Bài 3: Thuyết Âm Dương – Ngũ Hành
1. Tại sao phải nghiên cứu học thuyết Âm dương – Ngũ hành trong Đông y?
Vì
cơ sở lý luận chủ yếu của Đông y dựa trên hai học thuyết:
-
Thuyết Âm Dương
-
Thuyết Ngũ Hành
Đông
y quan niệm con người là một tiểu vũ trụ. Vũ trụ, hay trời có khí (lục khí):
Phong – Hàn – Thử - Thấp – Táo – Hỏa. Đất có thức ăn (ngũ hành): Thủy – Hỏa – Mộc
– Kim – Thổ. Đất đi lên, trời đi xuống. Con người âm dương giao hòa ở đan điền
- bể khí.
Ở
nơi nào có ấm nóng là có sự sống. Ở nơi nào có lạnh là có sự chết. Ví dụ: tay
chân lạnh sẽ dẫn tới thấp khớp, tai biến, chạy thận nhân tạo… vì khí không vận
chuyển xuống được bên dưới.
·
Giải thích hiện tượng u vú, u tiền liệt tuyến: Khí huyết lưu
thông đủ thì cơ thể ấm nóng, không đủ thì cơ thể lạnh. Lạnh lâu ngày sẽ sinh u.
U thuộc về âm, phải dùng biện pháp bơm tiêu để đưa khí huyết đến.
Công
thức: X (U tuyến giáp, u tiền liệt, u vú, …) + Bộ vị trong huyệt diện chẩn =
Tiêu u.
Do
đó phải tìm ra X mới biết cần phải day những huyệt nào để tiêu u.
·
Tắc
tia sữa: do bé không bú hết sữa, để lâu tạo thành cục
đặc không nhân. Một thời gian sau, khí huyết không lưu thông đến được thì thành
u thật có nhân. Giải pháp: cho bé bú hết sữa, hoặc vuốt dần cho tan u cục.
·
Sỏi
thận: chức năng của thận khí hóa đã được giải
thích phần trước. Thận khí bị giảm, tức dương suy, khí hóa đưa tinh lên thành tủy,
não, một phần bài tiết vào bàng quang ra ngoài. Khí hóa kém thì nó sẽ không bài
tiết hết được qua đường tiết niệu, đọng lại, dần thành sỏi ở thận.
Ví
dụ: một bác bị sỏi thận, uống canxi bị tăng sỏi. Các loại canxi, gluconate,
lactate, canxi cacbonat… Đây là do uống canxi vô cơ gây sỏi, khiến sỏi ngày một
to lên.
Vậy
nếu người sỏi thận mà lại bị đau xương, gai cột sống, đau lưng thì có cần uống
canxi không? Nếu uống nhiều nước, dùng bấm huyệt, uống kim tiền thảo, sẽ tống
được viên sỏi ra, nhưng sau đó sẽ lại xuất hiện viên sỏi khác.
Câu hỏi:
Tại sao canxi vào trong thận? Tại sao không bài tiết được canxi ra ngoài?
Đó
là do canxi trong cơ thể được cung cấp từ 2 nguồn: bên trong (canxi dự trữ
trong xương) và bên ngoài (đồ ăn cung cấp canxi hữu cơ và vô cơ, sinh sỏi chủ yếu
do canxi vô cơ). Khi cơ thể thiếu canxi thì canxi được rút ra từ xương để chuyển
hóa vào máu qua quá trình lọc ở thận và gan. Nếu chức năng của thận và gan kém
thì sẽ không lọc được hết, một phần canxi được giữ lại. Lâu ngày sinh ra sỏi
trong thận (sỏi thận) và gan (sỏi mật). Trường hợp này phải uống bổ sung canxi
hữu cơ.
Bị
thiếu canxi sẽ mắc chứng chuột rút, tê, nhức, mỏi, đau xương, tay chân buồn bực.
Dùng kim tiền thảo: làm thận âm hư gây nóng, phải bổ thận âm. Trong thận có u
thận: khí huyết không đủ do bị thiếu, bị tắc, các tế bào xâm lấn vô tổ chức gây
ung thư. Thiếu thì bổ, tắc thì thông bằng cách tập luyện.
·
Tại
sao càng ăn bổ càng chết nhanh?
Theo
Tây y, nếu bỏ đói, cơ thể bị suy kiệt vì thiếu chất; còn tẩm bổ thì ăn xong lại
ngủ, cũng nhanh chết. Khi tẩm bổ nhiều thì phải năng tập luyện. Tập các chỗ tắc
khí huyết để thông, bổ thêm khí vào thì sẽ không nhanh chết.
2. Nội dung thuyết Âm dương – Ngũ hành trong Đông y
·
Vũ
trụ và con người có liên hệ như thế nào?
Con
người là một tiểu vũ trụ.
Tứ
Chi ứng với bốn mùa (Xuân – Hạ - Thu –
Đông).
12
tháng ứng với 12 đường kinh lạc và ứng với 12 giờ vượng của tạng phủ.
365
ngày ứng với 365 huyệt đạo chính.
Ngũ
hành ứng với 5 tạng.
Lục
khí ứng với 6 phủ.
Đông
y sử dụng các mục trên làm công cụ hữu hiệu để chữa bệnh.
·
Hệ
thống kinh lạc là gì
Đó
là nơi để tuần hoàn khí huyết nuôi cơ thể. Nó cũng là cửa ngõ để các loại tà
khí xâm nhập vào tạng phủ, từ đó gây bệnh.
Ví
dụ:
Mùa
đông lạnh, mặc không đủ ấm ra ngoài đường, cơ thể gặp lạnh, tà khí là hàn khí
xâm nhập vào thận thủy, gây chân tay lạnh run, mà thận sợ lạnh. Gió thông qua
da, rồi thông qua hệ thống kinh lạc xâm nhập vào thận, thận thuộc hàn nhưng lại
ghét lạnh.
2.1. Giờ vượng của tạng phủ
Giờ vượng
|
Bộ vị của tạng phủ
|
23h-1h
|
Mật
|
1h-3h
|
Gan
|
3h-5h
|
Phế
|
5h-7h
|
Đại tràng
|
7h-9h
|
Dạ dày (vị)
|
9h-11h
|
Tỳ
|
11h-13h
|
Tâm
|
13h-15h
|
Ruột non
|
15h-17h
|
Bàng quang
|
17h-19h
|
Thận
|
19h-21h
|
Tâm bào
|
21h-23h
|
Tam tiêu
|
Ví dụ: một người cứ tới 5h-7h chiều là
mệt mỏi, không muốn làm gì, chán đời muốn tự tử. Tây y không chữa được, vì
không phát hiện ra, chỉ cho thuốc ngủ. Đối với Đông y, truy tìm nguyên nhân,
tâm là chủ về thần minh, nhưng stress do thần kinh bị thiếu khí, xáo trộn nên
thận là gốc của vấn đề.
Câu hỏi của mọi người khi chữa bệnh: Bao giờ sẽ khỏi bệnh?
Trả lời: phải dựa vào cái máy đo huyết
áp. Muốn nhanh hay chậm đều do mình. Cứ tập luyện rồi đo, khi nào huyết áp đúng
giới hạn chuẩn thì khỏi bệnh. Còn giải pháp điều trị thì phụ thuộc:
-
Thầy
thuốc
-
Người
bệnh: có làm theo đúng hướng dẫn không? Nếu làm đúng mà chưa khỏi, có thể do đo
huyết áp chưa chuẩn hoặc giải pháp thầy thuốc chưa đúng.
2.2. Ngũ hành với ngũ tạng
Ngũ tạng
|
Phế
|
Thận
|
Can
|
Tâm
|
Tỳ
|
Ngũ hành
|
Kim
|
Thủy
|
Mộc
|
Hỏa
|
Thổ
|
Màu sắc
|
Trắng, bạc
|
Đen, xanh đen
|
Xanh lá cây
|
Đỏ, cam
|
Nâu, vàng
|
Hình dạng
|
tròn
|
Lượn sóng
|
Hình chữ nhật
|
Nhọn
|
Hình vuông
|
Mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ thông qua ngũ hành nên có tương sinh tương khắc,
tương thừa tương vũ, vận dụng để chữa ngũ tạng.
Tương sinh
|
Tương khắc
|
mộc sinh hỏa,
hỏa sinh thổ,
thổ sinh kim,
kim sinh thủy,
thủy sinh mộc
|
kim khắc mộc,
mộc khắc thổ,
thổ khắc thủy,
thủy khắc hỏa,
hỏa khắc kim
|
Chế
hóa
|
Tương
thừa, tương vũ (khi có bất cập hoặc thái quá)
|
mộc khắc thổ,
thổ sinh kim, kim khắc mộc.
hỏa khắc kim,
kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
thổ khắc
thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
kim khắc mộc,
mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
thủy khắc
hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
|
Mộc bất cập thì không những nó bị kim khắc hại một cách
khác thường (tương thừa) lại còn bị thổ khinh lờn (lúc thường thì mộc khắc thổ)
(tương vũ).
