CHƯƠNG 1
Vị khách
Có một số sự kiện
mà mỗi hoàn cảnh và chi tiết xung quanh dường như được khắc vào trong ký ức như
một thói quen khiến ta không thể quên được, và cảnh mà tôi sắp mô tả cũng vậy.
Nó hiện lên rõ ràng trong tâm trí tôi lúc này như thể nó vừa mới xảy ra ngày
hôm qua.
Chính vào đúng
tháng này hai mươi năm về trước, tôi - Ludwig Horace Holly, đã ngồi suốt một
đêm trong căn phòng ở Cambridge, hì hục giải mấy bài toán mà tôi không nhớ
chính xác nữa. Tôi dự định đi lên vì quyền lợi của mình trong một tuần nay, gia
sư của tôi và trường đại học nói chung đã kỳ vọng tôi sẽ nổi tiếng. Cuối cùng,
mệt mỏi, tôi ném quyển sách xuống, đi đến bệ lò sưởi, lấy xuống một cái tẩu và
nhồi thuốc vào. Một ngọn nến đang cháy trên bệ lò sưởi, và một cái gương hẹp
dài sau nó; khi tôi đang đốt thuốc, tôi bắt gặp gương mặt của chính mình trong
gương, nên tạm ngừng để suy nghĩ. Mồi thuốc cháy đến khi nó xém vào ngón tay,
buộc tôi phải thả ra; nhưng tôi vẫn đứng nhìn chằm chằm vào bản thân trong
gương, và suy nghĩ.
“Phải,” cuối
cùng tôi nói to,” hy vọng là mình sẽ có thể làm được gì đó với thứ trong đầu
mình, vì chắc chắn mình sẽ không bao giờ nhờ đến sự giúp đỡ từ phía ngoài.”
Điều này không cần
nghi ngờ, sẽ đánh vào bất kỳ ai đọc nó chút mơ hồ, nhưng thực tế, tôi đang ám
chỉ những khiếm khuyết về thể chất của tôi. Hầu hết đàn ông hai mươi hai tuổi đều
được thời thanh xuân đẹp đẽ ưu ái ở một mức độ nào đó, nhưng với tôi, nó đã từ
chối. Thấp, gầy, ngực hầu như biến dạng, cánh tay dài gân guốc, nét mặt nặng nề,
đôi mắt xám sâu, cái trán thấp một nửa phủ mái tóc đen dày như cái chổi, giống
như một bãi hoang mà rừng cây bắt đầu xâm lấn; đó là vẻ ngoài của tôi gần một
phần tư thế kỷ trước, bây giờ cũng vẫn thế, chỉ có vài thay đổi. Giống như
Cain, tôi đã bị dán nhãn – bị Tạo Hóa dán nhãn, là dấu hiệu của sự xấu xí không
bình thường, nhưng Tạo Hóa cũng tặng tôi món quà, đó là sức khỏe sắt đá phi thường
và năng lực trí tuệ đáng kể. Tôi xấu xí đến mức những anh chàng trẻ trung bảnh
bao ở Đại học, dù họ đủ lòng tự hào về độ bền và sức mạnh thể chất của tôi,
cũng không quan tâm đến việc được trông thấy đi cùng tôi. Có tuyệt không khi
tôi chán đời và ủ rũ? Có tuyệt không khi tôi lo nghĩ và làm việc một mình,
không bạn bè – dù ít nhất chỉ một người? Tôi đã được Tạo Hóa đặc cách cho sống
đơn độc, thoải mái trong ngực người mẹ thiên nhiên này, và chỉ với bà mà thôi.
Phụ nữ ghét cái nhìn của tôi. Mới một tuần trước tôi nghe thấy một người gọi
tôi là “quái vật” khi cô ta cho rằng tôi không nghe thấy, cô ta nói tôi là bản
ngược lại của cô ta theo lý thuyết về loài vượn. Quả thật một lần, một phụ nữ
giả vờ quan tâm đến tôi, và tôi đã không tiếc tiền và tình cảm bị dồn nén trao
tất cả cho cô ấy. Sau đó số tiền của tôi đã đi tới nơi nào đó, còn cô ta bỏ
tôi. Tôi đã cầu xin cô ấy dù tôi chưa bao giờ từng cầu xin một sinh vật sống
nào trước đó, chỉ vì tôi đã bị gương mặt ngọt ngào ấy chiếm giữ và yêu cô ấy;
cuối cùng cách trả lời của cô ta là, mang tôi tới trước một chiếc gương, rồi đứng
cạnh tôi, và nhìn vào đó.
Cô ấy nói “Bây
giờ nếu tôi là Người Đẹp, anh là ai?” Đó là câu chuyện khi tôi chỉ hai mươi.
Và tôi đứng đó,
nhìn chằm chằm, cảm thấy một loại thỏa mãn nghiệt ngã trong sự cô độc của chính
tôi; vì tôi không cha, không mẹ, cũng không có anh em; và tôi cứ như thế khi có
tiếng gõ cửa.
Tôi nghe ngóng
trước khi ra mở cửa, vì gần mười hai giờ đêm rồi, và tôi không có tâm trạng gặp
người lạ. Nhưng tôi có một người bạn ở trong trường Đại học, thực ra là trong cả
thế giới này – có lẽ là anh ấy.
Ngay sau đó người
ngoài cửa ho, tôi vội vàng mở cửa, vì tôi biết tiếng ho này.
Một người đàn
ông cao lớn khoảng ba mươi, với những nét đẹp riêng hoàn hảo, bước nhanh vào
trong, loạng choạng vì trọng lượng chiếc hộp sắt lớn anh ta mang bên tay phải.
Anh ấy đặt chiếc hộp trên bàn, rồi rơi vào một trận ho khủng khiếp. Anh ấy ho,
rồi lại ho, cho đến khi gương mặt chuyển sang tím tái, cuối cùng anh lún dần
trong cái ghế và bắt đầu thổ huyết. Tôi rót một chút whisky vào cốc, rồi đưa
cho anh ấy. Anh uống, có vẻ đỡ hơn; mặc dù cái đỡ hơn của anh thực tế là rất tệ.
“Sao cậu bắt tôi
đứng chết cóng ngoài đó?” Anh cáu gắt hỏi. “Cậu có biết gió lùa sẽ làm tôi chết
mất không.”
“Tôi không biết
là ai,” tôi trả lời, “Anh là một vị khách tới muộn.”
“Phải; và tôi
tin chắc đây là lần gặp cuối cùng của tôi,” anh ấy trả lời, nỗ lực nở một nụ cười
xanh mét. “Tôi đã xong rồi, Holly. Tôi đã xong rồi. Tôi không tin tôi còn thấy
ngày - mai.”
“Vớ vẩn!” Tôi
nói. “Để tôi đi tìm bác sĩ.”
Anh ấy vẫy tay
ép tôi quay lại. “Tôi tỉnh táo; nhưng tôi không cần bác sĩ. Tôi học y và biết
rõ điều này. Không bác sĩ nào có thể giúp tôi. Giờ cuối của tôi đã tới! Một năm
qua tôi sống là một điều kỳ diệu. Giờ hãy nghe tôi, vì cậu chưa bao giờ nghe ai
trước đó; vì cậu sẽ không có cơ hội bảo tôi lặp lại những lời này. Chúng ta là
bạn đã hai năm; giờ hãy nói cho tôi cậu biết về tôi bao nhiêu?”
“Tôi biết anh rất
giàu có, và có một đam mê học Đại học dù ở tuổi này hầu hết mọi người đều rời
nó. Tôi biết anh đã kết hôn, và vợ anh đã chết; và anh là người tốt nhất, thực
sự hầu như là người bạn duy nhất mà tôi từng có.”
“Cậu có biết tôi
có một đứa con trai không?”
“Không.”
“Tôi có đấy. Nó
năm tuổi. Nó khiến tôi phải trả giá bằng mạng sống của mẹ nó, và vì thế tôi
không bao giờ có thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy mặt nó. Holly, nếu cậu đồng ý lời
ủy thác này, tôi sẽ để cậu làm người bảo trợ duy nhất của thằng bé.”
Tôi gần như nhảy
ra khỏi ghế. “Tôi ư!” Tôi nói.
“Phải, cậu. Tôi
không tìm hiểu về cậu suốt hai năm qua một cách vô nghĩa. Tôi đã từng biết rằng
tôi không thể sống lâu, và khi tôi nhận ra thực tế đó, tôi đã đi tìm kiếm người
mà tôi có thể tin tưởng cho cậu con trai và thứ này,“ anh ấy vỗ nhẹ cái hộp sắt.
“Cậu là một người đàn ông, Holly; dù giống như một cái cây thô ráp xù xì, cậu cứng
cỏi và lành mạnh tận xương tủy. Hãy nghe này; thằng bé là đại diện duy nhất cho
một trong những gia tộc cổ xưa nhất thế giới, vì thế cho đến ngày nay các gia tộc
này có thể vẫn bị săn đuổi. Cậu sẽ cười nhạo tôi khi tôi nói ra, nhưng một ngày
nào đó sẽ chứng minh để cậu không nghi ngờ nữa, rằng, tổ tiên trực hệ thứ sáu
mươi lăm hay sáu mươi sáu của tôi là một linh mục người Ai Cập của Isis, dù ông
tự khai mình là người gốc Hy Lạp, tên là Kallikrates. [1] Cha ông là một trong
những lính đánh thuê Hy Lạp do Hak-Hor, một Pharaoh người Mendes ở triều đại thứ
hai mươi chín, tuyển mộ, còn ông của ông hay ông cố của tôi, tôi tin đó chính
là Kallikrates đã được Herodotus đề cập đến. [2] Vào khoảng năm 339 trước Công
Nguyên, ngay thời điểm sụp đổ cuối cùng của các Pharaoh, Kallikrates này (vị
linh mục) đã phá vỡ lời thề độc thân và trốn khỏi Ai Cập với một công chúa mang
dòng máu hoàng tộc yêu thương ông, cuối cùng bị đắm thuyền ở bờ biển Châu Phi,
một nơi nào đó mà tôi tin là cạnh Vịnh Delagoa bây giờ, hoặc lên phía bắc của
nó, ông ấy và vợ đã được cứu sống, rồi tất cả những gì còn lại của họ bị phá hủy
bằng cách này hay cách khác. Ở đó họ đã trải qua những tháng ngày rất khốn khổ,
là trò tiêu khiển cho Nữ Vương phi thường của một tộc người hoang dã, một phụ nữ
da trắng có vẻ đẹp đặc biệt, người mà vì hoàn cảnh tôi không thể đi sâu hơn,
nhưng cậu sẽ có ngày tìm ra từ nội dung của cái hộp - nếu cậu còn sống, cuối
cùng bà ta đã giết ông tổ của tôi Kallikrates. Tuy nhiên vợ ông đã trốn thoát tới
Athens, tôi không biết bằng cách nào, mang theo một đứa bé mà bà đặt tên là
Tisisthenes, nghĩa là Người Báo Thù Vĩ Đại. Năm trăm năm sau hay lâu hơn nữa, gia
đình đó di cư tới Rome – không còn dấu vết nào lưu lại trong hoàn cảnh đó, và từ
đó, có lẽ với ý nghĩ bảo vệ tư tưởng báo thù mà chúng tôi tìm thấy trong cái
tên Tisisthenes, họ xuất hiện rất thường xuyên bằng tên riêng Vindex, nghĩa là
Người Trả Thù. Cứ như thế chúng được duy trì năm thế kỷ tiếp theo hoặc hơn nữa,
tới khoảng năm 770 sau Công Nguyên, khi Charlemagne xâm lược Lombardy, nơi họ
đang cư ngụ, khi đó người đứng đầu gia tộc dường như tự cột lợi ích của họ với
vị Hoàng Đế vĩ đại này, rồi trở về với Hoàng Đế dọc theo dãy Alps, cuối cùng định
cư ở Brittany. Sau tám thế hệ, người đại diện trực hệ đã tới Anh dưới triều đại
nhà Edward – Người Xưng Tội, và trong thời đại của William – Kẻ Chinh Phạt đã đạt
được danh vọng và quyền lực to lớn. Từ thời đó đến nay tôi có thể theo dấu tổ
tiên của mình mà không bị gián đoạn. Không còn là gia tộc Vincey – vì đó là sự
bại hoại cuối cùng của cái tên này sau khi danh tiếng của nó đã chìm dần vào
bùn nhơ nước Anh – những người đặc biệt xuất chúng – họ không bao giờ nổi bật
quá nhiều nữa. Đôi khi họ là người lính, đôi khi là thương nhân, nhưng nói
chung họ vẫn duy trì địa vị ở mức kiệt quệ, và vẻ tầm thường ở mức độ tệ hại lặng
lẽ hơn. Từ thời Charles II tới đầu thế kỷ này, họ đều là thương nhân. Vào khoảng
năm 1790, ông nội tôi trở nên giàu có đáng kể nhờ sản xuất bia, rồi về hưu. Năm
1821 ông mất, bố tôi kế thừa ông, làm tiêu tán phần lớn tiền của. Mười năm sau
ông ấy cũng mất, bỏ lại tôi với một khoản thu nhập ròng khoảng hai ngàn mỗi năm.
Thế rồi tôi cam đoan tiến hành một cuộc viễn chinh để kết nối với cái đó,“ và anh ấy chỉ vào cái hộp sắt,
“nó đã kết thúc thảm hại. Trên đường trở về tôi du lịch qua Nam Âu, cuối cùng tới
Athens. Tôi đã gặp vợ yêu của tôi ở đó, người có thể coi là “đẹp”, giống như tổ
tiên người Hy Lạp xa xưa của tôi. Tôi đã kết hôn ở đó, và một năm sau, cũng ở
đó, khi con trai tôi ra đời, cô ấy mất.”
[1] Khỏe và Đẹp, hay chính xác hơn, vẻ đẹp trong sức mạnh.
[2] Kallikrates ở đây - tham khảo từ bạn tôi- là một người Sparta, được
Herodotus nói đến (Herod. Ix. 72) đặc biệt nhấn mạnh ở vẻ đẹp của anh ta. Anh
ta ngã xuống trong trận Plataea
vinh quang (ngày 22 tháng 9 năm 479 trước Công Nguyên), khi người Lacedaemon và Athen theo Pausanias trên đường tới Ba Tư, khiến gần 300,000
người trong số họ chết dưới lưỡi gươm. Đoạn dịch sau, “Vì Kallikrates đã chết
ngoài trận chiến, anh trở thành người đàn ông quân nhân đẹp nhất của người Hy Lạp
hôm đó – không chỉ của người Lacedaemon, mà còn của người Hy Lạp. Khi Pausanias
hy sinh, anh bị thương một bên do tên bắn; và họ tiếp tục đánh nhau, nhưng khi
được cáng vào, anh ta tiếc nuối cái chết của mình, và nói với Arimnestus, một
người Plataea, rằng anh không buồn vì chết cho Hy Lạp, mà vì không đánh hết sức,
hay mặc dù anh ta mong làm được điều đó, như vậy đã thể hiện được giá trị sâu sắc
của bản thân anh ta.” Kallikrates này hiện ra rất dũng cảm và đẹp đẽ, đã được
Herodotus đề cập đến và bị chôn vùi trong số ἰρένες (các sỹ quan trẻ), cùng với những người Sparta và nô lệ khác. – T.H.H.
Anh ấy dừng một lúc, đầu vùi
trong bàn tay, rồi lại tiếp tục.
“Việc kết hôn đã chuyển hướng
tôi khỏi kế hoạch và từ giờ tôi không thể đi vào sâu hơn. Tôi không có thời
gian, Holly – Tôi không có thời gian! Một ngày nào đó, nếu cậu chấp nhận lời ủy
thác này, cậu sẽ hiểu tất cả. Sau cái chết của vợ tôi, tôi gắng ổn định tâm trí
trở lại. Nhưng trước tiên điều cần thiết, hay ít nhất tôi nghĩ là cần thiết, là
tôi phải có một kiến thức hoàn hảo về thổ ngữ phương Đông, đặc biệt, tiếng Ả rập.
Để thuận tiện nghiên cứu, tôi đã tới đây. Tuy nhiên rất nhanh sau đó, căn bệnh
của tôi đã tự phát, và giờ đã đến hồi kết của tôi.” Và như để nhấn mạnh những lời
này, anh phát ra những tràng ho khủng khiếp.
Tôi đưa cho anh ấy thêm chút
whisky, sau khi nghỉ ngơi, anh lại tiếp tục.
“ Tôi chưa bao
giờ gặp con trai tôi, Leo, từ khi nó là một đứa bé nhỏ xíu. Tôi không thể chịu
nổi khi nhìn thấy nó, nhưng người ta nói với tôi nó là một đứa trẻ rất nhanh nhẹn
và đẹp trai. Trong phong thư này,“ anh ấy đưa một lá thư từ túi quần đề địa chỉ
của tôi, “Tôi đã ghi nhanh xuống khóa học mà tôi mong theo học để giáo dục thằng
bé. Nó khá đặc biệt. Ở một mức độ nào đó, tôi không thể tin tưởng phó thác nó
cho một người xa lạ. Một lần nữa thôi, cậu sẽ thực hiện điều đó chứ?”
“Trước hết tôi
phải biết tôi sẽ thực hiện cái gì đã.“ tôi trả lời.
“Việc cậu sẽ thực
hiện là để thằng bé, Leo, sống cùng với cậu cho tới khi nó hai mươi lăm tuổi –
nhớ đừng gửi nó đến sống trong một ngôi trường nào đó. Vào ngày sinh nhật thứ
hai mươi lăm của nó, vai trò bảo trợ của cậu kết thúc, và với chìa khóa tôi đưa
cho cậu bây giờ, cậu sẽ mở chiếc hộp sắt, rồi để nó xem và đọc nội dung bên
trong, hãy hỏi xem liệu nó có muốn thực hiện cuộc thám hiểm không. Đừng ép buộc
nó làm điều đó. Giờ hãy quan tâm đến các điều kiện. Thu nhập hiện tại của tôi
là hai ngàn hai trăm một năm. Một nửa thu nhập này tôi đã bảo đảm cho cậu suốt
đời bằng di chúc, do ngẫu nhiên cậu đảm nhận vai trò giám hộ - nghĩa là, một
ngàn mỗi năm dành cho cậu, vì cậu sẽ phải từ bỏ cuộc sống của mình để thực hiện
nó, và một trăm một năm để trả cho tiền ăn của thằng bé. Phần còn lại tích lũy
tới khi Leo hai mươi lăm, có lẽ sẽ có đủ một số tiền trong tay nếu thằng bé muốn
thực hiện cuộc phiêu lưu mà tôi đã nói. “
“Nếu như tôi chết
thì sao?” Tôi hỏi.
“Thì thằng bé phải
chịu sự giám hộ của Tòa Đại Pháp và phó thác cho may rủi thôi. Chỉ cần cẩn thận
để cái hộp sắt này chuyển tới thằng bé bằng di chúc của cậu. Hãy nghe này,
Holly, đừng từ chối tôi. Hãy tin tôi, điều này có lợi cho cậu. Cậu không phù hợp
để trộn lẫn vào cái thế giới này – nó chỉ làm cậu cay đắng. Trong một vài tuần
tới cậu sẽ trở thành nghiên cứu sinh của trường Đại học này, và thu nhập cậu có
được từ nó cộng với những gì tôi để lại cho cậu sẽ cho phép cậu sống một cuộc đời
an nhàn, học hành xen kẽ với môn thể thao cậu thích, đó chính xác là những gì
phù hợp với cậu.”
Anh dừng lại và
nhìn tôi đầy lo lắng, nhưng tôi vẫn do dự. Nhiệm vụ có lẽ rất kỳ lạ.
“Vì lợi ích của
tôi, Holly. Chúng ta là bạn tốt, và tôi không có thời gian thu xếp nữa.”
“Được rồi,” tôi
nói, “Tôi sẽ làm việc này, với điều kiện không có gì trong tờ giấy này làm tôi
thay đổi suy nghĩ.“ Và tôi chạm vào cái phong bì anh để trên bàn với chùm chìa
khóa.
“Cảm ơn cậu,
Holly, cảm ơn cậu. Không còn gì nữa đâu. Hãy thề với tôi trước Chúa rằng, cậu sẽ
là cha thằng bé, và tuân theo các chỉ dẫn của tôi trong thư.”
“Tôi thề.” Tôi
long trọng đáp lời.
“Rất tốt, hãy nhớ
rằng có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ đòi hỏi trách nhiệm với lời thề của cậu, vì
dù tôi chết và bị quên lãng, tôi sẽ vẫn sống. Không có gì như cái chết, Holly,
chỉ là một sự biến đổi, và khi cậu lĩnh hội được theo thời gian, tôi tin rằng sự
biến đổi đó có thể bị trì hoãn vô thời hạn dưới những điều kiện nhất định,” rồi
anh ấy lại ngắt bằng những tràng ho rợn người.
“Giờ,” anh nói,
“Tôi phải đi, cậu cầm cái hộp, di chúc của tôi sẽ được tìm ra trong đống giấy tờ,
theo thẩm quyền, thằng bé sẽ được trao cho cậu. Cậu sẽ được trả công xứng đáng,
Holly, tôi biết cậu là một người trung thực, nhưng nếu cậu phản bội lòng tin của
tôi, trên Thiên đường, tôi sẽ ám cậu.”
Tôi không nói
gì, thực sự, quá hoang mang nên không thể nói.
Anh ấy cầm ngọn
nến lên, và nhìn vào gương mặt chính mình trong gương. Đó từng là một gương mặt
đẹp, nhưng bệnh tật đã tàn phá nó. “Thức ăn cho sâu,” anh nói, “Thật tò mò khi
nghĩ tới vài giờ nữa tôi sẽ cứng lại và lạnh đi – cuộc hành trình đã xong, trò
chơi nhỏ đã kết thúc. Ôi cái thân tôi, Holly! Sống không đáng giá, thật khó
khăn để sống, trừ khi đang yêu – ít nhất, sự sống của tôi không đáng thế; nhưng
của thằng bé Leo thì có thể nếu nó dũng cảm và có lòng tin. Tạm biệt, bạn của
tôi!” Bằng sự dịu dàng bất ngờ, anh đưa cánh tay về phía tôi và hôn trên trán
tôi, rồi đi ra.
“Quay lại đây,
Vincey,” Tôi nói, “nếu anh ốm đau như anh nghĩ, tốt nhất anh nên để tôi gọi bác
sĩ.”
“Không, không,”
anh ấy tha thiết nói. “Hãy hứa với tôi cậu sẽ không làm thế. Tôi sắp chết, và
giống như con chuột bị đầu độc, tôi muốn chết một mình.”
“Tôi không tin
anh sẽ làm thế,” Tôi trả lời. Anh ấy mỉm cười, và với từ “Hãy nhớ lấy” trên
môi, anh ấy đã đi mất. Về phía mình, tôi ngồi xuống và dụi mắt, tự hỏi có phải
tôi vừa mơ ngủ không. Nhưng vì giả thiết kiểu này không thể điều tra được, tôi
đành từ bỏ và bắt đầu nghĩ có lẽ Vincey đã say. Tôi biết anh ấy đã, và đang rất
ốm yếu, nhưng không thể có chuyện anh ấy có thể biết mình chắc không sống qua một
đêm. Nếu anh ấy sắp lâm chung, chắc chắn anh ấy khó có thể đi bộ, và mang theo
một hộp sắt nặng thế. Suy đi tính lại, toàn bộ câu chuyện dường như hoàn toàn
không thể tin được với tôi, do khi đó tôi không đủ tuổi để nhận ra có bao nhiêu
chuyện sẽ xảy ra trong những lời nói đó, mà ý thức chung của một người bình thường
cũng cho rằng càng không chắc chắn thì tuyệt đối không có khả năng xảy ra. Thực
sự gần đây tôi mới làm chủ được. Liệu có khả năng một người có một cậu con trai
năm tuổi mà anh ta không bao giờ gặp từ khi nó nhỏ xíu không? Không. Anh ta có
khả năng tiên đoán cái chết của chính mình một cách chính xác không? Không. Liệu
anh ta có khả năng lần theo dấu cây phả hệ nhà mình tới tận ba thế kỷ trước
Công Nguyên không, hay anh ta bỗng nhiên tin tưởng phó thác việc bảo trợ tuyệt
đối cho con trai mình và để lại một nửa gia tài, cho một người bạn ở đại học? Hầu
như chắc chắn là không. Rõ ràng Vincey đã say xỉn hay điên rồi. Nếu vậy, điều
này có nghĩa gì? Và có gì trong cái hộp sắt đã niêm phong kia?
Toàn bộ những điều
này làm tôi bối rối hoang mang đến mức tôi không thể chịu được nữa, và quyết định
đi ngủ. Vì thế tôi nhảy đến, lấy chùm chìa khóa và lá thư Vincey để lại bỏ vào
cái hộp thư từ của tôi, cất cái hộp sắt vào chiếc vali da lớn, tôi quay vào và
nhanh chóng buồn ngủ.
Dường như tôi chỉ
ngủ được vài phút khi bị đánh thức bởi ai đó đang gọi tôi. Tôi ngồi dậy, dụi mắt;
ánh sáng ban ngày trải rộng – quả thật đã tám giờ.
“Sao thế, có
chuyện gì thế, John?” Tôi hỏi người phục vụ trường học hay đợi Vincey và tôi.
“Trông anh như gặp ma ấy!”
“Vâng, thưa ngài, đúng vậy,“ ông ấy trả lời, “thực
ra tệ hơn thế, tôi vừa nhìn thấy một xác chết. Tôi đã vào trong đó gọi ngài
Vincey như thường lệ, ngài ấy nằm ở đó đông cứng và đã chết.”
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)
Dịch bởi: Cheryl Pham)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét