người khiêng, vì chúng tôi bị đánh thức giữa đêm khi có một số đáng kể đàn ông tới cái trại nhỏ này.
Lúc bình minh ông già xuất hiện, nói với chúng tôi ông ấy đã dùng danh nghĩa đáng sợ của Bà ấy, khó khăn một chút, nhưng thành công mang những người cần thiết và hai người dẫn đường đưa chúng tôi qua đầm lầy, ông ấy nhấn mạnh chúng tôi phải khởi hành ngay, đồng thời thông báo dự định đi cùng chúng tôi để bảo vệ chúng tôi trước sự phản bội. Tôi vô cùng cảm động trước hành động tốt bụng của ông già man rợ ranh mãnh với hai người hoàn toàn xa lạ không có khả năng tự vệ. Hành trình ba ngày – đối với ông ấy mất sáu ngày vì còn phải quay lại – xuyên qua khu đầm lầy chết chóc không hề hứa hẹn chút ánh sáng nào với người ở tuổi của ông ấy, nhưng ông ấy đồng ý làm điều đó một cách vui vẻ để tăng an toàn cho chúng tôi. Điều đó cho thấy trong đám người Amahagger đáng sợ kia – những kẻ chắc chắn rất tăm tối cùng những nghi thức quỉ quái kinh khủng vượt xa đám người hoang dã gớm ghiếc nhất tôi từng nghe nói – vẫn có những người có lòng tốt. Tất nhiên, lợi ích cá nhân có lẽ cũng là thứ đi kèm. Ông ta có thể cho rằng Bà ấy đột nhiên tái xuất hiện và yêu cầu tin tức về chúng tôi từ tay ông ấy, nhưng cho dù có đủ loại khấu trừ, cũng quá thuận lợi hơn nhiều lần chúng tôi dự tính trong hoàn cảnh này, tôi chỉ có thể nói, chừng nào còn sống, tôi sẽ vẫn trân trọng ghi nhớ bằng tình cảm trìu mến nhất dành cho người cha danh nghĩa của tôi, ông già Billali.
Sau khi ăn xong chút thức ăn, chúng tôi khởi hành trên những chiếc ổ, cảm thấy thể xác đã đi một đoạn xa đến vậy, kỳ lạ như bản thể già nua của chính mình sau một lần nghỉ ngơi và một giấc ngủ dài. Tôi phải bỏ tình trạng đầu óc hiện tại lại cho trí tưởng tượng.
Rồi tới hành trình leo lên vách đá khủng khiếp. Thi thoảng việc đi lên tự nhiên hơn, nó thường là đường cắt hình zig-zag, chắc chắn được làm ra đầu tiên bởi các cư dân xa xưa của Kôr. Người Amahagger nói họ chăn đàn gia súc qua đây một lần mỗi năm ngoài đồng cỏ; những gì tôi biết thì đám gia súc đó phải hoạt động bằng chân không thường xuyên lắm. Tất nhiên lúc này những cái ổ đều vô dụng, chúng tôi phải đi bộ.
Nhưng đến trưa, chúng tôi đã tới đỉnh bằng phẳng hùng vĩ của bức tường đá sừng sững, đủ lớn để nhìn toàn cảnh với đồng bằng Kôr từ đó, giữa trung tâm chúng tôi có thể thấy rõ đám phế tích đầy cột trụ của Đền Thờ Sự Thật một bên, còn đầm lầy u sầu vô biên bên kia. Bức tường đá này chắc chắn từng tạo thành miệng núi lửa, dày khoảng một dặm rưỡi, vẫn phủ đầy xỉ clinker. Không gì mọc nổi nơi này, thứ duy nhất làm dịu mắt chúng tôi là các hồ nước mưa thường xuyên (vì sau đó mưa rơi xuống) được đào sâu vào một chút. Chúng tôi đi trên đỉnh bằng phẳng của thành lũy hùng vĩ này, rồi tới đoạn đi xuống, không quá khó khăn như đi lên, nhưng vẫn dễ gẫy cổ, tới khi hoàng hôn. Tuy vậy đêm đó chúng tôi cắm trại an toàn trên sườn núi hùng vĩ cuộn ra chỗ các đầm lầy bên dưới.
Sáng hôm sau, khoảng mười một giờ, hành trình đáng sợ của chúng tôi lại bắt đầu, đi qua biển đầm lầy ghê sợ mà tôi đã mô tả.
Suốt ba ngày, hôi thối và bùn đất, hương vị sợ hãi thường trực, khiến đám người khiêng chúng tôi phải đấu tranh cùng, tới khi chúng tôi tới một mảnh đất khá hoang hóa, hầu hết không có cây cối, nhưng địa hạt này đầy các loài nằm ngoài ranh giới loài hiếm nhất, không hướng dẫn thì hoàn toàn không thể giao lưu được. Sáng hôm sau chúng tôi chào tạm biệt ông già Billali ở đó, không phải không có chút tiếc nuối, ông vuốt bộ râu trắng và long trọng ban phước cho chúng tôi.
“Tạm biệt, con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông ấy nói, “tạm biệt ngươi nữa, ôi con Sư Tử. Ta không thể làm gì hơn nữa để giúp các ngươi. Nhưng nếu các ngươi trở về tới đất nước mình, ta khuyên, đừng mạo hiểm tới những vùng đất các ngươi không biết nữa, các ngươi sẽ không trở về được nữa đâu, ngoài bỏ đống xương trắng của các ngươi lại đánh dấu giới hạn hành trình của các ngươi. Tạm biệt một lần nữa; ta sẽ thường xuyên nghĩ về ngươi, ngươi đừng quên ta, Khỉ Đầu Chó của ta, dù gương mặt ngươi xấu xí nhưng trái tim ngươi chân thật.” Rồi ông ấy quay đi và trở về, đi cùng với ông ấy là những người khiêng ổ cao lớn ủ rũ, đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy người Amahagger. Chúng tôi nhìn họ đi mất như gió cuốn với những cái ổ trống trơn như một đám rước khiêng người chết khỏi cuộc chiến, tới khi sương mù của đầm lầy bao quanh và che mất họ, bỏ lại hoang vu tuyệt đối nơi hoang dã mênh mông này, chúng tôi quay lại nhìn quanh, rồi nhìn nhau.
Ba tuần trước, bốn người đàn ông bước vào khu đầm lầy Kôr, giờ hai người đã chết, còn hai người trải qua những phiêu lưu và kinh nghiệm kỳ lạ kinh khủng tới mức cái chết của họ cũng không đáng sợ hơn thế. Ba tuần – chỉ ba tuần! Thời gian thực sự đo bằng sự kiện, chứ không phải từng quãng đồng hồ. Như đã ba mươi năm rồi kể từ khi chúng tôi nhìn thấy lần cuối chiếc thuyền cá voi.
“Chúng ta phải tìm cách tới Zambesi, Leo,” Tôi nói, “nhưng Chúa mới biết chúng ta có thể tới đó được không.”
Leo gật đầu. Sau đó cậu trở nên rất yên lặng, chúng tôi bắt đầu với không gì ngoài quần áo đang mặc, một chiếc la bàn, súng lục và súng trường, khoảng hai trăm viên đạn, và thế là kết thúc câu chuyện về chuyến viếng thăm của chúng tôi tới khu tàn tích cổ đại của đế chế Kôr hùng mạnh.
Với những cuộc phiêu lưu xảy ra sau này của chúng tôi, chúng rất kỳ lạ và phong phú, sau khi bàn luận, tôi đã quyết định không ghi lại chúng ở đây. Trong những trang này, tôi chỉ cố đưa ra thông tin ngắn gọn và rõ ràng về một sự xuất hiện mà tôi tin rằng chưa từng có, và tôi làm thế không phải để xuất bản ngay lập tức, mà chỉ đưa lên giấy khi chúng còn tươi mới trong kí ức của chúng tôi tới từng chi tiết và kết quả, tôi tin có thể chứng minh thế giới thật thú vị nếu chúng tôi quyết định công khai chúng. Hiện tại, theo tư vấn, chuyện này chúng tôi không định làm khi vẫn còn chung sống.
Phần còn lại, không hề có lợi ích với cộng đồng, giống như trải nghiệm của nhiều khách du lịch tới Trung Phi thôi. Chỉ muốn nói, sau những khó khăn và thiếu thốn đáng kinh ngạc, chúng tôi đã tới Zambesi, cách nơi Billali để chúng tôi lại khoảng 170 dặm về phía nam. Chúng tôi bị giam ở đó khoảng sáu tháng bởi một bộ lạc hoang dã, họ tin rằng chúng tôi là các sinh vật siêu nhiên, chính vì gương mặt trẻ trung và mái tóc trắng như tuyết của Leo. Chúng tôi cuối cùng cũng trốn thoát khỏi tộc người đó, tới Zambesi, lang thang xuống phía nam đúng vào thời điểm nạn đói, chúng tôi đủ may mắn khi rơi vào tay một kẻ săn voi người Bồ Đào Nha cùng một đội quân voi đi theo sau trên địa bàn xa hơn nơi anh ta từng đi trước đây. Người này đối xử với chúng tôi vô cùng mến khách, cuối cùng với sự trợ giúp của anh ta, chúng tôi – sau vô số những đau đớn và phiêu lưu, đã tới Vịnh Delagoa, hơn mười tám tháng kể từ lúc chúng tôi xuất hiện ở đầm lầy Kôr, ngày tiếp theo, chúng tôi thành công bắt một chuyến tàu hơi nước vòng quanh Mũi Hảo Vọng về nước Anh. Hành trình về nhà của chúng tôi rất thuận lợi, chúng tôi đặt chân lên cảng Southampton chính xác hai năm sau kể từ ngày khởi hành chuyến săn lùng hoang dã và dường như rất vô lý đó, bây giờ tôi viết những dòng cuối này khi Leo đang ngả trên vai tôi trong căn phòng cũ tại trường đại học, giống như hai mươi hai năm trước, ông bạn Vincey khốn khổ của tôi loạng choạng tới vào buổi tối đáng nhớ mà anh ấy đã qua đời, mang cái hộp sắt theo cùng anh ấy.
Thế là câu chuyện đã kết thúc, nó liên quan tới khoa học và thế giới bên ngoài nhiều hơn. Kết cục liên quan đến Leo và tôi nhiều hơn tôi đoán. Nhưng chúng tôi cảm thấy chuyện này chưa dừng lại. Một câu chuyện bắt đầu từ hơn hai nghìn năm trước có thể sẽ kéo dài trong tương lai xa xôi mờ mịt.
Leo thực sự là hóa thân của Kallikrates cổ xưa mà bản văn tự nói tới ư? Hay Ayesha đã bị đánh lừa do sự giống nhau kì lạ về mặt di truyền? Độc giả nên có quan điểm của riêng mình về vấn đề như thế này. Tôi có quan điểm của tôi, rằng bà ấy không nhầm lẫn như vậy.
Tôi thường ngồi một mình trong đêm, đôi mắt suy tư nhìn chằm chằm vào bóng đen của thời khắc chưa được sinh ra, tự hỏi vở kịch lớn này cuối cùng sẽ được phát triển dưới hình dạng và cách thức nào, phân cảnh cho hành động tiếp theo sẽ nằm ở đâu. Và khi đoạn cuối cùng diễn ra, tôi chắc chắn nó phải diễn ra, tuân theo định mệnh chưa bao giờ chệch hướng và mục đích không thể thay đổi, khi đó Amenartas xinh đẹp người Ai Cập - Công Chúa mang dòng máu hoàng gia của các Pharaoh, vì yêu bà ấy Linh mục Kallikrates đã phá vỡ lời thề với thần Isis, và bị sự trả thù không lay chuyển được của Nữ Thần phẫn nộ theo đuổi, chạy trốn xuống bờ biển Libya để gặp ngày tận số của ông ấy ở Kôr – bà ấy sẽ đóng vai gì?
-          Kết thúc –

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 27



CHƯƠNG 27

Chúng tôi Liều mạng
Chúng tôi đi qua các hang động không hề khó khăn, nhưng khi tới sườn dốc của hình chóp ngược, hai khó khăn buộc chúng tôi phải đối mặt. Đầu tiên là tốn sức để đi lên, sau đó cực kỳ khó khăn là tìm đường. Quả thực, nếu không nhớ ra tôi đã may mắn ghi nhớ hình dáng của vô vàn tảng đá, chắc chúng tôi không bao giờ tìm nổi đường đi, mà lang thang trong bụng núi lửa đáng sợ - tôi cho rằng chắc phải là một dạng như thế - cho đến khi chúng tôi chết vì kiệt sức và tuyệt vọng. Chúng tôi đã đi sai nhiều lần, một lần suýt rơi xuống khe nứt lớn. Thật khủng khiếp khi phải bò trong bóng tối dày đặc và im lặng ghê sợ từ hết tảng đá này tới tảng đá khác, rồi kiểm tra nó trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn xem liệu tôi có nhận ra hình dạng của nó hay không. Chúng tôi hầu như không nói gì, trái tim quá nặng nề để cất lời, chúng tôi đi loạng choạng, thi thoảng bị ngã và trầy xước, thật khốn khổ. Thực tế là tinh thần chúng tôi đã hoàn toàn bị nghiền nát, không còn để ý nhiều đến những gì xảy ra. Chúng tôi cảm thấy chỉ phải cố gắng giữ lấy mạng sống khi còn có thể, thực ra chính bản năng tự nhiên nhắc nhở chúng tôi làm vậy. Tôi nghĩ khoảng ba hay bốn tiếng đồng hồ như thế - tôi không thể nói chính xác bao lâu, vì đã bỏ lại đồng hồ - chúng tôi đã mắc sai lầm đó. Suốt hai giờ cuối chúng tôi hoàn toàn lạc đường, tôi bắt đầu sợ chúng tôi lại rơi vào một đường hầm của hình nón con nào đó, cuối cùng đột nhiên tôi nhận ra một tảng đá rất lớn chúng tôi đã đi qua lúc đi xuống con đường nhỏ từ trên đỉnh. Thật kỳ diệu khi tôi nhận ra nó, thực ra chúng tôi cũng đã đi qua nó ở góc vuông với con đường đúng, có gì đó thôi thúc tôi, và tôi đã quay lại kiểm tra nó ngẫu nhiên, khi đó đã chứng minh chúng tôi được cứu rỗi.
Sau đó chúng tôi tới cầu thang đá tự nhiên không quá vất vả, cuối cùng trở lại căn phòng nhỏ nơi Noot ngốc nghếch đã sống và chết.
Nhưng giờ nỗi khủng bố mới lại hiện ra trước mặt chúng tôi. Nhớ rằng do nỗi sợ hãi và lúng túng của Job, tấm ván gỗ để chúng tôi đi qua từ mũi đá cựa gà khổng lồ tới hòn đá xích đu đã bị rơi xuống cái vực hun hút bên dưới.
Chúng tôi đi qua thế nào đây khi không có tấm ván gỗ?
Chỉ có một câu trả lời – chúng tôi phải thử nhảy qua đó, hoặc dừng ở đây tới khi chết đói. Khoảng cách không quá lớn, khoảng mười một tới mười hai feet, tôi nghĩ vậy, tôi từng thấy Leo nhảy qua trên hai mươi feet khi cậu ấy là nghiên cứu sinh trẻ trung của trường đại học; nhưng hãy nghĩ về hoàn cảnh đi. Hai người đàn ông mệt mỏi, quần áo rách rưới, một người trong đó già hơn tuổi bốn mươi của anh ta, phải bắt đầu nhảy từ tảng đá xích đu, tảng đá rung lắc vài feet trên bề mặt, còn một vực sâu không đáy có thể bị thổi bay trong gió lớn! Chúa ơi, đủ tồi tệ rồi, nhưng khi tôi chỉ những điều đó cho Leo, cậu khiến toàn bộ chuyện này thật đơn giản khi cho rằng, lựa chọn thật tàn nhẫn, chúng tôi phải chọn giữa việc chắc chắn chết dần dần trong căn phòng và nguy cơ chết nhanh chóng trong không trung. Tất nhiên, không tranh cãi làm gì trước chuyện này, nhưng rõ ràng chúng tôi không thể cố bật nhảy vọt lên được trong bóng tối; điều duy nhất phải làm là đợi ánh sáng xuyên qua vực thẳm lúc hoàng hôn. Chúng tôi có lẽ đang ở gần hay xa thời điểm hoàng hôn bao lâu, không ai trong chúng tôi có khái niệm nào dù mờ nhạt nhất; tất cả những gì chúng tôi biết là, ít ra khi ánh sáng tới đây, nó sẽ không kéo dài quá vài phút, chúng tôi phải sẵn sàng. Theo đó, chúng tôi quyết định bò lên đỉnh tảng xích đu và nằm sẵn ở đó. Chúng tôi đã thích nghi dễ hơn với hoàn cảnh này vì thực tế, những cây đèn lại sắp cháy hết một lần nữa – quả thực, một cây đã cháy hết sạch toàn bộ, còn cây kia ánh lửa đang nhảy lên xuống khi dầu đã cạn. Vì thế, với chút ánh sáng gần tàn đó, chúng tôi vội vàng bò ra khỏi căn phòng nhỏ và leo lên bề mặt hòn đá lớn.
Đúng lúc đó ánh sáng tắt.
Sự khác biệt vị trí của chúng tôi là điều đáng chú ý. Lúc ở bên dưới trong căn phòng nhỏ, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng gào rú của gió trên đầu – còn ở đây, nằm úp mặt trên tảng đá lắc lư, chúng tôi tiếp xúc với toàn bộ sức mạnh và cơn giận dữ của nó, như trận cuồng phong quăng quật từ hướng này rồi lại chuyển sang hướng khác, gào thét chống lại vách hang hùng vĩ và xuyên qua những vách đá dựng đứng như hàng vạn linh hồn tuyệt vọng. Chúng tôi nằm đó hàng giờ liền trong kinh hoàng và tinh thần khốn khổ sâu sắc tới mức tôi sẽ không cố mô tả nó, lắng nghe âm thanh bão tố hoang dại của thần vực thẳm Tartarus, tạo ra âm điệu sâu lắng của tảng đá cựa gà đối lập lại giai điệu gió ngân nga như tiếng đàn hạc ghê sợ, chúng gọi nhau từ vách này sang vách kia. Không cơn ác mộng nào con người từng mơ thấy, không phát minh hoang dại nào của kẻ lãng mạn, có thể so sánh với sự khủng bố sống động nơi này, tiếng kêu khóc huyền bí của những âm thanh đó trong màn đêm, chúng tôi bám như thủy thủ bị đắm tàu trên chiếc bè, bị xé nát trong không gian hoang vu đen ngòm khôn dò. May mà nhiệt độ không thấp; thực ra gió đều ấm, nếu không chúng tôi đã chết. Chúng tôi bám chắc và lắng nghe như vậy trong khi dạng dài người trên tảng đá, một việc khá tò mò và bản thân nó mang nhiều thâm ý đã xảy ra, dù không nghi ngờ gì, chỉ là một việc ngẫu nhiên thêm vào, chứ không hề giảm bớt đi gánh nặng thần kinh của chúng tôi.
Nhớ rằng khi Ayesha đứng ở mũi đá cựa gà trước khi chúng tôi đi qua tảng đá này, gió đã xé áo choàng lôi nó khỏi bà ấy, cuốn nó đi mất trong bóng tối của vực thẳm, chúng tôi không thể thấy nó đi đâu. Phải – tôi hầu như không muốn kể chuyện này; nó thật kì lạ. Khi chúng tôi nằm trên tảng đá xích đu đó, chiếc áo choàng này trôi nổi trong không gian tối đen, như ký ức về người đã chết, rồi rơi vào Leo – nó phủ lên người cậu gần như từ đầu đến chân. Thoạt tiên chúng tôi không hiểu đó là gì, nhưng ngay khi phát hiện ra nó bằng cảm giác, thì Leo khốn khổ lần đầu tiên thoái chí, tôi nghe cậu thổn thức trên tảng đá. Không nghi ngờ chiếc áo choàng đã bị giữ ở đỉnh nào đó của vách đá, rồi bị gió thổi ngẫu nhiên tới đây; nhưng việc này vẫn thật tò mò và cảm động.
Rất nhanh sau đó, đột nhiên, không có chút cảnh báo nào trước đó dù nhỏ nhất, lưỡi gươm ánh sáng đỏ vĩ đại phi tới xé tan bóng tối, xuyên qua và xuyên qua, đập vào tảng đá xích đu chúng tôi đang ở trên đó, và dừng lại trên đỉnh nhọn của mũi đá cựa gà đối diện.
“Giờ nó tới rồi,” Leo nói, “bây giờ hoặc không bao giờ.”
Chúng tôi nhỏm dậy, kéo căng mình, nhìn vào những vòng mây nhuộm màu máu từ ánh sáng đỏ như chúng bị cào xé từ vực thẳm bệnh hoạn bên dưới, rồi trong không gian trống giữa tảng đá xích đu và phiến đá đang run rẩy, tuyệt vọng tận đáy lòng, chúng tôi chuẩn bị chết. Chắc chắn chúng tôi không thể xóa bỏ được nó – nỗi tuyệt vọng xuyên qua người chúng tôi.
“Ai sẽ đi trước?” Tôi nói.
“Bác, nhà nghiên cứu sinh già,” Leo trả lời. “Cháu sẽ ngồi lên đầu kia của tảng đá để giữ nó ổn định. Bác phải cố chạy thật nhanh nhất có thể, và nhảy cao lên; Chúa sẽ thương xót chúng ta.”
Tôi bằng lòng gật đầu, rồi tôi làm một việc tôi chưa bao giờ làm từ khi Leo còn nhỏ. Tôi quay lại vòng tay quanh cậu, hôn lên trán cậu. Nghe như kiểu Pháp, nhưng thực ra tôi đang gửi lời chia tay cuối cùng tới một người tôi không thể yêu hơn nếu cậu là con trai của chính mình lần thứ hai hay hơn nữa.
“Tạm biệt, chàng trai của ta,” Tôi nói, “bác hy vọng chúng ta sẽ gặp lại, dù chúng ta đi bất cứ nơi đâu.”
Thực sự tôi không muốn sống thêm hai phút nữa.
Kế tiếp tôi lui về đầu phía xa kia của tảng đá, đợi tới khi một cơn gió bổ vào tôi phía sau, rồi tôi chạy theo chiều dài tảng đá khổng lồ, khoảng ba mươi ba hay ba mươi tư feet, điên cuồng tung người vào không gian gây hoa mắt kia. Ôi! Tôi cảm thấy những nỗi khủng bố đến phát ốm khi tung mình từ đỉnh nhỏ của tảng đá, cảm giác tuyệt vọng kinh hoàng bắn qua não khi nhận ra tôi đã nhảy ngắn hơn! Nhưng đúng là thế, bàn chân tôi không bao giờ chạm tới đỉnh, chúng đi vào không khí, chỉ tay và cơ thể tôi chạm được tới nó. Tôi hét lên, nắm chặt lấy nó, nhưng một tay trượt xuống, tôi bị lắc quay tròn sang phải. Tôi điên cuồng gồng người lên bằng tay trái, lúc này định túm một núm đá, và tôi treo lơ lửng ở đó trong ánh sáng đỏ rực gay gắt, cùng hàng nghìn feet không gian trống rỗng bên dưới tôi. Đôi tay tôi đang giữ bên mặt kia của phần dưới mũi đá cựa gà, đỉnh của nó chạm đầu tôi. Thế nên dù có sức khỏe, tôi cũng không thể tự đẩy mình lên được. Nhiều nhất tôi có thể làm là treo người khoảng một phút, rồi thả ra, rơi xuống cái hố không đáy. Nếu ai có thể tưởng tượng ra tình cảnh đáng sợ hơn, hãy để anh ta nói! Tất cả những gì tôi biết là, sự tra tấn trong nửa phút đó gần như làm biến đổi não tôi.
Tôi nghe Leo gào lên, đột nhiên thấy cậu ấy nhảy tới như một chú sơn dương trong không gian. Cậu đã nhảy quá tuyệt trong hoàn cảnh khủng bố và tuyệt vọng này, xóa tan vực thẳm kinh hãi như thể nó chẳng là gì, tiếp đất thật đẹp trên đỉnh đá, cậu quay mặt lại, ngăn bản thân bị trượt vào vực thẳm. Tôi cảm thấy mũi đá cựa gà phía trên tôi rung lắc dưới cú sốc do ảnh hưởng của cậu, khi đó tôi thấy tảng đá xích đu khổng lồ lắc lư, bị ép quá mạnh khi cậu nhảy, đã bay ngược trở lại do trọng lực của cậu, và lần đầu tiên trong suốt bao thế kỷ qua, vốn cân bằng, giờ nó va chạm kinh hãi rồi rơi ngay vào căn phòng đá từng dành cho nhà triết học Noot sống ẩn dật, không nghi ngờ gì, đã bịt kín vĩnh viễn lối đi dẫn vào Nơi của Sự Sống bằng hàng trăm tấn đá.
Tất cả chỉ diễn ra trong một giây, thật tò mò, dù tình thế của tôi rất đáng sợ, tôi vẫn chú ý quan sát một cách không tình nguyện. Tôi vẫn nhớ đã nghĩ rằng không ai còn có thể xuống được con đường ghê sợ đó lần nữa.
Ngay kế sau đó, tôi cảm thấy Leo dùng hai tay nắm lấy cổ tay phải của tôi. Do nằm áp dài trên đỉnh mũi đá, cậu có thể tiếp cận tôi.
“Bác phải cố và phải đu mình lên,” cậu bình tĩnh nói một cách có chọn lọc, “Còn cháu sẽ cố kéo bác lên, hoặc cả hai chúng ta sẽ cùng đi. Bác sẵn sàng chứ?”
Tôi trả lời đồng ý, đầu tiên bằng tay trái, sau đó tới tay phải, kết quả là, tôi xoay ra khỏi tảng đá trong bóng tối, toàn bộ trọng lượng treo trên cánh tay Leo. Đó là một khoảnh khắc đầy sợ hãi. Cậu ấy rất khỏe, tôi biết, nhưng sức lực của cậu so với việc nâng tôi lên tới đỉnh mũi đá cựa gà, trong hoàn cảnh này, cậu ấy phải bán mạng không ít chứ?
Tôi đong đưa qua lại vài giây, trong khi cậu ấy tập trung toàn bộ sức lực, tôi nghe thấy gân cốt cậu nứt gãy phía trên mình, rồi tự cảm thấy mình được nâng lên như một đứa trẻ nhỏ, tới khi tôi vòng được tay trái quanh hòn đá, ngực tôi áp chặt vào nó. Phần còn lại trở nên dễ dàng; hai hay ba giây sau tôi đứng dậy, rồi chúng tôi nằm thở hổn hển cạnh nhau, run rẩy như chiếc lá, mồ hôi lạnh toát vì kinh sợ ướt sũng da.
Sau đó, cũng như trước, ánh sáng đi mất như mấy cây đèn.
Chúng tôi nằm khoảng nửa giờ không nói một từ, rồi cuối cùng bắt đầu bò dọc theo mũi đá cựa gà hùng vĩ, đó là cách tốt nhất có thể để đi trong bóng tối dày đặc. Tuy nhiên khi tới bề mặt vách đá, mà mũi đá cựa gà nhô ra từ đó như cành cây nhô ra từ bức tường, ánh sáng tăng dần lên dù rất ít ỏi, vì bây giờ trên đầu đang là ban đêm. Sau khi gió giảm, chúng tôi đi dễ hơn, cuối cùng tới cửa hang hay đường hầm đầu tiên. Nhưng giờ một rắc rối mới lại hiện ra: dầu đã hết, các cây đèn chắc chắn bị nghiền thành bột dưới tảng đá xích đu bị rơi. Chúng tôi không có giọt nước nào cho cơn khát, vì chúng tôi đã uống giọt cuối cùng trong căn phòng của Noot. Làm sao chúng tôi nhìn nổi con đường xuyên qua đường hầm cuối cùng rải đầy đá này?
Rõ ràng tất cả những gì chúng tôi có thể làm là tin tưởng cảm giác của chính bản thân, cố lần ra lối đi trong bóng tối, chúng tôi cứ bò như thế, sợ rằng nếu trì hoãn, kiệt sức sẽ chiến thắng chúng tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ nằm xuống rồi chết đi ở nơi này.
Ôi, thật kinh hoàng trước con đường hầm cuối cùng! Nơi này rải đầy đá, chúng tôi ngã lên ngã xuống, rồi tự bảo mình đứng dậy tới khi chúng tôi chảy máu vì hàng đống vết thương. Chỉ dẫn duy nhất của chúng tôi là vách hang, chúng tôi luôn chạm vào đó, càng lúc càng hoang mang trong bóng tối tới mức vài lần xuất hiện ý nghĩ kinh hãi rằng chúng tôi đã quay lại, đã đi sai đường. Chúng tôi cứ đi như thế, yếu ớt, thậm chí càng lúc càng yếu ớt hơn, hết giờ này qua giờ khác, cứ vài phút lại dừng để nghỉ, vì sức lực đã dùng hết. Chúng tôi ngủ một lần, tôi nghĩ phải ngủ vài giờ vì khi tỉnh dậy, tay chân đều cứng lại, máu từ các vết trầy xước đã đóng thành bánh, cứng và khô cong trên da. Rồi chúng tôi lại tự kéo lê mình, tới khi tuyệt vọng tới tận tim gan, chúng tôi nhìn một lần nữa ánh sáng ban ngày, và phát hiện ra đang ở bên ngoài đường hầm nơi nếp gấp đá mặt ngoài của vách núi dẫn tới đây.
Lúc đó còn rất sớm – chúng tôi có thể nói đang cảm thấy không gian thật ngọt ngào và bầu trời đầy hạnh phúc, điều chúng tôi không bao giờ hy vọng nhìn lại. Nhưng chúng tôi biết mình đã đi vào đường hầm lúc gần một giờ sau hoàng hôn, cứ đi như vậy, chúng tôi đã mất trọn vẹn một đêm bò xuyên qua nơi ghê sợ này.
“Nỗ lực một lần nữa, Leo,” Tôi hổn hển, “chúng ta phải tới dốc núi Billali ở đó, nếu ông ta chưa đi mất. Đi nào, đừng nản chí,” vì cậu ấy đang che mặt. Cậu đứng dậy, rồi chúng tôi dựa vào nhau đi xuống vách núi năm mươi feet – tôi không có khái niệm ít nhất là bao nhiêu nữa. Tôi chỉ nhớ thấy bản thân nằm thành một đống dưới chân vách núi, sau đó lại một lần nữa bắt đầu tự kéo lê bằng tay và đầu gối về phía lùm cây Bà ấy đã bảo Billali đợi bà ấy quay lại, vì chúng tôi không thể đi bằng chân được nữa. Chúng tôi không kịp đi được năm mươi thước theo kiểu này thì đột nhiên một người câm hiện ra từ đám cây cối bên trái, tôi cho rằng anh ta đang đi dạo buổi sáng và chạy tới để xem chúng tôi là loại động vật kỳ lạ gì. Anh ta nhìn mãi, nhìn mãi, rồi giơ tay lên khiếp sợ, suýt ngã ra đất. Tiếp theo, anh ta chạy nhanh nhất có thể về phía lùm cây cách đó hai trăm thước. Không có gì lạ khi anh ta kinh hoàng trước sự xuất hiện của chúng tôi, vì chúng tôi phải trải qua hoàn cảnh rất sốc. Lúc này Leo, những lọn tóc vàng đã biến thành trắng như tuyết, quần áo gần như rời hết khỏi cơ thể cậu, gương mặt mệt mỏi và bàn tay cậu đầy vết bầm tím, vết cắt, bẩn thỉu tụ đầy máu, một cảnh thật đáng báo động, khi cậu đau đớn tự kéo lê mình trên mặt đất, còn tôi không nghi ngờ gì, trông khá hơn một chút. Tôi biết hai ngày sau khi kiểm tra mặt mình trong nước, tôi hầu như không nhận ra chính mình. Tôi chưa bao giờ nổi tiếng vì vẻ đẹp bề ngoài, những đường nét của tôi bị đóng dấu xấu xí khiến tôi chưa bao giờ bỏ đi được tới tận ngày nay, thứ đó giống như vẻ hoang dại mà một người giật mình thức dậy từ một giấc ngủ sâu. Và thực sự không nên băn khoăn làm gì. Tôi đã tự hỏi điều gì khiến chúng tôi thoát khỏi tất cả những chuyện đó.
Hiện giờ, với niềm tin mãnh liệt, tôi thấy ông già Billali vội vã chạy về phía chúng tôi, thậm chí tôi khó có thể mỉm cười trước biểu cảm kinh ngạc trên gương mặt trang nghiêm của ông ấy.
“Ôi, Khỉ Đầu Chó của ta! Khỉ Đầu Chó của ta!” ông ta kêu lên, “con trai yêu quí của ta, thực sự là ngươi và con Sư Tử đấy ư? Tại sao, cái bờm như ngô chín của hắn lại trắng như tuyết thế. Các ngươi đi đâu vậy? còn Con Lợn đâu, còn cả Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh đâu rồi?”
“Chết, cả hai đã chết,” tôi trả lời; “nhưng đừng hỏi nữa; hãy giúp chúng tôi, cho chúng tôi thức ăn và nước uống, nếu không chúng tôi cũng sẽ chết trước mặt ngài. Ngài không thấy lưỡi chúng tôi đã đen lại vì thiếu nước sao? Thế nên chúng tôi có thể nói chuyện thế nào đây?”
“Chết rồi ư?” ông ta thở hổn hển. “Không thể nào. Bà ấy không bao giờ chết – chết rồi ư, làm sao có thể?” Sau đó như cảm nhận được gương mặt mình đang bị những người câm chạy tới theo dõi, ông ấy ra hiệu cho họ mang chúng tôi tới trại mà họ đã dựng lên.
Thật may mắn khi chúng tôi trở về đã có ít nước dùng đang đun trên lửa, Billali cho chúng tôi ăn loại nước này, vì chúng tôi quá yếu đến nỗi không tự đút ăn được, và tôi chính thức tin chúng tôi đã được cứu thoát khỏi chết vì kiệt sức. Rồi ông ấy bảo những người câm lau máu và bụi bẩn trên người chúng tôi bằng vải ướt, sau đó, chúng tôi được đặt nằm trên đống cỏ thơm, ngay lập tức ngủ như chết vì kiệt sức hoàn toàn cả tâm trí và thể xác.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 26



CHƯƠNG 26

Những gì Chúng tôi đã Nhìn thấy
Dừng một chút, Ayesha dường như đang tập trung sức mạnh cho thử thách điên cuồng này, trong khi đó chúng tôi bám vào nhau chờ đợi trong im lặng hoàn toàn.
Cuối cùng, từ phía xa xa, âm thanh rì rào đầu tiên vang tới, lớn dần tới khi nó bắt đầu vỡ ra và rống lên từ xa. Khi nghe thấy nó, Ayesha nhanh chóng tháo tấm vải phủ như sương xuống, tháo lỏng con rắn vàng trên chiếc váy dài, rồi lắc mái tóc đẹp đẽ như tấm vải, chiếc váy dài trượt xuống thay cho thắt lưng hình con rắn uốn quanh bà ấy, bên ngoài là lớp tóc dài phủ xuống. Bà ấy đứng đó trước mặt chúng tôi như Eve đứng trước Adam, không mặc gì ngoài những ổ khóa buộc tóc phong phú, quanh bà là một dải vàng; không lời nào có thể nói được vẻ ngọt ngào của bà ấy – thần thánh biết bao. Bánh xe lửa sấm sét tới ngày một gần hơn, khi chúng tới, bà đẩy một cánh tay ngọc ngà qua mái tóc đen dày và quấn nó quanh cổ Leo.
“Ôi, tình yêu của ta, tình yêu của ta!” bà ấy thì thầm, “chàng có từng biết ta đã yêu chàng thế nào không?” bà ấy hôn lên trán cậu, rồi đi tới đứng vào trong con đường của ngọn lửa của Sự Sống.
Tôi vẫn còn nhớ, trong thâm tâm tôi rất cảm động về lời nói và hành động hôn lên trán của bà. Nó giống như nụ hôn của người mẹ, dường như truyền theo cả phúc lành.
Âm thanh ầm ầm cuồn cuộn tới, như âm thanh khu rừng bị san phẳng bởi gió lớn, rồi tung lên rất nhiều cỏ, sấm sét dội xuống sườn núi. Nó mỗi lúc một gần; giờ đây những ngọn lửa sáng lấp lóe, tiền thân của những cột trụ lửa xoay tròn, đang tràn tới như mũi tên xuyên qua không gian hồng rực; giờ góc cạnh cột trụ sắp hiện ra. Ayesha quay người hướng về nó, giang tay chào đón nó. Nó đi rất chậm chạp, liếm vòng quanh bà ấy bằng ngọn lửa. Tôi thấy ngọn lửa chạy lên thân thể bà. Tôi thấy bà ấy nâng nó lên bằng hai tay như thể đó là nước, rót nó vào đầu mình. Tôi còn thấy bà ấy mở miệng rồi đưa nó xuống phổi, khung cảnh thật kinh hãi và tuyệt đẹp.
Rồi bà ấy dừng lại, giang rộng cánh tay, đứng yên đó, nụ cười rực rỡ trên mặt, như thể bà ấy là Linh Hồn thực sự của Ngọn Lửa.
Ngọn lửa thần bí chơi đùa và đi xuống những chiếc khóa tóc đen quấn quanh của bà, kết hợp rồi xoắn sít quanh chúng như những dải buộc vàng; nó tỏa sáng bộ ngực và bờ vai ngọc ngà, mái tóc xõa hai bên, nó trượt dọc cổ họng thuôn thẳng và đi qua những đường nét tinh tế, như tìm kiếm ngôi nhà bằng con mắt rực rỡ đang tỏa sáng, tỏa sáng, lóng lánh hơn nhiều tinh chất trong linh hồn.
Ôi, bà ấy đẹp biết bao trong ánh lửa! Không thiên thần nào trên thiên đường có thể mang vẻ đẹp vĩ đại hơn thế. Thậm chí giờ trái tim tôi vẫn ngây ngất khi hồi tưởng về cảnh đó, khi bà ấy đứng mỉm cười trước gương mặt sửng sốt của chúng tôi, tôi muốn dành một nửa thời gian còn lại của mình trên đời để nhìn bấy ấy như thế một lần nữa.
Nhưng đột ngột – đột ngột hơn nhiều so với tôi có thể mô tả - một biến đổi trên gương mặt bà ấy, biển đổi tôi không thể xác định hay giải thích, nhưng thay đổi không hề ít. Nụ cười biến mất, vẻ khô khan cứng nhắc hiện ra; gương mặt tròn dường như bị bó chặt lại, như thể lo lắng to lớn để lại dấu ấn trên đó. Đôi mắt vẫn rực rỡ, nhưng mất đi ánh sáng, thân hình hoàn toàn dựng đứng.
Tôi dụi mắt, nghĩ mình đang là nạn nhân của ảo giác, hay khúc xạ của ánh sáng mạnh sinh ra ảo ảnh quang học; khi đó cây cột trụ rực lửa chầm chậm xoắn lại và ầm ầm như sấm dậy rời khỏi lòng đất lớn, bỏ lại Ayesha đứng ở nơi nó vừa đi qua.
Ngay khi nó đi, bà ấy bước về phía Leo – với tôi dường như không còn con suối uyển chuyển trong mỗi bước đi của bà ấy nữa – giang tay đặt lên vai cậu ấy. Tôi nhìn vào cánh tay bà. Vẻ tròn trịa và đẹp đẽ của nó đâu rồi? Nó trở nên mỏng dính và góc cạnh. Còn gương mặt bà ấy – Lạy Chúa! – gương mặt bà ấy đang biến đổi già nua dần trước mắt tôi kìa! Tôi nghĩ Leo cũng thấy; cậu ấy có lẽ đã lùi lại một hai bước.
“Chuyện gì thế, Kallikrates của ta?” bà ấy nói, giọng nói – có chuyện gì với giai điệu sâu lắng và ly kỳ trước đây thế? Chúng cao vút và vỡ ra.
“Tại sao, gì thế này – gì thế này?” bà ấy lúng túng. “Ta cảm thấy choáng váng. Chắc chắn chất lượng ngọn lửa không thay đổi. Chẳng lẽ nguyên lý của Sự Sống đã thay đổi? Hãy nói cho ta, Kallikrates, chuyện gì xảy ra với mắt ta? Ta không thấy rõ nữa,” bà ấy đặt tay lên đầu và chạm vào mái tóc – ôi, kinh hoàng của mọi kinh hoàng! Toàn bộ mái tóc rơi xuống sàn.
“Ôi, nhìn kìa! – nhìn kìa! – nhìn kìa!” Job rít lên, giọng the thé chói tai vì kinh hoàng, mắt anh ta gần như rơi ra khỏi đầu, rồi sùi bọt trên miệng. “Nhìn kìa! – Nhìn kìa! – nhìn kìa! Bà ấy đang teo lại! bà ấy đang biến thành một con khỉ!” Anh ta ngã xuống đất, sùi bọt mép và nghiến răng liên tục.
Thật vậy – tôi chết ngất ngay lúc viết những dòng này khi hồi tưởng lại cảnh tượng sống động kinh hoàng đó – bà ấy đang teo lại; con rắn vàng bao quanh thân thể yêu kiều trước kia trượt trên hông rơi xuống đất; bà ấy nhỏ dần nhỏ dần; làn da đổi màu, những chỗ trắng trẻo hoàn hảo biến thành màu nâu vàng bẩn thỉu, như một mảnh giấy da khô héo. Bà ấy cảm nhận được bước đầu: bàn tay tinh tế giờ không còn gì ngoài bộ móng vuốt, phần còn lại trông như một xác ướp Ai Cập bị bảo quản tệ hại, rồi bà ấy dường như nhận ra kiểu thay đổi nào mình đang trải qua, bà ta rít lên – ôi, bà ấy đã rít lên! – bà ấy cuộn lại trên sàn và gào rít!
Bà ấy nhỏ dần, nhỏ dần, tới khi không lớn hơn một con khỉ. Bây giờ lớp da đã nhăn nheo thành hàng triệu nếp, trên gương mặt không ra hình hài là dấu ấn tuổi tác không tả nổi. Tôi chưa từng thấy gì giống thế; không ai thấy gì ngoài tuổi tác đáng sợ chạm khắc trên khuôn mặt kinh sợ đó, giờ không lớn hơn gương mặt đứa trẻ hai tháng tuổi, dù hộp sọ cùng kích cỡ, hãy để mọi người cầu nguyện họ đừng bao giờ thấy vậy.
Cuối cùng bà ấy nằm im, chỉ di chuyển yếu ớt. Bà ấy, người hai phút trước vẫn hiện ra trước chúng tôi là một phụ nữ xinh đẹp nhất, cao quí nhất, lộng lẫy nhất thế gian từng thấy, giờ bà ấy vẫn ở trước mặt chúng tôi, gần đám tóc đen, không lớn hơn một con khỉ, và gớm ghiếc – ôi, quá gớm ghiếc. Hãy nghĩ đi – mỗi lần tôi nghĩ về điều đó – đó là cùng một người đấy!
Bà ấy đang chết: chúng tôi nhìn thấy điều đó, cảm ơn Chúa – vì trong lúc sống bà ấy có thể cảm nhận được, bà ấy đã cảm nhận được điều gì? Bà ấy giơ cánh tay xương xẩu lên, mù mờ nhìn quanh, quay đầu chậm rãi từ bên này sang bên kia như một con rùa. Bà ấy đã không thể nhìn được, vì đôi mắt trắng dã bị phủ một lớp màng sừng. Ôi, cảnh tượng bi ai khủng khiếp làm sao! Nhưng bà ấy vẫn không thể nói được.
“Kallikrates,” bà ấy khàn khàn run rẩy. “Đừng quên ta, Kallirates. Thật hổ thẹn; ta sẽ trở lại, sẽ lại xinh đẹp một lần nữa, ta thề đấy – đó là sự thật! Ôi – i – i!” bà gục đầu, và bất động.
Bà ấy đã ngã xuống và chết đúng chỗ hơn hai mươi thế kỷ trước bà giết chết linh mục Kallikrates.


Tôi không biết chúng tôi cứ như vậy bao lâu. Rất nhiều giờ, tôi cho là thế. Cuối cùng tôi mở mắt, hai người kia vẫn nằm dài trên sàn. Ánh sáng hồng rực vẫn bung ra như bình minh trên thiên đường, những vòng bánh xe sấm sét của Linh Hồn Sự Sống vẫn cuộn tới lui trên con đường quen thuộc của nó, vì tôi bị cái cột trụ hùng vĩ đó đi qua làm tỉnh giấc. Chỗ đó cũng có một thân hình như con khỉ nhỏ bé gớm ghiếc đang nằm, phủ lớp da vàng nhăn nheo, đó từng là Bà ấy lộng lẫy. Than ôi! Không phải một giấc mơ xấu xí – đó là hiện thực kinh khủng và chưa từng có!
Chuyện gì gây ra biến đổi gây sốc đó? Đặc tính tự nhiên của Ngọn Lửa mang tới sự sống đã thay đổi ư? Có lẽ nào tinh chất của Cái Chết đã thay cho tinh chất của Sự Sống? hay thân thể từng chịu tác dụng tuyệt vời của nó không thể chịu đựng thêm nữa, nên nếu hành động này lặp lại – không phải vấn đề thời gian trôi qua – mà hai sự thẩm thấu hòa trộn vào nhau, khiến thể xác phản ứng trở lại như trước khi nó chạm vào tinh chất của Sự Sống? Điều này khiến Ayesha bị lão hóa đột ngột và khủng khiếp, đúng như tuổi đời hai nghìn năm tác động thật sự lên bà ấy. Bản thân tôi không có chút hoài nghi nào dù nhỏ nhất, rằng cơ thể giờ đang nằm trước mặt tôi chính là của một phụ nữ từng đó tuổi, bằng một cách kỳ diệu, sự sống được duy trì trong người bà ấy cho tới khi qua đời ở tuổi hai mươi hai thế kỷ.
Nhưng ai biết được chuyện gì đã xảy ra chứ? Đó là thực tế. Từ giờ phút đáng sợ đó, tôi nghĩ không cần trí tưởng tượng to lớn mới nhìn thấy ngón tay Thượng Đế trong chuyện này. Ayesha đã khóa chặt mình trong ngôi mộ sự sống từ niên đại này sang niên đại khác để chờ đợi người bà ấy yêu tới, nhưng một thay đổi nhỏ đã xảy ra trên đời. Nhưng Ayesha mạnh mẽ và hạnh phúc trong tình yêu của mình, khoác lên tuổi trẻ bất tử và vẻ đẹp như nữ thần, cùng sự thông thái qua hàng thế kỷ, có thể tạo ra cách mạng xã hội, không chừng sẽ làm thay đổi số phận Loài Người. Bà ấy đã chống lại luật tự nhiên, dù bà ấy rất mạnh, cũng bị quét trở lại hư vô – quét trở lại trong xấu hổ và nhạo báng ghê gớm!
Vài phút sau tôi lại nằm yếu ớt hồi tưởng lại những kinh hoàng trong đầu, trong khi sức lực dần trở lại, nhanh chóng làm không khí sôi nổi. Rồi tôi nghĩ tới những người khác, và loạng choạng bước đi, không biết liệu có thể nâng họ dậy không. Nhưng thoạt tiên tôi nhặt lên chiếc váy dài và tấm khăn mỏng như sương của Ayesha mà bà ấy dùng để che đi nhan sắc rực rỡ khỏi mắt con người, ngăn đầu mình không nhìn vào đó, tôi phủ lên những gì còn lại ghê sợ của một người lộng lẫy đã chết, gây sốc với hình ảnh thu nhỏ về nhan sắc và tuổi đời của con người. Tôi làm thật nhanh, sợ rằng Leo sẽ tỉnh lại và nhìn thấy.
Rồi bước tới khối tóc đen lớn đầy mùi nước hoa trên cát, cúi đầu xuống chỗ Job - giờ đang nằm úp mặt, tôi lật anh ta lên. Cánh tay anh ấy rơi trở lại một cách không mong muốn, mang theo cái lạnh rùng mình xuyên qua tôi, tôi liếc nhanh anh ta. Một cái nhìn là đủ. Người đầy tớ già dặn và trung thành của chúng tôi đã chết. Thần kinh anh ấy đã vỡ ra trước những gì nhìn thấy và trải qua, hoàn toàn bị phá nát trước cảnh tượng thảm khốc vừa rồi, anh ấy chết vì sợ hãi, hoặc trong cơn co giật do cảnh khủng bố mang lại. Tôi chỉ nhìn vào gương mặt anh ta là thấy điều đó.
Một cú đánh khác; có lẽ giúp mọi người hiểu trải nghiệm chúng tôi đi qua đáng sợ áp đảo đến mức nào – chúng tôi không cảm nhận được nó lúc đó. Có lẽ người đồng hành khốn khổ bị chết khá tự nhiên. Khi Leo tới chỗ anh ta, cậu đã rên lên và run rẩy tay chân khoảng mười phút, tôi nói với cậu ấy Job đã chết, cậu chỉ bảo, “Ôi!” Các bạn biết đấy, không phải là vô cảm, vì cậu ấy và Job đã gắn bó với nhau rất nhiều; cậu thường kể về anh ta với sự tiếc nuối và tình cảm sâu sắc. Chỉ là lúc này thần kinh của cậu không thể chịu đựng thêm nữa. Cây đàn hạc có thể phát ra âm thanh có chất lượng nhất định, nhưng nó đã bị đánh đập nặng nề.
Phải, tôi đành tự dốc sức làm Leo phục hồi, trong niềm tin vô hạn của mình, tôi nghĩ cậu chưa chết, chỉ ngất xỉu, cuối cùng tôi đã thành công, như tôi đã nói, rồi cậu đứng dậy; còn tôi thấy một thứ đáng sợ khác. Khi chúng tôi vào nơi kinh hãi này, mái tóc xoăn của cậu vẫn vàng hơi hung đỏ, giờ đã thành màu xám, theo dòng thời gian nếu chúng tôi ra tới bên ngoài, nó sẽ trắng như tuyết. Hơn nữa, trông cậu già đi hai mươi tuổi.
“Chuyện gì vậy, nhà nghiên cứu sinh già?” cậu ấy nói bằng giọng trống rỗng, chết chóc, khi đầu óc cậu sáng tỏ một chút, hồi tưởng lại những gì đã xảy ra khiến nó thành ra thế này.
“Cố lên và ra khỏi đây, bác cho là như thế,” tôi đáp; “trừ khi cháu muốn đi vào nó,” tôi chỉ vào cột lửa lại đang cuộn tới lần nữa.
“Cháu muốn đi vào nếu cháu chắc nó có thể giết cháu,” cậu cười nhẹ. “Thật đáng nguyền rủa, cháu đã do dự làm điều này. Nếu cháu không hoài nghi, bà ấy sẽ không bao giờ thử chỉ đường cho cháu. Nhưng cháu không chắc. Ngọn lửa có thể có hiệu quả ngược lại với cháu. Nó có thể làm cháu bất tử; nhà nghiên cứu sinh già, cháu không kiên nhẫn đợi hàng nghìn năm chờ bà ấy trở lại như bà ấy đã làm với cháu. Cháu tốt hơn nên chết khi giờ khắc của cháu tới – cháu rất vui vì nó không còn xa nữa – đi trên con đường của cháu để tìm kiếm bà ấy. Bác cứ đi vào nếu bác muốn.”
Nhưng tôi chỉ lắc đầu, sự phấn khích của tôi đã chết trong rãnh nước, sự chán ghét sống bất tử trở lại bên tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hơn nữa, chúng tôi cũng không biết tác dụng của ngọn lửa sẽ thế nào. Kết quả trên Bà ấy không có tính khích lệ, nguyên nhân chính xác gây ra chuyện đó, tất nhiên chúng tôi không biết.
“Phải, con trai của ta,” Tôi nói, “chúng ta không thể dừng ở đây trừ khi muốn đi theo con đường của hai người kia,” tôi chỉ vào đống nhỏ dưới lớp vải trắng và cái xác cứng lại của Job khốn khổ. “Tốt nhất chúng ta nên đi thôi. Nhưng mong rằng những cây đèn sẽ còn cháy được,” tôi cầm một cây lên và nhìn nó, chắc đủ dùng.
“Còn chút dầu trong bình,” Leo nói không khác biệt mấy – “nếu bình chưa vỡ.”
Tôi kiểm tra cái bình – nó còn nguyên vẹn. Tôi run rẩy thắp đèn – thật may vẫn còn ít bấc bằng vải lanh chưa cháy hết. Tôi thắp chúng bằng một thanh sáp. Khi đó chúng tôi nghe thấy cột trụ rực lửa lại đi tới một lần nữa như trong hành trình không bao giờ kết thúc của nó, nếu thế thì quả thực, chính cái cột trụ đó cứ đi qua đi lại theo vòng tròn.
“Chúng ta hãy đi nhìn nó tới một lần nữa,” Leo nói; “chúng ta sẽ không bao giờ còn nhìn thấy nó lại lần nữa trên đời.”
Có lẽ hơi tò mò nhàn rỗi, nhưng dù sao tôi cũng đã đồng ý, chúng tôi đợi tới khi nó xoay chầm chậm quanh trục, bùng lên và gầm thét như sấm; tôi nhớ đã tự hỏi cùng một cảnh này diễn ra trong lòng trái đất đã bao nhiêu nghìn năm rồi, sau bao nhiêu nghìn năm đó, nó vẫn tiếp tục diễn ra. Tôi cũng tự hỏi, liệu có đôi mắt đã chết nào có thể đánh dấu lại con đường của nó, hay đôi tai đã chết nào hồi hộp bị âm thanh hùng vĩ của nó cuốn hút không. Tôi không nghĩ ai có thể làm được. Tôi tin chúng tôi là những con người cuối cùng từng thấy cảnh tượng phi phàm này. Hiện tại nó đã đi mất rồi, và chúng tôi cũng quay đi.
Nhưng trước khi đi, mỗi người chúng tôi đều cầm lấy bàn tay lạnh lẽo của Job và lắc lắc. Đó là cách tưởng niệm đáng sợ, nhưng là cách duy nhất trong khả năng của chúng tôi để thể hiện sự tôn trọng với người trung thành đã chết và làm nghi thức đám tang cho anh ấy. Đống vải trắng chúng tôi không dám mở ra. Chúng tôi không mong nhìn lại cảnh tượng khủng khiếp đó. Nhưng chúng tôi đi tới đống tóc cuộn sóng rơi khỏi người bà ấy trong thống khổ vì biến đổi ghê gớm đó tồi tệ hơn cả một nghìn cái chết tự nhiên, mỗi chúng tôi đều cầm lấy cái khóa tỏa sáng trên đó, những chiếc khóa đó chúng tôi vẫn còn giữ, là kỷ vật duy nhất còn lại của Ayesha, nó nằm trong khối hoàn hảo tạo nên sự duyên dáng và lộng lẫy của bà ấy. Leo đưa tóc đầy hương nước hoa lên môi cậu.
“Người bảo cháu đừng quên người,” cậu khàn giọng nói; “rồi thề thốt rằng chúng cháu sẽ gặp lại. Lạy Chúa! Cháu sẽ không bao giờ quên người. Cháu thề nếu chúng ta còn sống rời khỏi nơi này, cháu sẽ không bao giờ nói gì với bất kỳ người phụ nữ còn sống nào khác, dù đi bất cứ nơi đâu, cháu sẽ vẫn chờ đợi người chung thủy như người đã chờ đợi cháu.”
“Được,” Tôi tự nghĩ, “nếu bà ấy trở lại xinh đẹp như chúng ta biết. Cứ cho là bà ấy quay lại như thế đi!” [*]
[*] Đó là một suy nghĩ đáng sợ, dù sao, gần như toàn bộ tình yêu sâu sắc của chúng ta với phụ nữ, người không bị lệ thuộc vào chúng ta – trong hiện thân đầu tiên – dựa vào vẻ bề ngoài của chính họ. Nếu chúng ta mất họ, rồi lại tìm thấy họ, sẽ thấy thật đáng sợ, dù họ vẫn thế, nhưng liệu chúng ta sẽ vẫn còn yêu họ ư? – L.H.H.
Sau đó chúng tôi đi. Chúng tôi đi, bỏ lại hai người đó ở nơi hiện diện của giếng trời hay suối nguồn của Sự Sống, nhưng đã bị Thần Chết lạnh lùng mang đi. Họ nằm trông đơn độc biết bao, yếu ớt biết bao! Đống nhỏ kia là của một sinh vật thông thái nhất, xinh đẹp nhất, tự tin nhất hai nghìn năm qua – tôi khó có thể gọi người phụ nữ ấy – trong vũ trụ này. Bà ấy đã từng độc ác theo cách của mình; nhưng than ôi! Trái tim con người yếu đuối vậy đấy, tội ác không làm mất đi vẻ duyên dáng của bà. Quả thực, tôi không có cách nào chắc rằng không nói thêm nữa. Cuối cùng, đó là một trật tự vĩ đại, không gì có ý nghĩa hay nhỏ bé với Ayesha.
Còn Job khốn khổ nữa! Dự cảm của anh ấy đã thành sự thật, anh ta đã có kết cục của mình. Phải, anh ấy có nơi chôn cất kỳ lạ - không kẻ quê mùa Norfolk nào đã từng hay sẽ có thể gặp chuyện ly kỳ thế này; nằm cùng ngôi mộ với xương cốt khốn khổ của Bà ấy đầy uy quyền.
Chúng tôi nhìn họ lần cuối và dòng chảy cuồn cuộn hồng rực không tả nổi nơi họ nằm, rồi với trái tim trĩu nặng, chúng tôi để họ lại, những con người tan nát bò lên – tan nát đến mức từ bỏ cơ hội có cuộc đời bất tử, vì mọi thứ làm cuộc sống có giá trị đã đi khỏi chúng tôi, và chúng tôi biết rằng, kéo dài cuộc đời vô định của mình chỉ là kéo dài đau khổ của chính mình mà thôi. Vì thế, phải, cả hai chúng tôi – từng ngắm nhìn Ayesha, sẽ vĩnh viễn không thể quên được bà ấy khi ký ức và nhân dạng vẫn còn. Cả hai chúng tôi cùng yêu bà ấy bây giờ và mãi mãi, bà ấy đã được đóng dấu và được khắc vào trái tim chúng tôi, không người phụ nữ hay mối quan tâm nào khác có thể san bằng vẻ lộng lẫy đó. Còn tôi – như bị châm đốt – tôi đã và đang không có quyền nghĩ về bà ấy. Vì bà đã nói với tôi, tôi không là gì với bà ấy, không bao giờ, trước dòng Thời Gian thăm thẳm khôn dò, trừ khi hoàn cảnh thực sự thay đổi, nếu ít ra có một ngày hai người đàn ông yêu một phụ nữ mà cả ba cùng hạnh phúc. Đó là hy vọng duy nhất trong trái tim tan nát của tôi, một hy vọng mờ nhạt. Tôi không còn gì nữa. Tôi đã phải trả cái giá nặng nề, bằng tất cả những gì tôi có ở đây và sau này, đó là phần thưởng duy nhất của tôi. Với Leo lại khác, tôi thường ghen tị với hạnh phúc của cậu ấy, vì nếu Bà ấy đúng - trí tuệ và sự khôn ngoan của bà ấy chưa từng thất bại, trừ tiền lệ trường hợp riêng của bà ấy, tôi nghĩ hầu như không có khả năng cậu ấy sẽ chờ đợi trong tương lai. Nhưng tôi chả có gì – đánh dấu sự ngu ngốc và yếu đuối của trái tim con người, hãy để cậu ấy học được sự khôn ngoan từ chuyện này – tôi không muốn làm điều ngược lại. Ý tôi là tôi hài lòng cho đi những gì đã cho và sẽ luôn luôn thế, ký ức về những lời nói tốt đẹp, hy vọng một ngày trong tương lai xa xôi không dám mơ tới nhận được một hai nụ cười ngọt ngào, một chút tình bạn nhẹ nhàng, một chút biểu hiện để cảm ơn sự tận tâm của tôi cho bà ấy – và cho Leo.
Nếu đó không phải là tình yêu thực sự, tôi không biết đó là gì, tất cả những gì tôi phải nói là, thật tệ khi một người đàn ông trông già hơn tuổi trung niên của mình, lại rơi vào chuyện này.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...