Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 28



CHƯƠNG 28

Vượt qua Dãy Núi
Việc tôi hồi tưởng lại kế tiếp là cảm giác đông cứng kinh khủng nhất, một loại ý tưởng mơ hồ trôi qua bộ não đang nửa thức nửa tỉnh khi cho mình là một tấm thảm vừa bị đánh đập. Tôi mở mắt, thứ đầu tiên rơi xuống là gương mặt đáng kính của người bạn già Billali, đang ngồi bên cạnh chiếc giường mới được tạo ra tôi đang nằm trên đó, trầm ngâm vuốt bộ râu dài. Hình ảnh của ông ta ngay lập tức khiến đầu óc tôi hồi tưởng lại tất cả những gì chúng tôi vừa trải qua, đặc biệt dáng vẻ Leo khốn khổ nằm đối diện tôi, gương mặt đông lại như thạch, những lọn tóc đẹp đẽ từ vàng biến thành trắng xóa, [*] tôi lại nhắm mắt lại và rên rỉ.
[*] Thật tò mò, mái tóc của Leo gần đây đã lấy lại được màu sắc ban đầu ở mức độ nào đó – phải nói là, giờ nó có màu xám vàng, và tôi không phải không hy vọng tới lúc nó sẽ hoàn toàn quay về màu gốc. – L.H.H.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, Khỉ Đầu Chó của ta,” ông già Billali nói.
“Bao lâu rồi, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Một vòng mặt trời và một vòng mặt trăng, ngươi đã ngủ một ngày một đêm, con Sư Tử cũng vậy. Nhìn kìa, hắn vẫn còn ngủ.”
“Ngủ là phước lành,” Tôi trả lời, “vì nó sẽ nuốt hết mọi hồi ức.”
“Hãy nói cho ta,” ông ấy nói, “chuyện gì đã xảy ra với các ngươi, chuyện kỳ lạ về cái chết của Bà ấy - người không thể chết, là thế nào. Ngươi hãy nghĩ mà xem, con trai của ta: nếu chuyện này là thật, thì nguy hiểm của ngươi và nguy hiểm của con Sư Tử là rất lớn – không, gần như các ngươi sẽ phải đội chậu nung nóng, dạ dày các ngươi sẽ bị những kẻ đói khát kia ăn như thú vật. Ngươi không biết người Amahagger, các con của ta, những cư dân của hang động, rất căm ghét các ngươi ư? Chúng ghét các ngươi vì các ngươi là người lạ, chúng ghét các ngươi hơn nữa vì đám anh em chúng bị Bà ấy tra tấn vì quyền lợi của các ngươi. Chắc chắn nếu một khi chúng biết được không có gì phải sợ Hiya, người kinh khủng mà chúng ta phải tuân lệnh, chúng sẽ giết các ngươi bằng cái chậu. Nhưng hãy kể ta nghe câu chuyện của ngươi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta.”
Được khích lệ, tôi bắt đầu kể cho ông ấy – không phải tất cả, quả thực, vì tôi không nghĩ nó đáng để làm vậy, như đủ cho mục đích của tôi, đó là khiến ông ta hiểu Bà ấy thực sự không còn nữa, đã rơi vào ngọn lửa, và bị thiêu cháy - vì sự thật có thể khiến ông ấy khó hiểu. Tôi cũng kể vài cảnh rùng rợn chúng tôi đã vượt qua khi trốn thoát, để tăng ấn tượng tốt với ông ấy. Nhưng rõ ràng tôi thấy ông ấy không tin khi nghe nói về cái chết của Ayesha. Thực ra ông ta tin rằng chúng tôi nghĩ bà ấy đã chết, nhưng ông ấy cho là sẽ phù hợp hơn khi nói, bà ấy sẽ biến mất một thời gian. Ông ta bảo, trong thời của cha ông ta, có một lần bà ấy cũng làm vậy khi biến mất suốt mười hai năm, còn có một truyền thuyết ở đất nước này kể rằng, nhiều thế kỷ trước không ai từng nhìn thấy bà ấy suốt một thế hệ, sau đó bà ấy đột ngột xuất hiện lại, tiêu diệt người phụ nữ đang đảm nhiệm vị trí Nữ Hoàng. Tôi không nói gì về điều này, mà chỉ gật đầu buồn bã. Than ôi! Tôi biết quá rõ rằng Ayesha sẽ không thể xuất hiện nữa, hay Billali có thể không bao giờ gặp lại bà ấy.
“Còn bây giờ,” Billali kết luận, “ngươi muốn làm gì, Khỉ Đầu Chó của ta?”
“Không,” Tôi nói, “Tôi không biết, thưa cha. Chúng tôi có thể trốn thoát khỏi đất nước này sao?”
Ông ấy gật đầu.
“Rất khó. Vì ngươi không thể vượt qua Kôr, như ngươi đã thấy đấy, ngay khi những kẻ tàn bạo kia thấy các ngươi một mình, thế là xong,” ông ta cười và làm hành động như thể ông ta đang bị đặt chậu nung nóng trên đầu. “Nhưng có một con đường trên vách núi ta từng nói với ngươi, nơi họ lùa gia súc ra ngoài đồng cỏ. Ra khỏi đồng cỏ là hành trình ba ngày xuyên qua đầm lầy, sau đó ta không biết, nhưng ta nghe nói hành trình bẩy ngày từ đó sẽ tới một con sông hùng vĩ chảy ra vùng nước đen. Nếu các ngươi có thể tới đó, không chừng có thể trốn thoát, nhưng ngươi có thể tới đó bằng cách nào đây?”
“Billali,” Tôi nói, “ngài biết đấy, tôi từng cứu mạng ngài một lần. Giờ hãy trả lại món nợ này, thưa cha, xin hãy cứu tôi và bạn tôi, con Sư Tử. Đó sẽ là một việc khiến ngài hài lòng nghĩ tới khi giờ khắc của ngài đến, một việc có qui mô chống lại cái ác trong những năm tháng của ngài, nếu ngài đã từng làm điều ác. Nếu ngài đúng, nếu Bà ấy chỉ tự dấu mình đi thôi, chắc chắn khi bà ấy quay lại sẽ thưởng cho ngài.”
“Con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông già trả lời, “đừng nghĩ ta có trái tim vô ơn. Ta vẫn nhớ ngươi đã cứu ta khi lũ chó kia đứng đó nhìn ta chết đuối. Đo đi đo lại ta sẽ cho ngươi, nếu các ngươi có thể cứu được, chắc chắn ta sẽ cứu các ngươi. Nghe đây: bình minh ngày mai hãy chuẩn bị, vì các cái ổ sẽ ở đây để mang các ngươi qua rặng núi, qua đầm lầy. Ta sẽ làm điều này, sẽ nói rằng theo lời của Bà ấy, các ngươi không tuân lệnh Bà ấy, nên các ngươi sẽ làm thức ăn cho linh cẩu. Sau đó khi đã vượt qua đầm lầy, các ngươi phải tự chiến đấu, không chừng, nếu vận số tốt, các ngươi sẽ sống sót đi tới vùng nước đen ta đã nói cho ngươi. Còn bây giờ, nhìn xem, con Sư Tử đã tỉnh dậy rồi, các ngươi phải ăn thức ăn ta đã làm sẵn cho các ngươi.”
Tình trạng của Leo khi tỉnh dậy cho thấy không quá tệ như dự đoán từ vẻ bề ngoài của cậu, cả hai chúng tôi cố ăn hết bữa ăn thịnh soạn, thực ra chúng tôi nên buồn bã. Sau khi xuống suối tắm rửa, chúng tôi trở lại và ngủ tiếp tới tận sáng, lúc đó chúng tôi ăn một lần nữa đủ cho năm người. Billali hôm đó hoàn toàn biến mất, không nghi ngờ, ông ấy đang thu xếp ổ và người khiêng, vì chúng tôi bị đánh thức giữa đêm khi có một số đáng kể đàn ông tới cái trại nhỏ này.
