CHƯƠNG 3
Mảnh gốm cổ của Amenartas
Vào ngày trước
ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của Leo, cả hai chúng tôi cùng tới London, lấy
cái hộp bí ẩn từ ngân hàng mà tôi đã gửi vào hai mươi năm trước. Tôi nhớ nó được
một nhân viên mang lên, đó chính là nhân viên đã từng mang nó xuống trước đây.
Ông nhớ đã che dấu nó đi thật hoàn hảo. Ông bảo nếu không làm thế, ông sẽ khó
mà tìm thấy nó, nó được phủ đầy màng nhện.
Chúng tôi trở về
Cambridge với gánh nặng này vào buổi tối, và tôi nghĩ có lẽ cả hai chúng tôi đều
mất ngủ. Lúc rạng đông Leo đã tới phòng tôi trong bộ áo choàng ngủ, và đề nghị
chúng tôi nên tiến hành việc này luôn. Tôi từ chối vì nó thể hiện một sự tò mò
không đáng. Cái hộp đã chờ hai mươi năm, tôi nói, vì thế tốt hơn là tiếp tục đợi
đến sau bữa sáng. Lúc chín giờ - chín giờ đúng chính xác một cách không bình
thường – chúng tôi ăn sáng; và chiếm giữ toàn bộ suy nghĩ của tôi là sự hối tiếc
đã đặt miếng thịt hun khói vào trà của Leo thay vì một cục đường. Tất nhiên sự
phấn khích có tính lây lan đã trải rộng, Job cũng vậy, hoàn toàn phá vỡ tách
trà Trung Hoa Sèvres của tôi, cái tách giống hệt tôi tin là Marat đã uống chỉ
trước khi ông ta bị đâm trong phòng tắm.
Tuy nhiên cuối
cùng bữa sáng đã kết thúc, và Job, theo yêu cầu của tôi, lấy cái hộp ra, thật
trọng đặt nó lên bàn như thể anh ta không tin tưởng nó. Sau đó anh ta chuẩn bị
rời khỏi phòng.
“Dừng lại một
chút, Job,” Tôi nói. “Nếu ngài Leo không phản đối, tôi muốn có một nhân chứng độc
lập cho việc này, người này cần giữ mồm giữ miệng, trừ khi bị buộc phải nói.”
“Tất nhiên rồi,
bác Horace,” Leo trả lời; vì tôi đã buộc cậu gọi tôi là bác – dù cậu thường
thay đổi gọi tôi hơi vô lễ là “nhà nghiên cứu sinh già nua”, hay thậm chí “ông
bác hờ của tôi”.
Job khẽ chạm vào
đầu, không có mũ trên đó.
“Hãy khóa cửa,
Job,” Tôi nói, “và mang cho tôi hòm thư từ.”
Anh ta vâng
theo, và từ trong hòm thư tôi lấy chùm chìa khóa mà Vincey khốn khổ, cha của
Leo, đã đưa cho tôi vào buổi tối anh ấy mất. Có ba chìa trong đó; cái lớn nhất
khá giống với chiếc chìa khóa hiện đại, cái thứ hai rất cổ, cái thứ ba hoàn
toàn không giống bất kỳ thứ gì chúng tôi từng thấy trước đây, được tạo thành rõ
ràng từ một thanh bạc rắn, với một chốt đặt dọc để làm tay cầm, có vài khía được
cắt trên cạnh của chốt. Nó giống một mô hình đường sắt cổ xưa hơn bất kỳ thứ gì
khác.
“Giờ cả hai đã sẵn
sàng chưa?” Tôi nói, vì người ta làm thế khi họ sắp ném mìn. Không có câu trả lời,
nên tôi lấy chiếc chìa khóa lớn, chà ít dầu xà lách vào các khe, sau một hay
hai cú đẩy vào, tay tôi run lên, điều chỉnh cho phù hợp, và mở cái khóa ra. Leo
cúi xuống, bắt lấy cái nắp to bằng cả hai tay, và dùng sức đẩy nó ra, vì bản lề
đã bị han gỉ. Lớp vỏ bên ngoài lộ ra một cái lồng khác được phủ đầy bụi. Vật
này chúng tôi lôi ra khỏi cái hộp sắt không chút khó khăn, lau vết bẩn tích lũy
bao năm qua bằng bàn chải quần áo.
Nó trông có vẻ
như là gỗ mun, hoặc một loại gỗ màu đen gần như hồ tiêu, và được bao xung quanh
bằng những tấm sắt phẳng. Tuổi đời của nó phải cực lâu rồi, vì các thớ gỗ dày đặc
thực ra một phần để suy đoán tuổi.
“Bây giờ hãy
dùng nó,” Tôi nói, cắm chiếc khóa thứ hai vào.
Job và Leo cúi
người về phía trước trong sự im lặng khó thở. Chiếc chìa xoay lại, và tôi lật
tung cái nắp ra, rồi thốt ra một câu cảm thán, không có gì lạ, vì bên trong cái
lồng gỗ mun là một quan tài bằng bạc tuyệt đẹp, khoảng mười hai inch vuông, cao
tám thước. Nó dường như là đồ thủ công của người Ai Cập, bốn chân tạo bởi các
Nhân sư, và nắp hình vòm cũng phủ bởi một con Nhân sư. Tất nhiên chiếc quan tài
đã bị hoen ố và sứt mẻ nhiều bởi tuổi tác, nhưng nói cách khác, vẫn ở trong
tình trạng khá tốt.
Tôi kéo nó ra và
đặt nó lên bàn, rồi, giữa bầu không khí im lặng gần như tuyệt đối, tôi đưa cái
khóa bạc lạ mắt vào, và ấn các kiểu cho đến cuối cùng cái khóa mở ra, chiếc
quan tài đã ở trước mặt chúng tôi. Nó bị một chất liệu cắt nhỏ màu nâu lấp đầy
đến miệng, giống sợi thực vật hơn là giấy, chất liệu này tôi có thể không bao
giờ khám phá ra được. Tôi cẩn thận lấy nó ra đến độ sâu khoảng ba inch, khi đó
tôi lấy được một lá thư đi kèm trong chiếc phong bì trông khá hiện đại thông
thường, nó có đề chữ viết tay của người bạn đã mất của tôi Vincey.
“Gửi con trai tôi Leo, nếu con còn sống để mở
chiếc quan tài này.”
Tôi đưa bức thư
cho Leo, giờ đang liếc nhìn chiếc phong bì, rồi cậu đặt nó xuống bàn, đi về
phía tôi và tiếp tục lục tung cái quan tài.
Thứ tiếp theo
tôi tìm thấy là một tấm giấy da cuộn lại cẩn thận. Tôi trải nó ra, và thấy đó
cũng là chữ viết tay của Vincey, tiêu đề là, “Bản dịch của Văn Tự Chữ Hoa Hy Lạp
trên Mảnh Gốm”, lại đặt nó xuống bên cạnh bức thư. Rồi tiếp đến là một cuộn giấy
da cổ khác, đã trở nên vàng ố và nhăn lại theo năm tháng. Tôi cũng trải nó ra.
Nó cũng giống như bản dịch của cùng một bản gốc tiếng Hy Lạp, nhưng ở dạng chữ
Latin màu đen, thoạt nhìn kiểu dáng và chữ viết, theo tôi nó nằm đâu đó khoảng
đầu thế kỷ thứ mười sáu. Ngay bên dưới cuộn này là thứ gì đó cứng và nặng, được
bọc trong vải lanh vàng, đặt trên một lớp bằng vật liệu sợi. Thật từ từ và cẩn
thận, chúng tôi trải tấm vải lanh ra, hiện ra một mảnh gốm lớn, không nghi ngờ
gì nữa, phải rất cổ xưa, có màu vàng bẩn thỉu! Mảnh gốm này theo phán đoán của
tôi, từng là một phần của một chiếc vò hai quai thông thường có kích thước
trung bình. Phần còn lại này, có kích thước mười inch rưỡi chiều dài, bảy inch
chiều rộng, dày khoảng một phần tư inch, trên bề mặt lồi từ trên xuống đáy phủ
dày đặc văn tự dạng ký tự hoa Hy Lạp sau này, nhạt dần đây đó, nhưng hầu hết
hoàn toàn dễ đọc, văn tự rõ ràng được thực hiện cực kỳ cẩn thận, bằng cách dùng
một cây bút sậy, như người xưa thường dùng. Tôi không quên đề cập rằng tại một
tuổi đời xa xôi nào đó, mảnh gốm tuyệt vời này đã bị vỡ làm đôi, rồi được ghép
lại bằng xi măng và tám chiếc đinh tán dài. Cũng có nhiều chữ khác ở mặt bên
trong, nhưng rất không đều, và rõ ràng được thực hiện bởi những bàn tay khác
nhau và ở nhiều lứa tuổi khác nhau, những chữ này cùng với các văn tự trên những
tấm giấy da, tôi sẽ phải đọc chúng.
[mảnh 1]
MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS
Kích cỡ 1/2
Độ dài lớn nhất của vật gốc 10½ inches
Độ rộng lớn nhất 7 inches
Khối lượng 1 pound 5½ ounces
[mảnh 2]
MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS
Kích cỡ 1/2
MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS
Kích cỡ 1/2
Độ dài lớn nhất của vật gốc 10½ inches
Độ rộng lớn nhất 7 inches
Khối lượng 1 pound 5½ ounces
[mảnh 2]
MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS
Kích cỡ 1/2
“Còn
gì nữa không?” Leo hỏi bằng một câu thì thầm phần khích.
Tôi
dò dẫm, và trình ra một cái gì đó cứng, để trong một túi bằng vải lanh nhỏ.
Ngoài chiếc túi, chúng tôi thoạt tiên thấy một hình vẽ nghệ thuật nhỏ rất đẹp
làm bằng ngà voi, và thứ hai, một hợp chất màu sô cô la nhỏ nhắn scarabæus,
đánh dấu thế này:
[phác
họa bị bỏ qua]
Những
biểu tượng này chúng tôi chắc chắn, có nghĩa là “Suten se Ra”, dịch ra là “Con
Trai của Ra (hay Thần Mặt Trời)”. Hình vẽ nghệ thuật nhỏ là bức tranh của người
mẹ Hy Lạp của Leo – một tạo vật mắt đen rất dễ thương. Trên mặt sau của nó là
nét chữ viết tay của Vincey khốn khổ, “Vợ yêu của tôi”.
“Đó
là tất cả.” Tôi nói.
“Rất
tốt,” Leo trả lời, đặt cái hình vẽ nghệ thuật nhỏ xuống, thứ đó cậu đã nhìn rất
trìu mến; “nào bây giờ chúng ta hãy đọc lá thư,” và không khó khăn chút nào,
cậu phá niêm phong, và đọc to nội dung:
“Con
trai của ta Leo, - Khi con mở thư này, nếu con còn sống để làm điều đó, thì con
đã đến lúc trưởng thành, và cha cũng đã chết đủ lâu để gần như tất cả những
người quen biết hoàn toàn quên lãng. Nhưng khi đọc thư này, hãy nhớ rằng cha
đã, đang và sẽ vẫn tồn tại, vì như con thấy trong này, thông qua bút và giấy,
cha vẫn giang tay về phía con qua hố ngăn cách của cái chết, giọng cha vẫn nói
với con từ trong yên lặng nơi lăng mộ. Dù cha đã chết, không có ký ức nào của
cha còn sót lại trong tâm trí con, nhưng cha vẫn ở bên con giờ phút con đang
đọc thư này. Từ khi con ra đời đến nay hầu như cha chưa từng thấy mặt. Hãy tha
thứ cho cha vì điều đó. Sự sống của con đã thay thế cho sự sống của một người
mà cha yêu hơn bất kỳ phụ nữ nào, và nỗi cay đắng này vẫn kéo dài. Nếu cha sống
cha sẽ phải chống đỡ lại cảm giác ngu ngốc này, nhưng cha đã không lựa chọn
sống tiếp. Nỗi đau khổ của cha, cả thể chất lẫn tinh thần, nhiều hơn cha có thể
chịu đựng, sau khi những thu xếp nhỏ cha làm vì tương lai hạnh phúc của con đã
hoàn thành, chủ ý của cha là muốn dành một khoảng thời gian cho mọi chuyện này.
Có lẽ Chúa sẽ tha thứ cho cha nếu cha làm sai. Cuối cùng cha cũng không thể
sống thêm một năm nữa.”
“Vì
thế ông ấy đã tự sát,” Tôi tuyên bố. “Bác nghĩ vậy đấy.”
“Giờ,”
Leo tiếp tục mà không đáp lại lời tôi,” thế là đủ cho bản thân cha. Những gì
phải nói phụ thuộc vào con, người đang sống, chứ không phải cha, người đã chết,
và hầu như đã bị lãng quên như thể cha chưa từng bao giờ tồn tại. Holly, bạn
của cha (gửi tới người, mà nếu cậu ấy chấp nhận lời giao phó, dự định của cha
đặt niềm tin nơi cậu ấy), sẽ nói cho con một chút về nguồn gốc xa xưa kỳ lạ
trong dòng máu của con. Những gì trong quan tài này đủ để chứng minh điều đó.
Truyền thuyết kỳ lạ mà con sẽ tìm thấy được tổ mẫu xa xôi của con ghi lại trên
mảnh gốm vỡ được cha của cha truyền lại khi ông ấy lâm chung, nó giữ một động
lực mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của cha. Khi cha mới mười chín tuổi, cha đã
quyết định điều tra ra sự thật, giống như một trong các tổ tiên của chúng ta
thời Elizabeth đã làm, dù số phận ông ấy thật không may. Vì tất cả những gì đã
xảy ra với cha, giờ cha không thể tiếp tục đi sâu hơn nữa. Nhưng điều này cha
đã chứng kiến tận mắt. Trên bờ biển Châu Phi, trong một vùng đất đến nay vẫn
chưa được khai phá, cách phía bắc nơi đó một khoảng, nơi Zambesi đã rơi xuống
biển, có một mũi đất, cuối mũi đất có một đỉnh tháp hướng lên trên, có hình
dạng như cái đầu một người da đen, tương tự như văn tự nói đến. Cha đã đặt chân
đến đó, và tìm hiểu được từ một người bản địa lang thang, kẻ đã bị đuổi khỏi
tộc người của anh ta vì tội lỗi anh ta mắc phải; xa đất liền là dãy núi lớn có
hình như những chiếc bát, các hang động bao quanh bằng những đầm lầy không thể đo
được. Cha cũng biết rằng tộc người ở đó nói thổ ngữ Ả Rập, và bị cai trị bởi
một phụ nữ da trắng xinh đẹp – người
mà hiếm khi họ được nhìn thấy, nhưng được cho là có quyền lực đối với tất cả
các sinh vật sống và chết. Hai ngày sau đó cha xác định chắc chắn người đàn ông
này bị chết vì sốt rét khi lội qua đầm lầy, còn cha bị những thiếu thốn lương
thực và triệu chứng bệnh mà sau này làm cha suy nhược buộc phải trở lại thuyền.
Trong
cuộc phiêu lưu này, sau lần đó, giờ cha không cần nói. Cha đã bị đắm tàu ở bờ
biển Madagascar, được một con tàu Anh cứu sống sau vài tháng và đưa cha đến
Aden, khi đó cha bắt đầu phục vụ nước Anh, dự định sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm
ngay sau khi đã chuẩn bị đầy đủ. Trên đường đi cha dừng chân ở Hy Lạp, và ở đó,
vì ‘Omnia vincit amor’, cha gặp mẹ yêu của con, kết hôn, rồi khi con ra đời, cô
ấy mất. Đó là căn bệnh cuối cùng hành hạ cha, và cha trở về đây để chết. Nhưng
cha vẫn không ngừng hi vọng, tự thân làm việc để học tiếng Ả Rập, ý định tốt
đẹp mà cha chưa bao giờ muốn có được hơn thế, là trở lại bờ biển Châu Phi, giải
đáp điều kỳ bí có trong truyền thống gia tộc chúng ta bao thế kỷ qua. Nhưng cha
đã không thể khỏe hơn, và cha chỉ liên quan đến đây thôi, câu chuyện đã đến lúc
kết thúc.
Tuy
nhiên, đối với con, con trai của cha, nó chưa kết thúc, và cha trao lại những
thành quả lao động của cha cho con, cùng với những bằng chứng về nguồn gốc của
chúng. Ý định của cha là chúng sẽ không thể đưa đến tay con cho đến khi con đến
tuổi có thể tự đánh giá được nên lựa chọn tìm kiếm hay không những thứ này,
những thứ mà nếu là sự thật, nó sẽ là bí ẩn lớn nhất trên đời, còn không, nó
chỉ là một câu chuyện bịa đặt nhàn rỗi, xuất phát đầu tiên từ bộ não rối loạn
của một phụ nữ.
Cha không tin vào câu chuyện hoang đường này; cha tin rằng
nếu nó được khám phá lại, có một điểm mà các sức mạnh sống còn của thế giới tồn
tại hiển hiện. Sự sống tồn tại; thế thì tại sao những cách thức duy trì nó vĩnh
viễn lại không tồn tại? Nhưng cha không có mong muốn làm ảnh hưởng đến tâm trí
con vì chuyện này. Hãy tự đọc và tự phán xét. Nếu con nghiêng về thực hiện cuộc
tìm kiếm, cha đã cung cấp để con không thiếu phương tiện. Nhưng trái lại, nếu
con thấy hài lòng khi cho rằng toàn bộ chỉ là thứ hão huyền, thì cha van xin
con, hãy phá hủy mảnh gốm và các bản văn tự, hãy để nguyên nhân gây rắc rối bị
xóa bỏ khỏi dòng tộc chúng ta vĩnh viễn. Có lẽ đó là khôn ngoan nhất. Cái không
biết thường gây ra hậu quả khủng khiếp, không phải từ ngạn ngữ suy ra đâu, đó
là từ sự mê tín vốn có của nhân loại, nhưng cũng bởi vì nó thường rất khủng
khiếp. Người gây xáo trộn những sức mạnh to lớn và bí ẩn đang hoạt động trên
đời có thể trở thành nạn nhân của chính những sức mạnh này. Và nếu cuối cùng
thắng lợi, nếu cuối cùng sau thử nghiệm này con hiện ra mãi mãi xinh đẹp và mãi
mãi trẻ trung, bất chấp thời gian và quỉ dữ, diệt trừ được sự phân rã tự nhiên
về thể xác và trí tuệ, ai nói rằng sự biến đổi tuyệt vời đó chứng minh người đó
hạnh phúc? Hãy lựa chọn, con trai của ta, có lẽ thần Sức mạnh cai trị mọi thứ
nói rằng 'đi một ngày đàng học một sàng khôn’, điều khiển sự lựa chọn cho hạnh
phúc của chính con và hạnh phúc của thế giới, nơi đó, trong mỗi sự kiện thành
công của con, một ngày nào đó chắc chắn con có thể thống trị nguồn sức mạnh
tinh khiết từ những trải nghiệm tích lũy lại. – Tạm biệt!”
Lá thư không chữ ký, không ngày tháng, đột ngột kết thúc.
“Bác nghĩ gì, bác Holly,” Leo nói, thở hổn hển khi cậu đặt
nó lên bàn. “Chúng ta đã đang tìm kiếm một bí ẩn, và dường như người ta chắc
chắn đã tìm ra nó.”
“Bác nghĩ gì à? Sao chứ, tất nhiên là ông bố yêu quý khốn
khổ của cháu phát điên rồi,” Tôi cáu kỉnh trả lời.”Bác đoán ngay ra tối đó, hai
mươi năm trước, khi ông ấy đến phòng bác. Cháu thấy đấy, ông ấy đã vội vã kết
thúc chính mình, anh chàng khốn khổ. Bậy bạ hết sức.”
“Đúng đó, thưa ngài!” Job long trọng nói. Job là điển hình
thực tế nhất trong các loại thực tế.
“Được rồi, chúng ta hãy xem mảnh gốm nói gì,” Leo nói, lấy
bản dịch viết tay của cha cậu ấy lên và bắt đầu đọc:
“Tôi,
Amenartas, thuộc Gia Tộc Hoàng Gia của các Pharaoh Ai Cập, vợ của Kallikrates (Vẻ
Đẹp trong Sức Mạnh), một linh mục của Isis – người mà các thần linh yêu mến và
quỷ dữ phải vâng lời, đang sắp chết, gửi tới con trai bé nhỏ của tôi
Tisisthenes (Sự Báo Thù Vĩ Đại). Ta đã chạy trốn với cha ngươi khỏi Ai Cập
trong những ngày Nectanebes, [*] khiến ông ấy vì tình yêu phá vỡ lời thề. Chúng
ta đã trốn xuống phía nam, dọc theo dòng nước, và chúng ta đã lang thang suốt hai
lần mười hai tuần trăng bên bờ biển Libya (Châu Phi) nhìn về hướng mặt trời
mọc, nơi đó bên con sông là một con thuyền bằng đá cực kỳ to lớn như cái đầu
của một người Ethiopia. Bốn ngày trên mặt nước từ miệng của một con sông hùng
vĩ chúng ta đã thoát được, một số bị chết đuối và một số chết vì bệnh tật.
Nhưng những con người hoang dã chúng ta đã xuyên qua nước thải và đầm lầy, nơi
chim biển che cả bầu trời, mang chúng ta trong cuộc hành trình mười ngày đến
khi chúng ta tới một ngọn núi giả, nơi một thành phố vĩ đại đã từng tồn tại và
sụp đổ, và nơi đó có những hang động mà không ai nhìn thấy điểm cuối cùng; họ
mang chúng ta tới chỗ Nữ Hoàng của tộc người, người của tộc này đặt chậu trên
đầu người lạ, Nữ Hoàng là một phù thủy có kiến thức về mọi thứ, sự sống và sắc
đẹp mà không chết. Bà ta đã liếc mắt đưa tình với cha ngươi, Kallikrates, và
muốn giết ta, lấy ông ta làm chồng, nhưng ông ấy yêu ta và sợ hãi bà ấy nên
không thể. Rồi bà ta tóm lấy chúng ta, dẫn dắt chúng ta bằng những cách thức
khủng khiếp, bằng phép thuật đen tối, tới nơi có cái hố lớn, trên miệng của nó
một nhà triết học già nằm chết, rồi chỉ cho chúng ta Cột Trụ của Sự Sống đang
cuộn chảy mà không chết, nơi đó âm thanh như tiếng sấm, bà ta đứng trong ngọn
lửa, rồi đi ra không hề tổn thương gì, thậm chí còn xinh đẹp hơn. Rồi bà ta thề
sẽ làm cho cha ngươi bất tử ngay cả khi bà ta chết, nếu ông ấy giết ta, và tự
dâng hiến cho bà ta, đối với ta, bà ta không thể giết vì có phép thuật của dòng
tộc ta mang trong người, và điều đó khiến ta chiếm ưu thế hơn bà ta. Ông ấy đã
giơ tay lên mặt để che đi vẻ đẹp của bà ta, nhưng không thể. Sau đó, trong cơn
giận dữ bà ta đã đánh ông ấy bằng phép thuật, và ông ấy đã chết; nhưng bà ta đã
khóc lóc vì ông ấy, làm phiền ông ấy bằng những lời than: và đang sợ hãi, bà ta
đã đưa ta đến miệng con sông lớn nơi những con thuyền đi lại, ta đã thoát thân
trên những con tàu rồi sinh ngươi ở đó, rồi cuối cùng tới Athens sau nhiều
chuyến lang thang. Giờ ta nói cho ngươi, con trai của ta, Tisisthenes, hãy tìm
người đàn bà này, hãy học hỏi bí mật của Sự Sống, và nếu có thể hãy tìm cách
giết bà ta, vì cha ngươi Kallikrates; nếu ngươi sợ hãi hay thất bại, ta nói
điều này với toàn bộ dòng dõi sau ngươi, cho đến khi có một người dũng cảm được
tìm ra trong số họ, người sẽ tắm trong lửa và ngồi vào chỗ của các Pharaoh. Ta
nói những điều này, dù chúng là niềm tin từ quá khứ, nhưng ta biết, ta không
nói dối.”
[*]
Nekht-nebf, hay Nectanebo II., Pharaoh bản xứ cuối cùng của Ai Cập, đã trốn
khỏi Ochus tới Ethiopia, năm 339 trước Công Nguyên – Biên Tập Viên
“Xin
Chúa tha thứ cho bà ấy vì điều đó,” Job rên rỉ, anh ta đang nghe phần kỳ diệu này
với cái miệng há to.
Về
phần tôi, tôi không nói gì: ý nghĩ đầu tiên của tôi là, ông bạn khốn khổ của
tôi bị điên, đã sáng tác ra toàn bộ chuyện này, dù nó khó có thể là một câu
chuyện được sáng tác ra bởi bất kỳ ai. Nó quá nguyên thủy. Để giải đáp các nghi
ngờ của mình, tôi lấy miếng gốm lên và bắt đầu đọc bản văn tự gần giống tiếng
Hy Lạp chữ hoa trên đó; quả đúng là tiếng Hy Lạp của thời kỳ đó, tính đến cả
việc nó viết ra từ loại bút của một người Ai Cập sinh thời. Đây là đoạn văn tự
chính xác của nó:
ΑΜΕΝΑΡΤΑΣΤΟΥΒΑΣΙΛΙΚΟΥΓΕΝΟΥΣΤΟΥΑΙΓΥΠΤΙΟΥΗΤΟΥΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΙΣΙΔΟΣΙΕΡΕΩΣΗΝΟ
ΙΜΕΝΘΕΟΙΤΡΕΦΟΥΣΙΤΑΔΕΔΑΙΜΟΝΙΑΥΠΟΤΑΣΣΕΤΑΙΗΔΗΤΕΛΕΥΤΩΣΑΤΙΣΙΣΘΕΝΕΙΤΩΠΑΙΔΙΕΠ
ΙΣΤΕΛΛΕΙΤΑΔΕΣΥΝΕΦΥΓΟΝΓΑΡΠΟΤΕΕΚΤΗΣΑΙΓΥΠΤΙΑΣΕΠΙΝΕΚΤΑΝΕΒΟΥΜΕΤΑΤΟΥΣΟΥΠΑΤΡΟ
ΣΔΙΑΤΟΝΕΡΩΤΑΤΟΝΕΜΟΝΕΠΙΟΡΚΗΣΑΝΤΟΣΦΥΓΟΝΤΕΣΔΕΠΡΟΣΝΟΤΟΝΔΙΑΠΟΝΤΙΟΙΚΑΙΚΔΜΗΝΑ
ΣΚΑΤΑΤΑΠΑΡΑΘΑΛΑΣΣΙΑΤΗΣΛΙΒΥΗΣΤΑΠΡΟΣΗΛΙΟΥΑΝΑΤΟΛΑΣΠΛΑΝΗΘΕΝΤΕΣΕΝΘΑΠΕΡΠΕΤΡΑ
ΤΙΣΜΕΓΑΛΗΓΛΥΠΤΟΝΟΜΟΙΩΜΑΑΙΘΙΟΠΟΣΚΕΦΑΛΗΣΕΙΤΑΗΜΕΡΑΣΔΑΠΟΣΤΟΜΑΤΟΣΠΟΤΑΜΟΥΜΕΓ
ΑΛΟΥΕΚΠΕΣΟΝΤΕΣΟΙΜΕΝΚΑΤΕΠΟΝΤΙΣΘΗΜΕΝΟΙΔΕΝΟΣΩΙΑΠΕΘΑΝΟΜΕΝΤΕΛΟΣΔΕΥΠΑΓΡΙΩΝΑΝ
ΘΡΩΠΩΝΕΦΕΡΟΜΕΘΑΔΙΑΕΛΕΩΝΤΕΚΑΙΤΕΝΑΓΕΩΝΕΝΘΑΠΕΡΠΤΗΝΩΝΠΛΗΘΟΣΑΠΟΚΡΥΠΤΕΙΤΟΝΟΥ
ΡΑΝΟΝΗΜΕΡΑΣΙΕΩΣΗΛΘΟΜΕΝΕΙΣΚΟΙΛΟΝΤΙΟΡΟΣΕΝΘΑΠΟΤΕΜΕΓΑΛΗΜΕΝΠΟΛΙΣΗΝΑΝΤΡΑΔΕΑΠ
ΕΙΡΟΝΑΗΓΑΓΟΝΔΕΩΣΒΑΣΙΛΕΙΑΝΤΗΝΤΩΝΞΕΝΟΥΣΧΥΤΡΑΙΣΣΤΕΦΑΝΟΥΝΤΩΝΗΤΙΣΜΑΓΕΙΑΜΕΝΕ
ΧΡΗΤΟΕΠΙΣΤΗΜΗΔΕΠΑΝΤΩΝΚΑΙΔΗΚΑΙΚΑΛΛΟΣΚΑΙΡΩΜΗΝΑΓΗΡΩΣΗΝΗΔΕΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΤΟΥΣ
ΟΥΠΑΤΡΟΣΕΡΑΣΘΕΙΣΑΤΟΜΕΝΠΡΩΤΟΝΣΥΝΟΙΚΕΙΝΕΒΟΥΛΕΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕΛΕΙΝΕΠΕΙΤΑΩΣΟΥΚΑΝ
ΕΠΕΙΘΕΝΕΜΕΓΑΡΥΠΕΡΕΦΙΛΕΙΚΑΙΤΗΝΞΕΝΗΝΕΦΟΒΕΙΤΟΑΠΗΓΑΓΕΝΗΜΑΣΥΠΟΜΑΓΕΙΑΣΚΑΘΟΔΟ
ΥΣΣΦΑΛΕΡΑΣΕΝΘΑΤΟΒΑΡΑΘΡΟΝΤΟΜΕΓΑΟΥΚΑΤΑΣΤΟΜΑΕΚΕΙΤΟΟΓΕΡΩΝΟΦΙΛΟΣΟΦΟΣΤΕΘΝΕΩΣ
ΑΦΙΚΟΜΕΝΟΙΣΔΕΔΕΙΞΕΦΩΣΤΟΥΒΙΟΥΕΥΘΥΟΙΟΝΚΙΟΝΑΕΛΙΣΣΟΜΕΝΟΝΦΩΝΗΝΙΕΝΤΑΚΑΘΑΠΕΡΒ
ΡΟΝΤΗΣΕΙΤΑΔΙΑΠΥΡΟΣΒΕΒΗΚΥΙΑΑΒΛΑΒΗΣΚΑΙΕΤΙΚΑΛΛΙΩΝΑΥΤΗΕΑΥΤΗΣΕΞΕΦΑΝΗΕΚΔΕΤΟΥ
ΤΩΝΩΜΟΣΕΚΑΙΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΑΘΑΝΑΤΟΝΑΠΟΔΕΙΞΕΙΝΕΙΣΥΝΟΙΚΕΙΝΟΙΒΟΥΛΟΙΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕ
ΛΕΙΝΟΥΓΑΡΟΥΝΑΥΤΗΑΝΕΛΕΙΝΙΣΧΥΕΝΥΠΟΤΩΝΗΜΕΔΑΠΩΝΗΝΚΑΙΑΥΤΗΕΧΩΜΑΓΕΙΑΣΟΔΟΥΔΕΝΤ ΙΜΑΛΛΟΝΗΘΕΛΕΤΩΧΕΙΡΕΤΩΝΟΜΜΑΤΩΝΠΡΟΙΣΧΩΝΙΝΑΔΗΤΟΤΗΣΓΥΝΑΙΚΟΣΚΑΛΛΟΣΜΗΟΡΩΗΕΠΕ
ΙΤΑΟΡΓΙΣΘΕΙΣΑΚΑΤΕΓΟΗΤΕΥΣΕΜΕΝΑΥΤΟΝΑΠΟΛΟΜΕΝΟΝΜΕΝΤΟΙΚΛΑΟΥΣΑΚΑΙΟΔΥΡΟΜΕΝΗΕΚ
ΕΙΘΕΝΑΠΗΝΕΓΚΕΝΕΜΕΔΕΦΟΒΩΙΑΦΗΚΕΝΕΙΣΣΤΟΜΑΤΟΥΜΕΓΑΛΟΥΠΟΤΑΜΟΥΤΟΥΝΑΥΣΙΠΟΡΟΥΠΟ
ΡΡΩΔΕΝΑΥΣΙΝΕΦΩΝΠΕΡΠΛΕΟΥΣΑΕΤΕΚΟΝΣΕΑΠΟΠΛΕΥΣΑΣΑΜΟΛΙΣΠΟΤΕΔΕΥΡΟΑΘΗΝΑΖΕΚΑΤΗΓ
ΑΓΟΜΗΝΣΥΔΕΩΤΙΣΙΣΘΕΝΕΣΩΝΕΠΙΣΤΕΛΛΩΜΗΟΛΙΓΩΡΕΙΔΕΙΓΑΡΤΗΝΓΥΝΑΙΚΑΑΝΑΖΗΤΕΙΝΗΝΠ
ΩΣΤΟΤΟΥΒΙΟΥΜΥΣΤΗΡΙΟΝΑΝΕΥΡΗΣΚΑΙΑΝΑΙΡΕΙΝΗΝΠΟΥΠΑΡΑΣΧΗΔΙΑΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΚΑΛΛΙ
ΚΡΑΤΗΝΕΙΔΕΦΟΒΟΥΜΕΝΟΣΗΔΙΑΑΛΛΟΤΙΑΥΤΟΣΛΕΙΠΕΙΤΟΥΕΡΓΟΥΠΑΣΙΤΟΙΣΥΣΤΕΡΟΝΑΥΤΟΤΟ
ΥΤΟΕΠΙΣΤΕΛΛΩΕΩΣΠΟΤΕΑΓΑΘΟΣΤΙΣΓΕΝΟΜΕΝΟΣΤΩΠΥΡΙΛΟΥΣΑΣΘΑΙΤΟΛΜΗΣΕΙΚΑΙΤΑΑΡΙΣΤ
ΕΙΑΕΧΩΝΒΑΣΙΛΕΥΣΑΙΤΩΝΑΝΘΡΩΠΩΝΑΠΙΣΤΑΜΕΝΔΗΤΑΤΟΙΑΥΤΑΛΕΓΩΟΜΩΣΔΕΑΑΥΤΗΕΓΝΩΚΑΟ
ΥΚΕΨΕΥΣΑΜΗΝ
Để
thuận tiện cho việc đọc nói chung, tôi đã chuyển dịch chính xác đoạn văn tự này
sang dạng chữ thảo.
Ἀμενάρτας, τοῦ βασικοῦ γένους
τοῦ Αἰγυπτίου, ἡ τοῦ Καλλικράτους Ἴσιδος ἱερέως, ἣν οἱ μὲν θεοὶ τρέφουσι τὰ δὲ
δαιμονια ὑποτάσσεται, ἤδη τελευτῶσα Τισισθένει τῷ παιδὶ ἐπιστέλλει τάδε·
συνέφυγον γάρ ποτε ἐκ τῆς Αἰγυπτίας ἐπὶ Νεκτανέβου μετὰ τοῦ σοῦ πατρός, διὰ τὸν
ἔρωτα τὸν ἐμὸν ἐπιορκήσαντος. φυγόντες δὲ πρὸς νότον διαπόντιοι καὶ κʹδʹ μῆνας
κατὰ τὰ παραθαλάσσια τῆς Αιβύης τὰ πρός ἡλίου ἀνατολὰς πλανηθέντες, ἔνθαπερ
πέτρα τις μελάλη, γλυπτὸν ὁμοίωμα Αἰθίοπος κεφαλῆς, εἶτα ἡμέρας δʹ ἀπὸ στόματος
ποταμοῦ μεγάλου ἐκπεσόντες, οἱ μέν κατεποντίσθημεν, οἱ δὲ νόσῳ ἀπεθάνομεν·
τέλος δὲ ὑπ᾽ ἀλρίων ἀνθρώπων ἐφερόμεθα διὰ ἐλέων τε καὶ τεναλέων ἔνθαπερ πτηνῶν
πλῆθος ἀποκρύπτει τὸν οὐρανὸν, ἡμέρας ί, ἕως ἤλθομεν εἰς κοῖλόν τι ὄρος, ἔνθα
ποτὲ μεγάλη μὲν πόλις ἦν, ἄντρα δὲ ἀπείρονα· ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν
ξένους χύτραις στεφανούντων, ἥτις μαλεία μὲν ἐχρῆτο ἐπιστήμη δὲ πάντων καὶ δὴ
καὶ κάλλός καὶ ῥώμην ἀλήρως ἦν· ἡ δὲ Καλλικράτους τοῦ πατρὸς ἐρασθεῖδα τὸ μὲν
πρῶτον συνοικεῖν ἐβούλετο ἐμὲ δὲ ἀνελεῖν· ἔπειτα, ὡς οὐκ ἀνέπειθεν, ἐμὲ γὰρ ὑπερεφίλει
καὶ τὴν ξένην ἐφοβεῖτο, ἀπήγαγεν ἡμᾶς ὑπὸ μαγείας καθʹ ὁδοὺς σφαλερὰς ἔνθα τὸ
βάραθρον τὸ μέγα, οὗ κατὰ στόμα ἔκειτο ὁ γέρων ὁ φιλόσοφος τεθνεώς, ἀφικομένοις
δʹ ἔδειξε φῶς τοῦ βίου εὐθύ, οἷον κίονα ἑλισσόμενον φώνην ἱέντα καθάπερ
βροντῆς, εἶτα διὰ πυρὸς βεβηκυῖα ἀβλαβὴς καὶ ἔτι καλλίων αὐτὴ ἑαυτῆς ἐξεφάνη.
ἐκ δὲ τούτων ὤμοσε καὶ τὸν σὸν πατέρα ἀθάνατον ἀποδείξειν, εἰ συνοικεῖν οἱ
βούλοιτο ἐμὲ δε ὰνελεῖν, οὐ γὰρ οὖν αὐτὴ ἀνελεῖν ἴσχυεν ὑπὸ τῶν ἡμεδαπῶν ἣν καὶ
αὐτὴ ἔχω μαγείας. ὁ δʹ οὐδέν τι μᾶλλον ἤθελε, τὼ χεῖρε τῶν ὀμμάτων προίσχων ἵνα
δὴ τὸ τῆς γυναικὸς κάλλος μὴ ὁρῴη· ἔπειτα ὀργισθεῖσα κατεγοήτευσε μὲν αὐτόν,
ἀπολόμενον μέντοι κλάουσα καὶ ὀδυρμένη ἐκεῖθεν ἀπήνεγκεν, ἐμὲ δὲ φόβῳ ἀφῆκεν
εἰς στόμα τοῦ μεγάλου ποταμοῦ τοῦ ναυσιπόρου, πόδδω δὲ ναυσίν, ἐφʹ ὧνπερ
πλέουσα ἔτεκόν σε, ἀποπλεύσασα μόλις ποτὲ δεῦρο Ἀθηνάζε κατηγαγόν. σὺ δέ, ὦ
Τισίσθενες, ὧν ἐπιστέλλω μὴ ὀλιγώρει· δεῖ γὰρ τῆν γυναῖκα ἀναζητεῖν ἤν πως τῦ
βίου μυστήριον ἀνεύρῃς, καὶ ἀναιρεῖν, ἤν που παρασχῇ, διὰ τὸν πατέρα
Καλλικράτους. εἐ δὲ φοβούμενος ἢ διὰ ἄλλο τι αὐτὸς λείπει τοῦ ἔργου, πᾶσι τοῖς
ὕστερον αὐτὸ τοῦτο ἐπιστέλλω, ἕως ποτὲ ἀγαθός τις γενόμενος τῷ πυρὶ λούσασθαι
τολμήσει καὶ τὰ ἀριστεῖα ἔχων βασιλεῦσαι τῶν ἀνθρώπων· ἄπιστα μὲν δὴ τὰ τοιαῦτα
λέγω, ὅμως δὲ ἃ αὐτὴ ἔγνωκα οὐκ ἐψευσάμην.
Như
tôi đã phát hiện khi điều tra thêm, và độc giả có lẽ cũng dễ dàng nhìn ra qua
so sánh, bản dịch tiếng Anh đã chính xác và hàm súc.
Bên
cạnh văn tự chữ hoa trên bề mặt lồi của mảnh gốm, trên đỉnh, được sơn màu đỏ
xỉn, trên đó từng là môi của chiếc vò hai quai, có vỏ đạn đã được nhắc đến
giống ở scarabæus, mà chúng tôi cũng đã tìm thấy trong quan tài. Tuy
nhiên, các chữ tượng hình và các biểu tượng đã bị đảo ngược, như thể chúng được
ấn vào sáp. Liệu đó có phải là vỏ đạn của ông Kallikrates bản chính [*] không
hay của vị hoàng tử hoặc Pharaoh nào đó mà vợ ông ấy Amenartas có quan hệ huyết
thống, tôi không chắc, tôi cũng không thể nói liệu có đúng mảnh gốm được vẽ
cùng thời gian với những chữ hoa Hy Lạp được khắc lên không, hay được một thành
viên nào đó của gia tộc này sao chép lại gần đây từ con bọ hung phân Scarab. Cũng
không phải. Ở cuối bản văn tự cũng được sơn màu đỏ xỉn, là những phác thảo mờ
nhạt của một bản vẽ hơi thô lỗ về đầu và vai của một con Nhân sư đeo hai chiếc
lông vũ, biểu tượng của uy nghiêm, mà dù theo lẽ thường phải đủ các hình nộm bò
đực thiêng liêng và các vị thần, trước đó tôi chưa từng bao giờ gặp nó với Nhân
sư.
[*] Vỏ đạn này, nếu nó là một vỏ đạn thật, không thể là của
ông Kallikrates, như ngài Holly đoán. Kallikrates là một linh mục nên không
được quyền có vỏ đạn, đó là thứ đặc quyền của hoàng gia Ai Cập, dù ông ta có
thể được ghi tên hay tước hiệu lên một oval. – Biên Tập Viên.
Cũng
trên bề mặt phải của mảnh gốm, được sơn chéo bằng màu đỏ trong không gian không
có các ký tự chữ hoa phủ lên, được đánh dấu bằng sơn xanh, là dòng chữ kỳ lạ
sau đây:
TRONG MẶT ĐẤT, BẦU TRỜI VÀ BIỂN CẢ
CÓ NHỮNG ĐIỀU KÌ LẠ.
HOC FECIT
DOROTHEA VINCEY.
Hoàn
toàn lạc lối, tôi quay miếng thánh vật lại. Từ trên xuống dưới nó được phủ đầy
các ghi chú và chữ ký bằng tiếng Hy Lạp, Latin, và tiếng Anh. Cái đầu tiên bằng
chữ hoa Hy Lạp là của Tisisthenes, con trai của người viết bản văn tự này: “Ta
không thể đi được. Tisisthenes gửi cho con trai, Kallikrates.” Đây là mô phỏng
chữ thảo tương đương của nó:
ΟΥΚΑΝΔΥΝΑΙΜΗΝΠΟΡΕΥΕϹΘΑΙΤΙϹΙϹΘΕΝΗϹΚΑΛΛΙΚΡΑΤΕΙΤΩΙΠΑΙΔΙ
οὐκ ἂν δυναίμην πορεύεσθαι.
Τισισθένης Καλλικράτει τῷ παιδί.
Kallikrates
này (có lẽ theo truyền thống người Hy Lạp, được đặt tên theo ông nội của anh
ta) rõ ràng đã nỗ lực bắt đầu cuộc thám hiểm, vì những gì ghi vào của anh ta
rất mờ nhạt và hầu như là dạng chữ hoa rất khó đọc, “Tôi đã dừng chuyến đi của
tôi, các vị thần đang chống lại tôi. Kallikrates gửi cho con trai.” Đây là dòng
văn tự của anh ta:
ΤΩΝΘΕΩΝΑΝΤΙΣΤΑΝΤΩΝΕΠΑΥΣΑΜΗΝΤΗΣΠΟΡΕΙΑΣΑΛΛΙΚΡΑΤΗΣΤΩΙΠΑΙΔΙ
τῶν θεῶν ἀντιστάντων ἐπαυσάμην
τῆς πορείας. Καλλικράτης τῷ παιδί.
Dòng
văn tự thứ hai này bị khắc lộn ngược và rất mờ nhạt, đã bị mòn, nếu nó không
được Vincey dịch lại thì tôi có lẽ đã hầu như không thể đọc được nó, vì những
chữ đó được viết trên phần gạch mà theo thời gian chịu nhiều các thao tác cọ
xát chủ yếu bằng tay nên gần như bị mòn hết. Giữa hai dòng văn tự cổ trên là
một chữ ký đậm trông khá hiện đại của một vị Lionel Vincey “Ætate sua 17”, tôi
nghĩ đó là của ông nội Leo. Sang phải của nó là những chữ viết tắt “J. B. V.”,
đi theo bên dưới là một loạt các chữ ký Hy Lạp dạng chữ hoa và chữ thảo, và
dường như lặp đi lặp lại khá vô tình câu τῷ παιδί (gửi tới con trai ta), cho
thấy thánh vật này đã được truyền từ đời này sang đời kia đều đặn một cách có ý
thức.
Thứ
dễ đọc kế tiếp sau những chữ ký Hy Lạp là từ “Romae, A.U.C.”, cho thấy gia tộc
giờ đã di cư đến Rome. Tuy nhiên thật không may, ngoại trừ phần kết thúc của nó
(evi), ngày họ tới định cư ở đó đã bị mất vĩnh viễn, chỉ vì phần đó nằm trong
mảnh gốm đã bị vỡ mất.
Tiếp
theo là mười hai chữ ký Latin, được ghi chỗ này một chút chỗ kia một chút, bất
cứ chỗ nào có không gian trống phù hợp đều sẽ được khắc chữ. Những chữ ký này,
trừ ba chữ kí ngoại lệ, còn lại đều kết thúc với tên “Vindex” nghĩa là “Người
Báo Thù”, dường như tên này đã được gia tộc thông qua sau khi di cư tới Rome vì
nó tương đương với từ tiếng Hy Lạp “Tisisthenes”, cũng có nghĩa là người báo
thù. Cuối cùng, như dự kiến, tên họ riêng tiếng Latin Vindex đã được chuyển đổi
đầu tiên thành De Vincey, rồi sau đó chuyển thành Vincey hiện tại khá đơn giản.
Thật tò mò khi quan sát cách thức một ý tưởng trả thù, được khơi cảm hứng từ
một người Ai Cập sống trước Công Nguyên, và được bảo tồn trong một cái tên gia
tộc người Anh.
Vài
cái tên La Mã được khắc trên mảnh gốm mà tôi thật sự tìm thấy cũng được nói đến
trong lịch sử và các tài liệu khác. Nếu tôi nhớ không nhầm, đó là:
MVSSIVS. VINDEX
SEX. VARIVS MARVLLVS
C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
và
LABERIA POMPEIANA. CONIVX. MACRINI.
VINDICIS
Tên
cuối cùng tất nhiên là tên một quý bà La Mã.
Còn
danh sách sau chỉ gồm các tên Latin trên mảnh gốm:
C. CAECILIVS VINDEX
M. AIMILIVS VINDEX
SEX. VARIVS. MARVLLVS
Q. SOSIVS PRISCVS SENECIO VINDEX
L. VALERIVS COMINIVS VINDEX
SEX. OTACILIVS. M. F.
L. ATTIVS. VINDEX
MVSSIVS VINDEX
C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
LICINIVS FAVSTVS
LABERIA POMPEIANA CONIVX MACRINI VINDICIS
MANILIA LVCILLA CONIVX MARVLLI VINDICIS
M. AIMILIVS VINDEX
SEX. VARIVS. MARVLLVS
Q. SOSIVS PRISCVS SENECIO VINDEX
L. VALERIVS COMINIVS VINDEX
SEX. OTACILIVS. M. F.
L. ATTIVS. VINDEX
MVSSIVS VINDEX
C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
LICINIVS FAVSTVS
LABERIA POMPEIANA CONIVX MACRINI VINDICIS
MANILIA LVCILLA CONIVX MARVLLI VINDICIS
Sau
những cái tên La Mã này là một khoảng trống rõ ràng của rất nhiều thế kỷ. Giờ sẽ
không ai còn biết lịch sử của thánh vật này trong suốt những kỷ nguyên tối tăm
đó ra sao, hay nó đã được bảo tồn trong gia tộc như thế nào. Ông bạn Vincey
khốn khổ của tôi đã từng nói với tôi, các tổ tiên người La Mã của anh ấy cuối
cùng đã định cư ở Lombardy, và khi Charlemagne xâm lược nó, họ đã theo vị Hoàng
Đế này đi dọc theo dãy Alps, rồi dựng nhà ở Brittany, rồi vượt biển đến nước
Anh vào thời Edward – Người Xưng Tội. Tôi không hiểu anh ấy biết những điều đó
bằng cách nào, vì không có gì chỉ dẫn tới Lombardy hay Charlemagne trên mảnh
gốm, dù hiện tại có thể thấy chắc chắn có phần tham chiếu tới Brittany. Tiếp
tục: những dòng chữ kế tiếp trên mảnh gốm, nếu tôi có thể loại được vết bẩn của
máu hay một cái gì đó màu đỏ cùng loại, gồm hai chữ thập vẽ bằng thuốc màu đỏ,
có lẽ đại diện cho những thanh kiếm của đội quân Thập Tự Chinh, và một chữ viết
lồng nhau khá gọn gàng (“D.V.”) bằng màu đỏ tươi và xanh lam, có lẽ cũng do vị
Dorothea Vincey đã viết - hay đúng ra là sơn - mấy câu thơ bền bỉ kia vẽ nên.
Bên trái nó, được khắc màu xanh lam nhạt, là những chữ cái A.V., theo sau chúng
là niên hiệu 1800.
Sau
đó đến một thứ có lẽ cũng gây tò mò như dòng chữ hay bất kỳ cái gì trên miếng
thánh vật xa xưa kỳ lạ này. Nó bằng chữ đen, viết bên trên những chữ thập hay
những thanh kiếm của đoàn quân Thập Tự Chinh, và đề niên hiệu 1445. Vì kế hoạch
tốt nhất là cho phép nó tự nói lên bản thân, tôi đây đã đưa ra một mô phỏng
bằng chữ đen, cùng với từ gốc tiếng Latin mà không cắt bớt, từ đó chứng minh
rằng người viết là một người Latin thời trung cổ. Chúng tôi cũng phát hiện ra
thứ gây tò mò hơn, một bản tiếng Anh của thứ bằng tiếng Latin chữ đen kia. Thứ
này cũng viết bằng chữ đen, chúng tôi thấy được khắc trên tấm da dê thứ hai
trong rương, trông có vẻ hơi cũ so về niên hiệu so với thứ được khắc bản dịch
Latin thời trung cổ của bản bằng chữ hoa Hy Lạp mà tôi đang nói. Tôi cũng cung
cấp đầy đủ về nó như sau:
Bản
sao của Chữ Khắc màu đen trên mảnh gốm của Amenartas.
"Iſta reliq̅ia eſt valde
miſticu̅ et myrificu̅ op̅s q̅d maiores mei ex Armorica ſſ Brittania mi̅ore
ſecu̅ co̅veheba̅t et q̅dm ſc̅s cleric̅s ſe̅per p̅ri meo in manu ferebat q̅d
pe̅itus illvd deſtrueret, affirma̅s q̅d eſſet ab ipſo ſathana co̅flatu̅
preſtigioſa et dyabolica arte q̅re p̅ter mevs co̅fregit illvd i̅ dvas p̅tes q̅s
q̅dm ego Johs̅ de Vi̅ceto ſalvas ſervavi et adaptavi ſicut ap̅paret die lu̅e
p̅r̅ poſt feſt beate Mrie vir{g} anni gr̅e mccccxlv."
Bản
mở rộng của Chữ Khắc màu đen bên trên
"Ista reliquia est valde
misticum et myrificum opus, quod majores mei ex Armorica, scilicet Britannia
Minore, secum convehebant; et et quidam sanctus clericus semper patri meo in
manu ferebat quod penitus illud destrueret, affirmans quod esset ab ipso
Sathana conflatum prestigiosa et dyabolica arte, quare pater meus confregit
illud in duas partes, quas quidem ego Johannes de Vinceto salvas servavi et
adaptavi sicut apparet die lune proximo post festum beate Marie Virginis anni
gratie MCCCCXLV."
Bản
sao của Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen cho Chữ Khắc màu đen từ mảnh gốm của
Amenartas ở trên, cũng được thấy khắc trên một tấm da dê.
"Thys rellike ys a ryghte
mistycall worke & a marvaylous yᵉ whyche myne aunceteres afore tyme dyd
conveigh hider wᵗ yᵐ ffrom Armoryke whᵉ ys to ſeien Britaine yᵉ leſſe & a
certayne holye clerke ſhoulde allweyes beare my ffadir on honde yᵗ he owghte
uttirly ffor to ffruſſhe yᵉ ſame affyrmynge yᵗ yt was ffourmyd & confflatyd
off ſathanas hym ſelffe by arte magike & dyvellyſſhe wherefore my ffadir
dyd take yᵉ ſame & to braſt yt yn tweyne but I John de Vincey dyd ſave
whool yᵉ tweye p̄tes therof & topeecyd yᵐ togydder agayne ſoe as yee ſe on
y{s} daye mondaye next ffolowynge after yᵉ ffeeste of ſeynte Marye yᵉ bleſſed
vyrgyne yn yᵉ yeere of ſalvacioun ffowertene hundreth & ffyve &
ffowrti."
Bản
dịch tiếng Anh hiện đại cho Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen bên trên.
"Thys rellike ys a ryghte
mistycall worke and a marvaylous, ye whyche myne aunceteres aforetyme dyd
conveigh hider with them from Armoryke which ys to seien Britaine ye Lesse and
a certayne holye clerke should allweyes beare my fadir on honde that he owghte
uttirly for to frusshe ye same, affyrmynge that yt was fourmed and conflatyed
of Sathanas hym selfe by arte magike and dyvellysshe wherefore my fadir dyd
take ye same and tobrast yt yn tweyne, but I, John de Vincey, dyd save whool ye
tweye partes therof and topeecyd them togydder agayne soe as yee se, on this
daye mondaye next followynge after ye feeste of Seynte Marye ye Blessed Vyrgyne
yn ye yeere of Salvacioun fowertene hundreth and fyve and fowerti."
Thứ
kế tiếp, còn một cái này nữa thôi là đến dòng chữ cuối cùng của thời Elizabeth,
đề niên hiệu 1564. “Một câu chuyện vô cùng kỳ lạ, thứ đã làm cha tôi tiêu tốn
cả cuộc đời; trong việc tìm kiếm một nơi trên bờ biển phía đông Châu Phi, chiếc
thuyền dự phòng của ông bị một thuyền buồm Bồ Đào Nha Lorenzo Marquez đâm chìm,
và ông đã tự sát. – John Vincey.”
Rồi
đến thứ cuối cùng, rõ ràng đã điều chỉnh phong cách viết, được thực hiện bởi
một đại diện gia tộc giữa thế kỷ mười tám. Đó là một trích dẫn sai câu nổi
tiếng trong vở Hamlet, như thế này:”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái
đất hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi, Horatio.” [*]
[*] Yếu tố khác khiến tôi ấn định niên hiệu của dòng này là
giữa thế kỷ mười tám, đó là, khá tò mò, tôi có một bản sao diễn xuất của vở
Hamlet, được viết khoảng năm 1740, trong đó có hai dòng này hầu như chính xác
đã được trích dẫn sai, và tôi hơi nghi ngờ lẽ nào vị Vincey – người đã viết
những dòng này lên mảnh gốm – đã nghe chúng bị nhầm vào thời đó. Tất nhiên, câu
đúng thực tế là thế này: ”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái đất,
Horatio, hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi.” – L.H.H.
Và
giờ chỉ còn lại một tài liệu nữa cần tìm hiểu – đó là Bản Dịch Cổ chữ đen sang
tiếng Latin thời trung cổ của phần chữ hoa trên mảnh gốm. Như sẽ thấy, bản dịch
này được thực hiện và ký tên vào năm 1495, bởi một “người có học thức”, tên là
Edmundus de Prato (Edmund Pratt), có bằng cử nhân Luật Công Giáo, Đại Học
Exeter, Oxford, người này thực sự đúng là học trò của Grocyn, học giả đầu tiên
dạy tiếng Hy Lạp ở nước Anh. [*] Không nghi ngờ, chắc nhờ danh tiếng đó mới tới
tai ông, vị Vincey của ngày đó, có lẽ cũng là John de Vincey – người nhiều năm
trước đã cất giữ thánh vật, bảo vệ nó không bị phá hủy và viết dòng chữ màu đen
trên mảnh gốm năm 1445 – đã nhanh chóng tới Oxford để xem không chừng có thể
phá tan tấm màn bí ẩn của những dòng chữ kỳ bí. Ông không phải thất vọng, vì
Edmundus bác học đã đáp ứng được nhiệm vụ. Quả thực bản dịch của ông ta là một
ví dụ tuyệt vời cho việc học hành thời trung cổ và phong cách Latin, thậm chí
có nguy cơ làm người đọc có học thức chán ngấy với quá nhiều từ cổ, tôi đã
quyết tâm làm cho nó một bản sao, cùng với bản mở rộng, vì lợi ích của những
người thích ngắn gọn đơn giản. Bản dịch có một số đặc thù, trong đó không có chỗ
nào nhấn mạnh, nhưng tôi có thể kêu gọi sự chú ý của các học giả vào đoạn “duxerunt
autem nos ad reginam advenaslasaniscoronantium”, cho tôi thấy được đây
đúng là một bản dịch rất thú vị của bản gốc “ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν
ξένους χύτραις στεφανούντων”.
[*] Grocyn, người hướng dẫn của Erasmus, nghiên cứu tiếng Hy
Lạp dưới thời Chalcondylas nhà Byzantine ở Florence, và lần đầu tiên giảng dạy
tại Hội Trường Lớn của đại học Exeter, Oxford, năm 1491. – Biên Tập Viên
Bản
Dịch Tiếng Latin Thời Trung Cổ chữ đen của Bản Khắc Chữ Hoa trên miếng gốm của
Amenartas
Amenartas e gen. reg. Egyptii
uxor Callicratis ſacerdot̅ Iſidis qua̅ dei fove̅t demonia atte̅du̅t filiol’ ſuo
Tiſiſtheni ia̅ moribu̅da ita ma̅dat: Effugi quo̅da̅ ex Egypto regna̅te
Nectanebo cu̅ patre tuo, p̃pter mei amore̅ pejerato. Fugie̅tes aute̅ v’ſus
Notu̅ trans mare et xxiiij me̅ſes p’r litora Libye v’ſus Orie̅te̅ errant̃ ubi
eſt petra queda̅ m̃gna ſculpta inſtar Ethiop̃ capit̃, deinde dies iiij ab oſt̃
flum̃ m̃gni eiecti p’tim ſubmerſi ſumus p’tim morbo mortui ſum̃: in fine aute̅
a fer̃ ho̅i̅bs portabamur p̃r palud̃ et vada. ubi aviu̅ m’titudo celu̅ obu̅brat
dies x. donec advenim̃ ad cavu̅ que̅da̅ monte̅, ubi olim m̃gna urbs erat,
caverne quoq̃ im̅e̅ſe: duxeru̅t aute̅ nos ad regina̅ Advenaſlaſaniſcorona̅tiu̅
que magic̃ utebat̃ et peritia omniu̅ rer̃ et ſalte̅ pulcrit̃ et vigore
i̅ſe̅eſcibil’ erat. Hec m̃gno patr̃ tui amore p̃culſa p’mu̅ q’de̅ ei con̅ubiu̅
michi morte̅ parabat. poſtea v’ro recuſa̅te Callicrate amore mei et timore
regine affecto nos p̃r magica̅ abduxit p’r vias horribil’ ubi eſt puteus ille
p̃fu̅dus, cuius iuxta aditu̅ iacebat ſenior̃ philoſophi cadaver, et
adve̅ie̅tib̃ mo̅ſtravit flam̅a̅ Vite erecta̅, i̅star columne voluta̅tis, voces
emitte̅te̅ q̃ſi tonitrus: tu̅c p̃r igne̅ i̅petu nociuo expers tra̅ſiit et ia̅
ipsa ſeſe formoſior viſa eſt.
Quib̃ fact̃ iuravit ſe patre̅
tuu̅ quoq̃ im̅ortale̅ oſte̅ſura̅ eſſe, ſi me prius occiſa regine co̅tuberniu̅
mallet; neq̃ eni̅ ipſa me occidere valuit, p̃pter noſtratu̅ m̃gica̅ cuius
egomet p̃tem habeo. Ille vero nichil huius geñ maluit, manib ante ocul̃ paſſis
ne mulier̃ formoſitate̅ adſpiceret: poſtea eu̅ m̃gica p̃cuſſit arte, at mortuu̅
efferebat i̅de cu̅ fletib̃ et vagitib̃, me p̃r timore̅ expulit ad oſtiu̅ m̃gni
flumiñ veliuoli porro in nave in qua te peperi, uix poſt dies hvc Athenas
invecta ſu̅. At tu, O Tiſiſtheñ, ne q’d quoru̅ ma̅do nauci fac: neceſſe eni̅
eſt muliere̅ exquirere ſi qva Vite myſteriu̅ i̅petres et vi̅dicare, qua̅tu̅ in
te eſt, patre̅ tuu̅ Callierat̃ in regine morte. Sin timore ſue aliq̃ cavſa re̅
reli̅quis i̅fecta̅, hoc ipſu̅ oi̅b̃ poſter̃ ma̅do du̅ bonvs q̃s inveniatur qvi
ignis lauacru̅ no̅ p̃rhorreſcet et p̃tentia digñ do̅i̅abit̃ ho̅i̅u̅.
Talia dico
incredibilia q̃de̅ at min̅e ñcta de reb̃ michi cognitis.
Hec Grece scripta Latine
reddidit vir doctus Edm̅ds de Prato, in Decretis Licenciatus e Coll. Exon:
Oxon: doctiſſimi Grocyni quondam e pupillis, Id. Apr. Aᵒ. Dn̅i. MCCCCLXXXXV°.
Bản mở rộng của Bản Dịch Tiếng Latin thời trung cổ ở trên
Amenartas, e genere regio
Egyptii, uxor Callicratis, sacerdotis Isidis, quam dei fovent demonia
attendunt, filiolo suo Tisistheni jam moribunda ita mandat: Effugi quodam ex
Egypto, regnante Nectanebo, cum patre tuo, propter mei amorem pejerato.
Fugientes autem versus Notum trans mare, et viginti quatuor menses per litora
Libye versus Orientem errantes, ubi est petra quedam magna sculpta instar
Ethiopis capitis, deinde dies quatuor ab ostio fluminis magni ejecti partim
submersi sumus partim morbo mortui sumus: in fine autem a feris hominibus
portabamur per paludes et vada, ubi avium multitudo celum obumbrat, dies decem,
donec advenimus ad cavum quendam montem, ubi olim magna urbs erat, caverne
quoque immense; duxerunt autem nos ad reginam Advenaslasaniscoronantium, que
magicâ utebatur et peritiá omnium rerum, et saltem pulcritudine et vigore
insenescibilis erat. Hec magno patris tui amore perculsa, primum quidem ei
connubium michi mortem parabat; postea vero, recusante Callicrate, amore mei et
timore regine affecto, nos per magicam abduxit per vias horribiles ubi est
puteus ille profundus, cujus juxta aditum jacebat senioris philosophi cadaver,
et advenientibus monstravit flammam Vite erectam, instar columne voluntantis,
voces emittentem quasi tonitrus: tunc per ignem impetu nocivo expers transiit
et jam ipsa sese formosior visa est.
Quibus factis juravit se
patrem tuum quoque immortalem ostensuram esse, si me prius occisa regine
contubernium mallet; neque enim ipsa me occidere valuit, propter nostratum
magicam cujus egomet partem habeo. Ille vero nichil hujus generis malebat,
manibus ante oculos passis, ne mulieris formositatem adspiceret: postea illum
magica percussit arte, at mortuum efferebat inde cum fletibus et vagitibus, et
me per timorem expulit ad ostium magni fluminis, velivoli, porro in nave, in
qua te peperi, vix post dies huc Athenas vecta sum. At tu, O Tisisthenes, ne
quid quorum mando nauci fac: necesse enim est mulierem exquirere si qua Vite
mysterium impetres et vindicare, quautum in te est, patrem tuum Callieratem in
regine morte. Sin timore sue aliqua causa rem reliquis infectam, hoc ipsum
omnibus posteris mando, dum bonus quis inveniatur qui ignis lavacrum non
perhorrescet, et potentia dignus dominabitur hominum.
Talia dico
incredibilia quidem at minime ficta de rebus michi cognitis.
Hec Grece
scripta Latine reddidit vir doctus Edmundus de Prato, in Descretis Licenciatus,
e Collegio Exoniensi Oxoniensi doctissimi Grocyni quondam e pupillis, Idibus
Aprilis Anno Domini MCCCCLXXXXV°.
Cuối
cùng khi đã đọc xong và cẩn thận kiểm tra những bản văn tự và các đoạn dịch đó,
ít nhất những thứ này vẫn dễ đọc, tôi nói, “Đó là kết luận cho toàn bộ câu
chuyện này, Leo, giờ cháu có thể đưa ra quan điểm của chính cháu. Bác đã có
quan điểm của mình rồi.”
“Đó
là gì?” Cậu ấy nhanh chóng hỏi.
“Là
thế này. Bác tin rằng mảnh gốm này hoàn toàn là thật, và thật tuyệt vời, dường
như nó đến từ gia tộc của cháu từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Những dòng
chữ viết hoàn toàn chứng minh điều đó, do đó, dù không chắc lắm, nhưng câu
chuyện này cần phải được chấp nhận. Nhưng bác dừng ở đây thôi. Bà tổ xa xôi của
cháu, vị công chúa Ai Cập, hay ai đó ghi chép theo sự chỉ đạo của bà, đã viết
những thứ chúng ta thấy trên mảnh gốm, bác không nghi ngờ, cũng không có một
chút nghi ngờ nào dù nhỏ nhất, nhưng những đau khổ và mất mát vì chồng đã làm
bà ấy phát điên, bà ấy không đúng khi viết nó.”
“Bác
giải thích thế nào cho những gì cha cháu đã nhìn và nghe thấy ở đó?” Leo hỏi.
“Trùng
hợp ngẫu nhiên. Không nghi ngờ nữa, chắc chắn có những dốc đứng trên bờ biển
Châu Phi trông giống cái đầu người, và đầy tộc người nói tiếng Ả Rập bị pha
tạp. Bác cũng tin ở đó có nhiều đầm lầy. Một điều nữa, Leo, bác xin lỗi phải
nói điều này, nhưng bác không tin ông bố khốn khổ của cháu đã hoàn toàn đúng
khi viết lá thư này. Ông ấy đã gặp một sự cố lớn, rồi ông ấy cũng lại cho phép
chuyện này trở thành con mồi cho trí tưởng tượng, ông ấy là một người rất giàu
trí tượng tưởng. Dù sao đi nữa, bác tin rằng toàn bộ chuyện này là thứ vô giá
trị không đáng nhất. Bác biết, có những thứ rất gây tò mò và những sức mạnh
trong tự nhiên mà chúng ta hiếm khi gặp, dù chúng ta gặp chúng, cũng không thể
hiểu nổi. Nhưng đến khi nào bác tận mắt thấy nó, còn không thì bác sẽ không bao
giờ tin có cách nào tránh khỏi cái chết, dù là một lần, hay cả chuyện có hoặc
đã có một nữ phù thủy da trắng sống giữa đầm lầy Châu Phi. Đó chỉ là chuyện bậy
bạ, cậu bé của tôi, toàn chuyện bậy bạ! – Cậu định nói gì, Job?”
“Thưa
ngài, tôi muốn nói, đó là chuyện dối trá, nếu là thật, tôi mong ngài Leo sẽ
không can thiệp vào những thứ như thế, vì nó chả có gì hay cả.”
“Có
lẽ cả hai người đã đúng,” Leo nói, rất lặng lẽ.”Cháu không có ý kiến gì. Nhưng
cháu cần nói điều này. Cháu sẽ để chuyện này lại vì tất cả, và nếu bác không đi
với cháu, cháu sẽ tự đi một mình.”
Tôi
nhìn chàng trai trẻ, và biết cậu hiểu những gì cậu nói. Khi Leo hiểu những gì
cậu ấy nói, cậu ấy thể hiện một vẻ tò mò trên miệng. Đó là tính cách của cậu từ
khi còn bé. Bây giờ thực tế là tôi không có ý định cho phép Leo tự đi khắp nơi,
dù vì lợi ích của riêng tôi hay của cậu ấy. Tôi đã quá gắn bó với cậu ấy rồi.
Tôi không phải là người có nhiều mối quan hệ và tình cảm. Hoàn cảnh đang chống
lại tôi trong mối quan hệ này, đàn ông và phụ nữ đều chùn bước trước tôi, hay
ít nhất, tôi nghĩ họ như thế, điều đó dẫn đến những việc, những suy nghĩ tương
tự, có lẽ thế giới bên ngoài đáng ghét là một chìa khóa nhốt con người tôi lại.
Thay vì chịu đựng điều này, ở mức độ lớn hơn, tôi đã tự tách biệt bản thân khỏi
thế giới, và tự mình cắt đứt những cơ hội mà với hầu hết mọi người, có thể tạo
thành những mối quan hệ ít nhiều thân mật. Vì thế Leo là toàn bộ thế giới đối
với tôi – là em trai, là con, và là bạn – cho đến khi cậu ấy mệt mỏi vì tôi,
cậu ấy đi đâu tôi cũng theo đó. Nhưng tất nhiên, đừng để cậu ấy thấy cậu ấy là
một điểm tựa vĩ đại thế nào với tôi; như thế tôi sẽ che dấu được bằng cách nào
đó để có thể dễ dàng buông xuống.
“Phải,
cháu sẽ đi bác ạ; nếu cháu không tìm thấy cái ‘Cột Trụ của Sự Sống đang cuộn
chảy’, bất cứ giá nào cháu cũng phải thành tay súng hạng nhất.”
Cơ
hội đây rồi, tôi tóm lấy ngay lập tức.
“Bắn
súng ư?” Tôi nói, “À phải, bác chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Đó hẳn phải là một
mảnh đất rất hoang dã và đầy đủ cho một trò chơi lớn. Bác luôn muốn giết được
một con bò rừng trước khi chết. Cháu biết không, cậu bé của tôi, bác không tin
vào cuộc thám hiểm, nhưng bác tin vào trò chơi lớn, cuối cùng nếu sau khi đã thực
sự nghĩ xong xuôi, cháu đã quyết định đi, bác sẽ xin nghỉ phép để đi cùng
cháu.”
“A”,
Leo nói,” Cháu biết là bác sẽ không để mất cơ hội thế này mà. Nhưng còn tiền
bạc thì sao ạ? Chúng ta sẽ cần khá nhiều đấy.”
“Cháu
không cần bận tâm về chuyện đó,” Tôi trả lời. “Toàn bộ thu nhập của cháu cộng
dồn nhiều năm qua, bên cạnh đó bác cũng tiết kiệm được hai phần ba những gì bố
cháu để lại cho bác, vì bác quan tâm, tin tưởng cháu. Có rất nhiều tiền mặt.”
“Rất
tuyệt, thế thì chúng ta sắp những thứ này vào và ra thị trấn xem súng thôi.
Job, anh cũng đi cùng chứ? Đã đến lúc anh cần nhìn thấy thế giới rồi.”
“Vâng
thưa ngài,” Job điềm tĩnh trả lời,”Tôi không ở nước ngoài nhiều lắm, nhưng nếu
cả hai quí ngài đã dự định đi, ngài sẽ muốn ai đó chăm sóc cho ngài, và tôi
không phải là người dừng lại sau khi đã phục vụ ngài hai mươi năm qua.”
“Phải
đấy, Job,” Tôi nói. “Cậu sẽ không tìm thấy cái gì tuyệt vời đâu, nhưng cậu sẽ
trở thành tay săn bắn khá. Nào, giờ hãy nhìn đây, cả hai người. Tôi sẽ không
nói một từ nào về thứ vô nghĩa này,” và tôi chỉ vào mảnh gốm. “Nếu việc này
truyền ra ngoài, và nếu chuyện gì đó xảy ra với tôi, người thân của tôi sẽ
tranh chấp di chúc điên cuồng, và tôi sẽ trở thành trò cười ở Cambridge.”
Một ngày của ba tháng sau, chúng tôi đã trên đại
dương, tiến tới đảo Zanzibar.
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)