Mộc thái quá thì kim sẽ không khắc chế nổi theo trạng thái bình thường, khi ấy mộc sẽ khắc thổ một cách khác thường
(tương thừa)
Các
hành khác lý luận tương tự
|
Ví
dụ: bạn bị phù chân. Phù thuộc thận (thuộc thủy). Thủy dư. Dùng mẹ thực tả con:
mẹ là thận, con là can.
Tương
sinh: kim sinh thủy, phế sinh thận => là bổ phế => phải tìm cách bổ phế
khí.
Tương
khắc: Kim khắc mộc, phế khắc can => chữa can (gan).
Tạng
|
Can
|
Tâm
|
Tỳ
|
Phế
|
Thận
thủy
|
Thận hỏa
|
Phủ
|
Mật
|
Tiểu trường
|
Vị
|
Đại tràng
|
Bàng quang
|
Tam tiêu
|
Ngũ hành
|
Mộc
|
Hỏa
|
Thổ
|
Kim
|
Thủy
|
|
Lục khí
|
Phong
|
Thử
|
Thấp
|
Táo
|
Hàn
|
Hỏa
|
Khiếu
|
Mắt
|
Lưỡi
|
Môi
|
Mũi
|
Tiểu tiện, tai, hậu môn
|
Sinh dục, vú
|
Vị
|
Chua
|
Đắng
|
Ngọt
|
Cay
|
Mặn
|
Mặn
|
2.3. Lục khí ứng với lục phủ
Lục phủ
|
Mật
|
Tiểu trường
|
Vị
|
Đại trường
|
Bàng quang
|
Tam tiêu
|
Lục khí
|
phong
|
Thử
|
Thấp
|
táo
|
hàn
|
Hỏa
|
3. Tổng luận
3.1. Tổng luận 1
-
Tạng:
can, tâm, tỳ, phế, thận thủy, thận hỏa
-
Phủ:
mật, tiểu trường, vị, đại trường, bàng quang, tam tiêu
-
Ngũ
hành: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy
-
Lục
khí: phong, thử, thấp, táo, hàn, hỏa
-
Khiếu
(cái lỗ): mắt, lưỡi, môi, miệng, mũi, lỗ tai, lỗ hậu môn, lỗ tiểu, vú, bộ phận
sinh dục
-
Vị:
chua, đắng, ngọt, cay, mặn, mặn
·
Bị đắng mồm: Đắng thuộc về tâm, chữa tâm.
Đắng
qui về tâm. Uống mát gan thì vị đắng đi vào tâm. Gan là mẹ của tâm. Nếu uống nhiều
khi con tâm hàn quá thì mẹ can bị tổn thương.
·
Mắt bị ngứa: mắt thuộc can, chữa can.
·
U vú: kết hợp thận hỏa để chữa.
·
Uống
thuốc về thận: bổ thận. Uống nước muối loãng thật nhạt thì sẽ dẫn thuốc vào thận.
Thận hư đừng uống nước đá, vì nước đá hàn.
·
Huyết áp cao là bị dương quá, dùng chanh chua có
tính âm.
·
Trẻ sốt: dùng chanh + glucose + orezol
·
Ăn chay: mặt sẽ xanh, chân tay tê. Vì ăn nhiều
thức ăn thuộc tính hàn.
·
Xoang mũi: do thận hư. Chữa thận.
·
Bệnh
Parkinson (run tay chân): gan chủ
gân cơ. Chữa gan. (chứng huyết áp thấp cũng khiến người ta run rẩy tay chân, dễ
bị nhầm với bệnh này)
·
Barodo (Bướu cổ): thường ở cổ, chỗ tuyến giáp. Tuyến
giáp liên quan đến nội tiết. Nội tiết do thận sinh ra. Do đó phải chữa thận.
·
Say xe: là do huyết áp thấp, thiếu khí. Chữa
thiếu khí là chữa dễ nhất, chỉ cần tập luyện kéo nạp khí hoặc uống nước gừng
cũng kéo khí lên được. Tập luyện để tăng huyết áp lên sẽ hết say xe.
·
Uống
nước miếng nhỏ mà vẫn hay bị nghẹn: là do có vật cản ở cổ. Dùng tay sờ cổ xem
có dị vật (u, hạt, nhân, đàm… hay trọc khí) không.
·
Viêm họng: viêm là thực nhiệt, họng do phế chủ.
Vậy phế thực nhiệt. Nếu có ho khan, sốt, hạch, thì chữa bằng bài Bách Hợp Bổ
Kim Hoàn và hơ họng, dùng bổ thận thủy TW3. Nếu ho có đờm, dùng bài Nhị Trần
Hoàn.
·
Quai bị: hơ vào đúng chỗ có quai bị.
·
Gan hư thì kiêng ăn quá chua. Kiêng ăn chua
nhưng lại sử dụng thuốc có vị chua để chữa cho gan: ngũ vị tử (vị hơi chua làm ấm
gan). Không sử dụng chanh chua vì chanh có tính hàn.
·
Tại sao bưởi chua có người ăn rất
ngon, có người không ăn được?
Người
thiếu chua ăn sẽ ngon. Ăn chua tác động vào lưỡi, lưỡi thuộc tâm. Bưởi mang
tính âm. Tâm mang tính nóng, khai khiếu ra lưỡi cũng nóng, cũng dương, khi gặp
âm thì dễ chịu, thấy ngon.
Người
không ăn được bưởi chua vì tâm hỏa vượng vừa thôi, nên ăn không chịu được.
·
Tâm hỏa vượng thì thích ăn bưởi, vậy cứ
ăn tiếp mãi có được không?
Chua
đi vào gan thì lại hại gan. Gan là kho chứa máu, thế nên hại máu, mất máu. Gan
mất máu, không đủ cung cấp máu cho tâm, lại bị thừa khí, làm cho lưỡi lại nóng,
hỏa vượng lại khiến ta thèm chua. Sở thích đánh lừa chúng ta, do tâm hỏa vượng
tăng lên. Nên dựa vào bảng để phân tích sở thích, rồi xem mình ăn đúng hay sai.
·
Bệnh
nhân có u hay huyết áp thấp thích ăn
chua. Mà thực ra u phải kiêng ăn chua do đang bị thiếu máu, tắc mạch. Nên
dùng ngũ vị tử, cũng có vị chua, nhưng lại có tính ấm, làm ấm kinh can.
·
Tăng sức đề kháng cho trẻ con: khi em bé ngủ, dùng máy sấy sấy phần
thắt lưng, đồng thời định kì bổ sung canxi hữu cơ. Bồi bổ cho trẻ con rất dễ,
vì cơ thể chúng rất nhỏ, nên cần lượng vô cùng ít các chất.
3.2. Tổng luận 2
Lục
phủ ngũ tạng vận hành sinh ra Khí Huyết. Khí Huyết vận chuyển đi nuôi cơ thể.
Thiếu
khí huyết thì phải chữa vào lục phủ ngũ tạng. Cái này phản bác quan điểm Tây y
cho rằng “đau đâu chữa đó”.
·
Tinh
được giữ ở ngũ tạng, nhưng được trữ ở thận.
Giữ
là tạm thời, dùng ngay để vận hành nuôi cơ thể.
Trữ
là lâu dài, giống như kho, để khi cần mang ra dùng.
Nếu
thiếu tinh thì phải bổ thận.
3.3. Tổng luận 3
Tinh
trữ ở thận. Đầy đủ thì xung vào ống tủy xương thành tủy. Đầy nữa dồn lên hộp sọ
thành não.
Chữa
các bệnh về xương, chữa mất trí nhớ, rối loạn trí nhớ, bệnh về thần kinh: chữa ở
thận.
3.4. Tổng luận 4
Mối
quan hệ giữa các tạng phủ trong cơ thể:
Tạng
phủ sinh khí huyết nuôi cơ thể. Con đường đi bằng các ống dẫn máu, gọi là hệ thống
tam tiêu, nhiều sách gọi là hệ thống kinh lạc.
