Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 11



Chương 11: Cuộc Săn Giết

Chúng tôi về phòng, không gặp ai trên đường đi, và chúng tôi chuẩn bị mọi thứ ở đó. Thoạt tiên thay áo choàng cho ngày lễ bằng quần áo ấm hơn đã từng dùng khi tới thành phố Kaloon. Sau đó chúng tôi ăn uống mọi lương thực có thể ở phòng ngoài, vì không biết khi nào sẽ tìm được thức ăn, rồi bỏ đầy phần còn lại của thịt, rượu và vài nhu yếu phẩm vào hai túi giống như người dân ở đây vẫn đeo trên vai. Chúng tôi cũng dắt dao lớn dùng cho săn bắn vào thắt lưng và bản thân trang bị thêm mấy cây giáo ngắn đã làm ra lúc đi săn.
“Có lẽ hắn đã sắp sẵn âm mưu ám sát chúng ta, chúng ta cần phải bảo vệ bản thân tốt nhất có thể,” Leo đề nghị.
Tôi gật đầu, vì tiếng cười cuối cùng của Khan vẫn vang vọng trong tai tôi. Đó là một nụ cười rất độc ác.
“Tương đối đủ rồi,” Tôi nói. “Bác không tin tên điên đó. Nhưng hắn vẫn mong tống cổ được chúng ta đi.”
“Đúng, nhưng như hắn đã nói, người sống có thể quay lại, còn người chết thì không.”
“Atene nghĩ ngược lại,” tôi nhận xét.
“Nhưng nàng đe dọa chúng ta bằng cái chết,” Leo trả lời.
“Vì nỗi hổ thẹn và sự khao khát làm nàng trở nên điên cuồng,” tôi đáp, sau đó chúng tôi im lặng.
Giờ cánh cửa đã mở ra, Khan bước vào, quấn trong chiếc áo choàng lớn như thể muốn ngụy trang.
“Đi thôi,” anh ta nói, “nếu các ngươi đã sẵn sàng.” Rồi nhìn vào những cây giáo chúng tôi cầm, anh ta nói thêm: “Các ngươi không cần những thứ đó. Các ngươi không đi săn.”
“Không,” tôi trả lời, “nhưng ai biết được – chúng tôi có thể bị săn đuổi.”
“Nếu các ngươi tin thế, có lẽ tốt nhất nên ở lại đây tới khi Khania phát chán vì tên Râu Vàng và mở cửa cho các ngươi,” anh ta đáp lại, mắt vẫn liếc nhìn tôi đầy xảo quyệt.
“Tôi nghĩ là không,” tôi nói, và chúng tôi bắt đầu xuất phát, Khan dẫn đường và ra hiệu cho chúng tôi im lặng.
Chúng tôi đi qua những căn phòng trống tới hiên, rồi từ hiên xuống sân, ở đó anh ta thì thào bảo chúng tôi ẩn mình trong bóng tối. Vì trăng soi rất rạng rỡ đêm nay, tôi nhớ sáng rõ tới mức tôi có thể nhìn thấy từng ngọn cỏ mọc giữa các ô vỉa hè, bóng tối ít ỏi bị ném ra từ mỗi hình khối riêng lẻ trên bề mặt đá đã bị mài mòn. Giờ tôi tự hỏi chúng tôi sẽ đi qua cánh cổng thế nào, vì một người bảo vệ đang canh gác ở đó, khi tối muộn còn được tăng gấp đôi theo lệnh của Khania. Nhưng chúng tôi rời khỏi cánh cổng từ bên phải, trên con đường dẫn ra khu vườn có tường bao lớn, nơi Rassen đưa chúng tôi qua một cửa dấu sau lùm cây bụi được anh ta mở khóa với chìa mang theo.
Giờ đây chúng tôi đã ở bên ngoài bức tường cung điện, con đường của chúng tôi chạy qua khu trại của bầy chó. Khi chúng tôi đi tới đó, bầy chó săn tử thần to lớn không ngủ, vẫn lang thang qua lại như sư tử đang rình mò, bắt được hơi gió của chúng tôi liền rú lên chuỗi sủa vang đột ngột và kinh khủng. Tôi rùng mình trước âm thanh đó, vì nó thật đáng sợ trong sự im lặng thế này, tôi cũng nghĩ nó sẽ làm đám người trông giữ tỉnh giấc. Nhưng Khan đi tới đám cọc sắt và hiện diện, bầy súc vật đó biết anh ta nên dừng gầm rú.
“Đừng sợ,” anh ta nói khi quay lại, “những tay săn đuổi đó biết chúng bị bỏ đói đêm nay, thì ngày mai nhất định có vài phạm nhân được ném cho chúng.”
Giờ chúng tôi đã tới cổng cung điện. Ở đó Khan ra lệnh cho chúng tôi ẩn trong một lối đi có mái vòm rồi đi qua. Chúng tôi nhìn nhau, cùng một suy nghĩ xuất hiện trong đầu hai chúng tôi – hắn đi dẫn những kẻ giết người tới kết thúc đời mình. Nhưng chúng tôi đã sai, vì hiện tại nghe thấy âm thanh tiếng vó ngựa trên đá, và anh ta quay lại dẫn theo hai con ngựa trắng mà Atene đã ban cho chúng tôi.
“Ta đã tự tay thắng yên cho chúng,” anh ta thì thầm. “Ai có thể làm nhiều hơn thế để đẩy nhanh tốc độ tiễn khách chứ? Giờ lên ngựa đi, hãy giấu mặt trong áo choàng như ta, và đi theo ta.”
Chúng tôi lên ngựa, còn anh ta chạy lon ton trước chúng tôi như người hầu dẫn đường, giống các lãnh chúa của Kaloon thường sử dụng khi họ đi làm ăn hay giải trí. Rời khỏi đường chính, anh ta dẫn chúng tôi đi qua một ngã tư mang nhiều tiếng xấu trong thành phố, rồi đi xuống những con đường phụ quanh co. Ở đó chúng tôi gặp vài kẻ rượu chè, trong khi đám khách ăn sương lướt qua từng ô cửa, vén một bên mạng che mặt nhìn chúng tôi, nhưng chúng tôi không ra hiệu sẽ quay lại, họ cho rằng chúng tôi đang đi hẹn hò. Chúng tôi tới bến tàu bỏ hoang bên bờ sông và ra chỗ một cầu cảng nhỏ, cạnh đó đã có sẵn một phà rộng.
“Các ngươi phải đưa ngựa lên và chèo thuyền qua,” Rassen nói, “vì mọi cây cầu đều được canh gác, không muốn để phát hiện, ta sẽ không thể ra lệnh cho binh sĩ cho các ngươi đi qua.”
Vì thế hơi rắc rối một chút, chúng tôi thúc ép mấy con ngựa lên tàu, tôi giữ chúng bằng dây cương còn Leo đi lấy mái chèo.
“Giờ hãy đi theo con đường của các ngươi, những kẻ lang thang đáng nguyền rủa,” Khan kêu lên khi đẩy chúng tôi khỏi cầu cảng, “hãy cầu nguyện Linh Hồn Ngọn Núi để con Chuột già kia và học trò của hắn – tình yêu của ngươi, Râu Vàng, tình yêu của ngươi – đừng nhìn thấy các ngươi qua chiếc kính thần bí. Vì nếu vậy, chúng ta có lẽ lại gặp lại nhau thôi.”
Khi dòng nước bắt được chúng tôi, quét con thuyền ra giữa con sông, anh ta bắt đầu phá lên cười đầy ghê rợn, gọi với theo chúng tôi – “Đi nhanh lên, đi nhanh lên cho an toàn, hỡi những kẻ xa lạ kia; cái chết đang ở phía sau đấy.”
Leo dùng hết sức lùi lại trên dòng nước, vì thế con thuyền lơ lửng bên mép sông.
“Cháu nghĩ chúng ta tốt hơn nên trở lại mặt đất và giết tên kia, vì hắn đúng là một mối nguy hại,” cậu nói.
Cậu nói bằng tiếng Anh, nhưng Rassen đã tóm được chuỗi giọng nói của cậu nên đoán ra ý nghĩa nhờ sự xảo quyệt điên cuồng. Hắn thét lên – “Quá muộn rồi, lũ ngốc,” rồi cười lớn và quay lại, chạy trên cầu cảng nhanh đến mức chiếc áo choàng tung bay trên không trung sau anh ta, và biến mất trong bóng tối trước mắt.
“Chèo thôi,” tôi nói, Leo cúi mình chèo thuyền.
Nhưng con thuyền như cái phà khá cồng kềnh còn dòng nước chảy xiết, vì thế chúng tôi bị cuốn xuống một đoạn dài trước khi có thể vượt qua. Cuối cùng chúng tôi tới vùng nước tĩnh gần bờ phía xa, thấy chỗ đậu, điều khiển con thuyền lại và kéo ngựa lên bờ. Sau đó bỏ con thuyền trôi dạt, vì chúng tôi không có thời gian đánh chìm nó, chúng tôi tìm đai và cương, rồi lên ngựa, đi về phía cột khói phát sáng xa xa giống như ngọn hải đăng trên đỉnh Cung Điện Lửa.
Ban đầu hành trình của chúng tôi rất chậm, vì nơi này dường như không có đường đi, chúng tôi buộc phải đi qua các cánh đồng, tìm những cây cầu vượt qua kênh mương khi chúng quá rộng không thể nhảy qua. Mất hơn một giờ vì việc đó, chúng tôi mới tới một ngôi làng chưa thức dậy, rồi từ đó đi theo con đường có lẽ chạy tới ngọn núi, dù sau đó chúng tôi biết, con đường thực sự phải qua rất nhiều dặm. Bây giờ lần đầu tiên chúng tôi có thể cho chạy nước kiệu, đẩy nhanh tốc độ, dù không quá nhanh, vì chúng tôi muốn tha cho hai con ngựa và sợ chúng sẽ gục ngã khi trời chưa sáng.
Trước bình minh, mặt trăng chìm dần phía sau Ngọn Núi, bóng tối dày đặc buộc chúng tôi phải dừng lại, giữ chặt cương ngựa và thả chúng một chút để chúng ăn bắp non. Khi bầu trời chuyển màu xám, ánh sáng mờ nhạt từ cột khói dẫn dắt chúng tôi, rồi bình minh lên, trải đỏ rực xuống tuyết trắng mênh mông trên đỉnh núi xa xa, bắn tên xuyên qua vòng thòng lọng trên cây cột trụ. Chúng tôi để ngựa uống xong nước dưới kênh tưới bắp, rồi lên ngựa, từ từ cưỡi về phía trước.
Giờ đây thoát khỏi bóng tối của màn đêm, nỗi sợ hãi nặng nề dường như được nhấc ra khỏi tim và chúng tôi tràn đầy hy vọng, phải, rất vui vẻ. Thành phố đáng ghét đã lui lại phía sau. Phía sau chúng tôi là Khania với những khát khao không ngừng lớn dần, hướng tới diệt vong và nhan sắc gây bão táp của nàng, là phép tà thuật của ông thầy mắt hóa sừng của nàng, già nua và âm thầm tội lỗi, là sự điên cuồng của thứ sinh vật kỳ lạ nửa quỉ nửa thánh tử vì đạo mỗi khi chúng nổi cơn hung bạo, là kẻ hèn nhát – Khan, chồng nàng, là cung điện ô uế của hắn ta. Phía trước là ngọn lửa, dấu đi tuyết và điều thần bí đã tìm kiếm suốt bao năm trống rỗng qua. Giờ chúng tôi muốn làm sáng tỏ nó hoặc chết. Vì thế chúng tôi vui vẻ ép mình hướng về phía định mệnh, dù nó có thể là bất cứ thứ gì.
Suốt nhiều giờ chạy quanh co trên đường xuyên qua vùng đất canh tác, nơi nông dân lao động đặt cả dụng cụ xuống và tụ tập tại các nút xem chúng tôi đi qua, thật kỳ lạ, những ngôi làng nhà lợp mái bằng, phụ nữ vồ lấy con cái rồi bỏ chạy khi nhìn thấy chúng tôi. Họ tin chúng tôi là đám lãnh chúa từ cung điện tới làm việc với họ, gây hại cho người hay tài sản, nỗi kinh sợ của họ nói cho chúng tôi biết đất nước này đang khổ sở thế nào dưới cây gậy của kẻ áp bức. Đến trưa, dù đỉnh núi chỉ gần hơn một chút, nhưng đặc trưng của đất đai đã thay đổi. Giờ đây nó dốc lên thoai thoải và vì vậy, không thể được tưới tiêu.
Rõ ràng toàn bộ huyện lớn này phụ thuộc vào mưa theo mùa, mà mùa xuân vừa rồi không có mưa. Vì thế dù dân số đông đảo và mỗi sào đất đều đang được cày bừa, mùa màng vẫn thất bát. Màu xanh thật ít ỏi, bắp không đáng có đã hóa vàng vì thiếu độ ẩm, gia súc đói khát tìm kiếm thức ăn trên đồng cỏ, còn người nghèo lang thang trên cánh đồng hoặc cố đào đất cứng như đá.
Mọi người hình như biết chúng tôi là hai người nước ngoài tới đây đã gây huyên náo, nỗi sợ nạn đói làm họ trở nên táo bạo, họ chửi bới chúng tôi khi chúng tôi đi qua, đòi chúng tôi trả lại cho họ mưa đã bị chúng tôi đánh cắp, hoặc chúng tôi đang hiểu lời họ như vậy. Thậm chí cả phụ nữ và trẻ em trong các ngôi làng cũng quì lạy trước chúng tôi, chỉ lên Ngọn Núi rồi chỉ lên trời xanh, kêu khóc đòi chúng tôi mang mưa về cho họ. Quả thực có lần chúng tôi bị một đám nông dân được vũ trang bằng thuổng và lưỡi câu đe dọa, chắn giữa đường, nên buộc phải thúc ngựa phi nước đại vội vã vượt qua họ. Khi đi về phía trước, đất nước này càng khô cằn hơn và càng ít dân hơn, tới khi chúng tôi không còn nhìn thấy ai trông giữ bầy gia súc lang thang từ nơi này sang nơi khác tìm cỏ nữa.
Đến tối, chúng tôi đoán mình đã tới biên giới thường bị các bộ lạc trên Ngọn Núi tàn phá, vì nơi này có những tháp cao hùng vĩ bằng đá, rải rác ít cây thạch nam, chắc dùng làm nhà quan sát hoặc nơi ẩn náu. Tôi không biết quân lính có đóng ở đó hay không, vì chúng tôi không thấy ai cả. Có lẽ các pháo đài này thực sự là di tích của những ngày tháng mảnh đất Kaloon được người cai trị bảo vệ trước các đợt tấn công, đó hẳn là người rất khác với vị Khan hiện tại và những người tiền nhiệm ngay trước đó của anh ta.
Cuối cùng ngay cả các tháp quan sát cũng lui lại phía sau, lúc hoàng hôn chúng tôi thấy mình ở trên một đồng bằng rộng lớn không người, chúng tôi không nhìn thấy thứ gì sống được ở đó. Giờ đây chúng tôi quyết định dừng ngựa nghỉ ngơi một lúc, cho rằng sẽ đi tiếp nhờ ánh trăng, vì cơn thịnh nộ của Khania đang ở phía sau, chúng tôi không dám nán lại. Tối đó chắc chắn cô ấy đã phát hiện ra chúng tôi trốn thoát, vì trước khi mặt trời lặn, như cô ra lệnh, Leo phải đưa ra lựa chọn và cho cô ấy câu trả lời. Vì thế chúng tôi chắc chắn cô ấy sẽ nhanh chóng đuổi theo. Có lẽ các sứ giả của cô đã đánh thức cả nước hòng bắt giữ chúng tôi, còn binh lính đang đuổi theo con đường phía sau.
Chúng tôi tháo yên ngựa, để chúng lấy lại sức bằng cách lăn lộn trên cát, thả trên đống cỏ khô héo mọc xung quanh. Ở đây không có nước; nhưng đó không phải vấn đề lớn, vì cả ngựa và chúng tôi đã uống ở một cái hồ ít bùn tìm thấy không quá một giờ trước. Chúng tôi đang sắp ăn xong bữa ăn với lương thực mang theo, thật ra chúng tôi vô cùng đau nhức sau một đêm không ngủ và cuộc hành trình suốt ngày dài, còn ngựa của tôi, đầu gối sắp khụy xuống, đang nằm lăn qua lăn lại. Nó làm thế không dễ vì có dây buộc ở chân trước, tôi vu vơ dõi theo nỗ lực của nó, cuối cùng, sau lần thứ tư cố gắng, treo được vài giây bằng lưng, chân nó chơi vơi trên không trung, rồi chầm chậm đổ về phía tôi.
“Tại sao móng của nó đỏ như thế nhỉ? Nó tự cắt à?” Leo dửng dưng hỏi.
Thật tình cờ tôi cũng vừa nhận ra ánh đỏ này, lần đầu tiên, vì nó hoàn toàn khác đế guốc động vật, khi con ngựa lăn lộn tôi đã không nhìn ra. Vì thế tôi đứng dậy kiểm tra, do nghĩ có lẽ ánh sáng ban đêm đánh lừa chúng tôi, hoặc chúng tôi có lẽ vừa đi qua vùng đất bùn màu hung đỏ. Chắc chắn chúng màu đỏ, như loại thuốc nhuộm để ngâm sừng và các loại móng guốc. Hơn nữa, nó có mùi hăng và thơm khá khó chịu, loại mùi có lẽ sinh ra từ máu trộn với xạ hương và gia vị.
“Rất kỳ lạ,” Tôi nói. “Chúng ta hãy nhìn con vật của cháu đi, Leo.”
Chúng tôi làm thế và thấy móng nó cũng tương tự.
“Cõ lẽ là hỗn hợp gốc để bảo vệ sừng,” Leo đưa ra giả thiết.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi một ý tưởng ghê sợ hiện ra trong đầu.
“Bác không muốn làm cháu sợ,” tôi nói, “nhưng bác nghĩ tốt hơn chúng ta nên đóng yên và lên đường thôi.”
“Tại sao?” cậu hỏi.
“Vì bác tin rằng vị Khan bất lương kia đã cho ngựa của chúng ta dùng thuốc.”
“Để làm gì? Để chúng đi khập khiễng sao?”
“Không, Leo, để chúng lưu lại mùi hương nồng đậm trên vùng đất khô cằn.”
Cậu tái mặt. “Bác muốn nói – bầy chó săn kia ư?”
Tôi gật đầu. Rồi không lãng phí thêm thời gian nói chuyện, chúng tôi đóng yên vội vàng. Ngay lúc vừa gắn chặt dây cuối cùng vào yên ngựa, tôi nghĩ có âm thanh mờ nhạt vang đến tai mình.
“Nghe đi,” tôi nói. Nó lại dội đến, giờ không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là nó. Đó là âm thanh chó sủa.
“Lạy chúa! Bầy chó tử thần,” Leo nói.
“Đúng,” tôi lặng lẽ trả lời, lúc khủng hoảng này các dây thần kinh của tôi nhưng cứng lại và nỗi sợ hãi rời bỏ tôi, “Khan, anh bạn của chúng ta muốn săn đuổi từ xa. Đó là lý do tại sao hắn ta cười.”
“Chúng ta làm gì đây?” Leo hỏi. “Bỏ ngựa lại sao?”
Tôi nhìn Ngọn Núi. Sườn núi gần nhất cũng còn cách hàng dặm trường.
“Đủ thời gian để làm điều đó nếu chúng ta nỗ lực hết sức. Chúng ta không thể đi bộ tới ngọn núi đó, sau khi vật ngã ngựa, bầy chó sẽ săn đuổi chúng ta theo dấu chân hoặc ánh mắt. Không, chàng trai, hãy cưỡi như cháu chưa bao giờ cưỡi trước đây.”
Chúng tôi nhảy lên yên ngựa, trước khi ghì cương, tôi quay lại nhìn phía sau. Nhớ rằng chúng tôi đã vượt qua con dốc dài dẫn tới một sườn núi cách đó khoảng ba dặm, làm biên giới cho vùng đồng bằng rộng lớn chúng tôi đang đứng. Giờ mặt trời đã chìm dần sau sườn núi đó, dù vẫn còn sáng, nhưng cả vùng đồng bằng này đã chìm trong bóng tối. Vì thế, trong khi không vật ở xa nào có thể nhìn thấy được trên đồng bằng, thì bất kỳ thứ gì vượt qua sườn núi đều có thể nhìn thấy được trong bầu không khí sáng rõ đó, ít ra với những người trong tầm nhìn.
Đây là những gì chúng tôi nhìn thấy. Trên sườn núi đổ ra vô số vật nhỏ xíu, đi cuối cùng là một người đàn ông ngồi trên con ngựa tuyệt đẹp phi nước đại, dẫn theo một con ngựa khác bằng dây cương.
“Cả đàn được thả ra rồi,” Leo hung hăng nói, “Rassen mang theo cả con ngựa thứ hai. Giờ cháu biết tại sao hắn muốn chúng ta bỏ giáo lại,” cậu thét lên khi chúng tôi bắt đầu phi nước đại, “cháu nghĩ trước khi mọi chuyện xong xuôi, Pháp Sư có lẽ đã chứng minh ông ta là nhà tiên tri thực sự.”
Chúng tôi vượt qua bóng tối, hướng về Ngọn Núi. Trong khi đi, tôi tính toán các cơ hội của chúng tôi. Ngựa vẫn tốt dù trên bất kỳ vùng đất nào, chúng vẫn còn khỏe và lanh lợi, dù chúng tôi đã cưỡi đi xa nhưng chúng tôi không quá o ép chúng, tình trạng của chúng vẫn hoàn hảo. Nhưng không chắc bầy chó săn tử thần kia còn đủ lanh lợi, vì đuổi theo chúng tôi suốt đêm do hắn nghĩ sẽ tóm được chúng tôi lúc đang ngủ, Rassen muốn mang chúng đi theo thật dễ dàng, đuổi theo truy tìm chúng tôi giữa đám nông dân và chỉ tìm ra dấu chân chúng tôi sau khi ngôi làng cuối cùng đã bị bỏ lại phía sau.
Hắn có hai con ngựa cưỡi, chúng tôi không biết vì sao – dù sau này biết rằng, hắn muốn làm việc độc ác này một mình và không bị ai nhìn thấy – có lẽ hắn cũng bị đám tùy tùng đuổi theo sau nhưng trễ hơn. Do đó, trừ khi chúng tôi tới được nơi hắn không dám đuổi theo trước cả hắn– đó là sườn của Ngọn Núi cách nhiều dặm phía xa kia, nếu không hắn sẽ xé xác chúng tôi. Khả năng may mắn còn lại là đàn chó mệt mỏi và không muốn theo đuổi cuộc săn lùng.
Tuy nhiên, điều này có lẽ hiếm khi xảy ra, vì chúng cực kỳ nhanh và khỏe, hoang dại tới mức một khi ngửi được mùi máu từ vó ngựa đạp xuống, chúng sẽ thà gục chết vì kiệt sức còn hơn từ bỏ con đường. Thật ra cả Khania và Simbri đã thường kể cho chúng tôi rất nhiều. Còn một cơ hội nữa – chúng bị mất mùi, nhưng xét về bản chất, điều đó lại không thể. Ngay cả một đám người Anh theo dấu cá trích đỏ mình dày không phạm sai lầm nào suốt nhiều giờ, vẫn còn dựa vào thứ khác mạnh hơn – một hỗn hợp mùi khéo léo đã từng nghe kể có thể lưu lại suốt nhiều ngày. Cơ hội cuối cùng. Nếu chúng tôi buộc phải bỏ lại lũ ngựa, người cưỡi chúng có thể trốn thoát, chúng tôi có thể tìm được chỗ nào đó để ẩn nấp trên vùng đồng bằng mênh mông này. Nếu không, chúng tôi đã bị phát hiện ngay khi vừa phát ra mùi, - không, tỉ lệ cược đang chống lại chúng tôi, nhưng chuyện vẫn thường xảy ra như thế trước đây đấy thôi; trong khi đó chúng tôi đã đi được ba dặm, có lẽ sẽ có trợ giúp từ Ngọn Núi, trợ giúp vô hình không đoán trước được. Vì vậy chúng tôi nghiến răng tăng tốc như mũi tên xuyên qua ánh sáng.
Chúng tôi rất nhanh thất bại, khi đó mặt trăng đã dấu mình phía sau dãy núi, màn đêm tối dần.
Bây giờ bầy chó đã sắp đuổi kịp chúng tôi, vì bóng tối với chúng không là gì, còn chúng tôi lại không dám cưỡi quá nhanh, do sợ ngựa vấp ngã. Sau đó, lần thứ hai kể từ lúc chúng tôi tới mảnh đất Kaloon, ngọn lửa đột ngột bùng lên từ trên Đỉnh Ngọn Núi. Chúng tôi đã nhìn thấy nó trước đây, nó dường như bắn ra khắp các vùng trời từ một ngọn hải đăng ánh sáng khổng lồ, tập trung xuyên qua vòng thòng lọng trên cột trụ đá, đêm nay cũng vậy, ánh sáng chạy lan ra xa trên đầu chúng tôi như cây giáo lửa. Nhưng hiện tại chúng tôi ở gần nó hơn, chúng tôi thấy mình tắm trong ánh sáng mềm mại, thần bí, như lân quang trên đại dương mùa hè, phản xạ xuống từ các đám mây và tảng đá khổng lồ hình cây cột mang thòng lọng, rồi bị khuyếch tán bởi dải tuyết bên dưới.
Tia sáng lóe lên siêu thực, mờ ảo đó đã giúp chúng tôi rất nhiều, thật ra nhờ nó chúng tôi đã vượt qua được, hơn nữa mặt đất ở đây rất thô, đầy hố do những con sóc đá marmot đào ra. Rồi trợ giúp đến từ Ngọn Núi lên đến cực độ khi trăng lại mọc ra nhanh chóng ngay khi ánh lửa trên ngọn núi lửa biến mất, bỏ lại phía sau không gì ngoài cột trụ quen thuộc đầy khói đỏ mờ mịt.
Thật tầm thường khi nói về giai điệu của bầy chó đang trong cuộc săn đuổi, nhưng tôi thường đã tự hỏi giai điệu đó sẽ nghe như thế nào trong tai con nai hay con cáo đang chạy trốn vì mạng sống của chúng.
Giờ khi ở vị trí con mồi, định mệnh đã giúp tôi giải đáp câu hỏi đó, và tôi tự tin khẳng định rằng các giống loài đời sau trên thế gian cũng không thể sản sinh ra thứ âm thanh huyên náo ghê tởm hơn. Nó đã đến gần chúng tôi, trong yên lặng hoang vắng của màn đêm, các hợp âm như địa ngục từ âm lượng của chúng nghe thật kinh khủng, tôi thậm chí còn có thể phân biệt được từng nốt riêng biệt được tạo ra, đặc biệt là một tiếng sủa sâu như chuông ngân.
Tôi nhớ đã nghe tiếng sủa này khi ngồi trong khoang thuyền trên sông và nhìn anh chàng cao quí khốn khổ bị xé tới chết vì tội yêu Khania. Khi cuộc săn đuổi đó diễn ra trước mặt chúng tôi, tôi quan sát thấy tiếng sủa đó phát ra từ cổ họng con chó săn dẫn đầu, con vật khổng lồ, màu đỏ, có một tai đen như than, răng trắng bóng như ngà voi, miệng như lò nướng. Tôi thậm chí còn biết tên nó, vì sau đó Khan, kẻ coi đó là thú vui đặc biệt, đã từng chỉ nó cho tôi. Hắn gọi nó là Thủ Lãnh, vì không con chó nào dám đánh lại nó, và bảo tôi nó có thể một mình giết chết một người được vũ trang.
Giờ tiếng sủa của nó đang cảnh báo chúng tôi, con Thủ Lãnh chỉ cách không quá nửa dặm nữa!
Ánh trăng lên cho phép chúng tôi phi nước đại nhanh hơn, đặc biệt khi đất ở đây mịn hơn, phủ lớp cỏ khô mỏng, sau hai giờ tiếp theo, chúng tôi đã vượt xa bầy chó. Đúng, chỉ hai giờ, hoặc có thể ít hơn, nhưng dường như đã qua hàng thế kỷ. Sườn Ngọn Núi giờ không quá mười dặm trước mặt, nhưng lũ ngựa cuối cùng đã kiệt sức. Chúng đã hào hiệp chở chúng tôi, những con vật khốn khổ, dù trong lượng chúng tôi không nhẹ, mà sức lực của chúng có giới hạn. Mồ hôi vã ra trên người chúng, bên sườn thở hổn hển như ống phổi, chúng loạng choạng và hầu như không thể đáp trả khi chúng tôi quất roi. Đi nước đại dần thành nước kiệu, và tôi nghĩ chúng sắp phải tới chỗ chết rồi.
Chúng tôi vượt qua gò đất nhô hơi cao, rải rác bụi cây và đá, dốc xuống chỗ kia, cách chúng tôi vài dặm, con sông chảy qua, tạo thành các sườn đồi khổng lồ cho Ngọn Núi. Chúng tôi đi một đoạn nhỏ xuống sườn dốc này, chúng tôi buộc phải rẽ để vượt qua hai hốc đá lên đỉnh. Ở đó, không quá ba trăm thước, chúng tôi nhìn thấy đàn chó. Giờ số lượng đã ít hơn; không nghi ngờ một số đã gục ngã trong cuộc săn đuổi, nhưng vẫn còn rất nhiều con. Hơn nữa, không xa phía sau chúng là Khan, dù con ngựa thứ hai của hắn đã biến mất, hoặc có lẽ chính là con hắn đang cưỡi và phi nước đại còn con đầu tiên đã dừng lại.
Lũ ngựa khốn khổ của chúng tôi cũng nhìn thấy chúng, cảnh đó như chắp thêm cho chúng đôi cánh, giờ chúng biết phải chạy vì mạng sống của chính chúng. Chúng tôi có thể nói, chúng đã rùng mình run rẩy mỗi khi tiếng sủa đến gần, không phải run rẩy vì phấn khích vui vẻ của cuộc săn đuổi, mà của nỗi kinh hoàng tột độ, như tôi thường thấy khi có tiếng hổ gầm lảng vảng gần trại ngựa. Trên đường đi, dù chúng khỏe mạnh và ổn định, cũng không hề thất bại cho đến khi chỉ còn bốn dặm nữa là tới con sông phía trước, khi chúng tôi đã có thể nghe thấy tiếng nước chảy.
Chậm rãi nhưng chắc chắn, bầy chó sắp vượt qua chúng tôi. Chúng tôi đi qua một lùm cây bụi, nhưng khi đi được cách đó khoảng vài trăm thước dọc theo bình nguyên thoáng đãng này, cảm thấy lũ ngựa đã hoàn toàn kiệt sức, tôi hét to với Leo – “Cưỡi vòng trở lại bụi cây và nấp ở đó đi.” Chúng tôi làm thế, chỉ vừa tới được đó và xuống ngựa thì lũ chó săn chạy qua. Đúng, chúng chỉ cách chúng tôi trong vòng năm mươi thước, lê bước theo dấu chân của chúng tôi, tất cả đều chạy im lặng, vì giờ chúng quá mệt mỏi khi phải lãng phí hơi thở trong vô vọng. “Chạy đi,” tôi nói với Leo ngay khi chúng vừa đi qua, “vì chúng sẽ quay lại đây theo mùi hương hiện nay,” chúng tôi lại đi theo chính đường thẳng bầy chó đã đi, nhờ đó không phải xóa dấu vết.
Khoảng một trăm thước nữa là một tảng đá, may mắn chúng tôi có thể tới được đó trước khi lũ chó quay lại theo dấu chân ngựa, nhờ vậy chúng sẽ không thấy chúng tôi. Chúng tôi dừng lại đó chờ chúng vòng lại, đàn chó chạy qua bụi cây và đi tiếp ra sau. Rồi chúng tôi lại chạy lên trước càng xa càng tốt. Liếc lại phía sau, tôi thấy hai con ngựa khốn khổ của chúng tôi đang nhô lên nhô xuống xa xa trên bình nguyên, thật tốt khi vẫn chạy trên cùng đường thẳng mà chúng tôi đã đi qua. Thế là xong, được giải thoát khỏi sức nặng của chúng tôi và bị nỗi sợ hãi thôi thúc, chúng vẫn phi nước đại và dẫn theo lũ chó săn, dù chúng tôi biết chuyện này sẽ diễn ra không quá lâu. Tôi cũng nhìn thấy Khan, chắc đoán chúng tôi đang đi như chúng tôi dự tính, hắn đang cố gọi lũ chó rời khỏi hai con ngựa, nhưng chưa có hiệu quả, vì chúng vẫn không từ bỏ con mồi chúng đang nhìn thấy.
Tất cả điều này hiện ra trong nháy mắt, nhưng tôi nhớ bức tranh đó thật tuyệt. Đỉnh Ngọn Núi hùng vĩ phủ đầy tuyết nhô lên cột khói phát sáng và ném bóng mình ra xa hàng dặm trên sa mạc mênh mông; bình nguyên lác đác vài tảng đá cùng những bụi cây xám xịt; những con ngựa đến hồi tận số đang tranh đấu cùng bầy chó săn điên cuồng; con đường lần theo dấu vết của bầy chó to lớn đang nhảy lên lũ ngựa thật nhỏ bé và cô độc giữa nơi bao la này, thân ảnh của Khan và con ngựa của hắn ta như chấm đen trong bọt biển. Phía trên, bầu trời xanh dịu mát, ánh trăng tròn tỏa sáng rực rỡ trong tĩnh mịch, không một chi tiết nào dù nhỏ nhất có thể thoát khỏi ánh sáng đó.
Giờ tuổi trẻ và cả tuổi trung niên đã lùi xa tôi, dù là một người đàn ông rất khỏe suốt bao năm qua, tôi cũng không thể chạy như xưa. Tôi cũng vô cùng mệt mỏi, các chi đã cứng lại và xây xát khi cưỡi ngựa quá lâu, vì vậy tôi đi từ từ, điều tệ hơn là tôi va chân trái vào đá và rất đau. Tôi van nài Leo cứ tiếp tục và bỏ lại tôi, vì chúng tôi nghĩ chỉ cần tới được con sông, mùi của chúng tôi có thể biến mất trong nước; dù sao chúng tôi cũng sẽ có cơ hội sống. Ngay sau đó, tôi cũng nghe thấy tiếng sủa của con Thủ Lĩnh, và chờ đợi màn tiếp theo. Phải, nó đã gần chúng tôi hơn. Khan đã tính toán tìm ra con đường chúng tôi đi. Hiện tại chúng tôi phải đối mặt với kết cục này.
“Đi đi! Đi đi!” tôi nói. “Bác có thể giữ chân chúng vài phút và cháu có thể thoát. Đây là cuộc tìm kiếm của cháu, không phải của bác. Ayesha đang đợi cháu, chứ không phải bác, và bác cũng mệt mỏi với cuộc đời rồi. Bác muốn chết và sẽ thực hiện điều đó.”
Rồi tôi thở hổn hển, sau đó, cùng với những lời đó, tôi tập tễnh bám vào cánh tay Leo. Nhưng cậu chỉ trả lời bằng giọng trầm thấp – “Yên lặng, nếu không chúng sẽ nghe thấy bác,” rồi cậu đi và kéo theo tôi.
Giờ chúng tôi đã rất gần mặt nước, vì có thể nhìn thấy nó lấp lánh phía dưới, ôi! Tôi đã khao khát uống thật nhiều thế nào. Tôi nhớ đó là mong muốn trên hết trong đầu tôi, uống, và uống. Nhưng bầy chó săn đã gần chúng tôi hơn, gần tới mức có thể nghe được tiếng lộp cộp chân chúng va trên nền đất khô quyện với tiếng vó ngựa phi nước đại của Khan. Chúng tôi tới chỗ mấy tảng đá hơi nhô lên, ngay bên bờ sông, đột nhiên Leo nói – “Vô dụng, chúng ta không thể làm được. Dừng lại thôi và chúng ta hãy nhìn xem chuyện gì xảy ra tiếp theo.”
Vì thế chúng tôi lăn mình xuống, dựa lưng lên tảng đá. Đằng kia, khoảng một trăm thước, là bầy chó săn tử thần, nhưng tạ ơn Thượng Đế! Chỉ còn ba con. Số còn lại vẫn đang đuổi theo lũ ngựa phi như bay, chắc chắn cuối cùng chúng sẽ tóm được lũ ngựa thôi, dù chạy xa bao nhiêu đi nữa cũng phải dừng bước bị chúng nhai nuốt. Chúng đã ra khỏi cuộc chiến. Chỉ còn ba con, và Khan, thân ảnh điên cuồng phi nước đại cùng chúng; nhưng ba con thú đen đỏ này, có con Thủ Lĩnh, còn hai con kia cũng to lớn hung hăng không kém.
“Có lẽ tệ hơn rồi,” Leo nói. “Nếu bác cố giải quyết lũ chó, cháu sẽ cố hết sức với tên Khan kia,” rồi cậu cúi xuống xoa tay vào đá, vì tay đã bị ướt nước, tôi cũng làm theo. Sau đó chúng tôi nắm chặt giáo bên tay phải và dao tay trái, rồi chờ đợi.
Giờ lũ chó đã thấy chúng tôi và lao vào, gầm gừ sủa lên ghê sợ. Chúng lao tới nhanh chóng, tôi không xấu hổ nói rằng mình vô cùng khiếp sợ, vì lũ súc vật đó như bầy sư tử, thậm chí còn hung hãn hơn. Một con nhỏ nhất trong đó vượt lên hai con kia, nhảy lên cao nhắm thẳng cổ họng tôi.
Tôi không biết tại sao và làm thế nào, nhưng dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh lúc đó, tôi cũng nhảy lên lao vào nó, vì thế toàn bộ trọng lượng của nó đều rơi trên mũi giáo của tôi. Ngọn giáo đâm vào giữa chân trước của nó và thật sốc khi tôi bị đẩy ngược lại. Nhưng khi hạ chân xuống, tôi thấy con chó lăn trên mặt đất trước mặt tôi và bị trục giáo đang xoắn trong tay tôi nghiến qua.
Hai con khác nhảy vào Leo, nhưng không chộp được cậu, dù một con đã xé đi một mảnh lớn trên áo dài của cậu. Khá ngốc nghếch, cậu phi cây giáo vào nó nhưng trượt, vì thanh thép đó chỉ sượt dưới bụng nó và cắm sâu vào đất. Hai con chó đó không quay lại ngay lập tức. Có lẽ cảnh đồng đội chết làm chúng ngừng lại. Dù sao, chúng đứng gầm gữ ở một khoảng cách tương đối, dù giáo không còn nhưng đủ an toàn với chúng tôi.
Hiện tại Khan đang cưỡi trên ngựa và trừng trừng nhìn chúng tôi, gương mặt anh ta như quỉ dữ. Tôi hy vọng hắn sợ tấn công, nhưng lúc nhìn vào mắt hắn, tôi biết điều đó là không thể. Hắn hoàn toàn phát điên vì căm ghét, ghen tuông, và phấn kích kéo dài của cuộc săn đuổi, muốn đi giết hoặc bị giết. Trượt khỏi lưng ngựa, hắn rút một thanh kiếm ngắn – vì hắn đã mất cây giáo hoặc không mang gì theo – rồi huýt sáo với hai con chó, lấy thanh gươm chỉ vào tôi. Tôi thấy chúng nhảy lên và tôi thấy hắn chạy lại chỗ Leo, sau đó ai có thể kể được chính xác chuyện gì đã xảy ra đây?
Con dao của tôi đã cắm vào cơ thể của một con chó – nó lăn ra đất và nằm đó – vì chân sau của nó đã bị tê liệt, gào thét, gầm rít và cắn vào tôi. Còn con kia, con quái vật có tên Thủ Lĩnh, ngoặm vào dưới khuỷu tay phải của tôi, rồi tôi cảm thấy xương mình gãy ra trong quai hàm hầm hố của nó, đau đớn khiến tôi đánh rơi con dao, thế là tôi không còn vũ khí. Con vật kéo tôi khỏi tảng đá và bắt đầu làm tôi rung lắc, dù tôi đá vào bụng nó bằng tất cả sức mạnh. Tôi gục xuống và thật may mắn, tay trái tôi chạm vào viên đá bằng quả cam lớn, tôi nắm chặt lấy. Tôi lại đứng dậy và dùng viên đá đập vào hộp sọ của nó, nhưng nó vẫn không từ bỏ, điều này lại tốt với tôi, vì cú ngoặm tiếp theo có thể vào cổ họng tôi.
Chúng tôi xoắn vào nhau tới lui, người và chó. Có lúc tôi nghĩ đã thấy Leo và Khan cuộn nhau cùng lăn lộn trên mặt đất; lúc khác lại thấy hắn ta, Khan, đang ngồi trên hòn đá nhìn tôi, khiến tôi nghĩ hắn ta đã giết Leo và đang quan sát con chó hành hạ tôi tới chết.
Sau đó mọi thứ đều trở nên đen tối, có gì đó nhảy ra phía trước và tôi thấy con chó khổng lồ bị nhấc khỏi mặt đất. Hàm nó bạnh ra, cánh tay tôi được giải thoát và rơi bên cạnh. Đúng! Con vật đang xoáy tròn trong không khí. Leo giữ hai chân sau của nó và quay nó thành vòng tròn liên tục bằng tất cả sức mạnh tuyệt vời của cậu.
Uỵch!
Cậu đã làm đầu nó đập vào tảng đá, nó ngã xuống và nằm im, thành một đống bùi nhùi đen đỏ. Thật kỳ lạ, tôi không ngất đi; tôi cho rằng sự đau đớn và cú sốc thần kinh giữ tôi tỉnh táo, vì tôi còn nghe thấy Leo nói bằng giọng rất bình tĩnh giữa hơi thở hổn hển của cậu – “Phải, thế là xong, cháu nghĩ cháu đã hoàn thành lời tiên tri của Pháp Sư. Nhìn lại cho chắc chắn đi.”
Sau đó cậu đưa tôi tới một tảng đá, nằm ngửa trên đó là Khan, vẫn sống nhưng không thể cử động tay chân. Kẻ điên cuồng đó đã hoàn toàn mất mặt, hắn nhìn chúng tôi bằng đôi mắt u sầu, giống như mắt của đứa trẻ bệnh tật.
“Các ngươi là những người can đảm,” hắn chậm rãi nói, “cũng rất khỏe, đã giết được mấy con chó săn kia và làm gãy lưng ta. Thế là chuyện này đã xảy ra giống như tiên đoán của con Chuột già. Cuối cùng, ta săn đuổi Atene, chứ không phải ngươi, dù giờ nàng sống để trả thù ta, vì lợi ích của nàng, chứ không phải của ngươi. Râu Vàng, nàng cũng đang săn đuổi ngươi và cùng với bầy chó săn tử thần còn kinh khủng hơn những con chó kia, đó là những đam mê ngang trái của nàng. Tha thứ cho ta và bay nhanh tới Ngọn Núi đi, Râu Vàng, ta sẽ đến đó trước ngươi, vì ở đó cư ngụ một kẻ còn mạnh hơn Atene.”
Rồi quai hàm há ra và hắn đã chết.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 10



Chương 10: Trong căn phòng của Pháp Sư

Một buổi tối, Simbri yêu cầu chúng tôi ăn tối với ông ta trong căn phòng của ông trên tòa tháp cao nhất của cung điện – chúng tôi biết điều đó, đối với chúng tôi, đó thực sự là một nơi định mệnh, nơi đây, cảnh cuối của vở kịch đồ sộ đã diễn ra. Chúng tôi tới đó, khá vui vì có sự thay đổi. Khi chúng tôi ăn, Leo trở nên rất trầm tư, rồi bỗng nhiên nói – “Simbri thân mến, tôi muốn cầu xin ngài một đặc ân – ngài có thể xin Khania để chúng tôi đi con đường của mình được không.”
Ngay lập tức khuôn mặt già nua xảo quyệt của Pháp Sư giống như chiếc mặt nạ bằng ngà.
“Tất nhiên tốt hơn ngươi nên yêu cầu đặc ân với chính nàng, anh bạn ạ; ta không nghĩ có lý do gì để từ chối ngươi,” ông ta đáp.
“Chúng ta hãy dừng việc tạo ra rào chắn,” Leo nói, “Và hãy nhìn vào thực tế. Theo tôi dường như Khania Atene không hạnh phúc bên chồng.”
“Con mắt của ngươi thật sắc bén, chàng trai, ai nói họ đang lừa dối ngươi chứ?”
“Hơn nữa có vẻ như,” Leo đỏ mặt tiếp tục, “nàng đã quan tâm đến tôi quá tốt tới mức – không đáng.”
“A! Có lẽ ngươi đã đoán ra khi ở ngôi nhà Cánh Cổng đằng kia, dù ngươi không quên những gì hầu hết đàn ông đều nhớ được.”
“Tôi nhớ vài thứ, ngài Simbri, vài thứ phải làm giữa nàng và ngài.”
Pháp Sư chỉ vuốt bộ râu của mình và bảo: “Nói tiếp đi!”
“Chỉ một chút thôi, ngài Simbri, ngoại trừ việc tôi không cố ý tạo ra tai tiếng cho tên tuổi của người phụ nữ quyền uy nhất mảnh đất này.”
“Thật cao thượng, chàng trai, thật cao thượng, dù ở đây những chuyện như thế không gây ra khó khăn nhiều lắm. Nhưng chuyện sẽ thế nào nếu không có tai tiếng? Giả sử, liệu Khania có chọn một người chồng khác khiến cả vùng đất này đều vui mừng không, vì nàng là người cuối cùng mang dòng máu hoàng tộc.”
“Làm sao nàng có thể lấy chồng khác khi nàng vẫn còn một người chồng đang sống kia chứ?”
“Đúng; quả là vấn đề ta đã cân nhắc, nhưng câu trả lời là, người đó sẽ chết. Nói chung, Khan gần đây đã luôn uống quá nhiều.”
“Ngài muốn nói người đó có thể sẽ bị giết hại,” Leo tức giận nói. “Được rồi, tôi không có gì để làm với một tội lỗi như thế. Ngài có hiểu tôi không?”
Khi lời vừa ra khỏi miệng cậu, tôi nghe thấy tiếng sột soạt và quay đầu lại. Đằng sau chúng tôi là tấm rèm che bên ngoài chỗ Pháp Sư ngủ, che cả dụng cụ tiên đoán và chiêm tinh của ông. Giờ chúng bị vén lên, ở đó, trong phong thái hoàng tộc, Khania đứng yên như một bức tượng.
“Ai bảo đó là tội lỗi?” cô ấy hỏi bằng giọng lạnh lẽo. “Là chàng sao, Leo, chúa tể của lòng ta?”
Đứng lên khỏi ghế, cậu đối mặt với cô và nói – “Thưa quí bà, tôi rất vui khi nàng nghe thấy những lời tôi nói, ngay cả nếu chúng làm nàng phật ý.”
“Tại sao nó làm ta phật ý khi biết có một người đàn ông trung thực nhất cung điện này sẽ không tham gia vụ giết người? Không, ta tôn trọng chàng vì những lời đó. Hãy nhớ rằng không một suy nghĩ bẩn thỉu nào có thể tới gần ta. Nhưng, Leo Vincey, điều đó đã được viết ra – đã được viết ra rồi.”
“Chắc chắn rồi, thưa Khania; nhưng cái gì đã được viết ra thế?”
“Hãy nói cho chàng đi, Pháp Sư.”
Bây giờ Simbri đi tới sau tấm rèm và quay lại cùng một cuộn giấy và đọc lên: “Trời đưa ra các dấu hiệu không thể sai lầm được, trước tuần trăng tiếp theo, Khan Rassen sẽ chết dưới tay người lạ - vị chúa tể tới đất nước này từ dãy núi.”
“Thế thì trời đưa ra lời dối trá rồi.” Leo khinh bỉ nói.
“Tùy chàng thôi,” Atene trả lời; “nhưng nó sẽ xảy ra như vậy, không phải dưới tay ta hay những người tùy tùng của ta, mà chính là chàng. Rồi sao nữa?”
“Tại sao lại bởi tay tôi? Tại sao không phải bởi Holly? Nếu vậy, chắc chắn tôi sẽ đau đớn vì người vợ góa của ngài sẽ trừng phạt tội lỗi tôi gây ra,” cậu bực tức trả lời.
“Xin chàng đừng thử thách ta, Leo Vincey, chàng biết rõ người đàn ông này là người chồng như thế nào với ta.”
Bây giờ tôi cảm thấy cuộc khủng hoảng đã tới, Leo cũng vậy, vì cậu nhìn thẳng vào cô ấy và nói – “Nói đi, thưa quí bà, hãy nói tất cả những gì nàng muốn; có lẽ điều đó sẽ tốt hơn với cả hai ta.”
“Ta nghe theo lời chàng. Lúc bắt đầu câu chuyện định mệnh này, ta không biết gì hết, nhưng ta đã đọc được trang đầu tiên mở ra trước mắt ta. Đó là điều phải làm với cuộc đời hiện tại này của ta. Chàng hiểu chứ, Leo Vincey, từ lúc còn thơ ấu, chàng đã ám ảnh ta. Ôi! Khi lần đầu tiên nhìn thấy chàng trên bờ sông, gương mặt chàng không hề xa lạ với ta, vì ta biết nó – ta biết nó rõ ràng trong những giấc mơ. Khi ta là một cô gái nhỏ và một ngày nọ ngủ quên giữa đám hoa bên cửa sông, giấc mơ đó đã lần đầu tới bên ta – hãy hỏi bác ta ở đây đi, liệu có đúng vậy không, dù thật ra gương mặt chàng trẻ hơn bây giờ. Sau đó ta cứ gặp nó hết lần này đến lần khác trong giấc ngủ và hiểu rằng chàng là của ta, vì sự thần bí của trái tim đã dạy ta điều đó.”
“Rồi năm tháng dài lê thê cứ trôi qua trong khi ta cảm thấy chàng đang ở rất gần ta, chậm chạp, rất chậm chạp, nhưng càng lúc càng gần hơn, đi đi lại lại giữa các tộc người trên thế gian; qua những ngọn đồi, qua các đồng bằng, qua cát, qua tuyết, tới bên ta. Cuối cùng kết cục cũng đến, một đêm không quá ba tuần trăng trước, cùng với nhà thông thái này, bác của ta, và ta ngồi cùng nhau ở đây nghiên cứu kiến thức ông đã dạy ta và cố gắng tìm ra bí mật trong quá khứ, một ảo cảnh đã hiện ra trước mắt ta.”
“Chàng nhìn đi, ta bị lạc lối trong giấc ngủ mê làm linh hồn rời khỏi thể xác và trao cho nó sức mạnh đi xa hơn, nhìn thấy những chuyện đã, đang và sắp xảy ra. Rồi ta thấy chàng cùng người bạn đồng hành của chàng đang bám vào một mảnh băng vỡ, trên con sông dưới vực thẳm. Ta không nói dối; điều đó đã được viết ở đây, trên cuộn giấy. Đúng, chính là chàng, người đàn ông trong những giấc mơ của ta, chứ không phải ai khác, chúng ta biết nơi đó và vội vã tới đó chờ đợi bên dòng nước, cho rằng có lẽ chàng đã nằm chết dưới đó.”
“Sau đó, lúc chúng ta đang đợi, ôi! Hai thân ảnh nhỏ nhoi xuất hiện phía xa trên sông băng mà chưa ai trèo qua, và than ôi, chàng đã biết phần còn lại rồi đó. Chúng ta đứng đó như bị mê hoặc và thấy chàng trượt đi, bị treo lơ lửng, thấy chàng cắt sợi dây mỏng và rơi xuống, thấy người đàn ông dũng cảm này, Holly, đâm đầu lao theo chàng.”
“Nhưng bàn tay ta đã lôi chàng khỏi dòng nước xiết, nếu không chàng đã chết đuối, chàng là tình yêu trong quá khứ xa xôi và hiện tại, phải, tình yêu mãi mãi của ta. Đúng, chàng chứ không phải ai khác, Leo Vincey. Chính linh hồn này đã nhìn thấy trước hiểm nguy của chàng và bàn tay này đã kéo chàng khỏi tử thần – giờ chàng muốn từ chối chúng sao – khi ta, Khania của Kaloon, đã hiến dâng chúng cho chàng?”
Cô ấy nói vậy, dựa vào chiếc bàn, nhìn vào gương mặt cậu với đôi môi run rẩy cùng đôi mắt như khẩn cầu.
“Thưa quí bà,” Leo nói, “nàng đã cứu tôi, tôi xin cảm ơn nàng lần nữa, dù có lẽ sẽ tốt hơn nếu nàng để tôi chết đuối. Nhưng hãy tha thứ cho câu hỏi của tôi, nếu toàn bộ chuyện này là thật, tại sao nàng lại cưới người đàn ông khác?”
Giờ cô ấy co người lại như thể bị một con dao đâm vào.
“Ôi! Đừng đổ lỗi cho ta,” cô rên rỉ, “đó là khế ước trói buộc ta với kẻ điên rồ này, kẻ khiến ta căm ghét. Họ buộc ta phải làm điều đó; đúng, thậm chí cả ngươi, Simbri, bác ta, vì hành động đáng nguyền rủa đó do ngươi dẫn đầu – họ hối thúc ta, bảo rằng cần phải chấm dứt cuộc chiến giữa phe cảnh của Rassen và của ta. Ta là người cuối cùng mang huyết thống thực sự, hơn nữa cũng bảo rằng những giấc mơ và ký ức của ta chỉ là đống ảo tưởng bệnh hoạn. Vậy đấy, than ôi! Than ôi! Ta đã cúi đầu, vì muốn làm cho dân tộc của ta vĩ đại hơn.”
“Bản thân nàng là người vĩ đại nhất trong số họ, nếu những gì ta nghe là sự thật,” Leo thẳng thắn nhận xét, vì cậu đã kiên quyết kết thúc chuyện này. “Phải rồi, tôi không đổ lỗi cho nàng, Khania, dù giờ đây nàng bảo tôi phải cắt đi nút dây nàng buộc bằng cách tước đi tính mạng người chồng do chính nàng chọn kia, vì số phận đã ra lệnh thế, số phận nàng đã tạo nên. Đúng, tôi phải làm những gì nàng không làm, giết hắn ta. Câu chuyện về mệnh lệnh từ trên trời và ảo cảnh dẫn nàng tới vách núi để cứu chúng tôi là dối trá. Thưa quí bà, nàng gặp tôi bên bờ sông là do Hesea “hùng mạnh”, Linh Hồn của Ngọn Núi, đã ra lệnh cho nàng làm vậy.”
“Làm sao chàng biết điều đó?” Atene nói, đứng bật dậy đối mặt với cậu ấy trong khi quai hàm của Simbri già nua há ra và mí mắt chớp chớp nhìn cậu qua lăng kính.
“Ta còn biết nhiều nữa cơ. Thưa quí bà, sẽ tốt hơn nếu nàng nói toàn bộ sự thật.”
Giờ gương mặt Atene đã tái mép và gò má cô lõm xuống.
“Ai nói cho chàng?” cô ấy thì thào. “Là ngươi phải không, Phù Thủy?” và cô quay về phía bác mình như một con rắn chuẩn bị tấn công. “Ôi! Nếu vậy, chắc ta sẽ phải biết chứ, dù chúng ta cùng một dòng máu và đã luôn yêu thương nhau, ta sẽ bắt ngươi phải trả giá trong đau đớn.”
“Atene, Atene,” Simbri ngắt lời, giơ tay lên, “nàng biết rõ rằng đó không phải là ta.”
“Thế thì là ngươi đúng không, ngươi, kẻ lang thang có gương mặt như tinh tinh này, ngươi là sứ giả của quỉ dữ? Ôi! Tại sao ta không giết chết ngươi ngay từ đầu? Phải, sai lầm đó có thể khắc phục được thôi.”
“Thưa quí bà,” tôi ôn tồn đáp, “Tôi cũng là một phù thủy ư?”
“Phải,” cô trả lời, “ta nghĩ ngươi là phù thủy, ngươi có một nữ chủ nhân ngự trong ngọn lửa.”
“Thế thì, thưa Khania,” tôi nói, “đám người hầu và những nữ chủ nhân như thế thật phát ốm nếu dính vào. Hãy nói mà xem, Hesea đã gửi cho nàng thông báo trả lời thế nào về việc chúng tôi đến mảnh đất này?”
“Nghe đây,” Leo ngắt lời trước khi cô ta đáp lại. “Tôi đã hỏi một câu về Nhà Tiên Tri trên đỉnh núi đằng kia. Dù nàng nguyện ý hay không, tôi đã phải nói rằng, tôi sẽ ra đi, sau đó nàng có thể tự quyết định ai là kẻ mạnh hơn – Khania của Kaloon hay Hesea của Cung Điện Lửa.”
Atene lắng nghe và đứng im lặng một lúc, có lẽ vì cô không có câu trả lời. Rồi cô cười khẽ - “Đó là ý nguyện của chàng ư? Được thôi, ta nghĩ trên đó không có người chàng muốn cưới đâu. Chỉ có ngọn lửa để phục tùng, một linh hồn vô sỉ không hề đáng yêu ám ảnh làm người ta điên cuồng trong khát vọng tội lỗi;” và như đang triền miên trong suy tư thầm kín, nỗi đau đớn co rút hiện qua gương mặt và bắt chẹt hơi thở của cô. Sau đó cô ấy tiếp tục với giọng lạnh lẽo – “hỡi những kẻ lang thang, vùng đất này có nhiều bí mật, không một người bên ngoài nào được tò mò về chúng. Ta nói lại lần nữa, trong khi ta vẫn còn sống, các ngươi không được đặt chân lên Ngọn Núi đó. Cũng nhớ cho, Leo Vincey, ta đã phơi bày trái tim ta trước chàng, ta cũng được đáp lại rằng cuộc hành trình dài này của chàng không phải vì ta, như thể ta là kẻ ngu ngốc, nhưng ta nghĩ, vì quỉ dữ đang mang hình hài người phụ nữ đó, chàng sẽ không bao giờ tìm thấy. Giờ ta sẽ không cầu nguyện cho chàng nữa; điều đó không phù hợp, mà chàng đã biết quá nhiều.”
“Do đó, từ đêm nay tới trước lúc mặt trời lặn ngày mai, hãy cân nhắc trả lời. Đã đưa đề nghị rồi, ta sẽ không quay lại, ngày mai chàng hãy nói cho ta, liệu chàng sẽ lấy ta khi thời khắc tới như nó phải thế, và thống trị mảnh đất này, sống cuộc đời vĩ đại và hạnh phúc trong tình yêu của ta, hay chàng và người bạn thân thiết của chàng, các người sẽ phải chết. Hãy lựa chọn giữa sự báo thù của Atene và tình yêu của nàng, vì ta không bận tâm khi bị nhạo báng trên mảnh đất của mình như một kẻ bừa bãi tìm kiếm một người lạ và – bị từ chối.”
Cô từ từ, từ từ nói ra từng lời trong tiếng thì thầm dữ dội, từng từ từng từ rơi trên môi cô như giọt máu rơi ra từ vết thương chết người, và theo sau đó là sự im lặng. Tôi không bao giờ quên được cảnh đó. Ở đó vị phù thủy già quan sát chúng tôi qua đôi mắt có lớp vảy sừng, chớp chớp như con cú đêm. Ở đó người phụ nữ uy quyền đứng trong chiếc hoàng bào, cơn thịnh nộ buốt giá hiện rõ trên gương mặt cô và sự thù hận cả trong ánh mắt. Ở đó, đối diện với cô ấy, là dáng hình to lớn của Leo, im lặng, cảnh cáo, kiên quyết, giữ chặt những nghi ngờ và sợ hãi của cậu trong bàn tay ý chí sắt đá. Và ở đó, tôi có quyền ghi nhớ mọi thứ và tự hỏi, tôi, “người bạn thân thiết” bị Atene căm ghét, còn có thể sống sót trên đời bao lâu nữa.
Chúng tôi đứng đó nhìn nhau, tới khi bỗng nhiên thấy ánh đèn chập chờn phía trên, rồi cảm thấy một làn gió lướt qua mặt. Tôi nhìn quanh, và nhận ra một người nữa hiện diện. Đằng kia trong bóng tối hiện ra dáng hình cao lớn của một người đàn ông. Nhìn xem! Hắn yên lặng lê bước về phía trước, tôi thấy đôi chân trần. Giờ hắn đã tới vầng sáng của ánh đèn và bật ra tiếng cười man rợ.
Đó là Khan.
Atene, vợ anh ta, ngước lên và nhìn anh ta, chưa bao giờ tôi ngưỡng mộ sự can đảm của người phụ nữ đầy đam mê này hơn thế, trong khi ngưỡng mộ sự tiết kiệm và vẻ đẹp của cô ít hơn một chút, vì gương mặt cô không hiện lên sự tức giận hay sợ hãi, mà chỉ có sự khinh bỉ. Dù cô ấy có lý do để sợ hãi, như chính cô cũng biết rõ điều đó.
“Ngài làm gì ở đây thế, Rassen?” cô hỏi, “đang bò lại phía ta trên đôi chân rắn rết của ngài sao? Trở lại với rượu và đám phụ nữ trong cung điện của ngài đi.”
Nhưng anh ta vẫn cười, tiếng cười của một kẻ tàn bạo.
“Ngài đã nghe thấy gì?” cô ấy nói, “điều đó làm ngài vui đến vậy sao?”
“Ta đã nghe thấy gì à?” Rassen ồng ộc tuôn ra những tiếng la hét trong niềm vui mừng ghê tởm. “ô hô! Ta đã nghe thấy Khania, người cuối cùng mang dòng máu hoàng tộc thực sự, người đầu tiên trên mảnh đất này, nàng công chúa kiêu hãnh không để áo khoác của mình bị lấm bẩn bởi đám ‘phụ nữ trong cung điện’, và vợ ta, vợ ta, người đã đề nghị ta cưới nàng – nhớ điều này nhé, những kẻ xa lạ kia – vì ta là họ hàng của nàng và là đối thủ cầm quyền, là lãnh chúa giàu nhất của vùng đất này, thế nên nàng nghĩ nàng có thể gia tăng quyền lực – ta đã nghe thấy lời đề nghị của nàng với một kẻ lang thang vô danh có bộ râu vàng lớn, và ta đã nghe thấy hắn ta căm hận muốn trốn thoát khỏi nàng” – nói đến đây anh ta cười lớn – “từ chối nàng theo cách mà ngay cả ta cũng chưa từng dùng để từ chối người phụ nữ thấp hèn nhất trong cung điện.”
“Ta cũng nghe thấy – dù ta luôn biết điều đó – rằng ta là kẻ điên; hỡi những kẻ xa lạ kia, ta bị điên vì lá bùa căm hận của con Chuột già kia,” anh ta chỉ vào Simbri, “khiến ta chìm trong say xỉn – đúng, ngay tại tiệc cưới của mình. Nó đã rất công hiệu, vì thực ra không có ai khiến ta căm ghét hơn Khania Atene. Tại sao ư, ta không thể chịu đựng được sự đụng chạm của nàng ta, nó khiến ta phát ốm. Ta không ưa nổi khi cùng phòng với nàng ta; nàng làm không khí dơ bẩn; nàng ta đầy mùi tà thuật.”
“Có lẽ các ngươi cũng thấy thế, đúng không Râu Vàng? Phải, nếu vậy, hãy hỏi con Chuột già kia thứ đồ uống tình yêu; hắn ta có thể tạo ra nó, và ngươi sẽ nghĩ nàng ta thật ngọt ngào, tốt bụng, xinh đẹp, và dành thêm vài tháng nữa đủ để vui vẻ. Tên kia, đừng ngu ngốc nữa, cái cốc đẩy vào tay ngươi trông được đấy. Uống đi, uống nhiều vào. Ngươi sẽ không bao giờ đoán ra chất lỏng đó tệ hại thế nào – cho đến ngày mai – khi nó đã bị trộn máu đã nhiễm độc của một ông chồng,” Rassen lại la hét trong niềm hân hoan tội lỗi.
Trước tất cả những lời nhục mạ cay đắng đó, châm chọc chua cay sự thật, Aten lắng nghe không nói một lời. Sau đó, cô quay lại cúi người trước chúng tôi.
“Các vị khách của ta,” cô ấy nói, “ta cầu xin các người ta thứ vì tất cả những gì ta không thể giúp được. Các người đã lạc tới một vùng đất đồi bại và đầy quỉ dữ, dù nó vẫn mang vương miện và hoa. Khan Rassen, kết cục của ngài đã được viết ra, ta không thúc đẩy nó, vì một khi làm vậy, chúng ta sẽ gần nhau hơn thôi, dù với ta, ngươi là kẻ vô dụng suốt nhiều năm qua, chỉ làm một con rắn ám nhà ta. Dù không có nó, chiếc cốc tiếp theo ngươi uống cũng vẫn làm ngươi điên thôi, miệng lưỡi thấp hèn làm giọng ngươi trở nên độc ác. Bác, hãy đi cùng ta. Bàn tay của ngươi khiến ta trở nên yếu đuối vì xấu hổ và đau đớn.”
Pháp Sư già khập khiễng bước về phía trước, nhưng khi ông ta đi tới mặt đối mặt với Khan, ông ta dừng lại và nhìn trên dưới anh ta qua đôi mắt mờ đục. Rồi ông ta nói – “Rassen, ta đã nhìn ngươi sinh ra, con trai của một phụ nữ xấu xa, cha ngươi không biết gì nhưng ta biết. Ngọn lửa bùng lên đêm đó trên ngọn núi Lửa, những vì sao cũng dấu mặt, vì không ai muốn làm chủ ngươi, không, thậm chí ngay cả kẻ có ảnh hưởng xấu xa nhất. Ta nhìn ngươi kết hôn và say xỉn trong lễ cưới, cánh tay ngươi đặt trên cổ một kẻ dâm đãng. Ta nhìn ngươi cai trị, lãng phí đất đai cho thú vui chơi bạo lực, biến những cánh đồng màu mỡ thành bãi săn lớn cho những trò chơi của ngươi, để người dân cày cấy chết đói trên đường hay chết đuối trong mương vì khốn khổ. Và sẽ sớm thôi, sớm thôi, ta sẽ chóng thấy ngươi chết trong đau đớn và máu, rồi sợi xích sẽ rơi khỏi cổ người phụ nữ cao quí mà ngươi chửi rủa này, sẽ có người khác xứng đáng hơn thế chỗ ngươi và sinh con đẻ cháu lấp vào ngôi vị của ngươi, mảnh đất này sẽ lại vẫn tồn tại.”
Giờ đây tôi lắng nghe những lời đó – không ai chưa nghe thấy lại có thể đoán ra nỗi cay đắng ghê người đang được nói đến – trông đợi từng giây phút Khan sẽ rút thanh gươm ngắn bên mình và đâm ông già ngã xuống. Nhưng anh ta đã không làm vậy; anh ta co rúm người như một con chó trước chủ nhân tàn bạo, đã biết rõ sức nặng của cây roi. Đúng, không nói gì, anh ta co người vào góc và rúm ró ở đó, trong lúc đó, Simbri cầm tay Atene đi ra khỏi phòng. Tại cánh cửa sắt to lớn, ông ta quay lại chỉ vào thân ảnh đang co quắp bằng cây gậy và nói – “Khan Rassen, ta đã đưa ngươi lên, và giờ ta đẩy ngươi xuống. Hãy nhớ tới ta khi ngươi nằm xuống chết đi – trong vũng máu và đau đớn.”
Bước chân của họ biến mất, Khan bò ra khỏi góc, lén lút nhìn quanh.
“Con Chuột đó và người kia đã đi rồi à?” anh ta hỏi chúng tôi, dùng tay áo lau trán đẫm mồ hôi; tôi thấy nỗi sợ hãi làm anh ta tỉnh táo và lúc đó, cơn điên loạn biến mất khỏi đôi mắt anh ta.
Tôi trả lời rằng họ đã đi rồi.
“Các ngươi nghĩ ta là một kẻ hèn nhát,” anh ta tiếp tục đầy say mê, “đó là sự thật, ta sợ hắn và nàng ta – cũng như ngươi, Râu Vàng, sợ hãi khi tới lượt ngươi. Ta bảo ngươi này, bọn họ làm ta suy sụp sức khỏe và điên loạn khi uống thuốc mê, khiến ta thành thứ như bây giờ, vì ai chống lại được ma thuật của bọn họ chứ? Giờ ngươi nhìn đi. Ta từng là một hoàng tử, lãnh chúa của một nửa vùng đất này, hình thức cao quí và trái tim thẳng thắn, và ta yêu vẻ đẹp đáng nguyền rủa của nàng giống như tất cả mọi người đều yêu nó từ khi nàng mở mắt. Và nàng trở thành thù địch với ta, nàng tìm ta để kết hôn; chính con Chuột già kia truyền thông điệp của nàng.”
“Vì thế ta dừng cuộc chiến lớn lại và cưới Khania, rồi trở thành Khan; nhưng với ta có lẽ bò vào bếp của nàng như tên phụ bếp còn tốt hơn bò lên giường nàng như một người chồng. Nàng đã ghét ta ngay từ đầu, ta càng yêu, nàng càng căm ghét, tới lúc cưới, nàng đưa ta chất độc dược khiến ta không còn ưa thích nàng nữa, vì thế chúng ta đã ly hôn; điều đó cũng khiến ta phát điên, gặm nhấm não ta như ngọn lửa.”
“Nếu nàng ấy ghét ngài ghê gớm đến vậy, thưa Khan,” tôi hỏi, “tại sao nàng không trộn một liều mạnh hơn cho ngài?”
“Tại sao ư? Vì hiệp ước, vì ta thống trị một nửa vùng đất. Vì nó yêu cầu nàng, ta phải còn sống, thật nực cười, khi ta còn sống, người dân không được ép nàng lấy chồng khác. Vì nàng không phải là một phụ nữ, nàng là một phù thủy khao khát sống đơn độc, hoặc ta đã nghĩ vậy cho tới tận hôm nay” – và anh ta trừng mắt nhìn Leo.
“Nàng cũng biết dù ta co rúm trước nàng, ta vẫn yêu nàng bằng cả trái tim, vẫn ghen tuông, và do đó, ta vẫn bảo vệ nàng khỏi mọi tên đàn ông. Chính nàng đưa ta tên lãnh chúa để đàn chó của ta xé xác lúc trước, vì hắn rất quyền lực và đòi hỏi đặc ân của nàng mà nàng không thể từ chối. Đó là vì có một người đàn ông nàng cưới nơi đây cố làm tan chảy tảng băng trong lòng nàng bằng ngọn lửa.”
Rồi Leo vốn vẫn đứng im lặng, đã bước lên phía trước.
“Thưa Khan, hãy nghe này,” cậu nói. “Tảng băng đó trước đây đã tan chảy chưa, dù chỉ một chút thôi?”
“Không – trừ khi ngươi nằm xuống. Nhưng đó chỉ vì ngọn lửa chưa đủ nóng. Hãy đợi một lúc cho đến khi nó bùng lên, ngươi sẽ phải tan chảy, vì ai có thể mang ý chí của mình chống lại Atene chứ?”
“Chuyện gì xảy ra nếu tảng băng muốn chạy trốn khỏi ngọn lửa? Thưa Khan, họ nói tôi sẽ giết ngài, nhưng tôi không tìm kiếm máu của ngài. Ngài nghĩ tôi muốn cướp vợ ngài khỏi ngài sao, nhưng tôi không hề có ý định đó với nàng ta. Chúng tôi muốn trốn khỏi thành phố này của ngài, nhưng không thể, vì các cánh cổng đều bị khóa, chúng tôi là tù nhân, bị canh giữ cả ngày lẫn đêm. Hãy nghe tôi. Ngài có quyền lực đủ để trả tự do cho chúng tôi và tống khứ chúng tôi đi.”
Khan khôn khéo nhìn cậu ấy. “Nếu ta giải thoát cho các ngươi, các ngươi muốn đi đâu? Các ngươi sẽ rơi xuống hẻm núi đằng kia thôi, chỉ chim chóc mới vượt qua độ cao của nó.”
“Tới ngọn núi Lửa, chúng tôi có việc ở đó.”
Rassen nhìn cậu ấy chằm chằm.
“Ta là kẻ điên, hay là các ngươi, muốn tới ngọn núi Lửa ư? Nhưng chả là gì với ta cả, ta không tin ngươi. Nhưng nếu vậy, ngươi có thể sẽ trở lại và mang những người khác theo. Không chừng là phụ nữ ở đó, ngươi cũng muốn mảnh đất này với quyền lợi của kẻ chinh phạt. Kẻ thù ở đằng kia đó.”
“Không phải vậy,” Leo kiên định trả lời. “Với tư cách một người đàn ông, tôi bảo không phải vậy. Tôi không đòi hỏi dù một nụ cười từ vợ ngài, không đòi hỏi dù chỉ một acre đất đai. Hãy khôn ngoan lên và giúp chúng tôi đi khỏi đây, hãy sống cuộc đời không bị xáo trộn theo cách làm ngài hài lòng.”
Khan vẫn đứng một lúc, đung đưa đôi cánh tay dài lơ đãng, tới khi có gì đó dường như xuất hiện trong đầu anh ta khiến anh ta vui vẻ, vì anh ta nở nụ cười xấu xa.
“Ta đang nghĩ,” anh ta nói, “Atene sẽ nói gì đây nếu nàng tỉnh giấc thấy con chim đẹp đẽ của mình bay mất. Nàng sẽ tìm kiếm các ngươi và điên tiết lên với ta.”
“Có lẽ nàng ấy sẽ không tức giận hơn bây giờ đâu,” tôi trả lời. “Hãy cho chúng tôi một đêm để ra đi và để nàng tìm kiếm chặt chẽ đến mức chưa bao giờ có, nàng sẽ không tìm ra chúng tôi đâu.”
“Ngươi đã quên rồi, kẻ lang thang kia, nàng và con Chuột già của nàng có nhiều mưu mẹo. Kẻ biết nơi gặp được các ngươi có lẽ sẽ biết nơi tìm được các ngươi thôi. Nhưng mà thật hiếm khi nhìn thấy nàng nổi giận. ‘Ôi, Râu Vàng, chàng đang ở đâu, Râu Vàng?’” Anh ta tiếp tục nhại lại giọng vợ mình. “’Hãy quay về đi và để ta làm chàng tan chảy, hỡi Râu Vàng của ta.’”
Anh ta lại cười; rồi đột nhiên nói – “Khi nào các ngươi có thể sẵn sàng?”
“Nửa giờ nữa,” tôi trả lời.
“Tốt. Về phòng và chuẩn bị đi. Ta sẽ cùng đi với các ngươi tới đó.”
Thế là chúng tôi đi.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham 

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 9



Chương 9: Cung điện Kaloon

Kinh hoàng và trong lòng phát ốm, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Không ngạc nhiên khi Khania căm ghét một tên bạo chúa điên cuồng như vậy. Và người phụ nữ này đang yêu Leo, còn vị Khan điên rồ kia, chồng cô, là nạn nhân của ghen tuông, hắn trả thù theo cách rất khó chịu mà chúng tôi đã chứng kiến. Thật sự là một cảnh thích hợp cho tất cả chúng tôi! Nhưng tôi không thể không suy nghĩ, nếu là một bài học quan trọng, khung cảnh kinh hoàng đó có lợi ích gì.
Giờ chúng tôi đã tới nơi con sông chia ra ở cuối hòn đảo, và được đưa lên bờ trên một cầu cảng. Ở đó một đoàn người bảo vệ do chỉ huy của Ngự Lâm Quân ra lệnh đang đợi đón chúng tôi. Họ dẫn chúng tôi đi qua cánh cổng của bức tường lớn, vì thành phố đã được tôn tạo, trên một con phố hẹp lát đá chạy giữa những ngôi nhà mang phong cách Trung Á thông thường, tôi quan sát được dưới ánh trăng, chúng không mang vẻ đẹp kiến trúc, kích thước cũng không lớn.
Rõ ràng việc chúng tôi tới đã được lên kế hoạch và được quan tâm cùng nhiều phấn kích, vì người dân đã tập trung trong các điểm nút trung tâm trên đường phố để nhìn chúng tôi đi qua; cũng như từ các cửa sổ của những ngôi nhà và thậm chí cả trên mái nhà bằng phẳng của họ. Ở đầu con phố dài, có một chỗ giống như chợ, khi đi qua, đám đông tò mò đang nhận xét về chúng tôi nhưng chúng tôi không hiểu được, chúng tôi tới cổng của thành đại nội. Chúng tôi bị chặn lại ở đây, nhưng chỉ với một lời từ Simbri, nó đã mở ra, rồi chúng tôi đi qua và thấy những khu vườn. Cứ đi theo một con đường, chúng tôi đến một ngôi nhà, hay đúng hơn là một cung điện lớn, lộn xộn, nhô lên những tháp cao và được xây rất kiên cố bằng đá theo phong cách Ai Cập nặng nề, lai tạp.
Ngoài cửa cung điện, chúng tôi thấy mình đang ở trong một sân nhỏ có hành lang bao quanh và những lối đi hẹp dẫn tới những phòng khác nhau. Một sĩ quan dẫn chúng tôi đi xuống một trong những lối đi này tới một căn phòng, đúng hơn là một tổ hợp phòng ở, gồm một phòng khách và hai phòng ngủ, được ốp và trang bị nội thất phong phú theo phong cách man rợ, đủ ánh sáng từ những cây đèn dầu nguyên thủy.
Simbri để chúng tôi lại chỗ này, nói rằng viên sĩ quan sẽ đợi chúng tôi ở phòng ngoài để dẫn chúng tôi tới phòng ăn ngay sau khi chúng tôi đã sẵn sàng. Sau đó chúng tôi bước vào phòng ngủ, thấy đám người hầu hay nô lệ đang ở đó, họ im lặng và khúm núm. Những người phục vụ này thay đồ ở chân cho chúng tôi, cởi những chiếc áo choàng đi đường nặng nề xuống, thay chúng bằng quần áo có kiểu dáng áo khoác văn minh, làm từ chất liệu màu trắng viền lông chồn ermine tuyệt đẹp.
Mặc xong quần áo cho chúng tôi, họ cúi người thể hiện việc thu xếp quần áo đã kết thúc, rồi dẫn chúng tôi ra phòng lớn bên ngoài nơi vị sĩ quan đang đợi. Anh ta dẫn chúng tôi đi qua vài căn phòng khác, tất cả chúng đều rộng rãi và trống trải, tới một khán phòng rất lớn chiếu sáng từ rất nhiều cây đèn và những đống lửa lớn từ than bùn để sưởi ấm – vì đêm vẫn lạnh. Mái khán phòng này phẳng và đỡ bởi các cột đá dày, đầu cột chạm khắc, tường treo nhiều thảm trang trí, mang lại không khí tương đối thoải mái.
Tại đầu khán phòng, một chiếc bàn dài và hẹp đặt trên bệ, phủ vải và đặt nhiều chén đĩa bằng bạc. Chúng tôi đợi ở đó tới khi các phục vụ mang đũa vén rèm xuất hiện. Rồi tới một người gõ chiêng bạc, nhiều phụ nữ theo sau, vài người trong đó rất trẻ trung và ưa nhìn, hầu hết đều cùng một kiểu xinh đẹp, với những đường nét nổi bật, đều là người da vàng. Họ cúi chào chúng tôi và chúng tôi chào họ.
Sau đó dừng một lúc, tới khi một tiếng kèn thổi lên để truyền lệnh từ người hầu mang sắc phục màu vàng, hai thân ảnh được trông thấy đang đi xuống lối đi bên ngoài rèm, đi đầu là Pháp Sư Simbri, theo sau là các thủ lĩnh khác. Họ là Khan và Khania của Kaloon.
Không ai nhìn vào Khan khi anh ta đang bước vào phòng ăn tối phủ trang phục trắng của lễ hội lại có thể tưởng tượng ra đó chính là kẻ vũ phu điên cuồng chúng tôi vừa thấy thúc giục bầy chó săn như quỉ dữ xé xác một sinh vật đồng loại và một con ngựa vô dụng thành từng mảnh và ăn sống nuốt tươi họ. Bây giờ anh ta dường như là một người đàn ông nặng nề, thô tục, rất khỏe mạnh và trông không hề bệnh hoạn, nhưng đối mắt gian xảo, rõ ràng là một người có trí tuệ ngu đần, kẻ khiến ai cũng có thể nghĩ không có khả năng nảy sinh cảm xúc mãnh liệt dưới bất cứ dạng nào. Còn Khania thì không cần phải miêu tả. Cô vẫn giống như lúc trong căn phòng ở Cánh Cổng, chỉ trông mệt mỏi hơn; quả thật mắt cô ấy có vẻ như ma ám và dễ thấy những sự kiện đêm trước đã để lại dấu ấn trong tâm trí cô. Trước cái nhìn của chúng tôi, cô ấy hơi đỏ mặt, rồi vẫy tay ra hiệu chúng tôi tiến tới, và nói với chồng cô – “Hoàng Thượng, đây là các vị khách lạ ta đã kể với chàng.”
Đôi mắt buồn tẻ của anh ta rơi trên người tôi đầu tiên, vẻ bề ngoài của tôi dường như làm anh ta mơ hồ vui sướng, dù sao anh ta cũng đã cười thật thô lỗ, nói bằng giọng Hy Lạp lai tạp pha lẫn các thổ ngữ địa phương – “Thật là một động vật già nua kì lạ! Ta chưa bao giờ từng thấy ngươi trước đây, đúng không?”
“Không, thưa Khan vĩ đại,” tôi trả lời, “nhưng tôi đã trông thấy ngài đi săn tối qua. Ngài chơi thể thao rất giỏi đúng không?”
Anh ta ngay lập tức trở nên hoàn toàn tỉnh táo, xoa tay trả lời – “Tuyệt vời. Hắn đã mang đến cho chúng ta một cuộc rượt đuổi đẹp mắt, nhưng đám chó nhỏ của ta cuối cùng cũng bắt được hắn, rồi sau đó – “ anh ta nghiến quai hàm trèo trẹo.
“Ngừng những lời tàn bạo của chàng lại,” vợ anh ta quyết liệt ngắt lời, anh ta lẩn xa khỏi cô ấy và lúc đó vấp phải Leo đang đợi bên cạnh.
Hình ảnh người đàn ông tuyệt đẹp râu vàng này có vẻ làm anh ta kinh ngạc, vì anh ta nhìn chằm chằm cậu ấy, rồi hỏi – “Ngươi là người bạn khác của Khania mà nàng tới gặp ở dãy núi ngoài Cánh Cổng đúng không? Ta đã không thể hiểu tại sao nàng lại lo lắng nhiều đến vậy, nhưng giờ ta đã hiểu. Được rồi, hãy cẩn thận đấy, nếu không ta cũng sẽ săn đuổi ngươi.”
Bây giờ đến lượt Leo tức giận và muốn đáp lại, nhưng tôi đã giữ tay cậu và nói bằng tiếng Anh – “Đừng trả lời; người đàn ông này rất điên cuồng.”
“Bác muốn nói đó là kẻ tồi tệ đúng không,” Leo càu nhàu; “và nếu hắn cố đẩy đám chó đáng nguyền rủa kia vào cháu, cháu sẽ vặn gãy cổ hắn.”
Sau đó Khania đi tới chỗ Leo để cậu ngồi cạnh cô ấy, để tôi ngồi bên kia cô, giữa cô và bác cô, Người Bảo Vệ, trong khi đó Khan lê bước tới một chiếc ghế nhỏ hơn dưới bàn, ở đó anh ta gọi hai người phụ nữ xinh đẹp nhất phục vụ anh ta.
Chúng tôi đã được giới thiệu tới cung điện Kaloon như vậy. Đối với bữa ăn sau đó, rất nhiều món nhưng thô sơ, gồm cá gần nguyên con, thịt cừu, đồ ngọt, tất cả đều đặt trong những chiếc đĩa bạc lớn. Đồ uống rất mạnh cũng được phục vụ, một loại rượu mạnh chưng cất từ ngũ cốc, tất cả mọi người hiện giờ gần như đã uống nhiều hơn mức có thể chịu được. Sau vài lời với tôi về cuộc hành trình, Khania quay sang Leo và nói với cậu suốt thời gian còn lại trong buổi tối, còn tôi cống hiến bản thân cho vị Pháp Sư già Simbri.
Sau một thời gian ngắn, thực chất những gì tôi học được từ ông ấy lúc đó và sau này là như sau – thương mại là thứ vô nghĩa đối với người dân Kaloon, vì mọi trao đổi với miền nam đều bị cắt đứt từ nhiều thế hệ rồi, những cây cầu từng tồn tại giữa vực thẳm ngăn cách đã bị mục nát. Mảnh đất của họ rất rộng lớn và đông dân cư, bao quanh bởi núi non không thể trèo qua được, trừ phương bắc, nơi có ngọn núi Lửa hùng vĩ. Các sườn của đỉnh núi đó cùng dải đồng quê chưa ai đến thăm chạy tới tận biên giới với sa mạc, là nhà của các bộ lạc miền núi hung dữ, những Người Cao Nguyên khó thuần hóa, họ giết mọi người lạ mà họ bắt được. Kết quả là, dù kim loại quí và các kim loại khác được khai thác ở mức độ nhất định, được chế tạo thành vật dụng và đồ trang trí, nhưng tiền vẫn không tồn tại giữa các dân tộc trên Đồng Bằng cũng như trên Ngọn Núi, mọi việc kinh doanh đều được giao dịch trên nguyên tắc trao đổi, thậm chí doanh thu cũng được tính bằng hiện vật.
Trong số hàng chục nghìn thổ dân của Kaloon cư ngụ, chỉ một số ít là giai cấp thống trị, được cho là hậu duệ của những kẻ chinh phạt từng xuất hiện vào thời Alexander – có lẽ thế thật. Nhưng huyết thống của họ giờ đã bị pha trộn rất nhiều với người bản địa, những người có con cháu đều da vàng và mang vẻ ngoài thuộc về phân nhánh nào đó của chủng tộc người Tartar vĩ đại. Chính phủ, nếu có thể gọi như vậy, nói chung là một ý tưởng đơn giản có tính chất chuyên chế, được trao cho vị Khan hoặc Khania kế thừa, tức là một người đàn ông hoặc một phụ nữ trong lớp phả hệ trực tiếp gần nhất.
Có hai tôn giáo, người dân ở đây thờ phụng Linh Hồn Ngọn Núi Lửa, còn những người thống trị, họ tin vào phép thuật, ma quỉ và những lời tiên tri. Ngay cả bóng dáng của một tôn giáo khác, nếu có thể gọi thế, đều cũng sẽ chết yểu như các tín đồ của nó, vì từ thế hệ này qua thế hệ khác, các lãnh chúa da trắng tăng trưởng ít hơn về số lượng hoặc số lớn người dân bị họ lôi cuốn.
Luật pháp của họ vẫn được chấp nhận. Tôi hỏi Simbri tại sao, dù họ có số lượng ít ỏi đến vậy. Ông ấy nhún vai đáp rằng, vì nó phù hợp với đất nước nơi người bản địa không hề có tham vọng. Hơn nữa, Khania hiện tại, nữ chủ nhân của chúng tôi, là người cuối cùng trong dòng chính thống của tầng lớp thống trị, chồng cô và đám anh chị em họ mang ít huyết thống hoàng tộc thuần chủng trong tĩnh mạch hơn, vì thế dân tộc này bị gắn liền với cô ấy.
Cũng giống như trường hợp của các phụ nữ mạnh mẽ và xinh đẹp nói chung, cô ấy rất nổi tiếng, đặc biệt cô hào phóng vô cùng và duy nhất với người nghèo. Lượng người này rất đông, vì đất nước đang quá tải dân số, do điều kiện nuôi trồng quá tuyệt vời. Cuối cùng, họ tin vào trình độ và lòng dũng cảm của cô ấy có thể bảo vệ họ khỏi những cuộc tấn công liên tục của các bộ tộc trên Ngọn Núi, những kẻ thường đột kích cướp phá mùa màng và gia súc của họ. Chỉ một lời than phiền về cô ấy là, cô không có con cái để nối dõi cho ngôi vị Khan, điều đó có nghĩa là sau khi cô chết, cũng như đã từng xảy ra sau khi cha cô chết, sẽ có nhiều cuộc tranh đoạt ngai vàng.
“Thật vậy,” Simbri nói thêm đầy hàm ý, và liếc nhìn Leo nơi khóe mắt, “trong dân gian người ta kháo nhau rằng, thật tốt nếu vị Khan đang áp bức người dân và bị người dân căm ghét này chết đi, như vậy Khania sẽ lấy chồng khác vì nàng vẫn còn trẻ. Dù ngài rất điên cuồng, ngài biết điều đó, đó là tại sao ngài ghen tuông như thế với bất kì lãnh chúa nào ngắm nhìn nàng giống như, anh bạn Holly ạ, như ngươi đã nhìn nàng đêm nay. Vì nếu ai giành được ưu ái của nàng, Rassen nghĩ lúc đó ngài sẽ phải chết.”
“Ngài ấy cũng bị trói buộc vào vợ mình,” tôi đặt giả thiết như thế nên thì thào nói.
“Có lẽ vậy,” Simbri trả lời; “nhưng nếu vậy, nàng sẽ vẫn không yêu ngài, không yêu bất kỳ người đàn ông nào,” và ông ta nhìn quanh phòng.
Chắc chắn mọi người không còn vẻ đáng mến nữa, vì lúc này hầu hết đã nửa say nửa tỉnh, trong khi những cô gái dường như vẫn cứ rót cho họ càng nhiều càng tốt. Bản thân Khan đang trưng ra một cảnh thật đáng hổ thẹn, anh ta dựa lưng vào ghế, la hét gì đó về cuộc săn đuổi của mình bằng giọng nặng nề. Cánh tay của một trong những người hầu xinh đẹp vòng quanh cổ anh ta, còn tay kia rót rượu cho anh ta từ chiếc cốc vàng; một ít rượu bị rơi trên áo choàng trắng của anh ta.
Ngay lúc đó Atene nhìn quanh và thấy cảnh đó, vẻ căm hận và khinh bỉ tụ lại trên gương mặt xinh đẹp của cô ấy.
“Nhìn kìa,” tôi nghe thấy cô nói với Leo, “hãy nhìn người bạn đời của ta đi, để hiểu Khania của Kaloon được những gì.”
“Thế tại sao nàng không dọn sạch cung điện đi?” cậu ấy hỏi.
“Chàng ơi, vì nếu ta làm vậy, sẽ chẳng còn cung điện nữa. Heo sa trong bùn, đám đàn ông và phụ nữ này sống biếng nhác trên gian khổ của người dân thấp cổ bé họng, chúng đã sa lầy trong rượu và sự xa xỉ thấp hèn. Phải, ngày tàn đã gần kề rồi, vì nó đang giết dần bọn họ, con cháu của bọn họ rất ít ỏi và yếu ớt, huyết thống cổ xưa đã mỏng dần và mất dần hiệu lực. Nhưng chàng đã mệt mỏi rồi và nên nghỉ ngơi thôi. Ngày mai chúng ta sẽ đi cùng nhau,” rồi cô gọi một sĩ quan, ra lệnh anh ta dẫn chúng tôi về phòng.
Chúng tôi đứng dậy, Simbri theo sau, cúi chào cô ấy và đi, cô đứng đó nhìn theo chúng tôi, một thân ảnh hoàng tộc đau thương giữa chốn vui chơi phóng đãng đó. Khan cũng đứng dậy, mang vẻ xảo quyệt dường như đã hiểu ra ý nghĩa gì đó từ chuyện này.
“Nàng có nghĩ chúng ta đồng tính không,” hắn thét lên; “tại sao chúng ta không phải là những người không biết mình phải sống bao lâu? Nhưng tên tóc vàng kia, ngươi không được để Atene nhìn ngươi như thế. Ta nói cho ngươi biết, nàng là vợ ta, nếu ngươi làm vậy ta chắc chắn sẽ săn đuổi ngươi.”
Trong lúc say sưa đó, đám cận thần cười ầm lên, nhưng Simbri lấy tay kéo Leo vội vã đưa cậu ra khỏi căn phòng.
“Ông bạn à,” Leo nói khi chúng tôi đã ở bên ngoài, “theo tôi, có lẽ vị Khan này của các người đang đe dọa tính mạng tôi.”
“Đừng sợ, chàng trai,” Người Bảo Vệ trả lời; “chừng nào Khania không đe dọa thì ngươi vẫn an toàn. Nàng là người cai trị thực sự của mảnh đất này, và ta đứng cạnh nàng.”
“Thế thì tôi cầu xin ngài,” Leo nói, “hãy giữ tôi tránh xa người đàn ông xay xỉn đó, vì ngài thấy đó, nếu tôi bị tấn công, tôi phải tự vệ.”
“Ai có thể đổ lỗi cho ngươi được chứ?” Simbri đáp cùng nụ cười chậm rãi, bí ấn.
Rồi chúng tôi chia tay, về giường ngủ khá ngon lành, vì chúng tôi đều rất mệt mỏi, tận tới lúc bị đánh thức vào buổi sáng bởi tiếng sủa của đàn chó săn tử thần kinh hoàng, tôi nghĩ chắc chúng đang được cho ăn ở một nơi gần đây.
Bây giờ trong thành phố Kaloon này, định mệnh khốn khổ buộc chúng tôi phải sống ở đó ba tháng dài, có lẽ là một trong những khoảng thời gian đáng ghét nhất mà chúng tôi từng trải qua trong đời. Quả thực vậy khi so sánh với những lần lang thang vô định giữa tuyết và sa mạc ở Trung Á vẫn còn vui vẻ hơn, và cả khi dừng chân ở tu viện bên dãy núi trú nơi Thiên Đường nữa. Hồi tưởng lại chi tiết mọi chuyện sẽ làm chúng ta thấy tẻ nhạt và vô ích, nên tôi sẽ chỉ kể ngắn gọn về những cuộc phiêu lưu chính của chúng tôi.
Vào sáng ngày chúng tôi tới, Khania Atene đưa cho chúng tôi hai con ngựa trắng rất đẹp thuộc giống thuần chủng từ cổ xưa, buổi trưa chúng tôi cưỡi chúng và đi dạo cùng cô ấy, theo sau là một đội lính bảo vệ. Đầu tiên cô dẫn chúng tôi tới khu trại nơi trông giữ đám chó săn tử thần, khu sân được treo cờ lớn với nhiều thanh sắt bao quanh; cổng hẹp đã được khóa lại. Tôi chưa bao giờ thấy đám thú vật nào to lớn và hung hăng đến thế; đám chó ngao Tây Tạng cũng chỉ như chó con so với chúng. Chúng có màu đỏ và đen, phủ lông mượt mà, và cái đầu của kẻ đi săn khát máu, lúc nhìn thấy chúng tôi, chúng trở nên đói khát, nhô lên trên những thanh sắt như con sóng giận dữ đập vào tảng đá.
Những con chó săn này đặt dưới trách nhiệm của đàn ông một vài gia tộc, những người đã chăm sóc chúng qua nhiều thế hệ. Chúng vâng lời người trông giữ và Khan, nhưng không người lạ nào có thể mạo hiểm tới gần chúng. Những con thú tàn bạo này cũng là những tên đao phủ của nơi này, vì với chúng, tất cả những kẻ giết người hay phạm tội khác đều bị ném ra, và giống như chúng tôi đã nhìn thấy, Khan sẽ săn đuổi bất kỳ ai làm anh ta không hài lòng. Hơn nữa, chúng còn bị sử dụng với mục đích đáng thương hơn, để săn đuổi đám hươu nai khổng lồ được khu rừng và đầm lầy đầy lau sậy bảo vệ. Vì thế chúng là nỗi kinh hoàng ở đất nước này, vì không ai biết liệu mình có thể bị chúng ăn tươi nuốt sống không. “Lũ chó tới” là câu đầy ý nghĩa ở bất kỳ vùng đất nào, nhưng ở Kaloon, rõ ràng nó rất kinh khủng.
Sau khi nhìn đám chó săn không phải không rùng mình như tiên đoán, chúng tôi cưỡi ngựa đi vòng quanh tường thành, giống như đại lộ để người dân đi lại và giải trí buổi tối. Nhưng trên đó không nhìn thấy nhiều thứ lắm, ngoại trừ con sông và đồng bằng bên dưới, hơn nữa dù tường dày và cao, vẫn có vài chỗ trên đó phải đi thật cẩn thận, vì giống những thứ khiến giai cấp thống trị bất lực khác, chúng đều bị để cho rơi vào hư mục.
Bản thân thành phố không phải là nơi thú vị, do hầu hết đều cư ngụ bởi những người của Cung Điện. Vì thế chúng tôi không tiếc phải đi qua con sông trên cây cầu nhô lên cao, nơi vài ngày trước theo định mệnh, tôi nhìn thấy một trong những cảnh kỳ lạ nhất mà người trần tục từng thấy, và tiến vào đất nước này. Mọi thứ ở đó giờ đã khác, chúng tôi thấy nhiều người làm nông, con cháu của những chủ nhân xa xưa của vùng đất, đang sinh sống và sản xuất trên đó. Mỗi inch đất đều được nuôi trồng cùng hệ thống thủy lợi trợ lực hoàn hảo. Nước được nâng lên ở nhiều cấp độ, không cho chảy tự nhiên, bằng bánh xe quay với con la, vài chỗ được quay bởi phụ nữ, họ mang đầu kéo trên vai để cân bằng các xô nước.
Leo hỏi Khania chuyện gì xảy ra nếu mùa vụ thất bát. Cô trả lời không hề nao núng rằng, nạn đói sẽ xảy ra, hàng nghìn người sẽ chết đói, theo sau nạn đói là bệnh dịch. Những nạn đói này đều có chu kỳ, cô nói thêm, nếu không có chúng, người dân từ xưa đã không bị thôi thúc giết hại lẫn nhau như bầy chuột đói, do không có lối ra và dân số tăng trưởng quá nhanh, mảnh đất này dù lớn tới đâu cũng không thể giữ được tất cả bọn họ.
“Năm nay là một năm được mùa chứ?” tôi hỏi.
“E là không,” cô trả lời, “vì con sông không dâng lên đủ nước và mưa rất ít. Ánh sáng chiếu đêm qua trên ngọn núi Lửa cũng được cho là một điềm xấu, người ta nói rằng nó có nghĩa là, Linh Hồn Ngọn Núi đang tức giận và hạn hán sẽ kéo đến. Chúng ta hy vọng họ không bảo đó là do những người lạ đã tới thăm vùng đất, mang theo bất hạnh.”
“Nếu vậy,” Leo cười nói, “chúng tôi sẽ phải bay tới Ngọn Núi để nương nhờ ở đó mất.”
“Chàng mong muốn được nương nhờ bằng cái chết ư?” cô ấy mơ hồ hỏi. “Tất nhiên là thế rồi, những vị khách của ta, trong khi ta còn sống, không bao giờ các ngươi được phép đi qua con sông tiếp giáp với đỉnh núi cao đằng kia.”
“Tại sao không, hỡi Khania?”
“Leo của ta, - tên của chàng là thế phải không? – vì ý nguyện của ta là như vậy, khi ta còn cai trị nơi này, ý nguyện của ta là luật pháp. Đi nào, chúng ta phải quay về nhà thôi.”
Đêm đó chúng tôi không ăn trong căn phòng lớn, mà trong phòng cạnh phòng ngủ của chúng tôi. Nhưng chúng tôi không bị bỏ lại một mình, vì Khania và bác cô ấy, vị Pháp Sư luôn tham dự cùng cô, cũng cùng ăn với chúng tôi. Khi chúng tôi băn khoăn chào đón họ, cô ấy giải thích ngắn gọn rằng đã sắp xếp thế vì chúng tôi sẽ không phải nghe những lời công kích. Cô cũng nói thêm có một lễ hội sắp bắt đầu, có lẽ kéo dài một tuần, cô ấy không muốn chúng tôi thấy dân tộc mình tồi tệ đến mức nào.
Đêm đó và nhiều đêm khác sau đó – chúng tôi không bao giờ ăn tối ở căn phòng trung tâm nữa – trôi qua khá vui vẻ, vì Khania khiến Leo kể cho cô nghe về nước Anh nơi cậu được sinh ra, về những vùng đất cậu đã tới, người dân và phong tục ở đó. Tôi cũng kể câu chuyện về Alexander, có vị tướng quân Rassen, ông tổ xa xôi của cô ấy, kẻ đã chinh phạt đất nước Kaloon, kể về lịch sử vùng đất Ai Cập từ xưa đến gần đây, và cứ thế tới tận nửa đêm, Atene khao khát lắng nghe chúng tôi, đôi mắt cô luôn dán lên gương mặt Leo.
Chúng tôi dành nhiều đêm như thế trong cung điện của thành phố Kaloon, nơi thực chất chúng tôi gần như là tù nhân. Nhưng than ôi! Ngày tháng nặng nề lơ lửng trên bàn tay. Nếu chúng tôi đi vào sân hay các phòng chiêu đãi ở cung điện này, các lãnh chúa và những người đi theo họ sẽ tụ tập quanh chúng tôi, quấy rầy chúng tôi bằng rất nhiều câu hỏi, vì họ rất nhàn rỗi và rất tò mò.
Đám phụ nữ cũng vậy, một số họ khá xinh đẹp, bắt đầu viện mọi cớ này nọ liếc mắt đưa tình với Leo; vì trái ngược với đám đàn ông tinh tế, xảo quyệt, họ thấy vị khách lạ tóc vàng, ngực nở này hợp với khẩu vị của họ. Thật vậy, họ làm cậu ấy bối rối với đống quà tặng bằng hoa và thư được người hầu hay lính bảo vệ gửi tới, tất nhiên cậu không giữ lại.
Nếu chúng tôi đi dạo trên phố, tình hình cũng tệ như vậy, vì người dân dừng cả việc làm ăn và đi theo chúng tôi, nhìn chằm chằm chúng tôi tới tận khi chúng tôi trốn vào khu vườn ngoài cung điện.
Do đó, chúng tôi chỉ còn cách cưỡi ngựa ra đồng quê với Khania, nhưng vẫn có ba hay bốn người theo sau, rồi tất cả những chuyện này đều kết thúc vì sự ghen tuông của Khan, kẻ đã thề, nếu chúng tôi cùng nhau đi chơi lần nữa, hắn sẽ đi theo cùng bầy chó săn tử thần. Vì vậy chúng tôi phải cưỡi ngựa một mình, giữa đội quân bảo vệ để trông chừng không cho chúng tôi cố gắng trốn chạy, và thường xuyên kèm theo một đám nông dân không ngừng đe dọa hay cầu xin chúng tôi mang trả lại mưa mà chúng tôi đã lấy mất của họ. Vì giờ đây hạn hán khủng khiếp đã thực sự bất đầu.
Cuối cùng, việc duy nhất chúng tôi có thể làm là câu cá bên bờ sông, nơi nước trong và nông tới mức chúng tôi chẳng thể bắt được gì, đồng thời quan sát ngọn núi Lửa lờ mờ hiện ra xa xa đầy thần bí và không thể chạm tới được, đổ đầy bộ não chúng tôi với những kế hoạch chạy trốn vô dụng, hoặc ít ra cũng phải truyền tin cho vị nữ tu sĩ kia, người chúng tôi không thể biết gì thêm nữa.
Hai gánh nặng lớn đè lên tâm trí chúng tôi. Gánh nặng khao khát tiếp tục cuộc tìm kiếm và thu được phần thưởng mà chúng tôi chắc chắn đang nằm giữa đống tuyết trắng trên đỉnh núi đằng kia, nếu chúng tôi có thể tới được đó; và gánh nặng vì đang sắp gặp thảm họa dưới bàn tay Khania Atene. Cô ấy không còn làm tình với Leo nữa kể từ đêm ở Cánh Cổng, quả thực nếu cô ấy muốn làm thế, cũng rất khó, vì tôi chú ý thấy rằng cậu ấy chưa bao giờ bị bỏ lại một mình dù chỉ một giờ. Không có người hầu nào bám theo công chúa Tây Ban Nha chặt hơn tôi bám theo Leo. Nhưng tôi vẫn có thể thấy rõ niềm khao khát của cô ấy không hề dịu đi; mà lớn dần ngày ngày, thật sự như ngọn lửa đang lớn dần lên ở tâm ngọn núi lửa, nó sẽ sớm phá vỡ mọi ràng buộc và tàn phá tràn lan xung quanh. Điềm báo đó đã đọc được trong từng lời nói, cử chỉ và đôi mắt bi thảm của cô ấy.

           Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham