Thứ Ba, 8 tháng 11, 2016

Lớp Đông Y - Chúng Thanh Niên chùa Tứ Kỳ: Bài 1 Nhận Thức Chung



Bài 1: Nhận thức chung

1.    Bệnh từ đâu mà ra?

Định nghĩa: Bệnh là sự xáo trộn khí huyết và mất cân bằng âm dương trong cơ thể con người.
Thường thì mọi người hay nhầm lẫn giữa bệnh và triệu chứng. Ví dụ: chúng ta thường nói bệnh đau đầu. Đau đầu không phải là bệnh mà là triệu chứng, còn bệnh nằm chỗ khác. Hoặc ta nói bệnh đau lưng, đau khớp… đó thực ra là triệu chứng đau lưng, đau khớp, nguyên nhân chính nằm ở chỗ khác.
Ví dụ trên cho thấy, bệnh có thể ở một nơi, nhưng triệu chứng lại ở hai hay nhiều nơi khác nhau. Nhưng cũng có khi bệnh và triệu chứng nằm cùng một nơi, ví dụ bệnh vàng da hoặc đau thận.
Khi chúng ta xác định được đâu là triệu chứng lâm sàng, đâu là nguyên nhân gây bệnh, thì mới chữa bệnh được tốt, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc.
Đông y thường chữa bệnh ở gốc.
Tây y chữa bệnh ở ngọn, đau đâu chữa đấy, đau khớp chích thuốc khớp… Đó chỉ là điều trị triệu chứng, không phải trị bệnh. Nhưng nhiều khi cũng phải chữa cùng lúc cả gốc lẫn ngọn, hoặc ngọn trước gốc sau.
Vậy bệnh từ đâu mà ra?

1.1.        Định nghĩa theo nội ngoại (trong và ngoài)


-          Bệnh do nguyên nhân từ bên trong: do Khí và Huyết chạy bên trong lục phủ ngũ tạng và ngoại vi cơ thể bị xáo trộn (tức là không đủ khí huyết, thiếu khí hoặc thiếu máu, thừa khí hoặc thừa huyết, thừa khí thiếu huyết, thiếu khí thừa huyết…)
-          Bệnh do nguyên nhân từ bên ngoài: do sự tác động của tâm lý, môi trường bên ngoài (ngoại lực như bị đánh, va chạm, ăn uống, không khí, gió, mưa…)
-          Nếu định nghĩa bất nội bất ngoại (không do trong cũng không do ngoài): đó là Nghiệp bệnh – yếu tố tâm linh. Cái này nói ra cũng không đủ thời gian, không nói được hết, nên nếu mọi người học lâu hơn nữa sẽ tìm hiểu sau và trao đổi thêm.

1.2.        Định nghĩa nhìn từ góc độ nguyên nhân


Bệnh do Tinh, Khí, Thần gây nên.
-          Tinh: đồ ăn thức uống. Để tạo ra máu.
-          Khí:
o   Bên trong cơ thể: ôxy, cacbonic, … (do thiếu hoặc thừa)
o   Bên ngoài cơ thể: không khí có chứa các chất độc hại, chúng ta hít vào gây ra bệnh.
-          Thần: yếu tố tinh thần như hỷ nộ ái ố… cũng gây ra bệnh.

·         Bên lề
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA ĐÔNG Y VÀ TÂY Y
Đông y và Tây y đều giống nhau ở đối tượng nghiên cứu (sự sống, sức khỏe, bệnh tật) và mục đích (tìm ra những phương pháp bảo vệ sức khỏe và chữa bệnh hữu hiệu), nhưng có những khác biệt căn bản sau đây:
-          Về tiếp cận con người:
o    Đông y: xem xét con người là một chỉnh thể không thể chia cắt, con người giống như một vũ trụ thu nhỏ, mọi phần trong cơ thể đều liên quan đến nhau.
o    Tây y: xem xét con người ở giải phẫu cơ thể, phần nào ra phần đó và được nghiên cứu vô cùng tỉ mỉ đến từng bộ phận, chi tiết nhỏ nhất của cơ thể con người.
-          Về phương pháp khám bệnh:
o    Đông y: dùng phép “Biện chứng Luận trị”, coi trọng “Chứng”, tức là chữa GỐC. “Chứng” trong Đông y không phải là một triệu chứng đơn nhất theo nghĩa thông thường, mà là một chỉnh thể, là cả “rừng cây”. Đông y sử dụng Tứ Chẩn (vọng – nhìn, văn – ngửi/ nghe, vấn – hỏi, thiết – bắt mạch/sờ nắn) và phân tích theo Bát Cương (8 loại trạng thái bệnh lý cơ bản theo cách phân loại của Đông y) để tìm ra căn nguyên, bản chất, vị trí bệnh và tương quan giữa “chính khí” (sức chống bệnh) và “tà khí” (tác nhân gây bệnh).
o    Tây y: coi trọng “Bệnh”, tức chữa NGỌN. “Bệnh” là một khái niệm cụ thể, là một cái cây.
-          Về phương pháp chữa bệnh:
o    Đông y: ứng dụng các học thuyết âm dương, ngũ hành, thủy hỏa, tạng tượng… trên nền tảng lý luận về Khí Huyết nhằm tái lập cân bằng âm dương cho cơ thể. Do đó mang tính trừu tượng cao. Việc áp dụng vào chữa bệnh hiệu quả hay không phụ thuộc vào trình độ của người thầy thuốc.
o    Tây y: sử dụng máy móc hiện đại, các xét nghiệm trên qui trình chữa bệnh chặt chẽ. Tuy nhiên đôi khi chỉ chữa được phần ngọn của bệnh, đặc biệt những bệnh kinh niên, mãn tính, vì dựa vào máy móc thì không thể đoán được nguyên nhân gây bệnh.
Đông và Tây y đi hai hướng khác nhau. Ưu điểm lớn nhất của Đông y là dùng Khí vào việc phòng và chữa bệnh. Tây y cũng đang nghiên cứu những lý thuyết cổ xưa của Đông y, nếu thành công thì Tây y sẽ có những bước tiến khổng lồ. Cho đến giờ, các phương pháp luyện tập về Khí của Đông y vẫn là cách thức phòng và chữa bệnh hữu hiệu nhất, rẻ tiền nhất và an toàn nhất. Đó là điều Tây y chưa thể làm được.
Nhận thức chung rất quan trọng. Chúng ta phải thống nhất quan điểm về nhiều vấn đề chung, đưa tất cả về cùng một hệ quy chiếu, thì sau này mới thống nhất được phương pháp luận để chữa bệnh.

2.    Con người sống được nhờ cái gì?

Con người sống được là nhờ:
-          Khí (ôxy)
-          Huyết
-          Lục phủ ngũ tạng
Một cơ thể sống phải có khí huyết lưu thông. Chết thì khí, huyết tụ lại một chỗ, dễ nhận thấy khi đó da tím tái thâm đen, nhợt nhạt, không hồng hào. Nhưng muốn có khí, huyết lưu thông thì phải có lục phủ ngũ tạng vận hành.

2.1.        Khí

2.1.1.   Nguồn Khí trong cơ thể con người sinh ra từ đâu?

Có hai nguồn sinh Khí, đó là:
-          Bên Ngoài cơ thể ( là Dương +): Oxy được lấy từ tự nhiên (môi trường) và nhân tạo (máy trợ giúp hay thở bình oxi)
-          Bên Trong cơ thể (là Âm -): Oxi được lấy từ Tinh (thức ăn, nước uống).

2.1.2.   Cơ chế sinh Khí

Chúng ta phải đi tìm cơ chế sinh khí Oxi từ thức ăn như thế nào.
Thức Ăn đi vào VỊ (dạ dày). Qua quá trình tiêu hóa sẽ sinh ra:
o   Khí:
§  Khí Oxi: là khí tốt, hay còn gọi là Thanh Khí. Cơ thể khỏe mạnh thì thanh khí đi lên nuôi não.
§  Trọc khí: Cácbonic, amoniac, axit lactic, … là khí không tốt. Đi lên sẽ gây hoa mắt, chóng mặt, ù tai, trào ngược dạ dày…
o   Chất dinh dưỡng
o   Chất cặn bã

Công thức cơ bản của Cơ chế sinh Khí
Thức Ăn + Dịch Huyết, nước + Lửa =
Khí (Oxi, cacbonic, amoniac, axit lactic…) + Chất Dinh Dưỡng + Chất Cặn Bã
Diễn giải như sau: Thức ăn nước uống sau khi được đưa vào cơ thể sẽ được tiêu hóa nhờ sự co bóp của dạ dày và dịch vị có trong dạ dày kết hợp với “Lửa” thì tạo ra Khí mới, chất dinh dưỡng và cặn bã.
Ở đây chúng ta nói “Lửa”, mà không nói nhiệt, vì muốn nhấn mạnh nguồn khí kết hợp là khí tốt, tức Oxi (tạo thành lửa thì chỉ có Oxi), còn khí xấu thì không được.
 Text Box: Đờm                      

Thức ăn vào dạ dày không tiêu, gặp men và nước sẽ nở ra, không được chuyển hóa nên bị thiu, sau đó lên men. Người này sẽ ợ ra đằng miệng. Để lâu ngày sinh ra đờm ở vị. Đờm thành đàm trữ ở phế, sau một thời gian thành thấp (ướt). Đàm nhuyễn như nước đi vào khớp, trữ ở khớp thành thấp (ướt), gây đau đầu, mệt mỏi, buồn ngủ. Để lâu nữa, sẽ lại sinh ra u. Nếu không xử lý, không có máu tới tạo thành màng protein, lâu nữa thành tế bào ung thư. Đây là quá trình sản xuất u trong cơ thể.
Nhân nói về Khí, mọi người chúng ta không nên thở dài. Vì thở dài không tốt, nếu để thành thói quen lâu ngày, sẽ dẫn tới suy nhược cơ thể, hoặc ung thư. Thở dài là lúc chúng ta hít vào thì ít (ngắn) mà thở ra thì nhiều (dài). Hít vào chỉ đến ngực mà thở ra chúng ta thường rít hết khí tận từ rốn lên. Do đó dẫn đến mất khí.

2.2.        Huyết

Huyết là nói chung. Ngoài huyết trong cơ thể còn có dịch và nước.
-          Huyết cõng Khí đến mọi nơi trong cơ thể, và ngược lại, Khí đẩy Huyết.
-          Huyết chảy trong hệ thống tam tiêu đến từng tế bào.

2.3.        Lục phủ ngũ tạng

-          Phủ: rỗng, chứa khí, thuộc Dương. Gồm Bàng quan, Đởm (mật), Tiểu trường (ruột non), Vị (dạ dày), Đại trường (ruột già), Tam tiêu.
-          Tạng: đặc, chứa huyết, thuộc Âm. Gồm Thận, Can, Tâm, Tỳ, Phế.
Các tạng, phủ sẽ được phân chia theo ngũ hành âm dương. Xem bảng Ngũ Hành ở dưới. Dựa trên bảng này, người ta truy tìm căn nguyên của bệnh nằm ở tạng, phủ nào khi có triệu chứng lâm sàng kết hợp với máy đo huyết áp.

Ngũ tạng
Phế
Thận
Can
Tâm
Tỳ
Lục phủ
Đại trường
Bàng quang
Mật
Tiểu trường
Vị
Ngũ hành
Kim
Thủy
Mộc
Hỏa
Thổ
Màu sắc
Trắng, bạc, xám, ghi
Đen, xanh nước biển
Xanh lá cây
Đỏ, cam
Nâu, vàng
Hình dạng
Tròn
Hình lượn sóng
Hình chữ nhật
Nhọn
Vuông

Giải thích một số thuật ngữ Đông y:
·         TÂM – có thể hiểu là tim và tâm bào (màng bao tim)
·         TỲ - tuyến tụy và lá lách
·         CAN - gan
·         PHẾ - hiểu là phổi
·         VỊ- dạ dày
·         ĐỞM - mật
·         LỤC PHỦ - 6 cái bể chứa
·         ĐẠI TRƯỜNG - ruột già
·         TIỂU TRƯỜNG - ruột non

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...