Lúc bình minh ông già xuất hiện, nói với chúng tôi ông ấy đã dùng danh nghĩa đáng sợ của Bà ấy, khó khăn một chút, nhưng thành công mang những người cần thiết và hai người dẫn đường đưa chúng tôi qua đầm lầy, ông ấy nhấn mạnh chúng tôi phải khởi hành ngay, đồng thời thông báo dự định đi cùng chúng tôi để bảo vệ chúng tôi trước sự phản bội. Tôi vô cùng cảm động trước hành động tốt bụng của ông già man rợ ranh mãnh với hai người hoàn toàn xa lạ không có khả năng tự vệ. Hành trình ba ngày – đối với ông ấy mất sáu ngày vì còn phải quay lại – xuyên qua khu đầm lầy chết chóc không hề hứa hẹn chút ánh sáng nào với người ở tuổi của ông ấy, nhưng ông ấy đồng ý làm điều đó một cách vui vẻ để tăng an toàn cho chúng tôi. Điều đó cho thấy trong đám người Amahagger đáng sợ kia – những kẻ chắc chắn rất tăm tối cùng những nghi thức quỉ quái kinh khủng vượt xa đám người hoang dã gớm ghiếc nhất tôi từng nghe nói – vẫn có những người có lòng tốt. Tất nhiên, lợi ích cá nhân có lẽ cũng là thứ đi kèm. Ông ta có thể cho rằng Bà ấy đột nhiên tái xuất hiện và yêu cầu tin tức về chúng tôi từ tay ông ấy, nhưng cho dù có đủ loại khấu trừ, cũng quá thuận lợi hơn nhiều lần chúng tôi dự tính trong hoàn cảnh này, tôi chỉ có thể nói, chừng nào còn sống, tôi sẽ vẫn trân trọng ghi nhớ bằng tình cảm trìu mến nhất dành cho người cha danh nghĩa của tôi, ông già Billali.
Sau khi ăn xong chút thức ăn, chúng tôi khởi hành trên những chiếc ổ, cảm thấy thể xác đã đi một đoạn xa đến vậy, kỳ lạ như bản thể già nua của chính mình sau một lần nghỉ ngơi và một giấc ngủ dài. Tôi phải bỏ tình trạng đầu óc hiện tại lại cho trí tưởng tượng.
Rồi tới hành trình leo lên vách đá khủng khiếp. Thi thoảng việc đi lên tự nhiên hơn, nó thường là đường cắt hình zig-zag, chắc chắn được làm ra đầu tiên bởi các cư dân xa xưa của Kôr. Người Amahagger nói họ chăn đàn gia súc qua đây một lần mỗi năm ngoài đồng cỏ; những gì tôi biết thì đám gia súc đó phải hoạt động bằng chân không thường xuyên lắm. Tất nhiên lúc này những cái ổ đều vô dụng, chúng tôi phải đi bộ.
Nhưng đến trưa, chúng tôi đã tới đỉnh bằng phẳng hùng vĩ của bức tường đá sừng sững, đủ lớn để nhìn toàn cảnh với đồng bằng Kôr từ đó, giữa trung tâm chúng tôi có thể thấy rõ đám phế tích đầy cột trụ của Đền Thờ Sự Thật một bên, còn đầm lầy u sầu vô biên bên kia. Bức tường đá này chắc chắn từng tạo thành miệng núi lửa, dày khoảng một dặm rưỡi, vẫn phủ đầy xỉ clinker. Không gì mọc nổi nơi này, thứ duy nhất làm dịu mắt chúng tôi là các hồ nước mưa thường xuyên (vì sau đó mưa rơi xuống) được đào sâu vào một chút. Chúng tôi đi trên đỉnh bằng phẳng của thành lũy hùng vĩ này, rồi tới đoạn đi xuống, không quá khó khăn như đi lên, nhưng vẫn dễ gẫy cổ, tới khi hoàng hôn. Tuy vậy đêm đó chúng tôi cắm trại an toàn trên sườn núi hùng vĩ cuộn ra chỗ các đầm lầy bên dưới.
Sáng hôm sau, khoảng mười một giờ, hành trình đáng sợ của chúng tôi lại bắt đầu, đi qua biển đầm lầy ghê sợ mà tôi đã mô tả.
Suốt ba ngày, hôi thối và bùn đất, hương vị sợ hãi thường trực, khiến đám người khiêng chúng tôi phải đấu tranh cùng, tới khi chúng tôi tới một mảnh đất khá hoang hóa, hầu hết không có cây cối, nhưng địa hạt này đầy các loài nằm ngoài ranh giới loài hiếm nhất, không hướng dẫn thì hoàn toàn không thể giao lưu được. Sáng hôm sau chúng tôi chào tạm biệt ông già Billali ở đó, không phải không có chút tiếc nuối, ông vuốt bộ râu trắng và long trọng ban phước cho chúng tôi.
“Tạm biệt, con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông ấy nói, “tạm biệt ngươi nữa, ôi con Sư Tử. Ta không thể làm gì hơn nữa để giúp các ngươi. Nhưng nếu các ngươi trở về tới đất nước mình, ta khuyên, đừng mạo hiểm tới những vùng đất các ngươi không biết nữa, các ngươi sẽ không trở về được nữa đâu, ngoài bỏ đống xương trắng của các ngươi lại đánh dấu giới hạn hành trình của các ngươi. Tạm biệt một lần nữa; ta sẽ thường xuyên nghĩ về ngươi, ngươi đừng quên ta, Khỉ Đầu Chó của ta, dù gương mặt ngươi xấu xí nhưng trái tim ngươi chân thật.” Rồi ông ấy quay đi và trở về, đi cùng với ông ấy là những người khiêng ổ cao lớn ủ rũ, đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy người Amahagger. Chúng tôi nhìn họ đi mất như gió cuốn với những cái ổ trống trơn như một đám rước khiêng người chết khỏi cuộc chiến, tới khi sương mù của đầm lầy bao quanh và che mất họ, bỏ lại hoang vu tuyệt đối nơi hoang dã mênh mông này, chúng tôi quay lại nhìn quanh, rồi nhìn nhau.
Ba tuần trước, bốn người đàn ông bước vào khu đầm lầy Kôr, giờ hai người đã chết, còn hai người trải qua những phiêu lưu và kinh nghiệm kỳ lạ kinh khủng tới mức cái chết của họ cũng không đáng sợ hơn thế. Ba tuần – chỉ ba tuần! Thời gian thực sự đo bằng sự kiện, chứ không phải từng quãng đồng hồ. Như đã ba mươi năm rồi kể từ khi chúng tôi nhìn thấy lần cuối chiếc thuyền cá voi.
“Chúng ta phải tìm cách tới Zambesi, Leo,” Tôi nói, “nhưng Chúa mới biết chúng ta có thể tới đó được không.”
Leo gật đầu. Sau đó cậu trở nên rất yên lặng, chúng tôi bắt đầu với không gì ngoài quần áo đang mặc, một chiếc la bàn, súng lục và súng trường, khoảng hai trăm viên đạn, và thế là kết thúc câu chuyện về chuyến viếng thăm của chúng tôi tới khu tàn tích cổ đại của đế chế Kôr hùng mạnh.
Với những cuộc phiêu lưu xảy ra sau này của chúng tôi, chúng rất kỳ lạ và phong phú, sau khi bàn luận, tôi đã quyết định không ghi lại chúng ở đây. Trong những trang này, tôi chỉ cố đưa ra thông tin ngắn gọn và rõ ràng về một sự xuất hiện mà tôi tin rằng chưa từng có, và tôi làm thế không phải để xuất bản ngay lập tức, mà chỉ đưa lên giấy khi chúng còn tươi mới trong kí ức của chúng tôi tới từng chi tiết và kết quả, tôi tin có thể chứng minh thế giới thật thú vị nếu chúng tôi quyết định công khai chúng. Hiện tại, theo tư vấn, chuyện này chúng tôi không định làm khi vẫn còn chung sống.
Phần còn lại, không hề có lợi ích với cộng đồng, giống như trải nghiệm của nhiều khách du lịch tới Trung Phi thôi. Chỉ muốn nói, sau những khó khăn và thiếu thốn đáng kinh ngạc, chúng tôi đã tới Zambesi, cách nơi Billali để chúng tôi lại khoảng 170 dặm về phía nam. Chúng tôi bị giam ở đó khoảng sáu tháng bởi một bộ lạc hoang dã, họ tin rằng chúng tôi là các sinh vật siêu nhiên, chính vì gương mặt trẻ trung và mái tóc trắng như tuyết của Leo. Chúng tôi cuối cùng cũng trốn thoát khỏi tộc người đó, tới Zambesi, lang thang xuống phía nam đúng vào thời điểm nạn đói, chúng tôi đủ may mắn khi rơi vào tay một kẻ săn voi người Bồ Đào Nha cùng một đội quân voi đi theo sau trên địa bàn xa hơn nơi anh ta từng đi trước đây. Người này đối xử với chúng tôi vô cùng mến khách, cuối cùng với sự trợ giúp của anh ta, chúng tôi – sau vô số những đau đớn và phiêu lưu, đã tới Vịnh Delagoa, hơn mười tám tháng kể từ lúc chúng tôi xuất hiện ở đầm lầy Kôr, ngày tiếp theo, chúng tôi thành công bắt một chuyến tàu hơi nước vòng quanh Mũi Hảo Vọng về nước Anh. Hành trình về nhà của chúng tôi rất thuận lợi, chúng tôi đặt chân lên cảng Southampton chính xác hai năm sau kể từ ngày khởi hành chuyến săn lùng hoang dã và dường như rất vô lý đó, bây giờ tôi viết những dòng cuối này khi Leo đang ngả trên vai tôi trong căn phòng cũ tại trường đại học, giống như hai mươi hai năm trước, ông bạn Vincey khốn khổ của tôi loạng choạng tới vào buổi tối đáng nhớ mà anh ấy đã qua đời, mang cái hộp sắt theo cùng anh ấy.
Thế là câu chuyện đã kết thúc, nó liên quan tới khoa học và thế giới bên ngoài nhiều hơn. Kết cục liên quan đến Leo và tôi nhiều hơn tôi đoán. Nhưng chúng tôi cảm thấy chuyện này chưa dừng lại. Một câu chuyện bắt đầu từ hơn hai nghìn năm trước có thể sẽ kéo dài trong tương lai xa xôi mờ mịt.
Leo thực sự là hóa thân của Kallikrates cổ xưa mà bản văn tự nói tới ư? Hay Ayesha đã bị đánh lừa do sự giống nhau kì lạ về mặt di truyền? Độc giả nên có quan điểm của riêng mình về vấn đề như thế này. Tôi có quan điểm của tôi, rằng bà ấy không nhầm lẫn như vậy.
Tôi thường ngồi một mình trong đêm, đôi mắt suy tư nhìn chằm chằm vào bóng đen của thời khắc chưa được sinh ra, tự hỏi vở kịch lớn này cuối cùng sẽ được phát triển dưới hình dạng và cách thức nào, phân cảnh cho hành động tiếp theo sẽ nằm ở đâu. Và khi đoạn cuối cùng diễn ra, tôi chắc chắn nó phải diễn ra, tuân theo định mệnh chưa bao giờ chệch hướng và mục đích không thể thay đổi, khi đó Amenartas xinh đẹp người Ai Cập - Công Chúa mang dòng máu hoàng gia của các Pharaoh, vì yêu bà ấy Linh mục Kallikrates đã phá vỡ lời thề với thần Isis, và bị sự trả thù không lay chuyển được của Nữ Thần phẫn nộ theo đuổi, chạy trốn xuống bờ biển Libya để gặp ngày tận số của ông ấy ở Kôr – bà ấy sẽ đóng vai gì?
-          Kết thúc –

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét