Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 3


CHƯƠNG 3

Mảnh gốm cổ của Amenartas
Vào ngày trước ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của Leo, cả hai chúng tôi cùng tới London, lấy cái hộp bí ẩn từ ngân hàng mà tôi đã gửi vào hai mươi năm trước. Tôi nhớ nó được một nhân viên mang lên, đó chính là nhân viên đã từng mang nó xuống trước đây. Ông nhớ đã che dấu nó đi thật hoàn hảo. Ông bảo nếu không làm thế, ông sẽ khó mà tìm thấy nó, nó được phủ đầy màng nhện.
Chúng tôi trở về Cambridge với gánh nặng này vào buổi tối, và tôi nghĩ có lẽ cả hai chúng tôi đều mất ngủ. Lúc rạng đông Leo đã tới phòng tôi trong bộ áo choàng ngủ, và đề nghị chúng tôi nên tiến hành việc này luôn. Tôi từ chối vì nó thể hiện một sự tò mò không đáng. Cái hộp đã chờ hai mươi năm, tôi nói, vì thế tốt hơn là tiếp tục đợi đến sau bữa sáng. Lúc chín giờ - chín giờ đúng chính xác một cách không bình thường – chúng tôi ăn sáng; và chiếm giữ toàn bộ suy nghĩ của tôi là sự hối tiếc đã đặt miếng thịt hun khói vào trà của Leo thay vì một cục đường. Tất nhiên sự phấn khích có tính lây lan đã trải rộng, Job cũng vậy, hoàn toàn phá vỡ tách trà Trung Hoa Sèvres của tôi, cái tách giống hệt tôi tin là Marat đã uống chỉ trước khi ông ta bị đâm trong phòng tắm.
Tuy nhiên cuối cùng bữa sáng đã kết thúc, và Job, theo yêu cầu của tôi, lấy cái hộp ra, thật trọng đặt nó lên bàn như thể anh ta không tin tưởng nó. Sau đó anh ta chuẩn bị rời khỏi phòng.
“Dừng lại một chút, Job,” Tôi nói. “Nếu ngài Leo không phản đối, tôi muốn có một nhân chứng độc lập cho việc này, người này cần giữ mồm giữ miệng, trừ khi bị buộc phải nói.”
“Tất nhiên rồi, bác Horace,” Leo trả lời; vì tôi đã buộc cậu gọi tôi là bác – dù cậu thường thay đổi gọi tôi hơi vô lễ là “nhà nghiên cứu sinh già nua”, hay thậm chí “ông bác hờ của tôi”.
Job khẽ chạm vào đầu, không có mũ trên đó.
“Hãy khóa cửa, Job,” Tôi nói, “và mang cho tôi hòm thư từ.”
Anh ta vâng theo, và từ trong hòm thư tôi lấy chùm chìa khóa mà Vincey khốn khổ, cha của Leo, đã đưa cho tôi vào buổi tối anh ấy mất. Có ba chìa trong đó; cái lớn nhất khá giống với chiếc chìa khóa hiện đại, cái thứ hai rất cổ, cái thứ ba hoàn toàn không giống bất kỳ thứ gì chúng tôi từng thấy trước đây, được tạo thành rõ ràng từ một thanh bạc rắn, với một chốt đặt dọc để làm tay cầm, có vài khía được cắt trên cạnh của chốt. Nó giống một mô hình đường sắt cổ xưa hơn bất kỳ thứ gì khác.
“Giờ cả hai đã sẵn sàng chưa?” Tôi nói, vì người ta làm thế khi họ sắp ném mìn. Không có câu trả lời, nên tôi lấy chiếc chìa khóa lớn, chà ít dầu xà lách vào các khe, sau một hay hai cú đẩy vào, tay tôi run lên, điều chỉnh cho phù hợp, và mở cái khóa ra. Leo cúi xuống, bắt lấy cái nắp to bằng cả hai tay, và dùng sức đẩy nó ra, vì bản lề đã bị han gỉ. Lớp vỏ bên ngoài lộ ra một cái lồng khác được phủ đầy bụi. Vật này chúng tôi lôi ra khỏi cái hộp sắt không chút khó khăn, lau vết bẩn tích lũy bao năm qua bằng bàn chải quần áo.
Nó trông có vẻ như là gỗ mun, hoặc một loại gỗ màu đen gần như hồ tiêu, và được bao xung quanh bằng những tấm sắt phẳng. Tuổi đời của nó phải cực lâu rồi, vì các thớ gỗ dày đặc thực ra một phần để suy đoán tuổi.
“Bây giờ hãy dùng nó,” Tôi nói, cắm chiếc khóa thứ hai vào.
Job và Leo cúi người về phía trước trong sự im lặng khó thở. Chiếc chìa xoay lại, và tôi lật tung cái nắp ra, rồi thốt ra một câu cảm thán, không có gì lạ, vì bên trong cái lồng gỗ mun là một quan tài bằng bạc tuyệt đẹp, khoảng mười hai inch vuông, cao tám thước. Nó dường như là đồ thủ công của người Ai Cập, bốn chân tạo bởi các Nhân sư, và nắp hình vòm cũng phủ bởi một con Nhân sư. Tất nhiên chiếc quan tài đã bị hoen ố và sứt mẻ nhiều bởi tuổi tác, nhưng nói cách khác, vẫn ở trong tình trạng khá tốt.
Tôi kéo nó ra và đặt nó lên bàn, rồi, giữa bầu không khí im lặng gần như tuyệt đối, tôi đưa cái khóa bạc lạ mắt vào, và ấn các kiểu cho đến cuối cùng cái khóa mở ra, chiếc quan tài đã ở trước mặt chúng tôi. Nó bị một chất liệu cắt nhỏ màu nâu lấp đầy đến miệng, giống sợi thực vật hơn là giấy, chất liệu này tôi có thể không bao giờ khám phá ra được. Tôi cẩn thận lấy nó ra đến độ sâu khoảng ba inch, khi đó tôi lấy được một lá thư đi kèm trong chiếc phong bì trông khá hiện đại thông thường, nó có đề chữ viết tay của người bạn đã mất của tôi Vincey.
“Gửi con trai tôi Leo, nếu con còn sống để mở chiếc quan tài này.”
Tôi đưa bức thư cho Leo, giờ đang liếc nhìn chiếc phong bì, rồi cậu đặt nó xuống bàn, đi về phía tôi và tiếp tục lục tung cái quan tài.
Thứ tiếp theo tôi tìm thấy là một tấm giấy da cuộn lại cẩn thận. Tôi trải nó ra, và thấy đó cũng là chữ viết tay của Vincey, tiêu đề là, “Bản dịch của Văn Tự Chữ Hoa Hy Lạp trên Mảnh Gốm”, lại đặt nó xuống bên cạnh bức thư. Rồi tiếp đến là một cuộn giấy da cổ khác, đã trở nên vàng ố và nhăn lại theo năm tháng. Tôi cũng trải nó ra. Nó cũng giống như bản dịch của cùng một bản gốc tiếng Hy Lạp, nhưng ở dạng chữ Latin màu đen, thoạt nhìn kiểu dáng và chữ viết, theo tôi nó nằm đâu đó khoảng đầu thế kỷ thứ mười sáu. Ngay bên dưới cuộn này là thứ gì đó cứng và nặng, được bọc trong vải lanh vàng, đặt trên một lớp bằng vật liệu sợi. Thật từ từ và cẩn thận, chúng tôi trải tấm vải lanh ra, hiện ra một mảnh gốm lớn, không nghi ngờ gì nữa, phải rất cổ xưa, có màu vàng bẩn thỉu! Mảnh gốm này theo phán đoán của tôi, từng là một phần của một chiếc vò hai quai thông thường có kích thước trung bình. Phần còn lại này, có kích thước mười inch rưỡi chiều dài, bảy inch chiều rộng, dày khoảng một phần tư inch, trên bề mặt lồi từ trên xuống đáy phủ dày đặc văn tự dạng ký tự hoa Hy Lạp sau này, nhạt dần đây đó, nhưng hầu hết hoàn toàn dễ đọc, văn tự rõ ràng được thực hiện cực kỳ cẩn thận, bằng cách dùng một cây bút sậy, như người xưa thường dùng. Tôi không quên đề cập rằng tại một tuổi đời xa xôi nào đó, mảnh gốm tuyệt vời này đã bị vỡ làm đôi, rồi được ghép lại bằng xi măng và tám chiếc đinh tán dài. Cũng có nhiều chữ khác ở mặt bên trong, nhưng rất không đều, và rõ ràng được thực hiện bởi những bàn tay khác nhau và ở nhiều lứa tuổi khác nhau, những chữ này cùng với các văn tự trên những tấm giấy da, tôi sẽ phải đọc chúng.
     [mảnh 1]

     MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS

     Kích cỡ 1/2

     Độ dài lớn nhất của vật gốc           10½ inches
     Độ rộng lớn nhất                7 inches
     Khối lượng                      1 pound 5½ ounces

     [mảnh 2]

     MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS

     Kích cỡ 1/2

“Còn gì nữa không?” Leo hỏi bằng một câu thì thầm phần khích.
Tôi dò dẫm, và trình ra một cái gì đó cứng, để trong một túi bằng vải lanh nhỏ. Ngoài chiếc túi, chúng tôi thoạt tiên thấy một hình vẽ nghệ thuật nhỏ rất đẹp làm bằng ngà voi, và thứ hai, một hợp chất màu sô cô la nhỏ nhắn scarabæus, đánh dấu thế này:
[phác họa bị bỏ qua]
Những biểu tượng này chúng tôi chắc chắn, có nghĩa là “Suten se Ra”, dịch ra là “Con Trai của Ra (hay Thần Mặt Trời)”. Hình vẽ nghệ thuật nhỏ là bức tranh của người mẹ Hy Lạp của Leo – một tạo vật mắt đen rất dễ thương. Trên mặt sau của nó là nét chữ viết tay của Vincey khốn khổ, “Vợ yêu của tôi”.
“Đó là tất cả.” Tôi nói.
“Rất tốt,” Leo trả lời, đặt cái hình vẽ nghệ thuật nhỏ xuống, thứ đó cậu đã nhìn rất trìu mến; “nào bây giờ chúng ta hãy đọc lá thư,” và không khó khăn chút nào, cậu phá niêm phong, và đọc to nội dung:
“Con trai của ta Leo, - Khi con mở thư này, nếu con còn sống để làm điều đó, thì con đã đến lúc trưởng thành, và cha cũng đã chết đủ lâu để gần như tất cả những người quen biết hoàn toàn quên lãng. Nhưng khi đọc thư này, hãy nhớ rằng cha đã, đang và sẽ vẫn tồn tại, vì như con thấy trong này, thông qua bút và giấy, cha vẫn giang tay về phía con qua hố ngăn cách của cái chết, giọng cha vẫn nói với con từ trong yên lặng nơi lăng mộ. Dù cha đã chết, không có ký ức nào của cha còn sót lại trong tâm trí con, nhưng cha vẫn ở bên con giờ phút con đang đọc thư này. Từ khi con ra đời đến nay hầu như cha chưa từng thấy mặt. Hãy tha thứ cho cha vì điều đó. Sự sống của con đã thay thế cho sự sống của một người mà cha yêu hơn bất kỳ phụ nữ nào, và nỗi cay đắng này vẫn kéo dài. Nếu cha sống cha sẽ phải chống đỡ lại cảm giác ngu ngốc này, nhưng cha đã không lựa chọn sống tiếp. Nỗi đau khổ của cha, cả thể chất lẫn tinh thần, nhiều hơn cha có thể chịu đựng, sau khi những thu xếp nhỏ cha làm vì tương lai hạnh phúc của con đã hoàn thành, chủ ý của cha là muốn dành một khoảng thời gian cho mọi chuyện này. Có lẽ Chúa sẽ tha thứ cho cha nếu cha làm sai. Cuối cùng cha cũng không thể sống thêm một năm nữa.”
“Vì thế ông ấy đã tự sát,” Tôi tuyên bố. “Bác nghĩ vậy đấy.”
“Giờ,” Leo tiếp tục mà không đáp lại lời tôi,” thế là đủ cho bản thân cha. Những gì phải nói phụ thuộc vào con, người đang sống, chứ không phải cha, người đã chết, và hầu như đã bị lãng quên như thể cha chưa từng bao giờ tồn tại. Holly, bạn của cha (gửi tới người, mà nếu cậu ấy chấp nhận lời giao phó, dự định của cha đặt niềm tin nơi cậu ấy), sẽ nói cho con một chút về nguồn gốc xa xưa kỳ lạ trong dòng máu của con. Những gì trong quan tài này đủ để chứng minh điều đó. Truyền thuyết kỳ lạ mà con sẽ tìm thấy được tổ mẫu xa xôi của con ghi lại trên mảnh gốm vỡ được cha của cha truyền lại khi ông ấy lâm chung, nó giữ một động lực mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của cha. Khi cha mới mười chín tuổi, cha đã quyết định điều tra ra sự thật, giống như một trong các tổ tiên của chúng ta thời Elizabeth đã làm, dù số phận ông ấy thật không may. Vì tất cả những gì đã xảy ra với cha, giờ cha không thể tiếp tục đi sâu hơn nữa. Nhưng điều này cha đã chứng kiến tận mắt. Trên bờ biển Châu Phi, trong một vùng đất đến nay vẫn chưa được khai phá, cách phía bắc nơi đó một khoảng, nơi Zambesi đã rơi xuống biển, có một mũi đất, cuối mũi đất có một đỉnh tháp hướng lên trên, có hình dạng như cái đầu một người da đen, tương tự như văn tự nói đến. Cha đã đặt chân đến đó, và tìm hiểu được từ một người bản địa lang thang, kẻ đã bị đuổi khỏi tộc người của anh ta vì tội lỗi anh ta mắc phải; xa đất liền là dãy núi lớn có hình như những chiếc bát, các hang động bao quanh bằng những đầm lầy không thể đo được. Cha cũng biết rằng tộc người ở đó nói thổ ngữ Ả Rập, và bị cai trị bởi một phụ nữ da trắng xinh đẹp – người mà hiếm khi họ được nhìn thấy, nhưng được cho là có quyền lực đối với tất cả các sinh vật sống và chết. Hai ngày sau đó cha xác định chắc chắn người đàn ông này bị chết vì sốt rét khi lội qua đầm lầy, còn cha bị những thiếu thốn lương thực và triệu chứng bệnh mà sau này làm cha suy nhược buộc phải trở lại thuyền.
Trong cuộc phiêu lưu này, sau lần đó, giờ cha không cần nói. Cha đã bị đắm tàu ở bờ biển Madagascar, được một con tàu Anh cứu sống sau vài tháng và đưa cha đến Aden, khi đó cha bắt đầu phục vụ nước Anh, dự định sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm ngay sau khi đã chuẩn bị đầy đủ. Trên đường đi cha dừng chân ở Hy Lạp, và ở đó, vì ‘Omnia vincit amor’, cha gặp mẹ yêu của con, kết hôn, rồi khi con ra đời, cô ấy mất. Đó là căn bệnh cuối cùng hành hạ cha, và cha trở về đây để chết. Nhưng cha vẫn không ngừng hi vọng, tự thân làm việc để học tiếng Ả Rập, ý định tốt đẹp mà cha chưa bao giờ muốn có được hơn thế, là trở lại bờ biển Châu Phi, giải đáp điều kỳ bí có trong truyền thống gia tộc chúng ta bao thế kỷ qua. Nhưng cha đã không thể khỏe hơn, và cha chỉ liên quan đến đây thôi, câu chuyện đã đến lúc kết thúc.
Tuy nhiên, đối với con, con trai của cha, nó chưa kết thúc, và cha trao lại những thành quả lao động của cha cho con, cùng với những bằng chứng về nguồn gốc của chúng. Ý định của cha là chúng sẽ không thể đưa đến tay con cho đến khi con đến tuổi có thể tự đánh giá được nên lựa chọn tìm kiếm hay không những thứ này, những thứ mà nếu là sự thật, nó sẽ là bí ẩn lớn nhất trên đời, còn không, nó chỉ là một câu chuyện bịa đặt nhàn rỗi, xuất phát đầu tiên từ bộ não rối loạn của một phụ nữ.
Cha không tin vào câu chuyện hoang đường này; cha tin rằng nếu nó được khám phá lại, có một điểm mà các sức mạnh sống còn của thế giới tồn tại hiển hiện. Sự sống tồn tại; thế thì tại sao những cách thức duy trì nó vĩnh viễn lại không tồn tại? Nhưng cha không có mong muốn làm ảnh hưởng đến tâm trí con vì chuyện này. Hãy tự đọc và tự phán xét. Nếu con nghiêng về thực hiện cuộc tìm kiếm, cha đã cung cấp để con không thiếu phương tiện. Nhưng trái lại, nếu con thấy hài lòng khi cho rằng toàn bộ chỉ là thứ hão huyền, thì cha van xin con, hãy phá hủy mảnh gốm và các bản văn tự, hãy để nguyên nhân gây rắc rối bị xóa bỏ khỏi dòng tộc chúng ta vĩnh viễn. Có lẽ đó là khôn ngoan nhất. Cái không biết thường gây ra hậu quả khủng khiếp, không phải từ ngạn ngữ suy ra đâu, đó là từ sự mê tín vốn có của nhân loại, nhưng cũng bởi vì nó thường rất khủng khiếp. Người gây xáo trộn những sức mạnh to lớn và bí ẩn đang hoạt động trên đời có thể trở thành nạn nhân của chính những sức mạnh này. Và nếu cuối cùng thắng lợi, nếu cuối cùng sau thử nghiệm này con hiện ra mãi mãi xinh đẹp và mãi mãi trẻ trung, bất chấp thời gian và quỉ dữ, diệt trừ được sự phân rã tự nhiên về thể xác và trí tuệ, ai nói rằng sự biến đổi tuyệt vời đó chứng minh người đó hạnh phúc? Hãy lựa chọn, con trai của ta, có lẽ thần Sức mạnh cai trị mọi thứ nói rằng 'đi một ngày đàng học một sàng khôn’, điều khiển sự lựa chọn cho hạnh phúc của chính con và hạnh phúc của thế giới, nơi đó, trong mỗi sự kiện thành công của con, một ngày nào đó chắc chắn con có thể thống trị nguồn sức mạnh tinh khiết từ những trải nghiệm tích lũy lại. – Tạm biệt!”
Lá thư không chữ ký, không ngày tháng, đột ngột kết thúc.
“Bác nghĩ gì, bác Holly,” Leo nói, thở hổn hển khi cậu đặt nó lên bàn. “Chúng ta đã đang tìm kiếm một bí ẩn, và dường như người ta chắc chắn đã tìm ra nó.”
“Bác nghĩ gì à? Sao chứ, tất nhiên là ông bố yêu quý khốn khổ của cháu phát điên rồi,” Tôi cáu kỉnh trả lời.”Bác đoán ngay ra tối đó, hai mươi năm trước, khi ông ấy đến phòng bác. Cháu thấy đấy, ông ấy đã vội vã kết thúc chính mình, anh chàng khốn khổ. Bậy bạ hết sức.”
“Đúng đó, thưa ngài!” Job long trọng nói. Job là điển hình thực tế nhất trong các loại thực tế.
“Được rồi, chúng ta hãy xem mảnh gốm nói gì,” Leo nói, lấy bản dịch viết tay của cha cậu ấy lên và bắt đầu đọc:
“Tôi, Amenartas, thuộc Gia Tộc Hoàng Gia của các Pharaoh Ai Cập, vợ của Kallikrates (Vẻ Đẹp trong Sức Mạnh), một linh mục của Isis – người mà các thần linh yêu mến và quỷ dữ phải vâng lời, đang sắp chết, gửi tới con trai bé nhỏ của tôi Tisisthenes (Sự Báo Thù Vĩ Đại). Ta đã chạy trốn với cha ngươi khỏi Ai Cập trong những ngày Nectanebes, [*] khiến ông ấy vì tình yêu phá vỡ lời thề. Chúng ta đã trốn xuống phía nam, dọc theo dòng nước, và chúng ta đã lang thang suốt hai lần mười hai tuần trăng bên bờ biển Libya (Châu Phi) nhìn về hướng mặt trời mọc, nơi đó bên con sông là một con thuyền bằng đá cực kỳ to lớn như cái đầu của một người Ethiopia. Bốn ngày trên mặt nước từ miệng của một con sông hùng vĩ chúng ta đã thoát được, một số bị chết đuối và một số chết vì bệnh tật. Nhưng những con người hoang dã chúng ta đã xuyên qua nước thải và đầm lầy, nơi chim biển che cả bầu trời, mang chúng ta trong cuộc hành trình mười ngày đến khi chúng ta tới một ngọn núi giả, nơi một thành phố vĩ đại đã từng tồn tại và sụp đổ, và nơi đó có những hang động mà không ai nhìn thấy điểm cuối cùng; họ mang chúng ta tới chỗ Nữ Hoàng của tộc người, người của tộc này đặt chậu trên đầu người lạ, Nữ Hoàng là một phù thủy có kiến thức về mọi thứ, sự sống và sắc đẹp mà không chết. Bà ta đã liếc mắt đưa tình với cha ngươi, Kallikrates, và muốn giết ta, lấy ông ta làm chồng, nhưng ông ấy yêu ta và sợ hãi bà ấy nên không thể. Rồi bà ta tóm lấy chúng ta, dẫn dắt chúng ta bằng những cách thức khủng khiếp, bằng phép thuật đen tối, tới nơi có cái hố lớn, trên miệng của nó một nhà triết học già nằm chết, rồi chỉ cho chúng ta Cột Trụ của Sự Sống đang cuộn chảy mà không chết, nơi đó âm thanh như tiếng sấm, bà ta đứng trong ngọn lửa, rồi đi ra không hề tổn thương gì, thậm chí còn xinh đẹp hơn. Rồi bà ta thề sẽ làm cho cha ngươi bất tử ngay cả khi bà ta chết, nếu ông ấy giết ta, và tự dâng hiến cho bà ta, đối với ta, bà ta không thể giết vì có phép thuật của dòng tộc ta mang trong người, và điều đó khiến ta chiếm ưu thế hơn bà ta. Ông ấy đã giơ tay lên mặt để che đi vẻ đẹp của bà ta, nhưng không thể. Sau đó, trong cơn giận dữ bà ta đã đánh ông ấy bằng phép thuật, và ông ấy đã chết; nhưng bà ta đã khóc lóc vì ông ấy, làm phiền ông ấy bằng những lời than: và đang sợ hãi, bà ta đã đưa ta đến miệng con sông lớn nơi những con thuyền đi lại, ta đã thoát thân trên những con tàu rồi sinh ngươi ở đó, rồi cuối cùng tới Athens sau nhiều chuyến lang thang. Giờ ta nói cho ngươi, con trai của ta, Tisisthenes, hãy tìm người đàn bà này, hãy học hỏi bí mật của Sự Sống, và nếu có thể hãy tìm cách giết bà ta, vì cha ngươi Kallikrates; nếu ngươi sợ hãi hay thất bại, ta nói điều này với toàn bộ dòng dõi sau ngươi, cho đến khi có một người dũng cảm được tìm ra trong số họ, người sẽ tắm trong lửa và ngồi vào chỗ của các Pharaoh. Ta nói những điều này, dù chúng là niềm tin từ quá khứ, nhưng ta biết, ta không nói dối.”
[*] Nekht-nebf, hay Nectanebo II., Pharaoh bản xứ cuối cùng của Ai Cập, đã trốn khỏi Ochus tới Ethiopia, năm 339 trước Công Nguyên – Biên Tập Viên
“Xin Chúa tha thứ cho bà ấy vì điều đó,” Job rên rỉ, anh ta đang nghe phần kỳ diệu này với cái miệng há to.
Về phần tôi, tôi không nói gì: ý nghĩ đầu tiên của tôi là, ông bạn khốn khổ của tôi bị điên, đã sáng tác ra toàn bộ chuyện này, dù nó khó có thể là một câu chuyện được sáng tác ra bởi bất kỳ ai. Nó quá nguyên thủy. Để giải đáp các nghi ngờ của mình, tôi lấy miếng gốm lên và bắt đầu đọc bản văn tự gần giống tiếng Hy Lạp chữ hoa trên đó; quả đúng là tiếng Hy Lạp của thời kỳ đó, tính đến cả việc nó viết ra từ loại bút của một người Ai Cập sinh thời. Đây là đoạn văn tự chính xác của nó:
ΑΜΕΝΑΡΤΑΣΤΟΥΒΑΣΙΛΙΚΟΥΓΕΝΟΥΣΤΟΥΑΙΓΥΠΤΙΟΥΗΤΟΥΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΙΣΙΔΟΣΙΕΡΕΩΣΗΝΟ ΙΜΕΝΘΕΟΙΤΡΕΦΟΥΣΙΤΑΔΕΔΑΙΜΟΝΙΑΥΠΟΤΑΣΣΕΤΑΙΗΔΗΤΕΛΕΥΤΩΣΑΤΙΣΙΣΘΕΝΕΙΤΩΠΑΙΔΙΕΠ ΙΣΤΕΛΛΕΙΤΑΔΕΣΥΝΕΦΥΓΟΝΓΑΡΠΟΤΕΕΚΤΗΣΑΙΓΥΠΤΙΑΣΕΠΙΝΕΚΤΑΝΕΒΟΥΜΕΤΑΤΟΥΣΟΥΠΑΤΡΟ ΣΔΙΑΤΟΝΕΡΩΤΑΤΟΝΕΜΟΝΕΠΙΟΡΚΗΣΑΝΤΟΣΦΥΓΟΝΤΕΣΔΕΠΡΟΣΝΟΤΟΝΔΙΑΠΟΝΤΙΟΙΚΑΙΚΔΜΗΝΑ ΣΚΑΤΑΤΑΠΑΡΑΘΑΛΑΣΣΙΑΤΗΣΛΙΒΥΗΣΤΑΠΡΟΣΗΛΙΟΥΑΝΑΤΟΛΑΣΠΛΑΝΗΘΕΝΤΕΣΕΝΘΑΠΕΡΠΕΤΡΑ ΤΙΣΜΕΓΑΛΗΓΛΥΠΤΟΝΟΜΟΙΩΜΑΑΙΘΙΟΠΟΣΚΕΦΑΛΗΣΕΙΤΑΗΜΕΡΑΣΔΑΠΟΣΤΟΜΑΤΟΣΠΟΤΑΜΟΥΜΕΓ ΑΛΟΥΕΚΠΕΣΟΝΤΕΣΟΙΜΕΝΚΑΤΕΠΟΝΤΙΣΘΗΜΕΝΟΙΔΕΝΟΣΩΙΑΠΕΘΑΝΟΜΕΝΤΕΛΟΣΔΕΥΠΑΓΡΙΩΝΑΝ ΘΡΩΠΩΝΕΦΕΡΟΜΕΘΑΔΙΑΕΛΕΩΝΤΕΚΑΙΤΕΝΑΓΕΩΝΕΝΘΑΠΕΡΠΤΗΝΩΝΠΛΗΘΟΣΑΠΟΚΡΥΠΤΕΙΤΟΝΟΥ ΡΑΝΟΝΗΜΕΡΑΣΙΕΩΣΗΛΘΟΜΕΝΕΙΣΚΟΙΛΟΝΤΙΟΡΟΣΕΝΘΑΠΟΤΕΜΕΓΑΛΗΜΕΝΠΟΛΙΣΗΝΑΝΤΡΑΔΕΑΠ ΕΙΡΟΝΑΗΓΑΓΟΝΔΕΩΣΒΑΣΙΛΕΙΑΝΤΗΝΤΩΝΞΕΝΟΥΣΧΥΤΡΑΙΣΣΤΕΦΑΝΟΥΝΤΩΝΗΤΙΣΜΑΓΕΙΑΜΕΝΕ ΧΡΗΤΟΕΠΙΣΤΗΜΗΔΕΠΑΝΤΩΝΚΑΙΔΗΚΑΙΚΑΛΛΟΣΚΑΙΡΩΜΗΝΑΓΗΡΩΣΗΝΗΔΕΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΤΟΥΣ ΟΥΠΑΤΡΟΣΕΡΑΣΘΕΙΣΑΤΟΜΕΝΠΡΩΤΟΝΣΥΝΟΙΚΕΙΝΕΒΟΥΛΕΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕΛΕΙΝΕΠΕΙΤΑΩΣΟΥΚΑΝ ΕΠΕΙΘΕΝΕΜΕΓΑΡΥΠΕΡΕΦΙΛΕΙΚΑΙΤΗΝΞΕΝΗΝΕΦΟΒΕΙΤΟΑΠΗΓΑΓΕΝΗΜΑΣΥΠΟΜΑΓΕΙΑΣΚΑΘΟΔΟ ΥΣΣΦΑΛΕΡΑΣΕΝΘΑΤΟΒΑΡΑΘΡΟΝΤΟΜΕΓΑΟΥΚΑΤΑΣΤΟΜΑΕΚΕΙΤΟΟΓΕΡΩΝΟΦΙΛΟΣΟΦΟΣΤΕΘΝΕΩΣ ΑΦΙΚΟΜΕΝΟΙΣΔΕΔΕΙΞΕΦΩΣΤΟΥΒΙΟΥΕΥΘΥΟΙΟΝΚΙΟΝΑΕΛΙΣΣΟΜΕΝΟΝΦΩΝΗΝΙΕΝΤΑΚΑΘΑΠΕΡΒ ΡΟΝΤΗΣΕΙΤΑΔΙΑΠΥΡΟΣΒΕΒΗΚΥΙΑΑΒΛΑΒΗΣΚΑΙΕΤΙΚΑΛΛΙΩΝΑΥΤΗΕΑΥΤΗΣΕΞΕΦΑΝΗΕΚΔΕΤΟΥ ΤΩΝΩΜΟΣΕΚΑΙΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΑΘΑΝΑΤΟΝΑΠΟΔΕΙΞΕΙΝΕΙΣΥΝΟΙΚΕΙΝΟΙΒΟΥΛΟΙΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕ ΛΕΙΝΟΥΓΑΡΟΥΝΑΥΤΗΑΝΕΛΕΙΝΙΣΧΥΕΝΥΠΟΤΩΝΗΜΕΔΑΠΩΝΗΝΚΑΙΑΥΤΗΕΧΩΜΑΓΕΙΑΣΟΔΟΥΔΕΝΤ ΙΜΑΛΛΟΝΗΘΕΛΕΤΩΧΕΙΡΕΤΩΝΟΜΜΑΤΩΝΠΡΟΙΣΧΩΝΙΝΑΔΗΤΟΤΗΣΓΥΝΑΙΚΟΣΚΑΛΛΟΣΜΗΟΡΩΗΕΠΕ ΙΤΑΟΡΓΙΣΘΕΙΣΑΚΑΤΕΓΟΗΤΕΥΣΕΜΕΝΑΥΤΟΝΑΠΟΛΟΜΕΝΟΝΜΕΝΤΟΙΚΛΑΟΥΣΑΚΑΙΟΔΥΡΟΜΕΝΗΕΚ ΕΙΘΕΝΑΠΗΝΕΓΚΕΝΕΜΕΔΕΦΟΒΩΙΑΦΗΚΕΝΕΙΣΣΤΟΜΑΤΟΥΜΕΓΑΛΟΥΠΟΤΑΜΟΥΤΟΥΝΑΥΣΙΠΟΡΟΥΠΟ ΡΡΩΔΕΝΑΥΣΙΝΕΦΩΝΠΕΡΠΛΕΟΥΣΑΕΤΕΚΟΝΣΕΑΠΟΠΛΕΥΣΑΣΑΜΟΛΙΣΠΟΤΕΔΕΥΡΟΑΘΗΝΑΖΕΚΑΤΗΓ ΑΓΟΜΗΝΣΥΔΕΩΤΙΣΙΣΘΕΝΕΣΩΝΕΠΙΣΤΕΛΛΩΜΗΟΛΙΓΩΡΕΙΔΕΙΓΑΡΤΗΝΓΥΝΑΙΚΑΑΝΑΖΗΤΕΙΝΗΝΠ ΩΣΤΟΤΟΥΒΙΟΥΜΥΣΤΗΡΙΟΝΑΝΕΥΡΗΣΚΑΙΑΝΑΙΡΕΙΝΗΝΠΟΥΠΑΡΑΣΧΗΔΙΑΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΚΑΛΛΙ ΚΡΑΤΗΝΕΙΔΕΦΟΒΟΥΜΕΝΟΣΗΔΙΑΑΛΛΟΤΙΑΥΤΟΣΛΕΙΠΕΙΤΟΥΕΡΓΟΥΠΑΣΙΤΟΙΣΥΣΤΕΡΟΝΑΥΤΟΤΟ ΥΤΟΕΠΙΣΤΕΛΛΩΕΩΣΠΟΤΕΑΓΑΘΟΣΤΙΣΓΕΝΟΜΕΝΟΣΤΩΠΥΡΙΛΟΥΣΑΣΘΑΙΤΟΛΜΗΣΕΙΚΑΙΤΑΑΡΙΣΤ ΕΙΑΕΧΩΝΒΑΣΙΛΕΥΣΑΙΤΩΝΑΝΘΡΩΠΩΝΑΠΙΣΤΑΜΕΝΔΗΤΑΤΟΙΑΥΤΑΛΕΓΩΟΜΩΣΔΕΑΑΥΤΗΕΓΝΩΚΑΟ ΥΚΕΨΕΥΣΑΜΗΝ
Để thuận tiện cho việc đọc nói chung, tôi đã chuyển dịch chính xác đoạn văn tự này sang dạng chữ thảo.
Ἀμενάρτας, τοῦ βασικοῦ γένους τοῦ Αἰγυπτίου, ἡ τοῦ Καλλικράτους Ἴσιδος ἱερέως, ἣν οἱ μὲν θεοὶ τρέφουσι τὰ δὲ δαιμονια ὑποτάσσεται, ἤδη τελευτῶσα Τισισθένει τῷ παιδὶ ἐπιστέλλει τάδε· συνέφυγον γάρ ποτε ἐκ τῆς Αἰγυπτίας ἐπὶ Νεκτανέβου μετὰ τοῦ σοῦ πατρός, διὰ τὸν ἔρωτα τὸν ἐμὸν ἐπιορκήσαντος. φυγόντες δὲ πρὸς νότον διαπόντιοι καὶ κʹδʹ μῆνας κατὰ τὰ παραθαλάσσια τῆς Αιβύης τὰ πρός ἡλίου ἀνατολὰς πλανηθέντες, ἔνθαπερ πέτρα τις μελάλη, γλυπτὸν ὁμοίωμα Αἰθίοπος κεφαλῆς, εἶτα ἡμέρας δʹ ἀπὸ στόματος ποταμοῦ μεγάλου ἐκπεσόντες, οἱ μέν κατεποντίσθημεν, οἱ δὲ νόσῳ ἀπεθάνομεν· τέλος δὲ ὑπ᾽ ἀλρίων ἀνθρώπων ἐφερόμεθα διὰ ἐλέων τε καὶ τεναλέων ἔνθαπερ πτηνῶν πλῆθος ἀποκρύπτει τὸν οὐρανὸν, ἡμέρας ί, ἕως ἤλθομεν εἰς κοῖλόν τι ὄρος, ἔνθα ποτὲ μεγάλη μὲν πόλις ἦν, ἄντρα δὲ ἀπείρονα· ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν ξένους χύτραις στεφανούντων, ἥτις μαλεία μὲν ἐχρῆτο ἐπιστήμη δὲ πάντων καὶ δὴ καὶ κάλλός καὶ ῥώμην ἀλήρως ἦν· ἡ δὲ Καλλικράτους τοῦ πατρὸς ἐρασθεῖδα τὸ μὲν πρῶτον συνοικεῖν ἐβούλετο ἐμὲ δὲ ἀνελεῖν· ἔπειτα, ὡς οὐκ ἀνέπειθεν, ἐμὲ γὰρ ὑπερεφίλει καὶ τὴν ξένην ἐφοβεῖτο, ἀπήγαγεν ἡμᾶς ὑπὸ μαγείας καθʹ ὁδοὺς σφαλερὰς ἔνθα τὸ βάραθρον τὸ μέγα, οὗ κατὰ στόμα ἔκειτο ὁ γέρων ὁ φιλόσοφος τεθνεώς, ἀφικομένοις δʹ ἔδειξε φῶς τοῦ βίου εὐθύ, οἷον κίονα ἑλισσόμενον φώνην ἱέντα καθάπερ βροντῆς, εἶτα διὰ πυρὸς βεβηκυῖα ἀβλαβὴς καὶ ἔτι καλλίων αὐτὴ ἑαυτῆς ἐξεφάνη. ἐκ δὲ τούτων ὤμοσε καὶ τὸν σὸν πατέρα ἀθάνατον ἀποδείξειν, εἰ συνοικεῖν οἱ βούλοιτο ἐμὲ δε ὰνελεῖν, οὐ γὰρ οὖν αὐτὴ ἀνελεῖν ἴσχυεν ὑπὸ τῶν ἡμεδαπῶν ἣν καὶ αὐτὴ ἔχω μαγείας. ὁ δʹ οὐδέν τι μᾶλλον ἤθελε, τὼ χεῖρε τῶν ὀμμάτων προίσχων ἵνα δὴ τὸ τῆς γυναικὸς κάλλος μὴ ὁρῴη· ἔπειτα ὀργισθεῖσα κατεγοήτευσε μὲν αὐτόν, ἀπολόμενον μέντοι κλάουσα καὶ ὀδυρμένη ἐκεῖθεν ἀπήνεγκεν, ἐμὲ δὲ φόβῳ ἀφῆκεν εἰς στόμα τοῦ μεγάλου ποταμοῦ τοῦ ναυσιπόρου, πόδδω δὲ ναυσίν, ἐφʹ ὧνπερ πλέουσα ἔτεκόν σε, ἀποπλεύσασα μόλις ποτὲ δεῦρο Ἀθηνάζε κατηγαγόν. σὺ δέ, ὦ Τισίσθενες, ὧν ἐπιστέλλω μὴ ὀλιγώρει· δεῖ γὰρ τῆν γυναῖκα ἀναζητεῖν ἤν πως τῦ βίου μυστήριον ἀνεύρῃς, καὶ ἀναιρεῖν, ἤν που παρασχῇ, διὰ τὸν πατέρα Καλλικράτους. εἐ δὲ φοβούμενος ἢ διὰ ἄλλο τι αὐτὸς λείπει τοῦ ἔργου, πᾶσι τοῖς ὕστερον αὐτὸ τοῦτο ἐπιστέλλω, ἕως ποτὲ ἀγαθός τις γενόμενος τῷ πυρὶ λούσασθαι τολμήσει καὶ τὰ ἀριστεῖα ἔχων βασιλεῦσαι τῶν ἀνθρώπων· ἄπιστα μὲν δὴ τὰ τοιαῦτα λέγω, ὅμως δὲ ἃ αὐτὴ ἔγνωκα οὐκ ἐψευσάμην.
Như tôi đã phát hiện khi điều tra thêm, và độc giả có lẽ cũng dễ dàng nhìn ra qua so sánh, bản dịch tiếng Anh đã chính xác và hàm súc.
Bên cạnh văn tự chữ hoa trên bề mặt lồi của mảnh gốm, trên đỉnh, được sơn màu đỏ xỉn, trên đó từng là môi của chiếc vò hai quai, có vỏ đạn đã được nhắc đến giống ở scarabæus, mà chúng tôi cũng đã tìm thấy trong quan tài. Tuy nhiên, các chữ tượng hình và các biểu tượng đã bị đảo ngược, như thể chúng được ấn vào sáp. Liệu đó có phải là vỏ đạn của ông Kallikrates bản chính [*] không hay của vị hoàng tử hoặc Pharaoh nào đó mà vợ ông ấy Amenartas có quan hệ huyết thống, tôi không chắc, tôi cũng không thể nói liệu có đúng mảnh gốm được vẽ cùng thời gian với những chữ hoa Hy Lạp được khắc lên không, hay được một thành viên nào đó của gia tộc này sao chép lại gần đây từ con bọ hung phân Scarab. Cũng không phải. Ở cuối bản văn tự cũng được sơn màu đỏ xỉn, là những phác thảo mờ nhạt của một bản vẽ hơi thô lỗ về đầu và vai của một con Nhân sư đeo hai chiếc lông vũ, biểu tượng của uy nghiêm, mà dù theo lẽ thường phải đủ các hình nộm bò đực thiêng liêng và các vị thần, trước đó tôi chưa từng bao giờ gặp nó với Nhân sư.
[*] Vỏ đạn này, nếu nó là một vỏ đạn thật, không thể là của ông Kallikrates, như ngài Holly đoán. Kallikrates là một linh mục nên không được quyền có vỏ đạn, đó là thứ đặc quyền của hoàng gia Ai Cập, dù ông ta có thể được ghi tên hay tước hiệu lên một oval. – Biên Tập Viên.
Cũng trên bề mặt phải của mảnh gốm, được sơn chéo bằng màu đỏ trong không gian không có các ký tự chữ hoa phủ lên, được đánh dấu bằng sơn xanh, là dòng chữ kỳ lạ sau đây:
TRONG MẶT ĐẤT, BẦU TRỜI VÀ BIỂN CẢ
CÓ NHỮNG ĐIỀU KÌ LẠ.
HOC FECIT
DOROTHEA VINCEY.
Hoàn toàn lạc lối, tôi quay miếng thánh vật lại. Từ trên xuống dưới nó được phủ đầy các ghi chú và chữ ký bằng tiếng Hy Lạp, Latin, và tiếng Anh. Cái đầu tiên bằng chữ hoa Hy Lạp là của Tisisthenes, con trai của người viết bản văn tự này: “Ta không thể đi được. Tisisthenes gửi cho con trai, Kallikrates.” Đây là mô phỏng chữ thảo tương đương của nó:
ΟΥΚΑΝΔΥΝΑΙΜΗΝΠΟΡΕΥΕϹΘΑΙΤΙϹΙϹΘΕΝΗϹΚΑΛΛΙΚΡΑΤΕΙΤΩΙΠΑΙΔΙ
οὐκ ἂν δυναίμην πορεύεσθαι. Τισισθένης Καλλικράτει τῷ παιδί.
Kallikrates này (có lẽ theo truyền thống người Hy Lạp, được đặt tên theo ông nội của anh ta) rõ ràng đã nỗ lực bắt đầu cuộc thám hiểm, vì những gì ghi vào của anh ta rất mờ nhạt và hầu như là dạng chữ hoa rất khó đọc, “Tôi đã dừng chuyến đi của tôi, các vị thần đang chống lại tôi. Kallikrates gửi cho con trai.” Đây là dòng văn tự của anh ta:
ΤΩΝΘΕΩΝΑΝΤΙΣΤΑΝΤΩΝΕΠΑΥΣΑΜΗΝΤΗΣΠΟΡΕΙΑΣΑΛΛΙΚΡΑΤΗΣΤΩΙΠΑΙΔΙ
τῶν θεῶν ἀντιστάντων ἐπαυσάμην τῆς πορείας. Καλλικράτης τῷ παιδί.
Dòng văn tự thứ hai này bị khắc lộn ngược và rất mờ nhạt, đã bị mòn, nếu nó không được Vincey dịch lại thì tôi có lẽ đã hầu như không thể đọc được nó, vì những chữ đó được viết trên phần gạch mà theo thời gian chịu nhiều các thao tác cọ xát chủ yếu bằng tay nên gần như bị mòn hết. Giữa hai dòng văn tự cổ trên là một chữ ký đậm trông khá hiện đại của một vị Lionel Vincey “Ætate sua 17”, tôi nghĩ đó là của ông nội Leo. Sang phải của nó là những chữ viết tắt “J. B. V.”, đi theo bên dưới là một loạt các chữ ký Hy Lạp dạng chữ hoa và chữ thảo, và dường như lặp đi lặp lại khá vô tình câu τῷ παιδί (gửi tới con trai ta), cho thấy thánh vật này đã được truyền từ đời này sang đời kia đều đặn một cách có ý thức.
Thứ dễ đọc kế tiếp sau những chữ ký Hy Lạp là từ “Romae, A.U.C.”, cho thấy gia tộc giờ đã di cư đến Rome. Tuy nhiên thật không may, ngoại trừ phần kết thúc của nó (evi), ngày họ tới định cư ở đó đã bị mất vĩnh viễn, chỉ vì phần đó nằm trong mảnh gốm đã bị vỡ mất.
Tiếp theo là mười hai chữ ký Latin, được ghi chỗ này một chút chỗ kia một chút, bất cứ chỗ nào có không gian trống phù hợp đều sẽ được khắc chữ. Những chữ ký này, trừ ba chữ kí ngoại lệ, còn lại đều kết thúc với tên “Vindex” nghĩa là “Người Báo Thù”, dường như tên này đã được gia tộc thông qua sau khi di cư tới Rome vì nó tương đương với từ tiếng Hy Lạp “Tisisthenes”, cũng có nghĩa là người báo thù. Cuối cùng, như dự kiến, tên họ riêng tiếng Latin Vindex đã được chuyển đổi đầu tiên thành De Vincey, rồi sau đó chuyển thành Vincey hiện tại khá đơn giản. Thật tò mò khi quan sát cách thức một ý tưởng trả thù, được khơi cảm hứng từ một người Ai Cập sống trước Công Nguyên, và được bảo tồn trong một cái tên gia tộc người Anh.
Vài cái tên La Mã được khắc trên mảnh gốm mà tôi thật sự tìm thấy cũng được nói đến trong lịch sử và các tài liệu khác. Nếu tôi nhớ không nhầm, đó là:
MVSSIVS. VINDEX
SEX. VARIVS MARVLLVS
C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
LABERIA POMPEIANA. CONIVX. MACRINI. VINDICIS
Tên cuối cùng tất nhiên là tên một quý bà La Mã.
Còn danh sách sau chỉ gồm các tên Latin trên mảnh gốm:
     C. CAECILIVS VINDEX
     M. AIMILIVS VINDEX
     SEX. VARIVS. MARVLLVS
     Q. SOSIVS PRISCVS SENECIO VINDEX
     L. VALERIVS COMINIVS VINDEX
     SEX. OTACILIVS. M. F.
     L. ATTIVS. VINDEX
     MVSSIVS VINDEX
     C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
     LICINIVS FAVSTVS
     LABERIA POMPEIANA CONIVX MACRINI VINDICIS
     MANILIA LVCILLA CONIVX MARVLLI VINDICIS
Sau những cái tên La Mã này là một khoảng trống rõ ràng của rất nhiều thế kỷ. Giờ sẽ không ai còn biết lịch sử của thánh vật này trong suốt những kỷ nguyên tối tăm đó ra sao, hay nó đã được bảo tồn trong gia tộc như thế nào. Ông bạn Vincey khốn khổ của tôi đã từng nói với tôi, các tổ tiên người La Mã của anh ấy cuối cùng đã định cư ở Lombardy, và khi Charlemagne xâm lược nó, họ đã theo vị Hoàng Đế này đi dọc theo dãy Alps, rồi dựng nhà ở Brittany, rồi vượt biển đến nước Anh vào thời Edward – Người Xưng Tội. Tôi không hiểu anh ấy biết những điều đó bằng cách nào, vì không có gì chỉ dẫn tới Lombardy hay Charlemagne trên mảnh gốm, dù hiện tại có thể thấy chắc chắn có phần tham chiếu tới Brittany. Tiếp tục: những dòng chữ kế tiếp trên mảnh gốm, nếu tôi có thể loại được vết bẩn của máu hay một cái gì đó màu đỏ cùng loại, gồm hai chữ thập vẽ bằng thuốc màu đỏ, có lẽ đại diện cho những thanh kiếm của đội quân Thập Tự Chinh, và một chữ viết lồng nhau khá gọn gàng (“D.V.”) bằng màu đỏ tươi và xanh lam, có lẽ cũng do vị Dorothea Vincey đã viết - hay đúng ra là sơn - mấy câu thơ bền bỉ kia vẽ nên. Bên trái nó, được khắc màu xanh lam nhạt, là những chữ cái A.V., theo sau chúng là niên hiệu 1800.
Sau đó đến một thứ có lẽ cũng gây tò mò như dòng chữ hay bất kỳ cái gì trên miếng thánh vật xa xưa kỳ lạ này. Nó bằng chữ đen, viết bên trên những chữ thập hay những thanh kiếm của đoàn quân Thập Tự Chinh, và đề niên hiệu 1445. Vì kế hoạch tốt nhất là cho phép nó tự nói lên bản thân, tôi đây đã đưa ra một mô phỏng bằng chữ đen, cùng với từ gốc tiếng Latin mà không cắt bớt, từ đó chứng minh rằng người viết là một người Latin thời trung cổ. Chúng tôi cũng phát hiện ra thứ gây tò mò hơn, một bản tiếng Anh của thứ bằng tiếng Latin chữ đen kia. Thứ này cũng viết bằng chữ đen, chúng tôi thấy được khắc trên tấm da dê thứ hai trong rương, trông có vẻ hơi cũ so về niên hiệu so với thứ được khắc bản dịch Latin thời trung cổ của bản bằng chữ hoa Hy Lạp mà tôi đang nói. Tôi cũng cung cấp đầy đủ về nó như sau:
Bản sao của Chữ Khắc màu đen trên mảnh gốm của Amenartas.
"Iſta reliq̅ia eſt valde miſticu̅ et myrificu̅ op̅s q̅d maiores mei ex Armorica ſſ Brittania mi̅ore ſecu̅ co̅veheba̅t et q̅dm ſc̅s cleric̅s ſe̅per p̅ri meo in manu ferebat q̅d pe̅itus illvd deſtrueret, affirma̅s q̅d eſſet ab ipſo ſathana co̅flatu̅ preſtigioſa et dyabolica arte q̅re p̅ter mevs co̅fregit illvd i̅ dvas p̅tes q̅s q̅dm ego Johs̅ de Vi̅ceto ſalvas ſervavi et adaptavi ſicut ap̅paret die lu̅e p̅r̅ poſt feſt beate Mrie vir{g} anni gr̅e mccccxlv."
Bản mở rộng của Chữ Khắc màu đen bên trên
"Ista reliquia est valde misticum et myrificum opus, quod majores mei ex Armorica, scilicet Britannia Minore, secum convehebant; et et quidam sanctus clericus semper patri meo in manu ferebat quod penitus illud destrueret, affirmans quod esset ab ipso Sathana conflatum prestigiosa et dyabolica arte, quare pater meus confregit illud in duas partes, quas quidem ego Johannes de Vinceto salvas servavi et adaptavi sicut apparet die lune proximo post festum beate Marie Virginis anni gratie MCCCCXLV."
Bản sao của Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen cho Chữ Khắc màu đen từ mảnh gốm của Amenartas ở trên, cũng được thấy khắc trên một tấm da dê.
"Thys rellike ys a ryghte mistycall worke & a marvaylous yᵉ whyche myne aunceteres afore tyme dyd conveigh hider wᵗ yᵐ ffrom Armoryke whᵉ ys to ſeien Britaine yᵉ leſſe & a certayne holye clerke ſhoulde allweyes beare my ffadir on honde yᵗ he owghte uttirly ffor to ffruſſhe yᵉ ſame affyrmynge yᵗ yt was ffourmyd & confflatyd off ſathanas hym ſelffe by arte magike & dyvellyſſhe wherefore my ffadir dyd take yᵉ ſame & to braſt yt yn tweyne but I John de Vincey dyd ſave whool yᵉ tweye p̄tes therof & topeecyd yᵐ togydder agayne ſoe as yee ſe on y{s} daye mondaye next ffolowynge after yᵉ ffeeste of ſeynte Marye yᵉ bleſſed vyrgyne yn yᵉ yeere of ſalvacioun ffowertene hundreth & ffyve & ffowrti."
Bản dịch tiếng Anh hiện đại cho Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen bên trên.
"Thys rellike ys a ryghte mistycall worke and a marvaylous, ye whyche myne aunceteres aforetyme dyd conveigh hider with them from Armoryke which ys to seien Britaine ye Lesse and a certayne holye clerke should allweyes beare my fadir on honde that he owghte uttirly for to frusshe ye same, affyrmynge that yt was fourmed and conflatyed of Sathanas hym selfe by arte magike and dyvellysshe wherefore my fadir dyd take ye same and tobrast yt yn tweyne, but I, John de Vincey, dyd save whool ye tweye partes therof and topeecyd them togydder agayne soe as yee se, on this daye mondaye next followynge after ye feeste of Seynte Marye ye Blessed Vyrgyne yn ye yeere of Salvacioun fowertene hundreth and fyve and fowerti."
Thứ kế tiếp, còn một cái này nữa thôi là đến dòng chữ cuối cùng của thời Elizabeth, đề niên hiệu 1564. “Một câu chuyện vô cùng kỳ lạ, thứ đã làm cha tôi tiêu tốn cả cuộc đời; trong việc tìm kiếm một nơi trên bờ biển phía đông Châu Phi, chiếc thuyền dự phòng của ông bị một thuyền buồm Bồ Đào Nha Lorenzo Marquez đâm chìm, và ông đã tự sát. – John Vincey.”
Rồi đến thứ cuối cùng, rõ ràng đã điều chỉnh phong cách viết, được thực hiện bởi một đại diện gia tộc giữa thế kỷ mười tám. Đó là một trích dẫn sai câu nổi tiếng trong vở Hamlet, như thế này:”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái đất hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi, Horatio.” [*]
[*] Yếu tố khác khiến tôi ấn định niên hiệu của dòng này là giữa thế kỷ mười tám, đó là, khá tò mò, tôi có một bản sao diễn xuất của vở Hamlet, được viết khoảng năm 1740, trong đó có hai dòng này hầu như chính xác đã được trích dẫn sai, và tôi hơi nghi ngờ lẽ nào vị Vincey – người đã viết những dòng này lên mảnh gốm – đã nghe chúng bị nhầm vào thời đó. Tất nhiên, câu đúng thực tế là thế này: ”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái đất, Horatio, hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi.” – L.H.H.
Và giờ chỉ còn lại một tài liệu nữa cần tìm hiểu – đó là Bản Dịch Cổ chữ đen sang tiếng Latin thời trung cổ của phần chữ hoa trên mảnh gốm. Như sẽ thấy, bản dịch này được thực hiện và ký tên vào năm 1495, bởi một “người có học thức”, tên là Edmundus de Prato (Edmund Pratt), có bằng cử nhân Luật Công Giáo, Đại Học Exeter, Oxford, người này thực sự đúng là học trò của Grocyn, học giả đầu tiên dạy tiếng Hy Lạp ở nước Anh. [*] Không nghi ngờ, chắc nhờ danh tiếng đó mới tới tai ông, vị Vincey của ngày đó, có lẽ cũng là John de Vincey – người nhiều năm trước đã cất giữ thánh vật, bảo vệ nó không bị phá hủy và viết dòng chữ màu đen trên mảnh gốm năm 1445 – đã nhanh chóng tới Oxford để xem không chừng có thể phá tan tấm màn bí ẩn của những dòng chữ kỳ bí. Ông không phải thất vọng, vì Edmundus bác học đã đáp ứng được nhiệm vụ. Quả thực bản dịch của ông ta là một ví dụ tuyệt vời cho việc học hành thời trung cổ và phong cách Latin, thậm chí có nguy cơ làm người đọc có học thức chán ngấy với quá nhiều từ cổ, tôi đã quyết tâm làm cho nó một bản sao, cùng với bản mở rộng, vì lợi ích của những người thích ngắn gọn đơn giản. Bản dịch có một số đặc thù, trong đó không có chỗ nào nhấn mạnh, nhưng tôi có thể kêu gọi sự chú ý của các học giả vào đoạn “duxerunt autem nos ad reginam advenaslasaniscoronantium”, cho tôi thấy được đây đúng là một bản dịch rất thú vị của bản gốc “ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν ξένους χύτραις στεφανούντων”.
[*] Grocyn, người hướng dẫn của Erasmus, nghiên cứu tiếng Hy Lạp dưới thời Chalcondylas nhà Byzantine ở Florence, và lần đầu tiên giảng dạy tại Hội Trường Lớn của đại học Exeter, Oxford, năm 1491. – Biên Tập Viên
Bản Dịch Tiếng Latin Thời Trung Cổ chữ đen của Bản Khắc Chữ Hoa trên miếng gốm của Amenartas
Amenartas e gen. reg. Egyptii uxor Callicratis ſacerdot̅ Iſidis qua̅ dei fove̅t demonia atte̅du̅t filiol’ ſuo Tiſiſtheni ia̅ moribu̅da ita ma̅dat: Effugi quo̅da̅ ex Egypto regna̅te Nectanebo cu̅ patre tuo, p̃pter mei amore̅ pejerato. Fugie̅tes aute̅ v’ſus Notu̅ trans mare et xxiiij me̅ſes p’r litora Libye v’ſus Orie̅te̅ errant̃ ubi eſt petra queda̅ m̃gna ſculpta inſtar Ethiop̃ capit̃, deinde dies iiij ab oſt̃ flum̃ m̃gni eiecti p’tim ſubmerſi ſumus p’tim morbo mortui ſum̃: in fine aute̅ a fer̃ ho̅i̅bs portabamur p̃r palud̃ et vada. ubi aviu̅ m’titudo celu̅ obu̅brat dies x. donec advenim̃ ad cavu̅ que̅da̅ monte̅, ubi olim m̃gna urbs erat, caverne quoq̃ im̅e̅ſe: duxeru̅t aute̅ nos ad regina̅ Advenaſlaſaniſcorona̅tiu̅ que magic̃ utebat̃ et peritia omniu̅ rer̃ et ſalte̅ pulcrit̃ et vigore i̅ſe̅eſcibil’ erat. Hec m̃gno patr̃ tui amore p̃culſa p’mu̅ q’de̅ ei con̅ubiu̅ michi morte̅ parabat. poſtea v’ro recuſa̅te Callicrate amore mei et timore regine affecto nos p̃r magica̅ abduxit p’r vias horribil’ ubi eſt puteus ille p̃fu̅dus, cuius iuxta aditu̅ iacebat ſenior̃ philoſophi cadaver, et adve̅ie̅tib̃ mo̅ſtravit flam̅a̅ Vite erecta̅, i̅star columne voluta̅tis, voces emitte̅te̅ q̃ſi tonitrus: tu̅c p̃r igne̅ i̅petu nociuo expers tra̅ſiit et ia̅ ipsa ſeſe formoſior viſa eſt.
Quib̃ fact̃ iuravit ſe patre̅ tuu̅ quoq̃ im̅ortale̅ oſte̅ſura̅ eſſe, ſi me prius occiſa regine co̅tuberniu̅ mallet; neq̃ eni̅ ipſa me occidere valuit, p̃pter noſtratu̅ m̃gica̅ cuius egomet p̃tem habeo. Ille vero nichil huius geñ maluit, manib ante ocul̃ paſſis ne mulier̃ formoſitate̅ adſpiceret: poſtea eu̅ m̃gica p̃cuſſit arte, at mortuu̅ efferebat i̅de cu̅ fletib̃ et vagitib̃, me p̃r timore̅ expulit ad oſtiu̅ m̃gni flumiñ veliuoli porro in nave in qua te peperi, uix poſt dies hvc Athenas invecta ſu̅. At tu, O Tiſiſtheñ, ne q’d quoru̅ ma̅do nauci fac: neceſſe eni̅ eſt muliere̅ exquirere ſi qva Vite myſteriu̅ i̅petres et vi̅dicare, qua̅tu̅ in te eſt, patre̅ tuu̅ Callierat̃ in regine morte. Sin timore ſue aliq̃ cavſa re̅ reli̅quis i̅fecta̅, hoc ipſu̅ oi̅b̃ poſter̃ ma̅do du̅ bonvs q̃s inveniatur qvi ignis lauacru̅ no̅ p̃rhorreſcet et p̃tentia digñ do̅i̅abit̃ ho̅i̅u̅.
Talia dico incredibilia q̃de̅ at min̅e ñcta de reb̃ michi cognitis.
Hec Grece scripta Latine reddidit vir doctus Edm̅ds de Prato, in Decretis Licenciatus e Coll. Exon: Oxon: doctiſſimi Grocyni quondam e pupillis, Id. Apr. Aᵒ. Dn̅i. MCCCCLXXXXV°.
Bản mở rộng của Bản Dịch Tiếng Latin thời trung cổ ở trên
Amenartas, e genere regio Egyptii, uxor Callicratis, sacerdotis Isidis, quam dei fovent demonia attendunt, filiolo suo Tisistheni jam moribunda ita mandat: Effugi quodam ex Egypto, regnante Nectanebo, cum patre tuo, propter mei amorem pejerato. Fugientes autem versus Notum trans mare, et viginti quatuor menses per litora Libye versus Orientem errantes, ubi est petra quedam magna sculpta instar Ethiopis capitis, deinde dies quatuor ab ostio fluminis magni ejecti partim submersi sumus partim morbo mortui sumus: in fine autem a feris hominibus portabamur per paludes et vada, ubi avium multitudo celum obumbrat, dies decem, donec advenimus ad cavum quendam montem, ubi olim magna urbs erat, caverne quoque immense; duxerunt autem nos ad reginam Advenaslasaniscoronantium, que magicâ utebatur et peritiá omnium rerum, et saltem pulcritudine et vigore insenescibilis erat. Hec magno patris tui amore perculsa, primum quidem ei connubium michi mortem parabat; postea vero, recusante Callicrate, amore mei et timore regine affecto, nos per magicam abduxit per vias horribiles ubi est puteus ille profundus, cujus juxta aditum jacebat senioris philosophi cadaver, et advenientibus monstravit flammam Vite erectam, instar columne voluntantis, voces emittentem quasi tonitrus: tunc per ignem impetu nocivo expers transiit et jam ipsa sese formosior visa est.
Quibus factis juravit se patrem tuum quoque immortalem ostensuram esse, si me prius occisa regine contubernium mallet; neque enim ipsa me occidere valuit, propter nostratum magicam cujus egomet partem habeo. Ille vero nichil hujus generis malebat, manibus ante oculos passis, ne mulieris formositatem adspiceret: postea illum magica percussit arte, at mortuum efferebat inde cum fletibus et vagitibus, et me per timorem expulit ad ostium magni fluminis, velivoli, porro in nave, in qua te peperi, vix post dies huc Athenas vecta sum. At tu, O Tisisthenes, ne quid quorum mando nauci fac: necesse enim est mulierem exquirere si qua Vite mysterium impetres et vindicare, quautum in te est, patrem tuum Callieratem in regine morte. Sin timore sue aliqua causa rem reliquis infectam, hoc ipsum omnibus posteris mando, dum bonus quis inveniatur qui ignis lavacrum non perhorrescet, et potentia dignus dominabitur hominum.
Talia dico incredibilia quidem at minime ficta de rebus michi cognitis.
Hec Grece scripta Latine reddidit vir doctus Edmundus de Prato, in Descretis Licenciatus, e Collegio Exoniensi Oxoniensi doctissimi Grocyni quondam e pupillis, Idibus Aprilis Anno Domini MCCCCLXXXXV°.
Cuối cùng khi đã đọc xong và cẩn thận kiểm tra những bản văn tự và các đoạn dịch đó, ít nhất những thứ này vẫn dễ đọc, tôi nói, “Đó là kết luận cho toàn bộ câu chuyện này, Leo, giờ cháu có thể đưa ra quan điểm của chính cháu. Bác đã có quan điểm của mình rồi.”
“Đó là gì?” Cậu ấy nhanh chóng hỏi.
“Là thế này. Bác tin rằng mảnh gốm này hoàn toàn là thật, và thật tuyệt vời, dường như nó đến từ gia tộc của cháu từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Những dòng chữ viết hoàn toàn chứng minh điều đó, do đó, dù không chắc lắm, nhưng câu chuyện này cần phải được chấp nhận. Nhưng bác dừng ở đây thôi. Bà tổ xa xôi của cháu, vị công chúa Ai Cập, hay ai đó ghi chép theo sự chỉ đạo của bà, đã viết những thứ chúng ta thấy trên mảnh gốm, bác không nghi ngờ, cũng không có một chút nghi ngờ nào dù nhỏ nhất, nhưng những đau khổ và mất mát vì chồng đã làm bà ấy phát điên, bà ấy không đúng khi viết nó.”
“Bác giải thích thế nào cho những gì cha cháu đã nhìn và nghe thấy ở đó?” Leo hỏi.
“Trùng hợp ngẫu nhiên. Không nghi ngờ nữa, chắc chắn có những dốc đứng trên bờ biển Châu Phi trông giống cái đầu người, và đầy tộc người nói tiếng Ả Rập bị pha tạp. Bác cũng tin ở đó có nhiều đầm lầy. Một điều nữa, Leo, bác xin lỗi phải nói điều này, nhưng bác không tin ông bố khốn khổ của cháu đã hoàn toàn đúng khi viết lá thư này. Ông ấy đã gặp một sự cố lớn, rồi ông ấy cũng lại cho phép chuyện này trở thành con mồi cho trí tưởng tượng, ông ấy là một người rất giàu trí tượng tưởng. Dù sao đi nữa, bác tin rằng toàn bộ chuyện này là thứ vô giá trị không đáng nhất. Bác biết, có những thứ rất gây tò mò và những sức mạnh trong tự nhiên mà chúng ta hiếm khi gặp, dù chúng ta gặp chúng, cũng không thể hiểu nổi. Nhưng đến khi nào bác tận mắt thấy nó, còn không thì bác sẽ không bao giờ tin có cách nào tránh khỏi cái chết, dù là một lần, hay cả chuyện có hoặc đã có một nữ phù thủy da trắng sống giữa đầm lầy Châu Phi. Đó chỉ là chuyện bậy bạ, cậu bé của tôi, toàn chuyện bậy bạ! – Cậu định nói gì, Job?”
“Thưa ngài, tôi muốn nói, đó là chuyện dối trá, nếu là thật, tôi mong ngài Leo sẽ không can thiệp vào những thứ như thế, vì nó chả có gì hay cả.”
“Có lẽ cả hai người đã đúng,” Leo nói, rất lặng lẽ.”Cháu không có ý kiến gì. Nhưng cháu cần nói điều này. Cháu sẽ để chuyện này lại vì tất cả, và nếu bác không đi với cháu, cháu sẽ tự đi một mình.”
Tôi nhìn chàng trai trẻ, và biết cậu hiểu những gì cậu nói. Khi Leo hiểu những gì cậu ấy nói, cậu ấy thể hiện một vẻ tò mò trên miệng. Đó là tính cách của cậu từ khi còn bé. Bây giờ thực tế là tôi không có ý định cho phép Leo tự đi khắp nơi, dù vì lợi ích của riêng tôi hay của cậu ấy. Tôi đã quá gắn bó với cậu ấy rồi. Tôi không phải là người có nhiều mối quan hệ và tình cảm. Hoàn cảnh đang chống lại tôi trong mối quan hệ này, đàn ông và phụ nữ đều chùn bước trước tôi, hay ít nhất, tôi nghĩ họ như thế, điều đó dẫn đến những việc, những suy nghĩ tương tự, có lẽ thế giới bên ngoài đáng ghét là một chìa khóa nhốt con người tôi lại. Thay vì chịu đựng điều này, ở mức độ lớn hơn, tôi đã tự tách biệt bản thân khỏi thế giới, và tự mình cắt đứt những cơ hội mà với hầu hết mọi người, có thể tạo thành những mối quan hệ ít nhiều thân mật. Vì thế Leo là toàn bộ thế giới đối với tôi – là em trai, là con, và là bạn – cho đến khi cậu ấy mệt mỏi vì tôi, cậu ấy đi đâu tôi cũng theo đó. Nhưng tất nhiên, đừng để cậu ấy thấy cậu ấy là một điểm tựa vĩ đại thế nào với tôi; như thế tôi sẽ che dấu được bằng cách nào đó để có thể dễ dàng buông xuống.
“Phải, cháu sẽ đi bác ạ; nếu cháu không tìm thấy cái ‘Cột Trụ của Sự Sống đang cuộn chảy’, bất cứ giá nào cháu cũng phải thành tay súng hạng nhất.”
Cơ hội đây rồi, tôi tóm lấy ngay lập tức.
“Bắn súng ư?” Tôi nói, “À phải, bác chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Đó hẳn phải là một mảnh đất rất hoang dã và đầy đủ cho một trò chơi lớn. Bác luôn muốn giết được một con bò rừng trước khi chết. Cháu biết không, cậu bé của tôi, bác không tin vào cuộc thám hiểm, nhưng bác tin vào trò chơi lớn, cuối cùng nếu sau khi đã thực sự nghĩ xong xuôi, cháu đã quyết định đi, bác sẽ xin nghỉ phép để đi cùng cháu.”
“A”, Leo nói,” Cháu biết là bác sẽ không để mất cơ hội thế này mà. Nhưng còn tiền bạc thì sao ạ? Chúng ta sẽ cần khá nhiều đấy.”
“Cháu không cần bận tâm về chuyện đó,” Tôi trả lời. “Toàn bộ thu nhập của cháu cộng dồn nhiều năm qua, bên cạnh đó bác cũng tiết kiệm được hai phần ba những gì bố cháu để lại cho bác, vì bác quan tâm, tin tưởng cháu. Có rất nhiều tiền mặt.”
“Rất tuyệt, thế thì chúng ta sắp những thứ này vào và ra thị trấn xem súng thôi. Job, anh cũng đi cùng chứ? Đã đến lúc anh cần nhìn thấy thế giới rồi.”
“Vâng thưa ngài,” Job điềm tĩnh trả lời,”Tôi không ở nước ngoài nhiều lắm, nhưng nếu cả hai quí ngài đã dự định đi, ngài sẽ muốn ai đó chăm sóc cho ngài, và tôi không phải là người dừng lại sau khi đã phục vụ ngài hai mươi năm qua.”
“Phải đấy, Job,” Tôi nói. “Cậu sẽ không tìm thấy cái gì tuyệt vời đâu, nhưng cậu sẽ trở thành tay săn bắn khá. Nào, giờ hãy nhìn đây, cả hai người. Tôi sẽ không nói một từ nào về thứ vô nghĩa này,” và tôi chỉ vào mảnh gốm. “Nếu việc này truyền ra ngoài, và nếu chuyện gì đó xảy ra với tôi, người thân của tôi sẽ tranh chấp di chúc điên cuồng, và tôi sẽ trở thành trò cười ở Cambridge.”
Một ngày của ba tháng sau, chúng tôi đã trên đại dương, tiến tới đảo Zanzibar.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 2



CHƯƠNG 2

Thời gian trôi qua
Có lẽ đúng như dự đoán, cái chết đột ngột của Vincey khốn khổ đã gây nên một chấn động lớn tại trường Đại học này; nhưng vì mọi người đều biết anh ấy rất ốm yếu, xác nhận của bác sỹ khám nghiệm đã thông qua, nên không có cuộc điều tra nào. Họ thường không cho điều tra nếu không phải trường hợp rất đặc biệt, nhất là trong những ngày này; quả thực nhà trường nói chung không thích chuyện này vì sợ bê bối. Trong hoàn cảnh đó, không ai đặt câu hỏi, tôi không thấy cần tình nguyện khai báo thông tin về cuộc nói chuyện của chúng tôi vào buối tối Vincey chết, ngoại trừ việc nói anh ấy đã vào phòng tôi như anh ấy thường làm. Hôm tang lễ, một luật sư xuống từ London và mang tro cốt người bạn khốn khổ của tôi đến mộ, sau đó quay trở lại mang đi giấy tờ và tài sản của anh ấy, tất nhiên ngoại trừ cái hộp sắt đang được tôi giữ. Một tuần sau tôi không còn nghe tin gì về chuyện này nữa, thay vào đó, sự tập trung của tôi hoàn toàn bị những thứ khác chiếm giữ, vì tôi đang theo đuổi học bổng nghiên cứu sinh, điều đó không cho phép tôi tham dự đám tang hay gặp vị luật sư. Tuy nhiên cuối cùng kỳ thi đã kết thúc, tôi quay về phòng mình và ngả vào chiếc ghế thoải mái, lòng tràn vui sướng, vì tôi nghĩ tôi đã làm rất khá.
Tuy nhiên ngay sau đó, những suy nghĩ của tôi, khi áp lực nghiền chúng thành một đường trong mấy ngày qua đã nhẹ đi, giờ lại quay về những sự kiện vào đêm Vincey khốn khổ chết, tôi lại tự hỏi mình lần nữa, tất cả chuyện này có nghĩa là sao, liệu tôi có nên nghe ngóng thêm chuyện này không, nếu không thì bổn phận của tôi nên làm gì với cái hộp sắt gây tò mò kia. Tôi ngồi đó và suy nghĩ mãi cho đến khi tôi bắt đầu hoàn toàn bị rối trí với toàn bộ câu chuyện đã xảy ra: chuyến thăm bí ẩn lúc nửa đêm, lời tiên đoán về cái chết thành hiện thực quá nhanh chóng, lời thề nghiêm túc tôi đã nói, và cái mà Vincey yêu cầu tôi trả lời là cho một thế giới khác hơn là thế giới này. Người đàn ông đó chắc chắn đã muốn tự tử ư? Có vẻ vậy. Còn cuộc phiêu lưu về cái mà anh ấy nói là gì? Các tình huống kỳ lạ đến nỗi, dù tôi không có cách nào căng thẳng, hoặc nhạy cảm bị điều gì đó dường như vượt khỏi biên giới tự nhiên cảnh báo, tôi trở nên sợ hãi và bắt đầu ước mình đáng ra không có gì làm với chúng. Hơn hai mươi năm sau, giờ tôi ước điều đó nhiều hơn biết bao!
Khi tôi ngồi nghĩ, có một tiếng gõ cửa, và một lá thư trong một phong bì màu xanh lớn đã được mang vào cho tôi. Tôi thấy ngay đó là thư của một luật sư, bản năng nói cho tôi nó giống như tôi đang nghĩ. Bức thư tôi vẫn đang giữ đây, viết như sau:
“Thưa ngài, - Khách hàng của tôi, Ngài M.L. Vincey quá cố, đã mất ngày mồng 9 vừa rồi tại trường Đại học Cambridge, đã để lại cho ngài một di chúc, ngài vui lòng xem bản sao di chúc đình kèm và chúng ta sẽ thực hiện theo. Theo di chúc này ngài sẽ thấy, ngài được hưởng lợi tức suốt đời từ gần một nửa số tài sản của ngài Vincey quá cố, giờ đang được đầu tư vào Công trái, phụ thuộc việc ngài có chấp nhận việc giám hộ cho con trai duy nhất của ngài ấy không, Leo Vincey, hiện tại là trẻ vị thành niên, năm tuổi. Bản thân chúng tôi không tự tạo ra những tài liệu có thể bị nghi ngờ là tuân theo chỉ dẫn rõ ràng chính xác của ngài Vincey, kể cả tài liệu cá nhân và văn bản, và ngài ấy không đảm bảo có lý do hợp lý về những gì ngài ấy định làm, chúng tôi buộc phải nói với ngài rằng qui định của di chúc dường như hơi bất bình thường, do đó chúng ta có thể buộc phải yêu cầu sự quan tâm của Toà Đại Pháp, để các bước này được thực hiện như mong muốn, cũng để thẩm tra năng lực của người lập di chúc, hay nói cách khác, để bảo vệ quyền lợi của trẻ vị thành niên. Như đã biết, người lập di chúc là một quý ngài đang ở mức sáng suốt và nhạy bén cao nhất, ngài ấy tuyệt đối không có quan hệ sống còn với người mà ngài ấy tin tưởng phó thác quyền giám hộ cháu bé, vì thế chúng tôi không cảm thấy cần thực hiện việc này.
Theo như chỉ dẫn này, xin ngài vui lòng gửi cho chúng tôi câu trả lời liên quan đến việc chăm sóc cháu bé và thanh toán phần cổ tức thuộc về ngài,
Chúng tôi đảm bảo trung thành với lợi ích của quí ngài,
Geoffrey và Jordan.
Ngài Horace L.Holly”
Tôi để bức thư xuống, và đưa mắt đến di chúc, nó hiện ra có vẻ không dễ hiểu, với những nguyên tắc pháp lý nghiêm ngặt nhất. Tuy nhiên rốt cục tôi cũng có thể phát hiện ra, nó chính xác giống như những gì Vincey bạn tôi đã nói vào đêm anh ấy mất. Cuối cùng tất cả đã trở thành sự thật. Tôi phải mang cậu bé về. Đột nhiên tôi nhớ ra lá thư Vincey đã bỏ lại với cái hộp. Tôi đi tìm và mở nó ra. Nó chỉ có những chỉ dẫn tương tự như vậy, anh ấy đã đưa cho tôi để mở cái hộp vào ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của Leo, và đặt ra bản phác thảo về giáo dục cho thằng bé, gồm cả tiếng Hy Lạp, toán cao cấp, và tiếng Ả Rập. Cuối cùng có một phần tái bút nói rằng, nếu thằng bé chết trước hai mươi lăm tuổi, tất nhiên anh ấy không tin khả năng này, thì tôi sẽ mở cái hộp, và hành động theo thông tin mà tôi thu được nếu tôi thấy phù hợp. Nếu tôi không thấy phù hợp, tôi phải tiêu hủy toàn bộ nội dung bên trong hộp. Tôi không phải chịu trách nhiệm nào về chúng với tư cách một người xa lạ.
Vì lá thư này không có thêm tài liệu nào so với những gì tôi đã biết, và chắc chắn trong đầu tôi không nảy sinh việc phản đối nhận nhiệm vụ tôi đã hứa với người bạn đáng mến nữa, chỉ còn một việc với tôi, cụ thể, đó là viết cho Messrs. Geoffrey và Jordan, thể hiện sự đồng ý của tôi với lời ủy thác, cũng đồng thời nói rằng tôi đã sẵn sàng việc giám hộ cho Leo trong thời gian mười ngày nữa. Điều này làm tôi phải đi đến các cơ quan chức năng trong trường tôi, nói với họ rất nhiều về câu chuyện mà tôi đã cân nhắc hợp lý, sau những khó khăn đáng kể, cuối cùng đã thành công thuyết phục họ nới ra một điểm, đó là trong trường hợp tôi đạt học bổng nghiên cứu sinh – điều này tôi rất chắc chắn mình sẽ làm được – sẽ cho phép tôi mang theo đứa trẻ sống với tôi. Tuy nhiên sự đồng ý của họ được cấp cho với điều kiện tôi phải bỏ phòng mình ở trường Đại học, mất chỗ ở và phải đi thuê phòng. Có một chút khó khăn, nhưng tôi đã tìm được một căn hộ rất tốt ngay gần sát cổng trường đại học. Việc tiếp theo là tìm một bảo mẫu. Về điểm này, tôi đã có quyết định. Tôi không thể để bất kỳ phụ nữ nào sai bảo tôi về thằng bé, và lấy trộm mất tình cảm của nó khỏi tôi. Cậu bé đã đủ lớn để làm những việc mà không cần phụ nữ hỗ trợ, vì vậy tôi quyết định tìm kiếm một người chăm sóc là nam giới phù hợp. Sau một vài khó khăn, tôi đã thuê được một chàng trai trẻ có gương mặt tròn khá đứng đắn, đang làm giúp việc cho khu đua ngựa, nhưng cậu ta nói rằng cậu là thành viên một gia đình có mười bảy người và quen thuộc với việc chăm sóc trẻ con, đồng thời bày tỏ đã sẵn sàng đảm nhận công việc của ông chủ Leo khi cậu bé đến. Sau đó, mang cái hộp sắt vào thành phố, tự tay tôi gửi nó vào ngân hàng, tôi mua vài quyển sách về sức khỏe và chăm sóc trẻ em rồi đọc chúng, trước tiên cho bản thân, sau đó đọc to lên cho Job – là tên của chàng trai trẻ - và chờ đợi.
Cuối cùng cậu bé đã đến dưới sự chăm sóc của một người cao tuổi, người này đã khóc lóc thảm thiết lúc chia tay cậu, và đó thật là một cậu bé xinh đẹp. Quả thực tôi không nghĩ rằng mình từng nhìn thấy một đứa trẻ hoàn hảo đến vậy từ trước đến giờ. Cậu bé có đôi mắt xám, trán rộng, và gương mặt sạch sẽ như gốm mài, không nhăn nhúm cũng không gầy gò. Nhưng có lẽ điểm hấp dẫn nhất của cậu là mái tóc, màu vàng tinh khiết cuộn chặt trên cái đầu quyến rũ. Cậu bé khóc một chút khi bà bảo mẫu cuối cùng cũng rứt ra và để lại cậu cho chúng tôi. Không bao giờ tôi quên được cảnh đó. Cậu bé đứng đó, ánh mặt trời từ cửa sổ chơi đùa trên những lọn tóc vàng óng của cậu, một tay cậu đưa lên che một mắt, trong khi mắt kia nhìn chúng tôi. Tôi ngồi trên một chiếc ghế, và đưa tay tôi cho cậu, bảo cậu lại phía tôi, trong khi Job, ở trong góc, giả bộ tiếng cục tác, có lẽ theo kinh nghiệm trước đây của anh ta, giống tiếng gà mái, anh ta có lẽ cho rằng nó sẽ tạo tác dụng xoa dịu, truyền cảm giác tin tưởng vào tâm trí non nớt, rồi điều khiển một con ngựa gỗ xấu xí chạy ngược chạy xuôi một cách khá ngớ ngẩn. Được vài phút, bỗng nhiên cậu bé đột ngột giơ hai cánh tay nhỏ xíu và chạy về phía tôi.
“Cháu thích chú,” cậu nói: “chú xấu xí, nhưng chú thật tốt.”
Mười phút sau cậu đã đang ngồi ăn những lát bánh mỳ lớn với bơ rất thỏa mãn; Job muốn cho mứt vào nhưng tôi nghiêm khắc nhắc nhở anh ta nhớ về những quyển sách tuyệt vời chúng tôi vừa đọc, và cấm không được làm thế.
Trong một khoảng thời gian rất ngắn (vì như tôi kỳ vọng, tôi đã đạt được học bổng nghiên cứu sinh) cậu bé trở thành người được yêu thích của cả trường Đại học – nơi đó, tất cả mệnh lệnh và luật lệ không được làm trái, cậu bé liên tục vào ra – một kiểu tự do đặc quyền được ưu ái với mọi qui tắc đã được nới lỏng. Đề nghị ái mộ cậu bé đơn giản không đếm hết, và tôi có quan điểm khác biệt nghiêm trọng với một nghiên cứu sinh thường trú lâu năm, giờ đã mất từ lâu, người thường được coi là người cứng rắn nhất trường Đại học và rất chán ghét khi thấy một đứa trẻ. Rồi tôi phát hiện ra, khi một trận ốm vốn thường xảy ra buộc Job phải trông coi nghiêm túc, ông già vô nguyên tắc này có thói quen lôi kéo cậu bé đến phòng ông ấy và cho cậu nhóc xài vô độ các loại kẹo có rượu mạnh, buộc cậu hứa không được nói gì về điều này. Job nói với ông ta rằng ông ta phải thấy xấu hổ về bản thân, “ở tuổi của ông ấy cũng vậy, có khi ông ấy đã làm ông nội nếu ông ấy hành động đúng đắn”, nhờ đó Job hiểu ông ta đã có gia đình và thế là phát sinh một vụ ồn ào.
Nhưng tôi không có không gian để sống những năm tháng đầy màu sắc này, dù ký ức vẫn dao động quanh quẩn nhẹ nhàng. Từng người từng người một đi qua, và khi họ đi qua, cả hai chúng tôi đều dần trưởng thành và thân thiết yêu thương nhau hơn. Rất ít người con nào được yêu thương như tôi yêu thương Leo, và cũng ít có người cha nào biết được tình cảm sâu sắc không ngừng nghỉ mà Leo dành cho tôi.
Cậu bé trở thành một thanh niên, và từ thanh niên lại trở thành một người đàn ông trẻ trung, trong khi lần lượt từng ngày tháng trôi qua không hối tiếc, khi cậu cao lớn lên, vẻ đẹp của cậu cũng thế, vẻ đẹp tâm hồn cũng trưởng thành cùng cậu. Khi cậu khoảng mười lăm tuổi, người ta thường gọi cậu là Người Đẹp của trường Đại học, còn tôi họ đặt biệt danh là Quái Vật. Người Đẹp và Quái Vật là những gì họ gọi chúng tôi khi chúng tôi đi cùng nhau - đó là việc chúng tôi thường làm mỗi ngày. Một lần Leo đánh một người bán thịt to con gấp đôi cậu ấy, vì anh ta chửi chúng tôi, cậu ấy đè bẹp hắn, phải, đè bẹp hắn rất đẹp. Tôi bước đi và giả bộ không nhìn thấy, cho đến khi trận đấu trở nên gây cấn, tôi trở lại và cổ vũ cậu chiến thắng. Đó là chuyện vặt ở trường Đại học lúc đó, nhưng tôi không thể làm gì khác được. Rồi khi cậu ấy lớn hơn một chút, đám sinh viên chưa tốt nghiệp lại tìm ra những tên mới cho chúng tôi. Họ gọi tôi là Charon, và Leo là Vị thần Hy Lạp! Tôi sẽ bỏ qua cách gọi tên tôi với chú ý khiêm tốn rằng, tôi chưa bao giờ đẹp trai và cũng không không lớn lên nhiều khi tôi già đi. Với cậu ấy, thật phù hợp, không nghi ngờ gì nữa. Leo khi hai mươi mốt có lẽ có thể thay thế cho chân dung Apollo khi trẻ. Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ ai chạm vào bên ngoài cậu ấy, hay bất kỳ ai làm điều đó một cách vô thức. Vì về mặt trí tuệ, cậu ấy rất thông minh và cơ trí, nhưng không phải là một học giả. Cậu không cố hết sức cần thiết để đạt được kết quả đó. Chúng tôi theo chỉ dẫn của cha cậu về việc giáo dục cậu phải đủ nghiêm khắc, và kết quả rất thỏa đáng, đặc biệt trong môn tiếng Hy Lạp và tiếng Ả Rập. Tôi đã học ngôn ngữ thứ hai để trợ giúp việc dạy dỗ cậu ấy, nhưng sau năm năm cậu ấy và tôi đã có trình độ ngang nhau – hầu như giáo sư đều đồng thời dạy cho cả hai chúng tôi. Tôi luôn là một tay chơi thể thao rất cừ - đó là niềm đam mê của tôi – mỗi mùa thu chúng tôi lại đi đâu đó bắn súng hay câu cá, thi thoảng tới Scotland, thi thoảng tới Na uy, thậm chí có lần còn đến tận nước Nga. Tôi là một tay súng khá, nhưng ngay cả trò này cậu ấy cũng xuất sắc hơn tôi.
Khi Leo mười tám tuổi tôi đã trở về phòng cũ của tôi, và đưa cậu ấy vào trường Đại học của tôi, khi hai mươi mốt tuổi, cậu ấy đã lấy bằng loại ưu, nhưng không phải thứ hạng rất cao. Khi đó lần đầu tiên, tôi kể cho cậu ấy một chút câu chuyện của chính cậu, và về sự bí ấn lờ mờ trong đó. Tất nhiên cậu ấy rất tò mò, và tất nhiên tôi phải nói với cậu rằng sự tò mò này hiện tại không thể thỏa mãn được. Sau đó, chuyện ấy qua đi, tôi đề nghị cậu ấy nên trở thành luật sư; và cậu ấy đã làm được, đọc sách ở Cambridge, chỉ tới London để ăn trưa.
Tôi chỉ có một rắc rối với cậu ấy, đó là mọi phụ nữ trẻ đi qua cậu ấy, hay không phải tất cả nhưng cũng gần như thế, đều không do dự rơi vào yêu đương với cậu ấy. Thế nên đã sinh ra những khó khăn mà tôi không cần kể ra ở đây, mặc dù bản thân những chuyện đó cũng đủ rắc rối rồi. Nói chung, cậu ấy xử lý khá tốt; tôi không thể nói gì hơn thế.
Rồi thời gian cuối cùng cũng đi đến ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của cậu ấy, vào ngày kỳ lạ ấy, nói theo một cách nào đó, câu chuyện khủng khiếp thực sự bắt đầu.


(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 1



CHƯƠNG 1

Vị khách
Có một số sự kiện mà mỗi hoàn cảnh và chi tiết xung quanh dường như được khắc vào trong ký ức như một thói quen khiến ta không thể quên được, và cảnh mà tôi sắp mô tả cũng vậy. Nó hiện lên rõ ràng trong tâm trí tôi lúc này như thể nó vừa mới xảy ra ngày hôm qua.
Chính vào đúng tháng này hai mươi năm về trước, tôi - Ludwig Horace Holly, đã ngồi suốt một đêm trong căn phòng ở Cambridge, hì hục giải mấy bài toán mà tôi không nhớ chính xác nữa. Tôi dự định đi lên vì quyền lợi của mình trong một tuần nay, gia sư của tôi và trường đại học nói chung đã kỳ vọng tôi sẽ nổi tiếng. Cuối cùng, mệt mỏi, tôi ném quyển sách xuống, đi đến bệ lò sưởi, lấy xuống một cái tẩu và nhồi thuốc vào. Một ngọn nến đang cháy trên bệ lò sưởi, và một cái gương hẹp dài sau nó; khi tôi đang đốt thuốc, tôi bắt gặp gương mặt của chính mình trong gương, nên tạm ngừng để suy nghĩ. Mồi thuốc cháy đến khi nó xém vào ngón tay, buộc tôi phải thả ra; nhưng tôi vẫn đứng nhìn chằm chằm vào bản thân trong gương, và suy nghĩ.
“Phải,” cuối cùng tôi nói to,” hy vọng là mình sẽ có thể làm được gì đó với thứ trong đầu mình, vì chắc chắn mình sẽ không bao giờ nhờ đến sự giúp đỡ từ phía ngoài.”
Điều này không cần nghi ngờ, sẽ đánh vào bất kỳ ai đọc nó chút mơ hồ, nhưng thực tế, tôi đang ám chỉ những khiếm khuyết về thể chất của tôi. Hầu hết đàn ông hai mươi hai tuổi đều được thời thanh xuân đẹp đẽ ưu ái ở một mức độ nào đó, nhưng với tôi, nó đã từ chối. Thấp, gầy, ngực hầu như biến dạng, cánh tay dài gân guốc, nét mặt nặng nề, đôi mắt xám sâu, cái trán thấp một nửa phủ mái tóc đen dày như cái chổi, giống như một bãi hoang mà rừng cây bắt đầu xâm lấn; đó là vẻ ngoài của tôi gần một phần tư thế kỷ trước, bây giờ cũng vẫn thế, chỉ có vài thay đổi. Giống như Cain, tôi đã bị dán nhãn – bị Tạo Hóa dán nhãn, là dấu hiệu của sự xấu xí không bình thường, nhưng Tạo Hóa cũng tặng tôi món quà, đó là sức khỏe sắt đá phi thường và năng lực trí tuệ đáng kể. Tôi xấu xí đến mức những anh chàng trẻ trung bảnh bao ở Đại học, dù họ đủ lòng tự hào về độ bền và sức mạnh thể chất của tôi, cũng không quan tâm đến việc được trông thấy đi cùng tôi. Có tuyệt không khi tôi chán đời và ủ rũ? Có tuyệt không khi tôi lo nghĩ và làm việc một mình, không bạn bè – dù ít nhất chỉ một người? Tôi đã được Tạo Hóa đặc cách cho sống đơn độc, thoải mái trong ngực người mẹ thiên nhiên này, và chỉ với bà mà thôi. Phụ nữ ghét cái nhìn của tôi. Mới một tuần trước tôi nghe thấy một người gọi tôi là “quái vật” khi cô ta cho rằng tôi không nghe thấy, cô ta nói tôi là bản ngược lại của cô ta theo lý thuyết về loài vượn. Quả thật một lần, một phụ nữ giả vờ quan tâm đến tôi, và tôi đã không tiếc tiền và tình cảm bị dồn nén trao tất cả cho cô ấy. Sau đó số tiền của tôi đã đi tới nơi nào đó, còn cô ta bỏ tôi. Tôi đã cầu xin cô ấy dù tôi chưa bao giờ từng cầu xin một sinh vật sống nào trước đó, chỉ vì tôi đã bị gương mặt ngọt ngào ấy chiếm giữ và yêu cô ấy; cuối cùng cách trả lời của cô ta là, mang tôi tới trước một chiếc gương, rồi đứng cạnh tôi, và nhìn vào đó.
Cô ấy nói “Bây giờ nếu tôi là Người Đẹp, anh là ai?” Đó là câu chuyện khi tôi chỉ hai mươi.
Và tôi đứng đó, nhìn chằm chằm, cảm thấy một loại thỏa mãn nghiệt ngã trong sự cô độc của chính tôi; vì tôi không cha, không mẹ, cũng không có anh em; và tôi cứ như thế khi có tiếng gõ cửa.
Tôi nghe ngóng trước khi ra mở cửa, vì gần mười hai giờ đêm rồi, và tôi không có tâm trạng gặp người lạ. Nhưng tôi có một người bạn ở trong trường Đại học, thực ra là trong cả thế giới này – có lẽ là anh ấy.
Ngay sau đó người ngoài cửa ho, tôi vội vàng mở cửa, vì tôi biết tiếng ho này.
Một người đàn ông cao lớn khoảng ba mươi, với những nét đẹp riêng hoàn hảo, bước nhanh vào trong, loạng choạng vì trọng lượng chiếc hộp sắt lớn anh ta mang bên tay phải. Anh ấy đặt chiếc hộp trên bàn, rồi rơi vào một trận ho khủng khiếp. Anh ấy ho, rồi lại ho, cho đến khi gương mặt chuyển sang tím tái, cuối cùng anh lún dần trong cái ghế và bắt đầu thổ huyết. Tôi rót một chút whisky vào cốc, rồi đưa cho anh ấy. Anh uống, có vẻ đỡ hơn; mặc dù cái đỡ hơn của anh thực tế là rất tệ.
“Sao cậu bắt tôi đứng chết cóng ngoài đó?” Anh cáu gắt hỏi. “Cậu có biết gió lùa sẽ làm tôi chết mất không.”
“Tôi không biết là ai,” tôi trả lời, “Anh là một vị khách tới muộn.”
“Phải; và tôi tin chắc đây là lần gặp cuối cùng của tôi,” anh ấy trả lời, nỗ lực nở một nụ cười xanh mét. “Tôi đã xong rồi, Holly. Tôi đã xong rồi. Tôi không tin tôi còn thấy ngày - mai.”
“Vớ vẩn!” Tôi nói. “Để tôi đi tìm bác sĩ.”
Anh ấy vẫy tay ép tôi quay lại. “Tôi tỉnh táo; nhưng tôi không cần bác sĩ. Tôi học y và biết rõ điều này. Không bác sĩ nào có thể giúp tôi. Giờ cuối của tôi đã tới! Một năm qua tôi sống là một điều kỳ diệu. Giờ hãy nghe tôi, vì cậu chưa bao giờ nghe ai trước đó; vì cậu sẽ không có cơ hội bảo tôi lặp lại những lời này. Chúng ta là bạn đã hai năm; giờ hãy nói cho tôi cậu biết về tôi bao nhiêu?”
“Tôi biết anh rất giàu có, và có một đam mê học Đại học dù ở tuổi này hầu hết mọi người đều rời nó. Tôi biết anh đã kết hôn, và vợ anh đã chết; và anh là người tốt nhất, thực sự hầu như là người bạn duy nhất mà tôi từng có.”
“Cậu có biết tôi có một đứa con trai không?”
“Không.”
“Tôi có đấy. Nó năm tuổi. Nó khiến tôi phải trả giá bằng mạng sống của mẹ nó, và vì thế tôi không bao giờ có thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy mặt nó. Holly, nếu cậu đồng ý lời ủy thác này, tôi sẽ để cậu làm người bảo trợ duy nhất của thằng bé.”
Tôi gần như nhảy ra khỏi ghế. “Tôi ư!” Tôi nói.
“Phải, cậu. Tôi không tìm hiểu về cậu suốt hai năm qua một cách vô nghĩa. Tôi đã từng biết rằng tôi không thể sống lâu, và khi tôi nhận ra thực tế đó, tôi đã đi tìm kiếm người mà tôi có thể tin tưởng cho cậu con trai và thứ này,“ anh ấy vỗ nhẹ cái hộp sắt. “Cậu là một người đàn ông, Holly; dù giống như một cái cây thô ráp xù xì, cậu cứng cỏi và lành mạnh tận xương tủy. Hãy nghe này; thằng bé là đại diện duy nhất cho một trong những gia tộc cổ xưa nhất thế giới, vì thế cho đến ngày nay các gia tộc này có thể vẫn bị săn đuổi. Cậu sẽ cười nhạo tôi khi tôi nói ra, nhưng một ngày nào đó sẽ chứng minh để cậu không nghi ngờ nữa, rằng, tổ tiên trực hệ thứ sáu mươi lăm hay sáu mươi sáu của tôi là một linh mục người Ai Cập của Isis, dù ông tự khai mình là người gốc Hy Lạp, tên là Kallikrates. [1] Cha ông là một trong những lính đánh thuê Hy Lạp do Hak-Hor, một Pharaoh người Mendes ở triều đại thứ hai mươi chín, tuyển mộ, còn ông của ông hay ông cố của tôi, tôi tin đó chính là Kallikrates đã được Herodotus đề cập đến. [2] Vào khoảng năm 339 trước Công Nguyên, ngay thời điểm sụp đổ cuối cùng của các Pharaoh, Kallikrates này (vị linh mục) đã phá vỡ lời thề độc thân và trốn khỏi Ai Cập với một công chúa mang dòng máu hoàng tộc yêu thương ông, cuối cùng bị đắm thuyền ở bờ biển Châu Phi, một nơi nào đó mà tôi tin là cạnh Vịnh Delagoa bây giờ, hoặc lên phía bắc của nó, ông ấy và vợ đã được cứu sống, rồi tất cả những gì còn lại của họ bị phá hủy bằng cách này hay cách khác. Ở đó họ đã trải qua những tháng ngày rất khốn khổ, là trò tiêu khiển cho Nữ Vương phi thường của một tộc người hoang dã, một phụ nữ da trắng có vẻ đẹp đặc biệt, người mà vì hoàn cảnh tôi không thể đi sâu hơn, nhưng cậu sẽ có ngày tìm ra từ nội dung của cái hộp - nếu cậu còn sống, cuối cùng bà ta đã giết ông tổ của tôi Kallikrates. Tuy nhiên vợ ông đã trốn thoát tới Athens, tôi không biết bằng cách nào, mang theo một đứa bé mà bà đặt tên là Tisisthenes, nghĩa là Người Báo Thù Vĩ Đại. Năm trăm năm sau hay lâu hơn nữa, gia đình đó di cư tới Rome – không còn dấu vết nào lưu lại trong hoàn cảnh đó, và từ đó, có lẽ với ý nghĩ bảo vệ tư tưởng báo thù mà chúng tôi tìm thấy trong cái tên Tisisthenes, họ xuất hiện rất thường xuyên bằng tên riêng Vindex, nghĩa là Người Trả Thù. Cứ như thế chúng được duy trì năm thế kỷ tiếp theo hoặc hơn nữa, tới khoảng năm 770 sau Công Nguyên, khi Charlemagne xâm lược Lombardy, nơi họ đang cư ngụ, khi đó người đứng đầu gia tộc dường như tự cột lợi ích của họ với vị Hoàng Đế vĩ đại này, rồi trở về với Hoàng Đế dọc theo dãy Alps, cuối cùng định cư ở Brittany. Sau tám thế hệ, người đại diện trực hệ đã tới Anh dưới triều đại nhà Edward – Người Xưng Tội, và trong thời đại của William – Kẻ Chinh Phạt đã đạt được danh vọng và quyền lực to lớn. Từ thời đó đến nay tôi có thể theo dấu tổ tiên của mình mà không bị gián đoạn. Không còn là gia tộc Vincey – vì đó là sự bại hoại cuối cùng của cái tên này sau khi danh tiếng của nó đã chìm dần vào bùn nhơ nước Anh – những người đặc biệt xuất chúng – họ không bao giờ nổi bật quá nhiều nữa. Đôi khi họ là người lính, đôi khi là thương nhân, nhưng nói chung họ vẫn duy trì địa vị ở mức kiệt quệ, và vẻ tầm thường ở mức độ tệ hại lặng lẽ hơn. Từ thời Charles II tới đầu thế kỷ này, họ đều là thương nhân. Vào khoảng năm 1790, ông nội tôi trở nên giàu có đáng kể nhờ sản xuất bia, rồi về hưu. Năm 1821 ông mất, bố tôi kế thừa ông, làm tiêu tán phần lớn tiền của. Mười năm sau ông ấy cũng mất, bỏ lại tôi với một khoản thu nhập ròng khoảng hai ngàn mỗi năm. Thế rồi tôi cam đoan tiến hành một cuộc viễn chinh để kết nối với cái đó,“ và anh ấy chỉ vào cái hộp sắt, “nó đã kết thúc thảm hại. Trên đường trở về tôi du lịch qua Nam Âu, cuối cùng tới Athens. Tôi đã gặp vợ yêu của tôi ở đó, người có thể coi là “đẹp”, giống như tổ tiên người Hy Lạp xa xưa của tôi. Tôi đã kết hôn ở đó, và một năm sau, cũng ở đó, khi con trai tôi ra đời, cô ấy mất.”
[1] Khỏe và Đẹp, hay chính xác hơn, vẻ đẹp trong sức mạnh.
[2] Kallikrates ở đây - tham khảo từ bạn tôi- là một người Sparta, được Herodotus nói đến (Herod. Ix. 72) đặc biệt nhấn mạnh ở vẻ đẹp của anh ta. Anh ta ngã xuống trong trận Plataea vinh quang (ngày 22 tháng 9 năm 479 trước Công Nguyên), khi người Lacedaemon và Athen theo Pausanias trên đường tới Ba Tư, khiến gần 300,000 người trong số họ chết dưới lưỡi gươm. Đoạn dịch sau, “Vì Kallikrates đã chết ngoài trận chiến, anh trở thành người đàn ông quân nhân đẹp nhất của người Hy Lạp hôm đó – không chỉ của người Lacedaemon, mà còn của người Hy Lạp. Khi Pausanias hy sinh, anh bị thương một bên do tên bắn; và họ tiếp tục đánh nhau, nhưng khi được cáng vào, anh ta tiếc nuối cái chết của mình, và nói với Arimnestus, một người Plataea, rằng anh không buồn vì chết cho Hy Lạp, mà vì không đánh hết sức, hay mặc dù anh ta mong làm được điều đó, như vậy đã thể hiện được giá trị sâu sắc của bản thân anh ta.” Kallikrates này hiện ra rất dũng cảm và đẹp đẽ, đã được Herodotus đề cập đến và bị chôn vùi trong số ἰρένες (các sỹ quan trẻ), cùng với những người Sparta và nô lệ khác. – T.H.H.
Anh ấy dừng một lúc, đầu vùi trong bàn tay, rồi lại tiếp tục.
“Việc kết hôn đã chuyển hướng tôi khỏi kế hoạch và từ giờ tôi không thể đi vào sâu hơn. Tôi không có thời gian, Holly – Tôi không có thời gian! Một ngày nào đó, nếu cậu chấp nhận lời ủy thác này, cậu sẽ hiểu tất cả. Sau cái chết của vợ tôi, tôi gắng ổn định tâm trí trở lại. Nhưng trước tiên điều cần thiết, hay ít nhất tôi nghĩ là cần thiết, là tôi phải có một kiến thức hoàn hảo về thổ ngữ phương Đông, đặc biệt, tiếng Ả rập. Để thuận tiện nghiên cứu, tôi đã tới đây. Tuy nhiên rất nhanh sau đó, căn bệnh của tôi đã tự phát, và giờ đã đến hồi kết của tôi.” Và như để nhấn mạnh những lời này, anh phát ra những tràng ho khủng khiếp.
Tôi đưa cho anh ấy thêm chút whisky, sau khi nghỉ ngơi, anh lại tiếp tục.
“ Tôi chưa bao giờ gặp con trai tôi, Leo, từ khi nó là một đứa bé nhỏ xíu. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn thấy nó, nhưng người ta nói với tôi nó là một đứa trẻ rất nhanh nhẹn và đẹp trai. Trong phong thư này,“ anh ấy đưa một lá thư từ túi quần đề địa chỉ của tôi, “Tôi đã ghi nhanh xuống khóa học mà tôi mong theo học để giáo dục thằng bé. Nó khá đặc biệt. Ở một mức độ nào đó, tôi không thể tin tưởng phó thác nó cho một người xa lạ. Một lần nữa thôi, cậu sẽ thực hiện điều đó chứ?”
“Trước hết tôi phải biết tôi sẽ thực hiện cái gì đã.“ tôi trả lời.
“Việc cậu sẽ thực hiện là để thằng bé, Leo, sống cùng với cậu cho tới khi nó hai mươi lăm tuổi – nhớ đừng gửi nó đến sống trong một ngôi trường nào đó. Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của nó, vai trò bảo trợ của cậu kết thúc, và với chìa khóa tôi đưa cho cậu bây giờ, cậu sẽ mở chiếc hộp sắt, rồi để nó xem và đọc nội dung bên trong, hãy hỏi xem liệu nó có muốn thực hiện cuộc thám hiểm không. Đừng ép buộc nó làm điều đó. Giờ hãy quan tâm đến các điều kiện. Thu nhập hiện tại của tôi là hai ngàn hai trăm một năm. Một nửa thu nhập này tôi đã bảo đảm cho cậu suốt đời bằng di chúc, do ngẫu nhiên cậu đảm nhận vai trò giám hộ - nghĩa là, một ngàn mỗi năm dành cho cậu, vì cậu sẽ phải từ bỏ cuộc sống của mình để thực hiện nó, và một trăm một năm để trả cho tiền ăn của thằng bé. Phần còn lại tích lũy tới khi Leo hai mươi lăm, có lẽ sẽ có đủ một số tiền trong tay nếu thằng bé muốn thực hiện cuộc phiêu lưu mà tôi đã nói. “
“Nếu như tôi chết thì sao?” Tôi hỏi.
“Thì thằng bé phải chịu sự giám hộ của Tòa Đại Pháp và phó thác cho may rủi thôi. Chỉ cần cẩn thận để cái hộp sắt này chuyển tới thằng bé bằng di chúc của cậu. Hãy nghe này, Holly, đừng từ chối tôi. Hãy tin tôi, điều này có lợi cho cậu. Cậu không phù hợp để trộn lẫn vào cái thế giới này – nó chỉ làm cậu cay đắng. Trong một vài tuần tới cậu sẽ trở thành nghiên cứu sinh của trường Đại học này, và thu nhập cậu có được từ nó cộng với những gì tôi để lại cho cậu sẽ cho phép cậu sống một cuộc đời an nhàn, học hành xen kẽ với môn thể thao cậu thích, đó chính xác là những gì phù hợp với cậu.”
Anh dừng lại và nhìn tôi đầy lo lắng, nhưng tôi vẫn do dự. Nhiệm vụ có lẽ rất kỳ lạ.
“Vì lợi ích của tôi, Holly. Chúng ta là bạn tốt, và tôi không có thời gian thu xếp nữa.”
“Được rồi,” tôi nói, “Tôi sẽ làm việc này, với điều kiện không có gì trong tờ giấy này làm tôi thay đổi suy nghĩ.“ Và tôi chạm vào cái phong bì anh để trên bàn với chùm chìa khóa.
“Cảm ơn cậu, Holly, cảm ơn cậu. Không còn gì nữa đâu. Hãy thề với tôi trước Chúa rằng, cậu sẽ là cha thằng bé, và tuân theo các chỉ dẫn của tôi trong thư.”
“Tôi thề.” Tôi long trọng đáp lời.
“Rất tốt, hãy nhớ rằng có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ đòi hỏi trách nhiệm với lời thề của cậu, vì dù tôi chết và bị quên lãng, tôi sẽ vẫn sống. Không có gì như cái chết, Holly, chỉ là một sự biến đổi, và khi cậu lĩnh hội được theo thời gian, tôi tin rằng sự biến đổi đó có thể bị trì hoãn vô thời hạn dưới những điều kiện nhất định,” rồi anh ấy lại ngắt bằng những tràng ho rợn người.
“Giờ,” anh nói, “Tôi phải đi, cậu cầm cái hộp, di chúc của tôi sẽ được tìm ra trong đống giấy tờ, theo thẩm quyền, thằng bé sẽ được trao cho cậu. Cậu sẽ được trả công xứng đáng, Holly, tôi biết cậu là một người trung thực, nhưng nếu cậu phản bội lòng tin của tôi, trên Thiên đường, tôi sẽ ám cậu.”
Tôi không nói gì, thực sự, quá hoang mang nên không thể nói.
Anh ấy cầm ngọn nến lên, và nhìn vào gương mặt chính mình trong gương. Đó từng là một gương mặt đẹp, nhưng bệnh tật đã tàn phá nó. “Thức ăn cho sâu,” anh nói, “Thật tò mò khi nghĩ tới vài giờ nữa tôi sẽ cứng lại và lạnh đi – cuộc hành trình đã xong, trò chơi nhỏ đã kết thúc. Ôi cái thân tôi, Holly! Sống không đáng giá, thật khó khăn để sống, trừ khi đang yêu – ít nhất, sự sống của tôi không đáng thế; nhưng của thằng bé Leo thì có thể nếu nó dũng cảm và có lòng tin. Tạm biệt, bạn của tôi!” Bằng sự dịu dàng bất ngờ, anh đưa cánh tay về phía tôi và hôn trên trán tôi, rồi đi ra.
“Quay lại đây, Vincey,” Tôi nói, “nếu anh ốm đau như anh nghĩ, tốt nhất anh nên để tôi gọi bác sĩ.”
“Không, không,” anh ấy tha thiết nói. “Hãy hứa với tôi cậu sẽ không làm thế. Tôi sắp chết, và giống như con chuột bị đầu độc, tôi muốn chết một mình.”
“Tôi không tin anh sẽ làm thế,” Tôi trả lời. Anh ấy mỉm cười, và với từ “Hãy nhớ lấy” trên môi, anh ấy đã đi mất. Về phía mình, tôi ngồi xuống và dụi mắt, tự hỏi có phải tôi vừa mơ ngủ không. Nhưng vì giả thiết kiểu này không thể điều tra được, tôi đành từ bỏ và bắt đầu nghĩ có lẽ Vincey đã say. Tôi biết anh ấy đã, và đang rất ốm yếu, nhưng không thể có chuyện anh ấy có thể biết mình chắc không sống qua một đêm. Nếu anh ấy sắp lâm chung, chắc chắn anh ấy khó có thể đi bộ, và mang theo một hộp sắt nặng thế. Suy đi tính lại, toàn bộ câu chuyện dường như hoàn toàn không thể tin được với tôi, do khi đó tôi không đủ tuổi để nhận ra có bao nhiêu chuyện sẽ xảy ra trong những lời nói đó, mà ý thức chung của một người bình thường cũng cho rằng càng không chắc chắn thì tuyệt đối không có khả năng xảy ra. Thực sự gần đây tôi mới làm chủ được. Liệu có khả năng một người có một cậu con trai năm tuổi mà anh ta không bao giờ gặp từ khi nó nhỏ xíu không? Không. Anh ta có khả năng tiên đoán cái chết của chính mình một cách chính xác không? Không. Liệu anh ta có khả năng lần theo dấu cây phả hệ nhà mình tới tận ba thế kỷ trước Công Nguyên không, hay anh ta bỗng nhiên tin tưởng phó thác việc bảo trợ tuyệt đối cho con trai mình và để lại một nửa gia tài, cho một người bạn ở đại học? Hầu như chắc chắn là không. Rõ ràng Vincey đã say xỉn hay điên rồi. Nếu vậy, điều này có nghĩa gì? Và có gì trong cái hộp sắt đã niêm phong kia?
Toàn bộ những điều này làm tôi bối rối hoang mang đến mức tôi không thể chịu được nữa, và quyết định đi ngủ. Vì thế tôi nhảy đến, lấy chùm chìa khóa và lá thư Vincey để lại bỏ vào cái hộp thư từ của tôi, cất cái hộp sắt vào chiếc vali da lớn, tôi quay vào và nhanh chóng buồn ngủ.
Dường như tôi chỉ ngủ được vài phút khi bị đánh thức bởi ai đó đang gọi tôi. Tôi ngồi dậy, dụi mắt; ánh sáng ban ngày trải rộng – quả thật đã tám giờ.
“Sao thế, có chuyện gì thế, John?” Tôi hỏi người phục vụ trường học hay đợi Vincey và tôi. “Trông anh như gặp ma ấy!”
“Vâng, thưa ngài, đúng vậy,“ ông ấy trả lời, “thực ra tệ hơn thế, tôi vừa nhìn thấy một xác chết. Tôi đã vào trong đó gọi ngài Vincey như thường lệ, ngài ấy nằm ở đó đông cứng và đã chết.”

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Sợ hãi - cách hành xử phù hợp di truyền từ tổ tiên chúng ta


"Những nỗi sợ hãi của chúng ta luôn luôn nhiều hơn số lượng nguy hiểm."
-          Lucius Annaeus Seneca (Nhà triết học La Mã, 4 TCN-65)

Các hành khách lên chuyến bay 651 đi Chicago. Hai giờ sau khi cất cánh, người phục vụ chuyến bay nghe thấy tiếng ồn khả nghi từ phòng vệ sinh. Các hành khách bắt đầu truyền nhau. Sự hoảng loạn tràn ra.

Chúng ta đều sợ hãi những sự kiện bi đát và đe dọa chúng ta. Ta sợ mất sức khỏe, gia đình, bạn bè, an toàn, tiền bạc, địa vị xã hội, quyền lực, hay công việc. Chúng ta cũng sợ hãi bạo lực, tội phạm, trừng phạt, từ chối, thất bại, không biết, sự cố bất thình lình, những gì không thể tiên đoán trước hay những gì không thể điều khiển được. Các nghiên cứu chỉ ra rằng ngay khi chứng kiến một sự kiện gây chấn thương cũng có thể sinh ra những phản ứng sợ hãi giống như chính bạn bị chấn thương vậy.
Nỗi sợ hãi là cảm xúc cơ bản nhất của chúng ta. Sợ hãi tiến hóa để giúp chúng ta dự đoán nguy hiểm và tránh đau đớn. Nhà văn khoa học Rush Dozier đã viết trong cuốn Fear itself (Bản chất nỗi sợ hãi): “ Nỗi sợ hãi là cơ bản, vì sự sống là cơ bản. Nếu chúng ta chết, mọi thứ đều trở nên vô giá trị.”

Nhân loại đã phát triển cảm xúc mạnh mẽ về nỗi sợ hãi. Môi trường của tổ tiên chúng ta đầy hiểm nguy. Nỗi sợ hãi với những nguy hiểm vật lý, sự không thừa nhận của xã hội, thiếu thức ăn, không bạn tình, thú dữ, v.v… Tự tồn tại là một sự khuyến khích mạnh mẽ. Các sai lầm có thể phải trả giá cực đắt. Giả sử hai cá thể cùng nghe thấy một âm thanh lạ sau bụi rậm. Một người nhìn ra phía sau bụi rậm và bị một con rắn độc cắn rồi chết. Người kia nhìn những gì đã xảy ra, chạy trốn và sống sót. Luôn giả thiết có mối đe dọa sau những bụi cây và chạy trốn có thể cứu mạng ta. Chi phí của sai lầm và chạy khi không có con rắn nào là rất nhỏ. Nhưng cái giá của việc ở lại quanh quẩn khi có một con rắn có thể là chính mạng sống. Thất bại trong việc phát hiện ra các mối đe dọa tiềm tàng thường phải trả giá đắt hơn một cảnh báo sai. Tổ tiên chúng ta đã học thông qua việc thử và sai trong một thời gian dài, đau khổ có thể tránh được nếu họ sợ hãi. Họ sống sót thoát khỏi các hiểm nguy vì họ đã học được phải đáp trả như thế nào.
Nếu đau khổ và sung sướng là những chỉ dẫn hướng chúng ta tới sống sót và sinh sản, nỗi sợ hãi là dấu hiệu cảnh báo sinh học của chúng ta để tránh khỏi nỗi đau.  Sợ hãi cảnh báo chúng ta những đe dọa tiềm tàng và giữ chúng ta không hành động theo những con đường dẫn đến tự diệt. Nó giúp chúng ta tránh khỏi những đe dọa và khiến chúng ta hành động để ngăn chặn những tổn thương lớn hơn. Sợ hãi chỉ dẫn ta tránh khỏi những gì đã không làm việc trong quá khứ. Sợ hãi gây ra lo lắng và băn khoăn, một phản ứng bình thường trước các hiểm nguy vật lý. Nó kích hoạt các hormone như adrenaline và cortisol, chúng khiến chúng ta luôn chú ý các nguy cơ vì chúng ta đang cần tập trung trọn vẹn vào việc thoát ra khỏi mối đe dọa.
Mức độ sợ hãi mà chúng ta cảm nhận phụ thuộc vào việc biên dịch nguy cơ và nhận thức cách điều khiển. Chúng ta càng cảm thấy vô dụng và dễ bị tổn thương bao nhiêu, cảm xúc sợ hãi càng mạnh bấy nhiêu.
Giả sử bạn đang đi dạo một mình lúc đêm khuya trên một con phố hoang ở thành phố New York. Bỗng nhiên bạn nghe thấy những bước chân phía sau bạn. Chuyện gì xảy ra? Ngay lập tức bạn cảm thấy đang rơi vào tình trạng tồi tệ nhất – cướp, cưỡng hiếp, v.v… Hệ thống thần kinh tự trị của bạn sẽ chuyển giao và chuẩn bị cho bạn chiến đấu hoặc chạy trốn. Phản ứng của bạn bắt đầu hình thành trong bộ não và kích hoạt một quá trình hóa sinh học. Nhịp tim, nhịp thở, áp suất máu, xung thần kinh và lượng đường trong máu bạn đều tăng lên. Hành vi thông thường khi bạn là nạn nhân của stress, cũng được nhận thức tương tự. Bạn phản ứng với nỗi sợ hãi trên một con phố hoang vì tiến hóa đã đóng gói vào trong não bạn và đăng ký nỗi đau khổ này cần nhạy cảm hơn bất kỳ cảm xúc nào khác. Bạn đã sử dụng “bộ nhớ” của quá khứ các tổ tiên của bạn – hệ thống sợ hãi nguyên thủy của bạn để chiến đấu hoặc chạy trốn.
Những gì chúng ta sợ hãi và cường độ phản ứng của chúng ta phụ thuộc vào các gene, kinh nghiệm sống, và tình huống cụ thể. Thoạt tiên bạn sẽ phản ứng theo bản năng, nhưng nếu tình huống này bạn đã có kinh nghiệm trước đó (vì não bạn đã được nối dây liên tục với các kinh nghiệm sống), phản ứng cuối cùng có thể bình tĩnh hơn. Bạn nhìn quanh và thấy một bà già đang dắt chó đi dạo. Hoặc bạn có lẽ sẽ chạy mất, vì bạn muốn tránh những tình huống như trong quá khứ khiến bạn đau đớn. Bạn càng được tiếp xúc với một kích thích càng nhiều, dù là thứ rất kinh khủng đi chăng nữa, ngưỡng chịu đựng sợ hãi của bạn càng cao. Nếu bạn đã từng đi dạo trên cùng con phố hoang này rất nhiều lần trước đó và nhận ra mỗi lần tiếng ồn đều từ bà già dắt chó đi dạo kia, bạn có lẽ sẽ không sợ hãi nữa. Trừ khi một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra.

Thường thường các cảm xúc mang thông tin cảm tính giúp chúng ta ra quyết định tốt hơn. Ví dụ, tội lỗi có thể làm chúng ta ăn năn hối hận khi gây ra những việc sai trái, và ta sẽ sữa chữa. Nó cũng có thể khiến ta hợp tác. Sự thù ghét có vẻ cũng là một phản ứng với nguy hiểm bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật và nguy cơ bị làm hại. Xấu hổ cũng giúp ta tránh vài cám dỗ hay giảm rủi ro đối đấu trong nhóm. Người không thể trải nghiệm với các đáp ứng cảm xúc do não bị thương tổn, sẽ có thể không có khả năng học từ sai lầm hay lựa chọn một cách thức mạnh lạc.
(Trích Tìm kiếm trí khôn: Từ Darwin tới Munger - Peter Bevelin)

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...