BẢNG QUY NẠP
TÓM TẮT THUỘC TÍNH NGŨ HÀNH
Ở TỰ NHIÊN GIỚI
|
|||||||
5 vị
|
5 sắc
|
Thời gian
|
Quá trình phát triển
|
5 mùa
|
5 khí
|
Phương
|
Ngũ hành
|
Chua
|
Xanh
|
Sáng sớm
|
Sinh
|
Xuân
|
Phong
|
Đông
|
Mộc
|
Đắng
|
Đỏ
|
Giữa trưa
|
Trưởng
|
Hạ
|
Thử
|
Nam
|
Hỏa
|
Ngọt
|
Vàng
|
Xế chiều
|
Hóa
|
Trưởng hạ
|
Thấp
|
Trung ương
|
Thổ
|
Cay
|
Trắng
|
Sẩm tối
|
Thu
|
Thu
|
Táo
|
Tây
|
Kim
|
Mặn
|
Đen
|
Nửa đêm
|
Tàng
|
Đông
|
Hàn
|
Bắc
|
Thủy
|
Ở THÂN THỂ
|
||||||||
5 tạng
|
5 phủ
|
5 thế
|
Ngũ giác
|
Ngũ chí
|
Ngũ thanh
|
5 biến động
|
Ngũ dịch
|
Ngũ hành
|
Can
|
Đởm
|
Gân
|
Mắt
|
Giận dỗi
|
Tiếng hét
|
Co quắp
|
Nước mắt
|
Mộc
|
Tâm
|
Tiểu trường
|
Mạch
|
Lưỡi
|
Vui mừng
|
Tiếng cười
|
Nôn
|
Mồ hôi
|
Hỏa
|
Tỳ
|
Vị
|
Thịt
|
Miệng
|
Lo nghĩ
|
Tiếng hát
|
Ọe
|
Nước dãi
|
Thổ
|
Phế
|
Đại trường
|
Lông da
|
Mũi
|
Buồn rầu
|
Tiếng khóc
|
Ho
|
Nước mũi
|
Kim
|
Thận
|
Bàng quang
|
Xương xẩu
|
Tai
|
Sợ hãi
|
Tiếng rên
|
Buồn
|
Nước bọt
|
Thủy
|
·
Bên
lề
·
Thanh lọc cơ thể, thải độc nhờ bấm huyệt
Thái Khê
-
Huyệt
Thái Khê nằm ở gót chân, ngay sau mắt cá chân.
-
Bấm
huyệt này sẽ tác động tới gan, giúp gan tăng cường thải độc, giúp thanh lọc độc
tố trong cơ thể.
-
Bình
thường mọi người nên bấm huyệt này ngày 2 lần: sáng và tối. Mỗi lần khoảng 5
phút. Nếu bận rộn, có thể tận dụng lúc đang ngồi, đi tàu xe máy bay để bấm.
·
Khí công
-
Trong
việc chăm bón cây, người ta chỉ chăm bón gốc rễ là chính. Cây héo, tưới nước
vào gốc rễ.
-
Nguyên
tắc của khí công cũng tương tự: hai chân ta chính là rễ cây, nơi giữ gìn sức mạnh
của cơ thể; bụng ngực là thân cây; hai tay là nhánh cây; đầu là hoa quả; gốc
cây là phần bụng từ rốn trở xuống tới đáy (gồm cả hậu môn và cơ quan sinh dục).
Phần gốc này cực kỳ quan trọng, người luyện khí công sẽ thường xuyên tưới nước
bón phân cho khu vực gốc cây này bằng hơi thở và sự để ý nhẹ nhàng. Tuyệt đối
không dùng sức, không dẫn động, không co thắt, không gồng, không kéo, không đẩy…
-
Khí
công tập trung bồi bổ phần gốc trước. Tự nhiên chân khí sẽ chuyển lên khai mở
và nuôi dưỡng toàn bộ huyệt mạch, làm
cho não bộ phát triển kéo theo sự phát triển tâm linh Thiền định dễ dàng.
-
Chú
ý ba vị trí cực kì quan trọng:
o
Huyệt đan điền: một điểm nhỏ dưới rốn khoảng 4
cm.
o
Huyệt
hội âm: một điểm nhỏ nằm giữa bộ phận sinh dục và hậu môn.
o
Ba đốt
xương sống dưới cùng, gọi là Long Vỉ Quan.
Ba vị trí này nối thành một cung tròn
không khép kín, cũng không đối xứng, vì huyệt đan điền nằm ở vị trí cao hơn
Long vỉ quan. Cung tròn này gọi là Khiêm quan.
§ Huyệt đan điền tuy nằm ở dưới bụng,
nhưng lại chịu trách nhiệm với thùy trán trên não. Khi đan điền được sung mãn
thì thùy trán khai mở khiến hành giả đạt được Chánh niệm Tỉnh giác, tâm trở nên
rỗng sáng, không bị xao lãng theo vọng tưởng.
§ Huyệt hội âm tuy nằm ở dưới đáy nhưng lại
chịu trách nhiệm với đỉnh đầu. Khi hội âm sung mãn thì đỉnh đầu khai mở khiến
hành giả trở nên có trí tuệ sắc bén, dễ nhìn ra lỗi lầm sâu kín của mình, lâu ngày
tạo nên trực giác.
§ Long vỉ quan chịu trách nhiệm vùng não rộng
lớn phía sau. Khi long vỉ quan sung mãn thì vùng não phía sau khai mở khiến cho
hành giả vào sâu trong định dễ dàng.
Khi toàn bộ Khiêm quan sung mãn thì tạng
phủ dần dần được chỉnh sửa, cải thiện, bồi bổ, sức đề kháng được nâng cao, chức
năng của gan thận tim phổi đều được tăng cường. Đặc biệt hai chân rắn chắc trước,
từ từ hai tay sẽ mạnh theo.
Bảng
Ngũ Hành cực kỳ quan trọng trong Đông y, mọi người phải học thuộc, mới biết trị
bệnh.
4. Ứng dụng của thuyết Âm Dương – Ngũ Hành trong khám, định, và chữa bệnh
Trong Đông y quan niệm, cái gốc đẻ ra
rất nhiều chứng. Vì vậy, khi chẩn bệnh, phải qui nạp các triệu chứng và nguyên
nhân để tìm ra cái gốc, rồi chữa gốc.
Trong Đông y nếu giỏi về thận có thể chẩn đoán và sửa trị được rất nhiều bệnh.
4.1. Khám bệnh
Có hai phương pháp để khám bệnh trong Đông y:
-
Dùng máy đo huyết áp (chi tiết
trong bài sau)
-
Dùng tứ chẩn:
o Hỏi
o Nhìn
o Nghe
o Sờ
4.1.1. Khám bệnh bằng cách HỎI
Phải
hỏi được người bệnh những vấn đề căn bản:
-
Ăn có ngon không?
-
Phân thế nào?
-
Tiểu thế nào?
-
Kinh nguyệt thế nào?
-
Ngủ thế nào?
4.1.1.1. HỎI về ĂN
Ăn có ngon không?
Tức
là hỏi về TỲ, VỊ.
Nếu
câu trả lời là Có thì tốt.
Nếu
Không ăn ngon, tức TỲ, VỊ bị hư nhược. Phải chữa bằng cách bồi bổ TỲ, VỊ. Nhìn
bảng Ngũ Hành để biết cách chọn loại dược.
4.1.1.2. HỎI về PHÂN
·
Hình
dạng phân thế nào?
-
Khuôn, nhuận hay cứng? Nếu cứng
thì không tốt.
-
To hay nhỏ? Nếu nhỏ thì
không tốt. Nếu phân đi nhỏ đều, mềm, khó đi, như phân trẻ con vài tuổi, có
nghĩa là khí bị hư. Nên chữa bằng bổ khí.
-
Dài hay ngắn? Nếu ngắn thì
không tốt.
-
Đặc hay lỏng? Nếu lỏng thì
không tốt. Phân lỏng nghĩa là thận tỳ dương hư. Có thể chữa bằng cách dùng máy
sấy để sấy lưng.
-
Nếu đi táo như viên bi: rất
nguy hiểm. Có thể đã đang hoặc chớm bị ung thư. Chữa ngay lập tức bằng liều gấp
2,3 lần so với đi phân lỏng, ngắn. Chữa để cho nhuận vào. Dùng lục vị hay thực
địa (rất bổ âm mạch).
Đi
đại tiện có kèm theo đánh hơi. Hơi này là trọc khí (các khí xấu, khí độc). Khi
đánh hơi bằng cách này có nghĩa là trọc khí đi xuống, thuận chiều, là tốt.
Nhưng
nếu ai ợ hơi, có nghĩa là trọc khí
đi ngược lên trên thoát ra ngoài qua đường miệng, ngược chiều, là xấu. Người
này miệng rất hôi.
Chữa chứng hôi miệng
bằng liều sau: bán hạt, trần bì, hộ pháp, cam thảo=> bốn vị này đem đun ra uống.
Nhưng như thế chỉ chữa được chứng, chưa phải chữa gốc. Muốn chữa gốc, nên dùng
Thủy. Chẳng hạn như lục vị rất bổ âm, chữa thừa nhiệt.
Người
huyết áp thấp không được chữa cho người huyết áp thấp hoặc bị ung thư, vì nếu
chữa lâu ngày mà không có biện pháp nạp điện trở lại kịp thời, sau 2-3 năm sẽ bị
lây trọc khí từ người bị bệnh kia mà mắc ung thư (nguyên tắc bình thông nhau).
Cách
truyền điện từ người này sang người khác gọi là nhân điện. Nếu truyền mất điện
nhiều quá phải nạp điện trở lại nhanh chóng. Vì khi đó cơ thể mình có hai loại
trọc khí: trọc khí của mình và trọc khí của người kia; sẽ gây nguy hiểm cho cơ
thể. Có hai kiểu nạp điện: xả trượt và xả thiền.
·
Màu
sắc phân ra sao?
-
Vàng: tốt
-
Xanh vàng: sự hấp thụ thức
ăn bắt đầu giảm dần.
-
Nâu: sự hấp thụ thức ăn giảm
nhiều hơn
-
Xanh xanh: sự hấp thụ thức
ăn kém.
-
Xanh đen: nguồn nước vào có
độc. Do đó phải thanh lọc cơ thể bằng lá phan tả diệp. Không nên để phân đen
trong một thời gian dài. Uống lá phan tả diệp phải uống với nhiều nước. Có bầu
thì không được dùng phan tả diệp. Người mẹ sau khi sinh nên sấy hoặc hơ cột sống
để khỏe mạnh.
-
Đen: giống trên. Lúc này độc
tố quá nhiều. Bạn nên nhớ rằng, phân chỉ phản ánh một phần trạng thái. Nếu
trong cơ thể ít độc, phân có khi không thể hiện điều đó. Nếu cơ thể nhiều độc,
phân có khi chỉ hơi đen. Khi độc tố trong cơ thể cực nhiều, phân mới chuyển màu
đen. Nguy cơ mắc ung thư cao. Nên cấp bách thải độc ngay cho cơ thể.
-
Trắng như nước gạo: trắng
này không phải phân, mà là niêm mạc ruột non bị thải ra. Người bị thế này, ruột
non mất chức năng tiêu hóa thức ăn, nên không thể hấp thụ được gì. Do đó đang bị
suy dinh dưỡng nặng.
Nếu
trẻ con mà bị thế này, phải chú ý đặc biệt, vì đang nhiễm virut Rota. Chữa virut Rota bằng cách dùng búp ổi non. Trai thì
dùng 7 búp, gái dùng 9 búp. Búp ổi non rửa sạch rồi sao khô vàng (dương), sau
đó hạ thổ 5 phút (tức đặt xuống đất để nạp âm), sau đó đun nước cho uống. Dùng
liên tục trong 7 ngày.
Đi
ngoài cũng chữa tương tự.
-
Đỏ: nếu phân đỏ có nghĩa là
máu. Khi đó có thể có hai khả năng: trĩ hoặc ung thư. Nói chung nếu người khỏe
mạnh bị thế này thường xuyên thì là dấu hiệu báo tiền ung thư. Đông y quan điểm
ung thư là khí huyết đi nghịch chiều. Phòng bằng cách giữ đại tràng thật sạch.
Tức phải lọc độc định kỳ hàng tháng để xả trượt.
Một
cách để giúp lọc độc tố trong thận: bấm huyệt Thái Khê. Nếu bấm vào huyệt này
mà buốt, có nghĩa là thận hư. Bình thường chúng ta nên bấm huyệt này ngày 2 lần
sáng và tối, mỗi lần 5 phút để giải độc.
Với bệnh trĩ, Đông y khuyên
không nên cắt. Trĩ phải chữa vào tỳ. Do đó phải dùng
thuốc bổ tỳ khí.
Trĩ
mà rong máu, có thể là rong kinh hoặc băng huyết. Nếu băng huyết, phải cấp cứu
kịp thời, nếu không sẽ mất mạng. Trường hợp này nên bấm huyệt 7 và 37.
·
Mùi
phân thế nào?
-
Bình thường: tốt
-
Chua: rối loạn tiêu hóa. Lúc
này thường là phân lỏng. Chữa bằng bổ tỳ.
-
Tanh: do không hấp thụ được
thức ăn. Do tỳ hư. Chữa bằng bổ tỳ.
-
Khẳm, hôi: cơ thể nhiễm độc
quá nặng, hoặc trị xạ hay nhiễm hóa chất, hoặc mắc bệnh nan y. Lúc này phải thải
độc ngay, nhưng không được dùng quá liều, nếu không sẽ càng chóng chết.
Giờ
đại tràng hoạt động tốt là từ 5-7h sáng. Do đó nếu đại tiện vào thời gian này
là tốt nhất, nếu không sẽ tích bệnh.
Ngày
nay chúng ta đều dùng bồn cầu để đi vệ sinh, tức chúng ta đại tiện ngang, đây
là cách đi đại tiện không đúng cách.
Cơ thể gập một góc 90 độ với thành ruột, sẽ chèn ép đường đi xuống của phân. Do
đó chất cặn bã sẽ không ra hết được, tích lại trong đại tràng, lâu dần thành bệnh
(táo bón, viêm đại tràng hay u, ung thư ruột). Nếu ngồi một góc 35 độ là hợp lý
nhất, giống như động vật hay tự nhiên vốn tạo ra bản năng cho ta làm như vậy.
Nhưng vì bồn cầu không thể thay đổi, nên giải pháp khắc phục là, mỗi lần đi đại
tiện, bạn hãy đặt dưới chân một cái ghế (không cần phải ghế quá cao) để làm góc
nghiêng với đường ruột về gần vị trí tự nhiên, bạn sẽ thấy ngay sự khác biệt.
·
Số
lần và số lượng đi đại tiện trong ngày
Tùy
thuộc vào việc ta có đang cố ý tác động vào không. Còn bình thường, nếu đi
-
1 lần trong ngày: là tốt.
-
Nhiều lần trong ngày: xem lại
có ăn thức ăn lạnh hay nhiễm nấm (ôi, thiu) không. Nếu xảy ra lâu ngày sẽ bị
suy thận.
-
Nếu vài ngày mới đi một lần:
bị táo bón.
Bệnh Táo bón
Người bệnh táo bón
khi đi đại tiện có các triệu chứng sau:
o Khó
đi
o Phân
rắn (cứng)
o Khô,
nóng
o Đi
ít về cả số lượng lẫn số lượt: phân ít và ở dạng bi/khuôn to, dài, rắn có
gai/khuôn ngắn, từ 2-3 ngày mới đi một lượt. Đôi khi cũng đi nhiều lần trong
ngày.
Tây y cho rằng do thiếu
nước, khoáng chất và chất xơ, nên yêu cầu phải uống nhiều nước, ăn rau xanh và
hoa quả.
Đông y cho là do khí
hư. Táo bón nguy hiểm hơn đi phân mềm vì có khả năng dẫn đến trĩ. Xảy ra thường
xuyên sẽ dẫn tới tỳ hư, dễ bị trĩ ngoại. Chữa bằng cách dùng thủy (nước, lục vị…).
4.1.1.3. HỎI về TIỂU
·
Màu
sắc nước tiểu thế nào?
-
Vàng nhạt: tốt.
-
Vàng sậm: thận nhiệt. Chữa bằng
dùng thủy.
-
Trong: thận không hoạt động.
Lâu ngày nhất định sẽ phải chạy thận. Nếu mới bị, phải nạp khí ngay. Chữa bằng
dùng khí và tập luyện chân.
-
Trắng đục: trong cơ thể có
nhiều thấp nhiệt. Người này sẽ hay bị đau nhức xương khớp, lâu dần dẫn tới hoa
mắt, chóng mặt, đau đầu, viêm nhiễm nhiều chỗ như hạ tiêu, phụ khoa… rồi dẫn tới
ung thư. Chữa bằng cách:
o Dùng
ngải cứu sấy khô
o Xông
ở hạ tiêu
o Dùng
quế chi phục linh tán
-
Đỏ: có thể là do thận nhiệt
hoặc tiền ung thư. Nếu là thận nhiệt thì bổ cứu bằng thủy.
·
Số
lần đi tiểu trong ngày
Đi
tiểu bình thường phụ thuộc lượng nước đi vào cơ thể và việc bộ máy trong cơ thể
có vận hành tốt hay không. Trên các sách báo thường khuyên mỗi người nên uống 2
lít nước mỗi ngày. Đây là lời khuyên nguy hiểm, vì nó phải dựa trên nhu cầu và
cơ địa, bệnh trạng mỗi người. Chỉ cần uống khi bạn cảm thấy khát hay khô miệng
là được.
Trong trạng thái bình
thường, cơ thể khỏe mạnh, hoạt động tốt thì nếu bạn uống vào 1,5-2 lít nước/ngày
sẽ đi tiểu 4-6 lần/ngày. Nếu uống nước nhiều hơn sẽ đi tiểu nhiều hơn, hoặc uống
ít hơn sẽ đi ít hơn là bình thường.
-
Bình thường: 4-6 lần/ngày
-
Ít: tức uống nước nhiều
nhưng ít đi tiểu, hoặc lượng tiểu ít, khi đó âm hư nặng. Cần uống thêm nước.
-
Nhiều: trên 10 lần liên tục
(nhưng không phải do bia rượu hay uống quá nhiều nước tại một thời điểm). Khi
đó khí bị hư. Chữa bằng cách bồi bổ thận khí.
-
Tiểu đi bị mắc (tắc) liên tục:
trong người có u. Nên dùng trinh nữ hoàng cung và bồi bổ thận khí.
·
Có
đi tiểu đêm không?
Đêm thuộc về âm. Âm
thịnh dương sẽ suy.
Tiểu đêm là âm hư,
dương lấn. Lúc này thận hư cả âm lẫn dương (âm dương lưỡng hư).
Chữa bằng cách: làm tiêu
bên thận dương nhiều hơn bên thận âm (dùng bài thuốc Thận Dương)
·
Đi
tiểu có bị buốt không?
Nếu tiểu mà buốt là bị
viêm và thận nhiệt. Thận nhiệt sinh thấp nhiệt. Chữa bằng quế chi phục linh tán
và bổ thủy.
Quế chi phục linh tán
thường hay dùng chữa viêm, xưng (như viêm phụ khoa), nhưng không dùng một mình.
4.1.1.4. HỎI về KINH NGUYỆT
·
Chu
kì kinh nguyệt và lượng thế nào?
-
Bình thường chu kì kinh nguyệt
là 28-30 ngày, mỗi lần kéo dài 5-7 ngày.
-
Nếu ít hơn trên: đang bị thiếu
máu. Phải bổ âm, bổ huyết. Chữa bằng dùng thủy và cung cấp qua nước, thức ăn.
-
Nếu tắc hẳn: rối loạn nội tiết
tố và thiếu máu trầm trọng. Nếu không chữa sớm có thể bị đa nang buồng trứng.
Sau này sinh ra vô số bệnh khác như u, tắc vòi trứng, ung thư buồng trứng, chửa
ngoài dạ con…
-
Nếu nhiều hơn bình thường:
có khả năng bị rong huyết. (xem trường hợp rong huyết ở dưới)
·
Màu
sắc kinh nguyệt thế nào?
-
Đỏ tươi: tốt.
-
Đỏ sậm: thiếu oxy. Nên tập
các bài tập hít thở.
-
Đen (khô): thiếu máu trầm trọng.
Để lâu dài sẽ sinh u ở 3 nơi: tử cung, ngực, tuyến giáp. Khi đã có u ở một
trong ba nơi này, dù có cắt đi thì u lại mọc tiếp ở hai nơi còn lại.
·
Có
bị đau bụng kinh không?
Nếu bị đau bụng kinh
nghĩa là trong cơ thể huyết bị tắc ứ. Kinh sẽ ra cục màu đỏ sậm hoặc đen.
Chữa bằng cách kéo nạp
khí. Chẳng hạn giã hạt tiêu hoặc quế (chứa rất nhiều vitamin K) ra uống.
·
Có
bị rong huyết không?
Nếu bị rong huyết,
nghĩa là tỳ nhiệt. Tỳ thuộc thổ. Nên chữa bằng cách hạ nhiệt tỳ (bổ phế âm) và
dùng thủy (để phá thổ).
4.1.1.5. HỎI về NGỦ
Ngủ có ngon không?
Thế
nào là ngủ ngon?
Ngủ ngon là nằm một
lúc (không quá 30 phút) là ngủ ngay, không ngáy, dậy không bị mệt, tinh thần
minh mẫn.
Nếu ngủ không ngon,
có thể rơi vào những trường hợp sau:
-
Khó ngủ nhẹ: từ 30 phút – 1
tiếng mới ngủ được
-
Khó ngủ nặng: mãi mà không
ngủ được. Nguyên nhân có thể do:
o Ngoại
cảnh: tự cứu trị. Tinh thần luôn là yếu tố quan trọng nhất, phải luôn giữ cho
tinh thần thật tích cực, không bị yếu tố ngoại cảnh chi phối tiêu cực.
o Thiếu
máu: phải bổ máu
o Gan
hư: nếu không chữa sớm sẽ bị chai gan, ung thư gan.
-
Không sâu, hay mơ màng
o Nếu
mơ ít: bình thường, do hơi căng thẳng, hoặc thiếu máu nhẹ.
o Nếu
mê man: gan và tâm hư, huyết ứ, thiếu oxy.
o Nếu
chân đập thình thịch, dựng chân vung tay, bóng đè: thiếu máu trầm trọng toàn
thân. Lâu ngày cơ tim sẽ thiếu máu và dẫn tới ung thư máu.
-
Nếu ngủ nhiều, mê mệt khi tỉnh
dậy: do đàm thấp nhiều làm bít hết tim mạch. Để chữa có thể dùng 2 bài: Nhị Trần
Hoàn (chữa phế) hoặc Bình vị tán (chữa dạ dày).
4.1.1.6. HỎI về các CHỨNG đang gặp
CHỨNG ở đây là triệu chứng. Chủ yếu hỏi
bệnh nhân về các triệu chứng đau, nằm ở bộ vị nào. Các chứng đau đều do khí và
huyết, khí hoặc huyết không thông gây ra.
Khi lên phương án chữa, nhớ rằng trong
âm có dương, trong dương có âm. Đừng bao giờ chỉ chữa một chiều.
Chữa/kiểm tra bằng huyệt thì không được
ấn mạnh, mạnh có thể khiến bệnh nhân ngất. Thuốc không phải thần dược, huyệt mới là thần dược. Huyệt là nội dược.
Thuốc là ngoại dược. Bấm huyệt có tác động
tức thì, hiệu quả thấy ngay. Dùng thuốc phải sau một thời gian nhất định mới
có tác động, hiệu quả hay không còn tùy cơ địa, môi trường, tay nghề thầy thuốc. Một huyệt có thể chữa được nhiều chứng, vì đó
là sự phản chiếu đa hệ trên mặt (nghiên cứu thêm phần diện chẩn).
a. Đau
lưng
Khi chạm đến lưng có nghĩa là chạm tới
gốc của vấn đề, lúc chữa trị phải cứu gốc.
Hỏi chi tiết đau ở vị trí nào của
lưng:
-
Đau
thắt lưng: thuộc về thận âm.
-
Đau
chính giữa thắt lưng, chỗ cạp quần: thuộc thận khí. Thận khí thuộc thủy. Kim
sinh thủy. Kim là phế. Nên phải chữa phế.
b. Đau
đầu
-
Đau
nửa đầu:
o
Nửa
đầu trái: thiếu máu cơ tim từ rất lâu năm mà không biết. Thoạt tiên giảm đau bằng
cách ấn đầu vai bên trái, chỗ vị trí cao nhất, day một lúc.
o
Nửa
đầu phải: thiếu máu toàn thân trầm trọng. Giảm đau nhanh bằng cách ấn điểm cao
nhất ở đầu vai bên phải, day một lúc.
-
Đau
đỉnh đầu: do thiếu oxy lên não. Giảm đau bằng cách lấy tay ấn thẳng vào đỉnh đầu
(thóp). Sờ thóp nếu thấy phồng lên và cứng thì ngày ngày phải xoa nhẹ thóp thường
xuyên cho xẹp xuống. Thóp luôn phải mềm, hơi trũng xuống một chút. Có thể
massage bằng cách dùng tay cào đầu và đúng các huyệt vị để giảm đau hiệu quả
(như spa).
-
Đau
sau gáy: thường kèm theo cảm giác tê. Lúc này toàn bộ cơ thể đã vô cùng suy yếu.
Dùng tay sờ từ dưới gáy lên trên, các ngón tay làm thao tác đẩy lên xuống để
đưa máu lên trên. Ngày ngày làm thao tác như vậy, giảm đau rất hiệu quả.
-
Đau
nhức trán: do hỏa vượng. Giảm đau bằng cách sờ trán, dùng tay vuốt và day các
huyệt trên trán để giảm đau.
-
Hai
bên thái dương đau và giật mạnh: hỏa vượng, máu không lên não được. Dùng tay vuốt
từ giữa trán tới hai bên thái dương. Nếu xảy ra thường xuyên là có bệnh. Phải
dùng máy đo huyết áp, rồi dựa vào huyết áp đo được mới chẩn bệnh tiếp được.
c. Đau
khớp
-
Cổ,
vai, gáy đều mỏi: phải hỏi bệnh nhân xem trước đó có uống nước đá không? Có
dùng bia lạnh không? Có ngồi điều hòa lạnh không? Có xả nước lạnh vào gáy
không? Một nguyên nhân khác là do thoái hóa đốt sống cổ. Tóm lại, đây là do hàn
nhiệt, thiếu canxi và thận hư.
Đôi khi cũng có thể do cực nhiệt sinh
ra khi khí mạnh hơn huyết, làm cột sống khô gây thoái hóa. Chẳng hạn buổi sáng
ta dậy sẽ thấy bị cứng cổ. Trường hợp này chữa bằng cách xoa bóp và bổ âm.
-
Khớp
gối đau:
o
Do
tràn dịch. Dịch ứ tại các khớp. Khí sẽ giúp dịch bị đẩy ra ngoài. Thận khí giúp
khai thông thủy đạo. Do đó có thể dùng máy sấy tóc để sấy chỗ có dịch, làm tăng
tiết dịch tốt, tiêu dịch độc.
o
Do
khớp bị khô. Nên bổ âm và hơ. Nếu không bổ âm thì đừng hơ.
d. Đau
răng
Đau răng, bản thân cái răng đau không
phải chỉ là nó, mà phản ánh một bộ vị khác bị đau. Phải chữa cái bộ vị khai khiếu
ra nó.
-
Hai răng cửa đau buốt: báo hiệu đau tim. Cần lưu ý theo dõi
tim. Có thể dùng bài thuốc Đông y phổ thông để bổ tâm.
-
Răng
sún: do thận hư nên không sinh tủy cho răng được.
-
Đau
hai răng cạnh răng cửa: có vấn đề về gan.
-
Đau răng hàm: thận có vấn đề rất nặng. Răng hàm
bên trái (cả hàm trên cũng như hàm dưới) đau báo hiệu thận trái hư nhược. Răng
hàm bên phải báo hiệu thận phải. Phải bổ thận.
Ghi nhớ, sống chết không được nhổ răng
hàm, vì sẽ giảm thọ.
-
Răng ê buốt: giống như khi ăn chua. Lúc này phải
uống canxi, bổ thận âm. Có thể thêm một chút bổ thận dương.
-
Chảy máu chân răng: một trong những dấu hiệu cảnh báo
ung thư. Lúc này phải xác định vị trí chân răng bị chảy máu. Tỳ nhiếp huyết (cầm
máu). Toàn bộ tỳ bị hư (âm dương lưỡng hư). Thường xuất hiện ở người già hoặc
người có nội tạng hư hại từ lâu mà không biết. Nếu có thêm chỉ số huyết áp, sẽ
xác định được có phải ung thư hay không. Điều trị bằng cả Đông và Tây y kết hợp
cho hiệu quả tốt hơn.
-
Sâu răng:
o
Nếu
ở men ngoài: sâu nhẹ, dùng thuốc tây y hoặc phòng bệnh.
o
Nếu
vào tủy (nặng): nên đi hàn và bổ thận âm.
o
Nếu
bị thủng cả mặt răng: nên bịt răng lại, bổ sung canxi, bổ thận âm và bổ tỳ.
Chú ý bổ thận âm: tùy mức độ nặng nhẹ
của sâu và độ cao hay thấp của sốt đi kèm mà dùng liều lượng thích hợp.
-
Viêm
lợi: tỳ hư. Nên bổ tỳ.
-
Môi
khô ngay cả mùa hè: tỳ âm kém nhuận. Nên bổ tỳ âm.
-
Nhiệt miệng (cùng với chảy máu chân răng): là một
trong những dấu hiệu cảnh báo ung thư. Có thể ủ bệnh tới 20 năm. Nhất là với
người trẻ, lúc khí lực còn sung mãn, che lấp bộ vị bị hư khiến ta không chú ý,
đến lúc phát bệnh thì đi rất nhanh. Nhiệt miệng là do hỏa vượng đốt huyết rất mạnh,
nước bọt (thủy, thuộc âm) sẽ cạn, huyết ứ xuất ra lưỡi.
Phải xác định vị trí nhiệt: đầu lưỡi,
cạnh lưỡi, cuống lưỡi hay toàn bộ lưỡi? Mỗi vị trí sẽ phản ánh bộ phận nào trong
cơ thể đang bị hư nhược, ung thư sau này sẽ từ đó mà ra.
Nếu có triệu chứng sốt về chiều, vã mồ
hôi như tắm là đang ung thư.
e. Đau
mắt
Tinh hoa của ngũ tạng nằm ở con mắt.
Gan khai khiếu ra mắt, nên có đau gì ở mắt,
trước hết vấn đề nằm ở gan.
Trong cấu tạo con mắt, lại chia nhỏ
hơn: lòng trắng chỉ phế, con ngươi chỉ
thận, lòng đen chỉ gan, mí chỉ tỳ, điểm đầu của mắt chỉ tâm. Từ đó mà đoán
bệnh.
-
Mắt đỏ: thường do gan quá nóng làm xuất hiện
đốm đỏ trong mắt. Ngoài ra mắt đỏ có thể vì những nguyên nhân sau:
o
Dị
vật vào mắt: dùng cách chữa mẹo bằng lưỡi. Nếu dị vật vào mắt trái, dùng lưỡi
liếm mép ngoài bên phải. Dị vật vào mắt phải, dùng lưỡi liếm mép ngoài bên
trái. Có thể chữa hiệu quả kiểu đó vì Đông y có nguyên lý Đồng Hình Tương Tụ,
chữa mắt dùng môi (do môi được phản ánh qua mắt, mắt được phản ánh qua môi).
o
Viêm
kết mạc, viêm giác mạc, sốt cao: do vi khuẩn gây ra. Gan nhiệt. Có thể sử dụng
thủ pháp hơ tại chỗ bộ vị phản chiếu để tiêu viêm (hơ bằng máy sấy tóc) và hơ mắt
(hơ bằng ngải cứu). Đồng thời uống thuốc làm mát gan.
o
Do
thiếu ngủ: nên giữ thói quen ngủ đủ giấc.
o
Khóc
o
Uống
rượu bia: cách chữa nhanh nhất
§
Day
huyệt 26, 1, 41
§
Sau
đó dùng đá chườm lên những huyệt này
§
Cho
uống nước chanh pha đường/mật ong/glucose . Sau đó cho đi nằm.
o
Tức
giận: đây là cách hại thân nhất. Không nên để môi trường tác động xấu đến tâm
lý, từ đó ảnh hưởng tới các tạng phủ trong cơ thể. Tức giận nhiều hại gan.
o
Tăng
huyết áp: giống trường hợp say bia rượu. Nhưng sau khi giải cứu nhanh bằng biện
pháp giống say bia rượu, phải tìm gốc bệnh để trị gốc.
o
Do
virut: không hoặc hiếm có thuốc chữa. Chỉ phụ thuộc hệ miễn dịch của cơ thể.
Cách tốt nhất là phải tăng sức đề kháng cho cơ thể, nhất là lúc bị bệnh. Có thể
tăng sức đề kháng (tăng khí huyết tốt) bằng cách: làm mát gan và bổ khí.
Chú ý phân biệt vi rút với vi khuẩn.
Virut nhỏ hơn vi khuẩn nhiều, chỉ là tế bào chưa hoàn thiện, có khả năng lây
lan nhanh chóng, nguy hiểm hơn rất nhiều (vì có thể gây ra biến chứng), không
dùng thuốc hay có dùng thuốc cũng không mấy tác dụng, chỉ phụ thuộc vào sức đề
kháng (hệ miễn dịch) của cơ thể tự chống chọi, sau một thời gian sẽ tự khỏi.
Làm mát có nhiều cách. Nhưng phương
thuốc đơn giản, phổ thông và hiệu quả nhất là sản phẩm Bổ Thận Thủy Trung Ương 3.
Bổ khí ở đây là bổ chính khí (tức khí
cho hệ thống miễn dịch). Có nhiều cách. Đơn giản nhất cũng vẫn là dùng sản phẩm
Bổ Thận Thủy TW3 như trên. Đây là bài thuốc Lục Vị nổi tiếng của Hải Thượng Lãn
Ông, vô cũng dễ thực hiện và hiệu dụng. Ngoài ra nên tập khí công.
-
Mắt
tự nhiên đỏ (tia máu ở lòng trắng): do phế nhiệt. Phải chữa gan và phế.
-
Lòng
đen có xuất hiện đốm trắng, hoặc vành trắng, hoặc ngả đục, hoặc vòng đen bị
khuyết: gan thiếu máu. Khi nào trắng toàn phần thì gan hỏng.
-
Lòng
trắng bị vàng: do gan. Vàng là thổ (tỳ), do đó liên quan đến tỳ. Phế thuộc Kim,
kim khắc mộc.
-
Con
ngươi mắt bị màu trắng: con ngươi thuộc thủy, cùng hành với thận, bàng quang.
Trắng thuộc kim, cùng hành với phế, đại tràng. Kim sinh thủy. Mà kim thực thủy
hư. Thực tả con, phải đồng thời giảm kim nâng thủy, tức cách chữa là: giảm phế,
đại tràng; bổ thận, bàng quang.
·
Tại sao mắt cô giáo luôn đỏ? Mắt là tinh hoa của ngũ tạng. Khi mắt
đỏ là nội tạng có hư tổn. Đối với cô giáo, nhiệt độc trong người rất cao, do
thói quen thức khuya và uống cà phê. Chất kích thích đốt huyết rất mạnh. Mặt cô
có nhiều mụn trắng vì âm hư nặng, nóng từ trong phát ra.
f. Đau
bụng
-
Đau
dưới rốn, bẹn: thấp nhiệt, có ổ dịch hay u cục (bàng quang, dạ con…)
-
Đau
ức: trào ngược dạ dày. Phải ấn huyệt trung quản.
g. Đau
tai
Tai
là khai khiếu của thận.
-
Đau, buốt, nhói, ù tai trái:
thận âm hư, quả thận bên trái hư.
-
Đau tai phải: quả thận bên
phải hư.
Quả
thận: tức gồm cả thận âm và thận dương, cùng thịt, khí huyết.
Cách
chữa: bổ thận âm và tỳ vị. Nếu bị ù thì phải uống ngay. Bổ thận âm phải đi kèm
với bổ tỳ vị.
Cụ
thể với từng chứng đau tai như sau:
-
Ù
tai: là chứng hay bị bỏ qua vì xảy ra thoảng
qua. Thường hay đi kèm với đau buốt ống chân. Kết hợp thêm với chỉ số từ máy đo
huyết áp, sẽ biết được nguyên nhân chính là thận âm hư. Thận âm là nơi chứa khí
và huyết đã cạn, khiến thận nóng lên, gây ra ù tai, hoa mắt, lâu dần có thể
sinh chứng rối loạn tiền đình. Phương pháp trị là bổ thận âm và dùng máy sấy
tóc để sấy vào lưng.
-
Nhức tai: phải bổ thận. Lượng
bao nhiêu phụ thuộc chỉ số huyết áp.
-
Viêm
tai, có mủ ở tai: thường bị lâu ngày. Nên dùng điếu ngải
cứu hơ để tiêu viêm và bổ thận.
-
Điếc tai: liên quan phức tạp
đến hệ thống thần kinh não bộ.
-
Màng nhĩ thủng hoặc chảy mủ:
liên quan đến cơ sở.
·
Hiện
tượng rối loạn tiền đình (ốc tai, người bị có cảm
giác quay cuồng, chân không chạm đất): phụ nữ bị nhiều hơn nam giới, nam giới bị
chủ yếu do uống nhiều rượu. Bệnh này do gan (can), tâm quá nóng. Khí nóng ở thận
chạy lên tâm, can. Phương pháp trị: làm ấm nóng vùng thận âm, tức bổ thận âm hoặc
mua thực địa về đun ra nước uống vì thực địa có tính trệ, nhưng bổ âm mạnh.
4.1.2. Khám bệnh bằng cách SỜ
-
Sờ tay:
o Sờ
lòng bàn tay: nếu nóng bỏng là âm hư nặng, thiếu huyết.
§ Dịch
ở lòng bàn tay (mồ hôi, nước, dịch…): phải dùng ngón tay miết thật mạnh lên các
đường chỉ tay trong lòng bàn tay mới ra dịch. Nếu thấy tiết ra nhiều dịch là rối
loạn thần kinh tim. Phương pháp đơn giản nhất là hơ bằng máy sấy tóc lên lòng
bàn tay để chống thoát dương. Phương pháp khác là bổ sung canxi định kỳ. Hoặc bổ
sung đường gluco.
§ Nhiệt
độ: nếu nóng bỏng là âm hư, phải bổ huyết. Nếu lạnh là dương hư, nguy hiểm hơn
(cái gì lạnh cũng nguy hiểm hơn nóng vì dễ chết, lạnh là dấu hiệu của cái chết)
nhưng dễ chữa hơn trường hợp nóng. Người ta thường bổ khí, tức hơ bằng máy sấy
tóc vào thẳng tay hay chân bị lạnh và tập thở.
o Sờ
mu bàn tay: nếu nóng bỏng là cực kỳ nhiệt.
-
Sờ chân: tương tự như sờ
tay.
-
Sau khi sờ tay và chân, có
thể xảy ra trường hợp:
o Tay
nóng chân lạnh (thượng nhiệt hạ hàn): chết từ dưới chết lên. Do đó, đâu lạnh
thì phải bổ nhiệt, đâu nóng là chỗ đó âm hư, phải xác định bộ vị nào cần bổ âm.
-
Sờ trán (nếu cần): thường so
sánh nhiệt độ giữa trán và cằm. Tùy nhiệt độ nóng lạnh để xác định huyết áp cao
hay thấp.
-
Sờ các bộ vị (như sườn phải,
lưng, … khi người bệnh khai rằng bị đau cụ thể ở đâu đó):
Phải
biết kỹ thuật vuốt để xác định u. Ví dụ: vuốt họng phải vuốt từ sau tai chậm
rãi qua họng rồi xuống dưới cổ, nếu thấy cục là u đã lớn. U nhỏ thường khó xác
định được bằng tay.
Chú
ý phân biệt giữa hạch và u.
o Hạch:
chỉ xuất hiện khi bị viêm, là cách hệ miễn dịch của cơ thể tự sinh ra để bảo vệ
và tăng cường khả năng chống lại tác nhân bên ngoài. Nói chung hạch là tốt.
o U:
xuất hiện khi thiếu máu.
·
Bệnh ngoài da, nếu không lây
nhiễm thì vẫn nên sờ bề mặt da để xác định độ rát.
·
Lang ben (bạch đới – trắng
loang lổ): cô chưa tìm ra nguyên nhân.
·
Ráy
tai bị ướt tự nhiên: do tiên thiên yếu, thận
hư. Dùng phương pháp hơ và chữa thận.
·
Nám
da trên mặt: nám ở chỗ nào là phản ánh bộ vị tương ứng
nào đó có vấn đề. Phải xử lý bên trong (nội tiết tố, chủ yếu là thận) bằng
phương pháp uống hoặc nhiều cách. Còn việc bôi đắp hay hơ chỉ trị bên ngoài.
·
Thần
kinh hoang tưởng: khi bộ não bị kích thích, gan bị sơ tiết
quá nặng, người bệnh không phân biệt được thực ảo, có thể tưởng người khác là
con vật, đồ vật, hay muốn giết mình mà có những hành động tội ác.
Can
tàng hồn. Do đó phải chữa gan, chứ không phải tiêm thuốc thần kinh vào não như
Tây y, càng khiến hoang tưởng nặng hơn hoặc khiến não bị tê liệt dần.
·
Mụn
cóc, mụn thịt: do âm hư. Bổ đủ máu thì mụn cóc sẽ tự
tiêu hết.
·
Bệnh
á sừng: chữa phế (phế chủ lông, mao).
·
Bên
lề
LÀM SAO ĐỂ CÓ GIẤC NGỦ NGON?
90% người dân không biết ngủ thế nào là
tốt, nên ngủ thế nào để khi thức dậy đầy năng lượng.
Tại sao mọi người đều cảm thấy phải ngủ
7 hay 8 tiếng một ngày? Thực ra đó chỉ là thói quen nghỉ ngơi được dưỡng thành
từ nhỏ. Khoa học cho thấy con người không cần thời gian ngủ quá nhiều. Chỉ cần
3 phút ngủ thực sự chất lượng vào buổi trưa là bạn có thể tỉnh táo như vừa ngủ
2 giờ ở thời điểm khác.
Xét về chất lượng giấc ngủ, ngủ tại canh giờ Tý (23h đêm – 1h sáng) là
tốt nhất. Nếu bạn ngủ 5 phút ở canh giờ này là tương đương với ngủ 6 giờ ở
các canh giờ khác. Cung giờ Ngọ (11h
trưa – 13h chiều) cũng có hiệu quả tương tự như giờ Tý. Nếu bạn bị mất ngủ,
hay có việc phải thức khuya, chỉ cần cố gắng ngủ vào đúng giờ Tý hay giờ Ngọ,
dù chỉ là 20 phút cũng được. Dù bận đại sự gì thì cũng cố mà ép mình ngủ vào
hai canh giờ đó. Tương tự nguyên lý chuyển động của vũ trụ, địa cầu, kinh dịch,
cân bằng âm dương, khi ngủ đúng và đủ
vào hai canh giờ trên, bạn sẽ cảm nhận được một nguồn năng lượng chạy từ tim xuống
đan điền (nơi bụng dưới), thủy hỏa được bồi bổ, tinh thần phấn chấn gấp trăm lần.
Nếu bạn ngủ lúc trời gần sáng thì cả
ngày hôm sau rất dễ váng đầu. Sau giờ Tý mà bạn vẫn chưa ngủ là không tốt.
Nghiêm trọng hơn, nếu thức đến tận 4-5h sáng. Từ 5-6h sáng, bạn phải kết thúc
giấc ngủ của mình, nếu vẫn cố ngủ bù, bạn sẽ bị mệt mỏi, đau đầu khi tỉnh dậy
hoặc mệt mỏi cả ngày hôm đó.
Nhiều người bị mất ngủ, hoặc có cảm giác
ngủ chưa đủ, khiến người luôn váng vất mệt mỏi, là do họ thiếu kinh nghiệm và
hiểu biết về giấc ngủ.
Phương Pháp Ngủ
Ngủ
cũng có quy tắc.
Từ 23h – 3h sáng (từ giờ Tý
đến giờ Sửu) là
lúc lá gan hoạt động mạnh nhất. Mật từ gan sẽ được tiết vào máu. Nằm xuống thì
máu chảy về gan, đứng dậy thì máu chảy đi. Vì thế nếu ngủ đúng vào khoảng thời
gian này, mật từ gan sẽ tiết vào máu, lọc bỏ chất độc, chất thải, làm cho huyết
dịch trở nên tươi mới, trong sạch, ngày nào cũng thế thì đến 100 tuổi cũng
không bị viêm gan hay sỏi mật. Bạn chỉ cần đi nằm từ 22h, lặng lẽ không nói
chuyện, giấc ngủ tự nhiên sẽ đến vào khoảng 23h.
Người
thức đêm quá nhiều, mật từ gan sẽ không được đưa đủ vào máu, huyết dịch tự
nhiên không được thải độc, không được làm sạch, mật trong gan cũng không làm
sao tiết ra được đều đặn. Từ đó gây sỏi mật, u nang, viêm gan B… Trước khi ngủ
khoảng nửa giờ, không nên nói chuyện, vì khi nói chuyện, sẽ kinh động đến phổi,
tâm, và dẫn tới trạng thái hưng phấn của não bộ, khiến bạn rất khó chìm vào giấc
ngủ.
Ngủ
vào giờ Hợi (từ 21h-23h): ở cung giờ này, ba kinh mạch chính của cơ thể (tam
tiêu) hoạt động rất mạnh, làm thông hàng trăm kinh mạch khác. Ngủ vào giờ Hợi thì trăm kinh mạch đều được
nhu dưỡng. Những người sống trăm tuổi thường có thói quen đi ngủ trước 21h.
Phụ nữ muốn kéo dài tuổi thanh xuân thì nên đi ngủ sớm vào giờ Hợi.
Giờ Dần (3h-5h sáng) là lúc
kinh mạch phổi hoạt động rất mạnh, có thể rời giường, lúc này là tốt nhất, để khí trong phổi được giãn ra. Cần
hít thở dài và chậm để dương khí đi vào cơ thể êm thuận, hoàn thành sự trao đổi
chất, loại bỏ hết trọc khí để phổi được thanh lọc. Thức dậy giờ này là thuận với
dương khí từ mặt trời, để hỗ trợ và điều dưỡng phổi tốt nhất, bắt đầu ngày mới
với dương khí sung mãn nhất. Dậy vào các giờ sau đó, cơ thể mất dần cơ hội tốt
nhất, khó phát động dương khí; dương khí sẽ xuống hạ bộ thân thể và không thể
sinh ra từ dưới mệnh môn, gây mất cân bằng về khí, có thể tổn hại đến thể chất
và tinh thần của bạn.
Từ
5h-7h sáng là kinh mạch đại tràng hoạt động mạnh nhất. Cơ thể lúc này cần bài
xuất mọi xú uế ra ngoài. Nếu bạn vẫn chưa dậy khỏi giường lúc này thì đại tràng
không được kích hoạt đầy đủ, không bài tiết chất thải hết, sẽ khiến độc tố đi
vào cơ thể, gây nguy hại đến khí huyết và lục phủ ngũ tạng.
Từ
7h-9h sáng là lúc kinh mạch dạ dày hoạt động mạnh nhất. Ăn uống lúc này rất mau
tiêu hóa.
Từ
9h-11h sáng là lúc kinh mạch tỳ vị hoạt động mạnh nhất, do đó tiêu thụ và hấp
thụ dinh dưỡng tốt nhất. Nếu giờ này bạn vẫn chưa rời giường thì dịch dạ dày sẽ
tích tụ nhiều, làm ăn mòn, lở loét dạ dày, gây ra bệnh tật, không tiêu hóa tốt,
trung khí rối loạn. Vì thế nhất định
không được nằm ỳ, càng nằm ỳ càng khiến người mệt mỏi và sinh bệnh.
Các
vĩ nhân đều dậy vào 3h-4h sáng. Khoa học chứng minh dậy sáng sớm chịu ít áp lực
về tinh thần, người cũng ít bệnh tật về thần kinh nhất. Nhưng không nên ra ngoài trời luyện tập lúc quá sớm
(trước 4h-5h sáng), vì lúc đó mặt trời chưa mọc, dưới đất các dòng khí xấu
tích tụ bắt đầu bốc lên, có thể gây tổn thương nghiêm trọng tới thân thể.
Khi ngủ tốt nhất nên đóng cửa
sổ, không bật quạt, không bật điều hòa.
Vì sao vậy?
Khi
người ta ngủ, khí huyết lưu thông chậm chạp, nhiệt độ cơ thể hạ thấp, bề mặt
ngoài cơ thể sẽ hình thành một lớp dương khí bao bọc có tác dụng “quỉ mị bất
xâm” (đến quỉ dữ cũng không xâm nhập vào được). Nếu lớp dương khí này sung mãn
khắp cơ thể, ngủ sẽ không gặp ác mộng và không gì xâm nhập được vào trong cơ thể.
Nếu
mở cửa hay bật quạt, gió lạnh xâm nhập vào gân. Nếu bật điều hòa còn nặng và
nguy hiểm hơn, hàn lạnh có thể xâm nhập vào tận xương. Khi cơ thể bị phong hàn
xâm nhập sẽ bị tổn thương, sáng dậy mặt vàng, cổ và gáy tê cứng, khớp xương đau
nhức, có người còn phát sốt.
Nếu
trời nóng thì có thể mở cửa chính khi ngủ. Nếu quá nóng phải bật điều hòa, thì
nhớ giữ ấm tay, chân, cổ, bụng, tốt nhất không để da thịt lộ ra ngoài trừ khuôn
mặt, không để gió điều hòa thốc trực tiếp vào người.
Dù
bạn đi ngủ sớm, nhưng vẫn không thể ngủ được, là do thiếu dương khí. Phải bồi bổ
dương khí.
Lá
gan bị bốc hỏa hay dạ dày có vấn đề cũng khiến ngủ bất an. Dạ dày bị hàn do thiếu
dương khí hoặc uống nhiều trà xanh; hoặc dạ dày bị nhiệt bốc lên khiến miệng thở
gấp; hoặc dạ dày bị khô, thiếu nước làm miệng lưỡi khô ráp, háo nước; hoặc dạ
dày bị đầy khí hư khiến bụng trướng, người đổ mồ hôi lạnh; hoặc dạ dày quá tải
vì ăn nhiều không kịp tiêu hóa hết khiến bụng trướng phình; đều làm bạn ngủ
không yên.
Lúc
ngủ, dù trời nóng hay lạnh, tứ chi luôn
phải được giữ ấm. Vì tứ chi thuộc dương. Tứ chi không ấm, thận dương sẽ hao
tổn. Sẽ rất tốt nếu trước khi ngủ bạn ủ ấm được tay chân, rốn, hội âm (vị trí
giữa hậu môn và bộ phận tiểu tiện).
Nên ngủ sớm, mùa đông không
nên ngủ quá 6 tiếng. Mùa xuân, hạ, thu nên ngủ sâu được 5 tiếng là đủ.
Đối
với người khó đi vào giấc ngủ hoặc mất ngủ, trước khi ngủ khoảng 1-2 tiếng đồng
hồ, bạn nên luyện tập một chút để có thể dễ dàng đi vào giấc ngủ. Sau này thành
thói quen thì chỉ cần tập trước 30 phút trên giường là ngủ được.
Cách
1: Thiền hoặc khí công tâm pháp.
Cách
2: Ngồi xếp bằng.
Ngồi
xếp bằng tự nhiên trên giường, hai tay xếp chồng lên nhau để nhẹ trên đùi, hít
thở tự nhiên, cảm nhận các lỗ chân lông hô hấp theo từng nhịp từng nhịp nhẹ
nhàng. Khi thấy ngáp chảy nước mắt là đã đạt hiệu quả tốt nhất. Chỉ cần ngả
lưng xuống là có thể ngủ.
Cách
3: Nằm ngửa trên giường, hít thở tự nhiên, cảm giác hơi thở như gió xuân. Xoa
bóp ngón chân cái rồi lần lượt tới các ngón chân khác cho tới khi thấy nóng.
Sau đó xoa lên bắp chân, lên đùi. Nếu hết một lượt mà vẫn còn tỉnh táo thì lại
làm lượt tiếp theo, cho đến khi nào buồn ngủ.
Cách
4: Nằm nghiêng bên phải, tay phải nắm
tai phải. Lòng bàn tay phải là hỏa, tai phải là nước, thế nằm như vậy gọi
là cơ chế thủy hỏa tức tế (nước lửa tiếp xúc). Khi đó trên cơ thể hình thành thế
tâm thận tương giao, dễ ngủ, nếu làm lâu dài, có thể dưỡng tâm ích thận.
Tóm
lại, dưỡng thân thể chỉ có 3 việc: một
là ngủ, hai là bài tiết, ba là ăn uống. Mọi thứ khác (bôi đắp thuốc,
luyện tập, …) chỉ là phụ trợ. Trong ba việc đó thì giấc ngủ là đệ nhất. Nếu ăn
uống sai cách thì phải tập trung vào bài tiết. Ngủ phải lấy tinh thần làm chủ. Tinh thần phải lấy an tâm làm chủ. Tùy
tuổi tác, thanh niên và người trưởng
thành chỉ nên ngủ nhiều nhất 7-8h mỗi ngày, trẻ nhỏ từ 8-10h mỗi ngày, người
già hay người bệnh chỉ nên không quá 6h mỗi ngày. Ngủ nhiều hơn sẽ váng vất,
mệt mỏi, đau đầu chóng mặt, mặt đỏ mắt trướng, tứ chi mềm nhũn. Ngủ quá 12h mỗi ngày sẽ chết sớm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét