Chương Năm: Anh Hùng phải biết toan tính
Người tính cho tiền đồ bản thân, Anh Hùng tính cho tiền đồ xã tắc.
Tháng 5 năm 938, Dương Tam Kha và Lã
Xử Bình bàn bạc, thấy rằng Nam Hán nếu dùng thủy binh, chắc chắn sẽ tiến vào
thành Đại La từ cửa sông Bạch Đằng. Kha cho Vũ Dũng và 50 quân đi khảo sát vẽ lại
đồ hình khu vực. Còn Xử Bình nghiên cứu cách xây dựng và huấn luyện thủy binh, truyền
lại cho Quyền, Tam Kha và Phạm Chiêm.
Ngô Quyền chỉnh đốn quân ngũ, gấp rút
yêu cầu các tướng luyện quân nghiêm ngặt, cho Kiều Công Hãn và Nguyễn Công Sử
phụ trách đắp lại những điểm trọng yếu trong và ngoài thành; cho Dương Nhị Kha,
Vũ Thôi mang 500 binh đi trưng thu quân lương và tráng đinh khắp các châu huyện;
cho Đỗ Cảnh Thạc phụ trách khí tài cùng kỵ binh, Đinh Công Trứ cùng Ngô Xương
Ngập phụ trách bộ binh; còn Phạm Chiêm cấp tốc luyện một đội thủy binh nhỏ, chọn
ra 1.000 người bơi giỏi từ quân sĩ hiện tại, lấy sông Nhị Hà(1) bên
ngoài thành Bắc làm nơi luyện tập.
Giữa tháng 5, một số hào trưởng địa
phương mang vàng bạc và quân lương tới xin góp sức, góp bạc chống Nam Hán. Nhưng
cũng có nhiều anh hùng, nghĩa sĩ lẫn hào trưởng, thổ phỉ, giang hồ nghi ngờ bản
cáo, cho rằng Quyền đang đục nước béo cò, tận dụng Kiều gia yếu thế mà giở trò
tư lợi. Có kẻ lại băn khoăn, đành yên lặng chờ xem liệu Nam Hán có sang thật
không mới hành động. Lại thấy chỉ một ngày Quyền thu được Đại La, những kẻ mang
mộng bá quyền không dấu nổi thèm khát, tìm cớ chiêu mộ quân sĩ, chờ thời đánh
vào Đại La tranh vị.
Kiều Thuận chạy tới nương nhờ Lý
Khuê. Hắn khóc lóc xin Khuê giúp hắn trả thù Ngô gia và Dương gia. Khuê nói:
-
Quyền
và Kha giờ có tới 3 vạn binh, lại giữ đất Đại La dồi dào bạc, đất Ái châu phong
phú lương, ai ở Tĩnh Hải quân này có đủ quân lương mà dám đấu trực diện với hắn.
-
Liệu
ta có thể liên minh các đại gia tộc lại, đấu một trận quét Quyền khỏi Đại La, rồi
cùng nhau phân chia bờ cõi, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu không?
Trong lúc Khuê chửi thầm trong bụng
tên ngựa non háu đá, Thuận đã viết thư thống thiết gửi các thủ lĩnh 12 châu huyện,
đáng kể có Trần Lãm, hào trưởng ở Bố Hải Khẩu(2), Nguyễn Khoan – anh
trai Nguyễn Thủ Tiệp, hào trưởng ở Thành Quả, những người thuộc các gia tộc thế
lực nhất đất Tĩnh Hải quân, vốn ra mặt không ưa Dương gia lẫn Ngô tướng từ trước
tới giờ. Thuận nói rằng mình đang được Lý Khuê cát cứ đất Siêu Loại(3) che
chở, xin hãy chung sức cùng Lý Khuê và Kiều gia, diệt kẻ tham lam tiếm quyền, giành
lại ngôi Tiết Độ Sứ, cùng hưởng vinh hoa gấm vóc.
Trần Lãm nhận được thư, khinh bỉ bảo:
-
Quyền
còn chưa xưng Tiết Độ Sứ mà hắn đã kêu ta tới đánh để tranh ngôi. Nghe nói Kiều
gia có Kiều Thuận từ nhỏ đã hơn người, hóa ra lại chỉ là kẻ tầm thường thế này
thôi sao? Hay thù hận làm hắn mờ mắt rồi?
Nguyễn Khoan thì thẳng thừng từ chối.
Các gia tộc khác không từ chối trực tiếp thì cũng ợm ờ, dậm chân tại chỗ. Biết
tin, Khuê giận đến hộc máu, đuổi Thuận đi.
Kiều Thuận trốn về tới Phong châu, lợi
dụng thế lực và tiền bạc Kiều gia tại Phong châu, bắt đầu xây dựng căn cứ nơi
vùng núi non hiểm trở Hồi Hồ, phía bắc Phong châu, lại cho tay chân tới các bộ
tộc miền núi địa phương tìm tráng đinh, lập quân đội, tính ngày phục hận.
Cũng tháng 5, Đỗ gia ở Đỗ Động Giang(4),
phú hào giàu nhất Giao châu lúc đó, sở hữu hầu hết việc kinh doanh vải, gốm sứ
và rượu của cả thành Đại La, gửi tới Ngô tướng một lượng lớn bạc và quân lương .
Đỗ Phu, trưởng tộc của Đỗ gia ngỏ ý liên hôn với Ngô gia và Dương gia. Quyền
nói chuyện cho Tam Kha cùng Xử Bình, hỏi nên làm thế nào. Xử Bình bảo:
-
Đỗ
gia dù là thương nhân(5) từ phương Bắc, nhưng đều có liên hôn với nhiều
gia tộc lớn ở thành Đại La và đất Tĩnh Hải quân này, lại có quan hệ thâm giao với
nhiều nhân vật vai vế của phương Bắc và Chiêm Thành. Cho nên không thể bỏ qua. Lúc
này nạp thê tất nhiều người không phục, chi bằng nhận lễ, ngầm đồng ý, hẹn diệt
xong Nam Hán rồi bàn.
Tam Kha chỉ nói:
-
Ta
hiểu Ngô tướng băn khoăn Dương gia ta. Nhưng Như Ngọc và Dương gia chúng ta đều
là những người hiểu chuyện. Xin Ngô tướng vì đại sự mà tự chu toàn. Về phần
Dương gia, không có trưởng bối ở đây, nên ta không thể tự quyết.
Quyền lại gọi Đỗ Cảnh Thạc lên. Cảnh
Thạc nghe chuyện, trừng mắt trả lời:
-
Lại
là lão già xảo quyệt Đỗ Phu bày trò đây mà. Ta dù là người họ Đỗ ở Đỗ Động
Giang, nhưng quyết không cùng thân thuộc với kẻ chỉ biết bán sạch anh em, con
cháu, hòng kiếm danh, kiếm bạc. Ngô tướng và anh Tam Kha nên cẩn thận. Việc gì không
lợi, ông ta sẽ không làm. Nếu đưa một, ông ta sẽ đòi lại gấp mười. Nữ nhân Đỗ
gia được ông ta luyện ra đều cùng một dạng, chỉ chực vắt sạch của người đời đưa
về túi Đỗ gia.
Quyền gật đầu. Sau đó, cho người gửi
lễ tạ Đỗ gia và hẹn sau khi đánh xong Nam Hán sẽ bàn chuyện thông gia.
Chưa đầy một tuần sau, nàng Đỗ Nhâm
Phi, trưởng nữ nhà họ Đỗ đã chạy tới, làm náo loạn thành Đại La bằng một đoàn
người ngựa vô cùng khoa trương. Nhâm Phi xin diện kiến Ngô tướng. Trên đường
vào chính điện, nàng nhìn thấy một tướng quân như hoa như ngọc, uy dũng oai
phong, cầm thương đi ra ngựa, dẫn đầu một đoàn kỵ mã hùng dũng phi về phía quân
doanh. Hình ảnh nam tử rực rỡ như ánh mặt trời đó khiến nàng chết sững. Nhâm
Phi quay đầu hỏi người hầu dẫn đường:
-
Người
cưỡi ngựa dẫn đầu đó là ai vậy?
-
Tiểu
thư không biết sao? Là Dương tướng quân Dương Tam Kha danh tiếng lừng lẫy, con
trai thứ ba của Dương lão tướng Dương Đình Nghệ đó.
Nhâm Phi hiểu ra, vào điện cúi đầu
thưa với Ngô tướng:
-
Ngô
tướng quân, ta muốn xin người hãy tác hợp cho ta với Dương Tam Kha.
Cả Ngô tướng lẫn Xử Bình đều kinh ngạc
nhìn nhau.
Từ đó, Đỗ tiểu thư quyết theo đuổi
Dương tướng quân. Ngày ngày nàng tới phủ giáo quan, trước đây là phủ của Dương
Nhất Kha, nay Tam Kha dùng tạm làm phủ đệ của mình. Nàng mang hoa, gấm, rượu
ngon, đồ mỹ nghệ tinh xảo tới bày đầy phủ. Tam Kha bận việc quân, hầu như ở lại
quân doanh hay phủ Tiết Độ Sứ, không có tâm trí chú ý đến phủ đệ nhà mình, nên người
trong phủ tưởng phu nhân tương lai, để nàng hoàn toàn làm chủ. Tin đồn Dương tướng
quân sắp kết đôi cùng trưởng nữ của Đỗ gia cứ thế mà lan khắp thành Đại La.
Cũng cuối tháng năm, Phương Dung cô
nương nhận được thư nhà. Trong thư, Trần hiệu úy kể về thắng lợi chóng vánh của
Ngô tướng, và cho biết Dương tướng quân cùng Ngô tướng lại đang chuẩn bị đánh
Nam Hán. Nàng thầm nghĩ, diệt họ Kiều, rồi lại chờ chàng diệt ngoại bang, sau
đó còn những trận nào nữa? Nàng oán hận người Dương gia ém nhẹm mọi tin tức bên
ngoài với mình, lại oán hận Dương Tam Kha vô tâm, vô tình. Một đêm, lừa được nàng
hầu gái uống rượu say ngủ như chết, nàng đổi quần áo, trốn khỏi biệt viện Dương
gia, một thân lặn lội từ Ái châu về thành Đại La. Sau khi gặp được Trần hiệu
úy, biết chi tiết hơn tình hình của Tam Kha, nàng tới phủ đệ họ Dương đòi gặp
chàng. Bị người gác cửa hỏi, nàng kiêu hãnh nói:
-
Ta
là Trần Thị Phương Dung, là thiếp của Dương tướng quân, đã ở Dương gia một năm,
nay lên đây chăm lo cho chàng.
Người gác cửa kinh ngạc nhìn cô nương
xinh đẹp trước mặt, không hiểu từ đâu lại mọc ra thêm một nàng thiếp nữa rồi. Hắn
chạy vào báo với Đỗ Nhâm Phi. Nhâm Phi cũng ngạc nhiên không kém, hỏi quản gia:
-
Tướng
quân còn bao nhiêu thê thiếp, con cái nữa? Ở những đâu?
Quản gia lắp bắp:
-
Làm
gì có, thưa tiểu thư. Dương tướng quân chỉ có một thê và hai thiếp ở thành Đại
La. Đều đã chết trong cuộc binh biến một năm trước. Con cái cũng chưa có. Từ đó
tới nay, một năm rồi, ta chưa nghe thấy ai bảo tướng quân có nạp thêm thê thiếp
khi nào. Tướng quân cũng không phải người ham mê sắc dục. Hẳn sẽ không có những
chuyện hái hoa tầm liễu như nhà người ta.
Nhâm Phi tức giận, bảo người bắt
Phương Dung đưa ra chứng cứ, nếu không cứ đuổi đi. Phương Dung lấy đâu ra bằng
chứng. Không được cho vào, nàng thất vọng, tới phủ đô hộ, quyết đợi bằng được
Tam Kha. Khi Kha về tới nơi, nàng đã lệ rơi đầy mặt mà than:
-
Sao
chàng nỡ quên lời hứa ngày nào? Chàng đành lòng bỏ lại thiếp vò võ một mình nơi
đất khách quê người, còn mình ở đây say duyên mới với người giàu sang phú quí ư?
Tình nghĩa ngày xưa chàng thật đã quên rồi sao, Tam Kha?
Lúc đó, Tam Kha ngớ người. Nghe nàng kể
lại, mới biết Nhâm Phi đang ở trong phủ đệ, Kha đành đưa Phương Dung cô nương về
phủ, nói với Nhâm Phi:
-
Ta
không biết làm sao nàng lại ở đây. Nhưng Phương Dung là người ta đã hứa nạp làm
thiếp. Dương gia đã chấp nhận và để nàng ở lại Ái châu một năm qua. Nay lên
đây, nàng ấy sẽ ở lại phủ đệ này. Mong nàng hiểu.
Nhâm Phi tức giận, nhưng cũng đành đổi
vai, cùng làm khách ở phủ đệ và quyết tranh đấu với Phương Dung cô nương. Nhâm
Phi sai người tìm hiểu về Phương Dung, Trần gia và chuyện hứa hẹn năm xưa ở Ái
châu. Nhân đó, nàng ta cũng tóm được tin tức về chuyện tình giữa Xương Ngập và
Phương Dung, không ngại sai người lén trộm trâm cài của Phương Dung, mang đến
cho Xương Ngập, làm tín vật hẹn hò. Ngập có do dự, nhưng nghĩ tới bác và cha, lại
quân tình đang lúc nguy nan, đành từ chối.
Còn Phương Dung ở lại phủ đệ, luôn bị
nghi kị, hiềm khích, chỉ biết tranh thủ lúc Tam Kha ghé qua phủ mà than thở. Nhìn
nàng ở tướng phủ, suốt ngày than khóc, lại gây chuyện cùng Đỗ Nhâm Phi, Kha nản
lòng. Tam Kha xin Ngô Quyền cho dẫn theo 100 binh, đi về trấn Hải Tần Phòng Thủ(6)
cùng Vũ Dũng khảo sát tuyến đường thủy, tránh những cuộc tranh cãi không ngớt
giữa Trần cô nương và Đỗ tiểu thư làm phiền.
Tam Kha đi mất hơn nửa ngày đã tới
nơi, được Vũ Dũng đưa về làng Nam Hải, quê nhà của Dũng, gặp mẹ và anh trai Vũ
Nghiêm. Mẹ Dũng, Hoa phu nhân, trước là tiểu thư khuê các, sau đi chạy loạn rồi
lưu lạc, được Vũ gia cưu mang. Ngày Dũng đánh chết người, bỏ nhà đi, Hoa phu
nhân khóc đến mờ cả hai mắt. Giờ bà chống gậy, không còn nhìn thấy đường. Hoa
phu nhân tóc bạc trắng, như một lão tiên nhân, chậm rãi cầm tay Tam Kha, mỉm cười
thần bí nói:
-
Ta
đã nghe nhiều về Dương gia hiển hách, cống hiến cho đất này bao danh tướng mấy
trăm năm qua. Cũng nghe đời này có Dương tướng quân anh hùng hào kiệt, tài trí
hơn người, lại nhân nghĩa, từ ái, trung quân ái quốc. Nếu không vị nể thân
tình, tất sau này ngài sẽ làm nên nghiệp lớn.
Tam Kha xúc động bảo:
-
Đa
tạ Hoa phu nhân. Tam Kha tôi không dám vỗ ngực cho mình là hơn người. Nay giang
sơn lâm nguy, tôi sẽ gắng hết sức để phò tá xã tắc. Nghiệp lớn không cầu, chỉ
mong thiên hạ thái bình, người hiền tài được trọng dụng. Dù chết, Tam Kha tôi
cũng nguyện không nan từ.
Hoa phu nhân gật đầu, hỏi:
-
Dương
tướng quân tới đây, vậy đã nghĩ ra cách gì chống quân ngoại bang chưa?
Tam Kha thành thực thưa:
-
Không
dám giấu phu nhân, nay chúng tôi còn chưa biết chúng sẽ tới lúc nào, bằng cách
nào. Chỉ mới tới đây khảo sát tình hình.
Hoa phu nhân gật gù:
-
Ngô
tướng và Dương tướng quân hành sự cẩn trọng, thật đáng khâm phục. Ta trước cùng
cả nhà đi làm ăn rồi lại chạy loạn từ phương Bắc tới, từng có qua biên giới đường
bộ và đường thủy. Đường bộ phải qua nhiều rừng núi hiểm trở, gặp phỉ, gặp rợ, lại
bị cả quan binh bắt nộp phí qua cổng. Hành binh nguy hiểm, không nhanh chóng. Còn
đường thủy từ biển qua Bạch Đằng giang nguy hiểm hơn, rủi ro chỉ bớt đi nhiều
khi vào mùa khô. Đây là con đường nhanh nhất từ Hải Môn tới Đại La.
-
Hoa
phu nhân quả thực thông tuệ. Chúng tôi cũng nghĩ, nếu dùng đại quân, khả năng
Nam Hán sẽ điều binh đi đường thủy là rất lớn. Nên tôi và Vũ Dũng mới về đây
tìm hiểu.
-
Không
biết Dương tướng quân có nghe,
Nhất cao là núi U Bò
Nhất lớn chợ Giá, nhất to sông Rừng
Con sông Bạch Đằng được dân xứ này gọi là sông Rừng, rất rộng lớn, địa thế
hiểm trở khác thường, hai bên bờ toàn cây to và lau sậy, lui vào cả vài chục dặm
mới có người sinh sống. Mùa lũ, dân ở đó đóng cọc đáy, vớt gỗ quí từ thượng nguồn,
lại thu neo được cả trân bảo từ biển dạt vào mà tìm cơ mưu sinh.
-
Tam
Kha đã hiểu, ta sẽ tìm hiểu cư dân về cách đóng cọc đáy này. Đa tạ phu nhân đã
chỉ bảo.
Dương Tam Kha cùng đoàn người dừng
chân nghỉ lại Vũ gia. Vũ Nghiêm cũng xin gia nhập đội quân đánh trận. Thấy
Nghiêm cũng là người hiệp nghĩa, sức khỏe hơn người, lại am hiểu sông nước, Kha
cho đi theo bên mình.
Thăm dò được một tuần, Kha không khỏi kinh ngạc
khi nghe tin tức Vũ Dũng thu được từ người dân suốt gần tháng qua và những gì khảo
sát được từ thực tế. Kha viết thư cấp tốc đưa về cho Quyền. Cả Quyền, Xử Bình
và Phạm Chiêm đều vô cùng bối rối trước những gì thu thập được.
“Theo đó, từ phương Bắc, tàu thuyền đều
qua vịnh Hạ Long tới vịnh Lan Hạ. Rẽ vào cửa Nam Triệu sẽ tới sông Bạch Đằng, đến
sông Thày(7), qua sông Thiên Đức(8) một đoạn ngắn là tới
sông Nhị Hà, thẳng tới cửa Bắc của thành Đại La. Tuyến đường này đơn giản, ngắn
nhất để tới Đại La, thậm chí nếu thuận lợi còn ngắn hơn gần gấp rưỡi so với đổ
bộ hành quân trên đất liền. Lòng các sông theo đường này đều rộng trung bình
trên nửa dặm, chỗ hẹp nhất cũng chỉ 60-80 trượng, sâu từ 3-7 trượng tùy mùa. Do
khá sâu và nguy hiểm, thương thuyền cùng thuyền nhỏ của dân chúng rất ít khi đi
đường này, từ biển chỉ dừng bước ở các cảng thị của trấn Hải Tần Phòng Thủ, rồi
chia hàng đi bằng đường bộ hoặc đi theo thuyền nhỏ dọc các sông nhánh. Nhưng với
thuyền lớn của đại quân Nam Hán, theo Xử Bình nghiên cứu, có thể dài tới 12 trượng,
rộng 7-11 trượng, chiếm nước 1-2 trượng, thì con đường này khá lý tưởng, kể cả
vào mùa khô(9). Kỵ binh mất gần sáu canh giờ từ Đại La tới Nam Triệu,
nhưng đi đường thủy này, nếu thuận lợi chỉ mất chưa đầy bốn canh rưỡi.
Cửa Nam Triệu rộng mênh mông chừng gần
8 dặm, sát cạnh một loạt cửa sông trong trấn Hải Tần Phòng Thủ đổ ra biển, cửa
sông nào cũng rộng từ 2-6 dặm, dư sức cho chiến thuyền lớn ra vào(10).
Hai thương cảng sầm uất nhất đất Tĩnh Hải quân(11) đều nằm sâu phía
trong, mà thuyền to của thương lái vẫn tấp nập qua lại, không hề bị va chạm. Trừ
cửa Nam Triệu, các cửa sông còn lại đều dẫn tới những thương cảng lớn nhỏ, ngược
lên các sông nhánh, chiến thuyền lớn khó đi vào.
Như vậy, thủy quân Nam Hán tất sẽ tiến
theo con đường Bạch Đằng tới Nhị Hà nguy hiểm hơn trong mùa mưa, nhưng lại rất
ngắn kia. Nếu Nam Hán tới vào tháng 10 trở đi tới tháng 3, là mùa khô, nguy hiểm
hầu như không còn.
Sông Rừng, hay sông Bạch Đằng, ước chừng
hơn 140 dặm, là con sông rất rộng, vô cùng thuận lợi cho thuyền lớn tiến vào. Đoạn
từ cửa sông, lúc nước lên, có thể rộng 12-16 dặm. Lúc cạn, bề ngang vẫn còn chừng
2 tới 6 dặm. Ngày mưa hay lúc sương mù, từ bờ bên này không thể nhìn thấy bờ
bên kia. Qua gần quá nửa dòng Bạch Đằng, mới có thể đo được độ sâu, khoảng 3 –
7 trượng tùy con nước xuống hay lên. Nếu vào lúc thời tiết mùa đông, mưa phùn
gió bấc, tầm nhìn không quá một dặm, nhiều đoạn đá ngầm, thủy quân địch có khi
lặng lẽ tiến vào đến qua cửa sông (khoảng 20 dặm), ta mới phát hiện ra. Thuyền
nhỏ và thủy binh vừa mới xây dựng của ta, khó mà tác chiến nổi trên địa hình
này.
Lại nói về thủy triều, các cửa sông từ
Nam Triệu tới Thái Bình họp nhau chầu ra vùng biển của trấn này đều có hiện tượng
thủy triều hơi khác biệt với các sông ngòi và vùng biển khác ở Tĩnh Hải quân. Ngư
dân ở đây cho biết, thủy triều lên xuống một lần trong ngày, ngày nào cũng vậy
thuần nhất suốt cả tháng, chỉ chênh một chút theo mùa, biên độ dao động rất lớn(12).
Cửa sông Bạch Đằng như cái phễu khổng lồ, giống một vực nửa kín, tạo ra một
vùng nước khá yên tĩnh, nên thủy triều hoàn toàn chiếm ưu thế. Gió chủ yếu là
đông và đông đông nam, tốc độ lớn, đặc biệt trong mùa khô. Trong một tháng mặt
trăng có hai kỳ nước cường, mỗi kỳ 11-13 ngày, độ lớn dao động 2-3 trượng; hai
kỳ nước kém xen kẽ, mỗi kỳ 3-4 ngày, độ lớn triều hơn kém 1 trượng. Mùa hè triều
mạnh vào các tháng 5,6,7, yếu vào các tháng 8,9,10, thường dâng cao vào buổi
chiều. Mùa đông, triều mạnh vào các tháng 10,11,12, yếu vào tháng 3,4 và thường
dâng cao vào buổi sáng. Độ lớn thủy triều thuộc loại lớn nhất ở Tĩnh Hải quân,
trung bình 1 trượng. Khi triều xuống, vào độ nước cường, rút tới 100 phân mỗi
giờ, ào ào cuốn phăng mọi thứ ra biển.
Qua đoạn cửa sông chừng 20 dặm, triều
yếu đi một chút, nhưng vẫn còn lớn so với các sông, biển khác. Tốc độ dòng chảy
lớn. Mùa hè, dòng chảy hướng đông bắc, tốc độ thấp, mùa đông, dòng chảy hướng
tây nam, tốc độ cao.
Nói chung, tự nhiên thủy thổ nơi này kì
dị, thuận lợi cho thủy binh Nam Hán, kể cả mùa đông.
Dân địa phương ở đó cho biết, họ hay
đóng cọc đáy thưa thớt xuống lòng sông, chỗ nông rìa bờ, để giữ các vật thể
trôi nổi từ thượng nguồn xuống hoặc từ biển đưa vào, cũng là nơi họ treo vó cất
lưới, giữ đồ cứu trợ hay đo mực nước triều hằng ngày. Kha từng thấy ba cây cọc
đáy, lúc triều ào ạt hạ, giữ lại được xác một con thuyền nhỏ bị bão đánh trôi dạt
từ biển vào, khiến nó đâm vào cọc và mắc lại đó. Cọc này rất mảnh, dài hơn 1 bộ,
đường kính chừng 30 phân, chỉ ngư dân có kinh nghiệm mới đóng được xuống đáy
sông mà không bị dòng nước mạnh cuốn đi. Kha thấy hay, bèn ghi lại.”
Xử Bình đọc xong thư dài tới vài tấm
lụa, gật gù nói:
-
Trước
đây, hai lần đưa bộ binh sang đánh ta, giữa đường Nam Hán đã tổn thất gần một
phần ba vì thổ phỉ và đám hào trưởng địa phương. Tướng lĩnh Nam Hán chinh chiến
hơn 20 năm qua đều có kinh nghiệm và chiến thuật thủy binh tài tình, giúp Lưu
Nghiễm thu được vô số đất đai. Thủy binh Nam Hán rất cường thịnh và dạn dày trận
mạc. Khả năng lớn lần này, Nam Hán sẽ đi đường thủy. Điều kiện vùng Bạch Đằng
không dễ dùng bộ binh chặn thủy binh. Còn dùng thủy binh ta trực chiến, thì sức
ta quá nhỏ, không thể địch được chúng. Muốn đấu thủy trận này, tất phải dùng
mưu. Thủy triều ở đây rất lớn, địa thế lại kì lạ, có thể mượn cách của ngư dân
nơi đó, đóng cọc nhọn dưới lòng, dụ địch quân đi vào lúc triều cường, rồi phản
công bất ngờ khi triều xuống. Cách này phải tính toán đến từng chi tiết cho phù
hợp với phong thổ, nhưng phải giữ được bí mật. Mà huy động một lực lượng lớn chặt
rừng, làm cọc, đóng cọc, dễ gây động lớn cho thám báo và những kẻ nghịch tâm. Lại
nói nơi này phong thổ kì lạ, nếu không nắm được qui luật của tự nhiên, tất phản
tác dụng, có khi còn hại chính mình. Ta phải nhìn kỹ thực địa mới định được kế.
Quyền bảo:
-
Ban
đầu ta nghĩ dùng hỏa công. Nhưng con sông đó rộng như thế, tự nhiên lại kì lạ, e
cũng khó phát huy tác dụng. Phải nghĩ cách khác thật.
Phạm Chiêm tâu:
-
Thuỷ
binh của chúng ta mới xây dựng được một tháng, trang bị lẫn người đều thiếu thốn,
lại chỉ được luyện tập trên khúc Nhị Hà, điều kiện khác hẳn so với vùng sông Bạch
Đằng. Nay tôi xin cho đưa thủy binh tới nơi đó luyện tập. Tranh thủ cùng Dương
tướng quân tìm hiểu thêm các điều kiện thổ địa để tìm cách bày binh bố trận cho
hiệu quả.
Quyền cho là phải, ra lệnh cho Phạm
Chiêm đưa thủy quân mới thành lập tới vùng Bạch Đằng để luyện quân. Còn mình
cùng Xử Bình ở lại bàn tính kế hoạch tác chiến.
Đầu tháng sáu, đội thủy binh do Phạm
Chiêm dẫn đầu mang gần 200 thuyền nhỏ đi theo hướng Nhị Hà, qua Thiên Đức, sông
Thày, tới sông Bạch Đằng. Vừa đi, vừa cho người ghi chép lại toàn bộ đặc điểm
dòng nước, khí hậu, thổ nhưỡng bốn mùa thu thập được ở từng khúc sông.
Cuối tháng sáu, Chiêm đã gặp người của
Vũ Dũng ở đoạn gần cửa sông Bạch Đằng.
Chiêm và Dũng nhìn vùng sông nước
mênh mông bát ngát, không thấy bờ bên kia trước mặt, lòng muộn phiền. Chiêm bảo
Dũng:
-
Đến
đây mới thấy, sông rộng và sâu quá chừng, xung quanh lại toàn lau sậy trải dài
tới hàng dặm, đất chắc để dựng trại cũng không có, hoàn toàn bất lợi với thuyền
mộc nhỏ bé của ta. Ta thực sự chưa biết đặt binh chỗ nào đây, chứ đừng nói đến
đánh thế nào.
Dũng nói:
-
Cư
dân ở đây dựng chòi cách bờ sông chừng 5 dặm, để tránh nước lên cuốn trôi mất
chòi. Thủy binh của ta không thể dừng ở đây được. Ta đã tính, chúng ta nên quay
ngược lại khúc giữa sông, chừng 20 dặm ngược lại, nơi đó đất chắc hơn, thủy triều
cũng yếu đi, bãi bồi lau sậy không quá rộng, chỉ chừng gần một dặm. Khi nước cường
cũng không ngập vào toàn bộ bãi lau. Chúng ta có thể dựng trại sâu trong đó. Rồi
đào lạch, dong thuyền vào. Hoặc đi theo sông Tranh(13) cạnh đó, là một
sông nhánh, có dòng nước chảy chậm hơn. Men theo sông nhánh đó chừng bảy dặm là
có thôn làng. Ta cũng có thể dựng trại nơi đó.
Chiêm thấy hợp lý, bèn cho quay thuyền,
đi lên ngả sông Tranh thì dừng lại, cho đóng quân tại đó. Lại cho người đào thêm
lạch để dẫn thuyền từ sông vào sâu phía trong bãi kín.
Tam Kha nhận được tin, cũng tới đây hợp
lực, luyện binh và khảo sát cùng Phạm Chiêm và Vũ Dũng.
Cuối tháng sáu đó, Lưu Nghiễm nhận được
thư cầu viện của Kiều Công Tiễn. Nghiễm cười ha hả, vỗ tay vào bàn nói:
-
Trời
giúp ta rồi!
Sùng Văn hầu Tiêu Ích tâu:
-
Bệ
hạ, cần phải cho người xem xét thận trọng. Lũ dân Man hoang dã bất trị, thi
nhau dấy binh làm loạn. Tên Kiều Công Tiễn kia tạo phản lại càng có cớ cho
chúng bất mãn, tất sẽ tiến đánh hắn. Đâu chỉ có Ngô Quyền. Đợi lúc tình hình
càng lúc càng loạn, thủ lĩnh bốn phương quần thảo nhau tới suy kiệt, lòng dân
ngao ngán tột đỉnh, chúng ta dong cờ tiến vào, vì dân dẹp loạn, tất sẽ thu phục
được lòng người, dễ dàng bình định một cõi. Bọn người xứ này phải kiềm hãm, chứ
không nên đánh.
Tô tướng dèm pha:
-
Đám
Man dân đó lúc nào chả loạn. Nay phương Bắc của Nam Hán ta đã được mở mang,
đánh Giang Đông, chiếm Triều châu, Thiều châu, Ung Quản, tranh đất Dùng, Quế,
đánh bại Sở. Tài lực ta đã tích lũy được nhiều. Phải tận dụng cơ hội này mở rộng
xuống phía Nam, lại trả được mối hận thua trận lần trước. Ta chờ cơ hội này đã
tám năm. Nếu bỏ qua, còn phải chờ mấy cái tám năm đây? Mong bệ hạ suy xét.
Nghiễm cho là phải, quyết định không
bỏ qua cơ hội này, bèn cùng các tướng sĩ lên kế hoạch. Lại cho người nhanh
chóng đi thăm dò tình hình hiện tại ở Tĩnh Hải quân.
Tháng tám, Nguyễn Thủ Tiệp từ biên giới
phía bắc giáp Nam Hán gửi tin báo về, nói Nam Hán vẫn chưa thấy động tĩnh gì.
Lúc này, Quyền cùng Xử Bình đều chắc chắn chúng sẽ tới bằng đường biển. Quyền
khẩn cấp triệu Tam Kha về Đại La.
Nàng Nhâm Phi ra đón Kha ở cổng
thành, cáo chuyện Phương Dung cô nương lén lút qua lại với Ngô Xương Ngập. Nhưng
Phương Dung xuất hiện, nước mắt ngắn dài xin đi theo chàng. Kha phẩy tay bảo:
-
Giờ
việc quân việc nước đang bận, các nàng đừng làm ta rối trí.
Nói rồi bỏ lại hai người, phóng ngựa
về phủ Tiết Độ Sứ.
Phương Dung trong lòng thầm oán hận kẻ
hào kiệt mà vô tình. Nàng nghĩ tới tấm lòng trung trinh, si tình của Xương Ngập,
cắn răng nắm chặt tay, lòng thầm ra quyết định.
Tại phủ Tiết Độ Sứ, Ngô Quyền nói với
các tướng:
-
Thủy
binh của ta rất yếu, bộ binh chỉ đủ để bảo vệ thành. Bốn bề các hào trưởng cát
cứ không thần phục. Trước mắt, ta đành dùng nội lực quyết đấu với Nam Hán. Mong
nhìn thấy ngọn cờ vì giang sơn xã tắc của Quyền ta sẽ khiến anh hùng hào kiệt cảm
động mà chung sức.
Quyền và Kha bàn nhau, thấy rằng thủy
quân là nòng cốt của trận thủy chiến này, bèn chọn Đỗ Cảnh Thạc để luyện ra một
đội thủy binh 2.000 người nữa, với hơn 100 chiến thuyền độc mộc đóng gấp, trấn
giữ đoạn sông Thiên Phúc, Nhị Hà. Dương Cát Lợi cùng Đinh Công Trứ thống lĩnh 2
vạn quân, trấn thủ thành Đại La. Quyền dẫn 5.000 binh về trấn Hải Tần Phòng Thủ
chiêu binh mãi mã, lập đại bản doanh tại làng Lương Xâm, Gia Viễn(14).
Lại cho Dương Nhị Kha mang 500 binh về Ái châu, nhờ hai họ Dương, Ngô thu gom
lương thảo, vũ khí. Ngô Xương Ngập và Kiều Công Hãn thu nạp tráng đinh, luyện
quân chủ lực ở đại bản doanh.
Tam Kha đưa Quyền cùng Xử Bình tới chỗ
Phạm Chiêm đóng quân, xem xét địa hình. Bốn người đi thuyền dọc từ cửa Nam Triệu
tới cửa sông Thầy quan sát. Quyền nói:
-
Đoạn
từ cửa sông Tranh tới ghềnh Đá Bạc có rặng đá ngầm, phù sa bồi tụ khiến lòng sông
chỗ này không quá sâu. Dùng cọc nhọn đóng dưới lòng sông đoạn này, cho quân mai
phục phía trên. Ta dụ thuyền địch vượt qua ghềnh lúc nước cường, rồi chờ khi
triều xuống, ồ ạt tấn công mạnh, khiến chúng thoái lui, tới đoạn này, tất sẽ va
phải cọc nhọn mà vỡ thuyền, rơi xuống đá ngầm mà chết thảm. Giờ chỉ cần tìm
cách nào tấn công khiến chúng không thể tiến, buộc phải quay đầu.
Xử Bình gật đầu:
-
Rặng
đá ngầm bên ghềnh Cốc hoặc ghềnh Đá Bạc là nơi lý tưởng để mai phục. Phục binh
ta đợi ở đó, khi chúng tới, dùng hỏa công mạnh chặn đường. Nếu lợi dụng được hướng
gió và dòng nước thì cung tiễn của ta sẽ tăng uy lực thêm mấy phần. Lại tạo tiếng
trống chiêng, cờ xí reo hò vang trời, yếm trá giả bộ có hàng vạn hùng binh hai
bên bờ đợi sẵn, khiến chúng khiếp vía mà quay đầu.
Kha nói:
-
Chúng
ta phải tiến hành đóng cọc và bài binh trong bí mật. Chờ khi có tin chúng gần tới
nơi, ta thả tin đã chém Công Tiễn và diệt Kiều gia. Không còn nội ứng trong
thành, quân tâm chúng sẽ dao động ngay trước trận, càng dễ bề ta thao túng.
Quyền cho là hay. Ba người cùng Phạm
Chiêm chụm đầu bàn kế hoạch chi tiết. Sau đó, Vũ Dũng lĩnh 2.000 quân bí mật đi
vào rừng sâu phía tả ngạn Bạch Đằng, chặt hàng vạn cây, vót nhọn ở đầu làm cọc,
chiều dài 2 tới 3 bộ, đường kính 100-150 phân, mang về che giấu ở bản doanh. Còn
Phạm Chiêm sai 1.000 binh chặt cây, vót tên, quấn giẻ. Cung tên là vũ khí
chính, nên đồng thời, ở đại bản doanh, Kiều Công Hãn cũng cử 2.000 binh đi lên
rừng, chặt cây, vót tên. Sau đó Tam Kha yêu cầu Dương gia và Ngô gia ở Ái châu
mang sắt cùng thợ rèn xuống bản doanh, cử thêm 1.000 người bổ sung tới lò rèn sắt,
chế tạo các thanh dập mỏng, để bịt đầu cọc gỗ. Riêng cửa Đá Bạc, Kha cho rằng
nơi này địa thế hiểm trở hơn, cọc gỗ khó mà cắm được xuống đá ngầm, bèn cho chế
tạo thêm 2.000 cọc sắt.
Lại nói về làng Gia Viễn nơi đại bản
doanh của Ngô Quyền đóng quân, khí thế khẩn trương, hào hùng. Người dân làng
cùng những nơi lân cận nhiệt tình mang lương thảo và thuyền bè tới. Nguyên Tất
Tố cùng Đào Nhuận, hai tráng sĩ khỏe nhất làng, dẫn 38 tráng đinh lực lưỡng tới,
xin đầu nhập. Nhận thấy đây là những người địa phương, rất rành bơi lội và địa
thế trên sông, Ngô Quyền vui mừng cho Nguyên Tất Tố làm nha tướng, đi tới giúp
Phạm Chiêm và Tam Kha xem xét dàn cọc cùng đội binh chủ lực ở sông Tranh.
Tháng chín, tin thám báo gửi về Quảng
châu, cho biết tình hình Tĩnh Hải quân rất loạn. Ngô Quyền đánh vào Đại La, buộc
Công Tiễn xin hàng. Hào trưởng và thổ phỉ bốn phương nổi dậy, hùng binh cát cứ,
tiến đánh lẫn nhau, không ngừng cướp bóc, mở rộng đất đai. Quyền ra cáo kêu gọi
mọi người góp sức đánh Nam Hán sắp sang, nhưng không mấy ai quan tâm, cho Quyền
là kẻ tư lợi, nên cũng dấy binh muốn chiếm Đại La. Quân đội ở Đại La đã bỏ trốn
gần một nửa, nay hợp với chưa đầy vạn binh của Ngô Quyền, chỉ được khoảng 3 vạn.
Quyền cho xây dựng một đội thủy binh 1.000 người với gần 200 thuyền độc mộc từ
tháng năm, ngăn nguy cơ ngoại bang đánh vào Đại La bằng đường biển. Thuyền này
quân Man gọi là ‘mông đồng’, dài 3-5 trượng, rộng chừng 1 bộ, chở được 25 binh
sĩ và 25 tay chèo, không mái che, không tầng đáy, không bọc sắt. Quân số còn lại
do Quyền chỉ huy vẫn chốt giữ tại thành. Công Tiễn và họ Kiều án binh bất động.
Lưu Nghiễm như mở cờ trong bụng, quyết
định lần này điều thủy quân đi. Tiêu Ích can:
-
Bệ
hạ, lúc ta đưa binh tới, mưa dầm đã mấy tuần, đường biển xa xôi nguy hiểm, Ngô
Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận
trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.
Lưu Nghiễm không cho là vậy.
-
Xứ
đó mất Dương Đình Nghệ thì chẳng còn tướng giỏi nào đáng để ta bận tâm. Thủy
quân chúng lại không có. Kinh nghiệm thủy chiến chưa kinh qua bao giờ. Đội quân
của Ngô Quyền dù có chiếm được Đại La cũng đâu đã chiếm được cả Tĩnh Hải quân,
vẫn cô thế giữa đám loạn dân. Ta đi đường thủy, tất 3 vạn binh kia phải xé ra,
trên một quãng dài từ cửa biển tới thành Đại La, y phải rải quân mai phục tiến
đánh ta, uy lực không còn đáng kể. Trong nội thành, lại có Công Tiễn và Kiều
gia làm nội ứng. Chỉ cần nghe tin ta tới, bọn chúng tất sẽ dấy binh gây loạn. Đại
quân ta đông đảo, thiện chiến, cung thủ thiện nghệ, sẽ vào hốt cả mẻ.
Tướng soái bàn luận, cho rằng trận
này chắc thắng. Hoàng tử thứ chín, Vạn vương Lưu Hồng Thao, thấy đây là cơ hội
để tăng địa vị trong mắt hoàng đế, nếu thắng có thể được ở lại cai quản Tĩnh Hải
quân, tránh được những cuộc quyết đấu tương tàn giữa các huynh đệ trong cung,
bèn xin ra trận lập công.
Lưu Nghiễm hài lòng, phong Hồng Thao
làm Giao vương, Tiết Độ Sứ của Tĩnh Hải quân, mang 5 vạn binh cùng hơn 100 chiến
thuyền, theo đường biển tiến vào Đại La. Đích thân Lưu Nghiễm dẫn 3 vạn binh đi
sau, đóng tại Hải Môn(15) tùy thời yểm trợ. Cuối tháng chín lên đường.
Chiếu dụ xuất binh cứu viện Tiễn, diệt
loạn quân của hoàng đế Nam Hán được ban bố khắp thiên hạ. Sứ thần của triều
đình Nam Hán cũng khẩn cấp lên đường truyền tin tới Đại La(16).
* Đơn vị đo chiều dài thời cổ: 1 dặm=500m, 1 trượng=3,33m, 1 bộ = 1,66m,
1 phân =3,33mm.
(1) Sông Nhị Hà là tên gọi thời xưa của sông Hồng, đoạn chảy qua thành Đại La
(Hà Nội ngày nay).
(2)
Bố Hải Khẩu, hay Kỳ Bố Hải Khẩu, là
vùng cửa biển Thái Bình – Nam Định ngày nay.
(3)
Siêu Loại thuộc hương Thổ Lỗi, bờ nam
sông Đuống, nay là huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Còn Lý Khuê được cho là ông nội
của Lý Công Uẩn, vua sáng lập nhà Lý sau này.
(4)
Đỗ Động Giang là nơi có thành Đỗ Động
(còn gọi là thành Quèn) nằm bên bờ sông Con (sông Tích hay sông Đỗ Động); nay
thuộc huyện Quốc Oai, Hà Nội. Thành có từ thời Bắc thuộc, chưa xác định được
niên đại.
(5)
Do bị nhà Đường đô hộ, nên văn hóa
phương Bắc trọng Nho giáo, Đạo giáo cũng được đưa vào Tĩnh Hải quân, dù không
quá câu nệ, nặng nề. Thương nhân đứng cuối trong bậc thang nghề nghiệp của xã hội
(sĩ, nông, công, thương), nhưng trong bối cảnh quản lý theo kiểu đô hộ phủ với
các hào trưởng địa phương tự đứng ra cát cứ lãnh địa như kiểu thành bang của
Tĩnh Hải quân đầu thế kỷ X này, thương nhân lại là tầng lớp có vai trò và tiếng
nói khá quan trọng, do nắm nguồn mạch trao đổi chính giữa các lãnh địa.
(6)
Trấn Hải Tần Phòng Thủ được nữ tướng
Lê Chân lập nên từ thế kỷ thứ I để chống quân Đông Hán thời Hai Bà Trưng, tiền
thân của vùng đất sau này người Pháp xây dựng nên thành phố Hải Phòng vào thế kỷ
thứ 19.
(7)
Sông Thày là tên cổ của sông Kinh Thầy,
dài khoảng 44,5 km, thuộc địa phận trấn Hải Dương xưa, tỉnh Hải Dương ngày nay.
(8)
Sông Thiên Đức, hay Thiên Đức Giang là
tên cổ của sông Đuống, dài khoảng 68 km, trải dài từ Đông Anh, Hà Nội tới Bắc
Ninh ngày nay.
(9)
Các số liệu về các con sông ở đây đều
khác rất nhiều với số liệu ngày nay. Những con sông này ngày nay không còn rộng
và sâu như hơn 1.000 năm trước, do bị phù sa bồi đắp, các hoạt động lấn sông, lấn
biển, xây cầu đường… và cả bom đạn chiến tranh cùng thiên tai tàn phá.
(10) Ba cửa sông chính ngày nay cùng đổ ra biển ở khu vực Đồ Sơn là: Nam Triệu,
Lạch Huyện và Ba Lạch. Vào thế kỷ thứ 10, khu vực trấn Hải Tần Phòng Thủ không như
bây giờ. Trong lịch sử, đây là vị trí thuận lợi nhất cho các tuyến giao thông
và trao đổi hàng hóa của miền Bắc, vì vùng đất này được bao bọc bởi một hệ thống
sông ngòi dày đặc, các cửa sông san sát nhau, nối thẳng với trung tâm Bắc Bộ và
vùng thượng du sông Hồng; lại án ngữ ngay vị trí cửa ngõ của biên giới trên biển
giữa Việt Nam và Trung Quốc; thuận tiện cho giao thương từ Trung Quốc tới
Malay. Sau đó, tới thế kỷ thứ 19, người Pháp xây dựng thành phố Hải Phòng ở
đây, cho đắp đê, bồi đất, lấn biển, xây đường, lấp sông, xây sân bay, cảng biển,
đào sông nhân tạo (sông Hạ Lý, sông Lấp) và dựng một loạt khu căn cứ, khu nghỉ
mát cùng nhà ở, tạo ra đường bờ biển dài 125 km bằng phẳng hơn cho thành phố Hải
Phòng ngày nay. Những hành động đó cũng góp phần thu nhỏ hoặc biến mất các cửa
sông cổ.
(11) Cảng thị và giao thông đường thủy Việt Nam thời phong kiến không được các
nhà sử học và các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong ghi chép của các thương nhân
châu Âu, thế kỷ 17-18 có hai cảng thị được đề cập đến nhiều nhất ở Bắc Bộ là
Domea (Đò Mè) và Batsha (Bạch Sa). Nhìn vị trí đánh dấu trên các bản đồ cổ của
người Châu Âu, Domea thuộc khu vực làng An Dụ, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng,
Hải Phòng; còn Batsha thuộc khu vực Đồ Sơn hoặc Tiên Lãng, Hải Phòng. Trong ghi
chép của sử Trung Quốc thế kỷ 7-8, hai địa điểm quan trọng nhất để giao thương
với đất Giao Chỉ là Tuanshan và Jichai, có thể là Đồ Sơn và Cát Hải (Hải Phòng)
ngày nay.
(12) Thủy triều có hai loại: nhật triều (nước lên xuống một lần trong ngày) và
bán nhật triều (nước lên xuống hai lần trong ngày). Vùng biển khu vực Bắc Bộ Việt
Nam đều thuộc nhật triều, nhưng khu vực Bãi Cháy tới Đồ Sơn, nhật triều đều đặn
và thuần nhất trong cả tháng, sang tới bờ biển Thái Bình-Nam Định, nhật triều
không đều và chỉ trong 18-20 ngày trong một tháng. Càng lui xuống phía nam, nhật
triều càng không đều và diễn ra ít ngày hơn trong tháng. Xung quanh xích đạo,
chủ yếu là bán nhật triều. Thủy triều ở đảo Hòn Dáu (Đồ Sơn, Hải Phòng) là điển
hình của nhật triều trên thế giới, được nhiều thương nhân và nhà khoa học
phương Tây thế kỷ 17-18 ghi lại. Vùng cửa sông Bạch Đằng lại có cấu trúc đặc biệt,
hình phễu nhiệt đới điển hình trong khu vực nhật triều biên độ lớn, lại có quần
đảo Cát Bà chắn phía đông, đông nam, bán đảo Đồ Sơn phía tây, thông với biển ở
phía nam và phần ngầm khá sâu, thành vực nửa kín, sóng phía nam và đông nam mới
truyền được từ biển vào, cao không quá 3m, kể cả khi có bão. Do đó, thủy triều ở
cửa sông Bạch Đằng cũng khác hoàn toàn triều ở các cửa sông Bắc Bộ. Khu vực này
bị biển lấn sông, hệ sinh thái ngập mặn. Theo các nhà nghiên cứu, do cấu trúc địa
chất đặc biệt, sông Bạch Đằng không bị thay đổi nhiều suốt 1.000 năm qua so với
bây giờ. Không giống như sông Hồng hay sông Cửu Long, thay đổi rất nhiều (thậm
chí nhiều đoạn thay đổi hoàn toàn) mỗi vài trăm năm. Chỉ có điều, tại thời điểm
diễn ra các trận đánh lịch sử trên sông, các chỉ số địa lý có thể khác đi. Có
nhà nghiên cứu cho rằng trước đây sông nông và hẹp hơn bây giờ (do bị phễu hóa
và biển xâm lấn theo thời gian). Nhưng lại có nghiên cứu cho rằng, hiện tượng
phễu hóa mới xảy ra vài trăm năm gần đây.
(13) Sông Tranh, nay gọi là sông Chanh, là một sông nhánh của sông Bạch Đằng,
cách cửa Nam Triệu chừng 20 km. Sông này cùng với sông Rút, sông Kênh, đều là
nhánh tả ngạn Bạch Đằng, chia nước chảy ra vịnh Hạ Long. Ngày nay, một số bãi cọc
đã được phát hiện ở cửa sông Tranh.
(14) Làng Lương Xâm, làng Gia Viễn, nay thuộc huyện An Hải, Hải Phòng. Điều
này được ghi lại trong thần tích và truyền thuyết dân gian của các làng Nam Hải,
Đằng Hải, rằng: từ Bình Kiều, Hạ Đoạn tới Lương Khê là địa bàn đóng quân của
Ngô Quyền, đại bản doanh đặt ở Lương Xâm, Gia Viễn.
(15) Hải Môn, nay thuộc Quảng Đông, Trung Quốc.
(16) Dưới thời phong kiến (cả Châu Á cũng như Châu Âu và Châu Phi), các quốc
gia trước khi xuất binh đánh một nước khác luôn phải nêu lý do, mục đích chính
nghĩa (dù thật hay giả) cho người dân, quốc gia bị đánh và các nước lân bang để
thu phục lòng người, che mắt dân chúng. Tin tức này được sứ giả của quốc gia chủ
chiến mang tới cho hoàng đế hay người cầm đầu quốc gia bị đánh trước khi chính
thức xuất binh.