Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 4


CHƯƠNG 4

Cuồng Phong
Khung cảnh tôi phải nói bây giờ so với chỉ nghe kể thật khác xa biết bao! Những căn phòng đại học yên lặng đã trôi xa, những cây du nước Anh đu đưa trong gió đã trôi xa, bầy quạ kêu la, từng rặng đá ngầm tương tự nhau, và ở đó nảy sinh ảo ảnh một đại dương vĩ đại thanh bình đang lấp lánh trong ánh sáng bàng bạc của vầng trăng tròn Phi Châu. Làn gió dịu dàng đong đầy cánh buồm to lớn của con tàu, kéo chúng tôi xuyên qua sóng nước như nhạc vỗ về hai bên mạn. Hầu hết mọi người đều đang ngủ phía trước, vì đã gần nửa đêm, nhưng một người Ả Rập to lớn đen sẫm tên là Mahomed đang đứng bên bánh lái, lười biếng đánh lái theo những vì sao. Cách mạn tàu ba dặm hoặc hơn là một đường mờ thấp. Đó là bờ Đông của Trung Phi. Chúng tôi đang chạy đến phía nam, trước khi gió mùa đông bắc về, giữa đất liền và những rặng san hô trải hàng trăm dặm viền quanh bờ biển nguy hiểm này. Đêm yên lặng, yên lặng đến mức lời thì thầm có thể nghe thấy từ trước lẫn sau con thuyền; yên lặng đến mức một âm thanh vang lên mờ nhạt từ vùng đất xa xôi cũng lăn dọc theo dòng nước tới chỗ chúng tôi.
Người Ả Rập trên khoang lái giơ tay lên và nói một từ: “Simba (Sư tử)!”
Tất cả chúng tôi ngồi dậy và lắng nghe. Lại một âm thanh oai phong lẫm liệt chậm rãi truyền đến khiến chúng tôi rùng mình tới tận xương tủy.
“Ngày mai lúc mười giờ,” Tôi nói, “nếu thuyền trưởng không tính toán được, mà bác nghĩ rất có thể thế, chúng ta phải tìm một tảng đá kỳ bí hình đầu người, và bắt đầu cuộc săn bắn.”
“Và bắt đầu cuộc tìm kiếm thành phố bị phá hủy và Ngọn Lửa của Sự Sống,” Leo sửa lại, đưa cái tẩu khỏi miệng cậu ấy và mỉm cười.
“Vớ vẩn!” Tôi trả lời. “Cháu đã phô trương tiếng Ả Rập với anh chàng ở khoang lái kia chiều nay rồi. Anh ta nói gì với cháu thế? Anh ta đã buôn bán (có lẽ buôn bán nô lệ) trên và dưới những vĩ độ này suốt một nửa cuộc đời tội lỗi của mình rồi, và đã từng đến tảng đá giống “con người” này. Anh ta có từng nghe gì về thành phố bị phá hủy hay các hang động không?”
“Không,” Leo trả lời. “Anh ấy nói đất nước này tất cả đều trong bùn lầy, đầy rắn, đặc biệt là trăn lớn, và chỉ để chơi giải trí, không ai sống ở đó. Nhưng có một vành đai của vùng đầm lầy dọc theo bờ biển Đông Phi, nhưng không đi nhiều.”
“Được,” Tôi nói, “Tới đó – tới đó với sốt rét đi. Cháu xem đúng là loại quan điểm mà mọi quý tộc của đất nước đều có đấy. Chẳng ai trong số họ đi với chúng ta cả. Họ nghĩ chúng ta bị điên, theo bác họ đúng đấy. Nếu chúng ta còn có thể nhìn thấy nước Anh già nua một lần nữa, bác sẽ rất ngạc nhiên đấy. Nhưng đó cũng không phải là vấn đề lớn với bác ở tuổi này, nhưng bác lo cho cháu, Leo, và cho Job. Đây là công việc của Tom Fool, chàng trai ạ.”
“Được rồi, bác Horace. Cháu đã được quan tâm đủ nhiều rồi, cháu sẽ nắm lấy cơ hội của mình. Nhìn kìa! Đám mây kia là gì thế?” cậu chỉ lên một đốm đen trên bầu trời đầy sao, sau tàu chúng tôi vài dặm.
“Hãy đi mà hỏi anh chàng trong khoang lái ấy”, tôi nói.
Cậu ấy đứng dậy, vươn dài cánh tay, và đi. Hiện tại cậu đã trở lại.
“Anh ấy nói đó là một trận cuồng phong, nhưng nó sẽ đi qua khá xa bên mạn chúng ta.”
Ngay sau đó Job đi lên, trông rất mạnh mẽ và đúng kiểu Anh trong bộ đồ săn bắn bằng nỉ màu nâu, và xuất hiện một nét bối rối trên khuôn mặt tròn lương thiện đã trở thành rất quen thuộc kể từ lúc anh ta vào vùng biển lạ.
“Thưa ngài,” anh ấy nói, chạm vào cái mũ có hình mặt trời được dính sau đầu mang vẻ khôi hài, “vì chúng ta đã có đủ súng ống và mọi thứ trong thuyền cá voi phía sau rồi, không nói gì đến đồ tiếp tế trong các tủ nhỏ, tôi nghĩ tốt nhất tôi nên xuống và ngủ ở đó. Tôi không thích dáng vẻ (đến đây anh ta hạ giọng như một lời thì thầm lạ lùng) của những quý tộc đen này; họ có nhiều cách ăn cắp chúng rất tài tình. Giả sử giờ ai đó trong số họ lẻn vào trong thuyền ban đêm và cắt đứt dây cáp, rồi ra đi với con thuyền đó thì sao? Chuyện đó sẽ rất rắc rối đấy.”
Tôi có thể giải thích, thuyền cá voi là một cái thuyền đặc biệt đóng cho chúng tôi ở Dundee, Scotland. Chúng tôi đã mang nó theo khi biết bờ biển này là một mạng chằng chịt kênh rạch, chúng tôi có lẽ đã yêu cầu một cái gì đó để điều hướng. Cái thuyền đó rất đẹp, dài ba mươi feet, với một khoang trung tâm để căng buồm, đáy bằng đồng để giữ phần đai ốc gắn với nó, và đầy đủ các ngăn chống thấm. Thuyền trưởng của con tàu lớn đã nói với chúng tôi rằng, khi chúng tôi đến được tảng đá mà anh ta biết - tảng đá dường như giống hệt lời mô tả trên mảnh gốm và của bố Leo – anh ta chắc không có khả năng chạy đến tận nơi vì vùng đó nước nông và sóng mạnh. Do đó chúng tôi đã làm việc ba tiếng sáng sớm hôm đó, hoàn toàn không gây tiếng động, gió giảm dần lúc bình minh, để chuyển hầu hết hàng hóa và các vật sở hữu của chúng tôi sang thuyền cá voi, rồi đặt súng, đạn dược, và đồ tiếp tế được bảo quản trong các tủ chống thấm được đặc biệt chuẩn bị, cứ thế khi chúng tôi nhìn thấy tảng đá trong truyền thuyết, chúng tôi không còn gì để làm ngoài việc đặt chân lên thuyền và cho nó chạy vào bờ. Lý do khác khiến chúng tôi có bước phòng ngừa này là các thuyền trưởng Ả Rập thường rất giỏi cho tàu chạy qua điểm đã đánh dấu, có lẽ do bất cẩn hoặc một sai lầm trong bản sắc của họ. Bây giờ khi các thủy thủ đã biết, con tàu đó hoàn toàn không thể làm gì để gian lận trước khi gió mùa tới đập ngược lại nó. Còn chúng tôi đã có một con thuyền sẵn sàng băng qua đá bất kỳ lúc nào.
“Tốt lắm, Job,” Tôi nói, “có lẽ điều đó cũng có thể xảy ra. Có nhiều chăn ở đó, chỉ cần cẩn thận tránh ánh trăng, hay bọn chúng có thể xoay đầu cậu hoặc làm cậu không thấy gì đó.”
“Lạy Chúa, thưa ngài! Tôi không nghĩ có nhiều vấn đề thế; tưởng đã tránh khỏi tầm nhìn của bọn da đen và những trò trộm cắp bẩn thỉu của chúng rồi. Bọn chúng chỉ hợp với rác rưởi thôi; chúng đủ tồi tệ rồi.”
Job, theo cảm nhận, là người không ngưỡng mộ phong tục tập quán của những người anh em da đen của chúng ta.
Tiếp theo chúng tôi kéo con thuyền lên bằng sợi dây cho đến khi nó nằm đúng ngay dưới đuôi của chiếc tàu lớn, và Job đóng gói theo một bao tải khoai tây vào trong đó. Rồi chúng tôi trở lại, ngồi xuống boong tàu, hút thuốc và nói chuyện trong những cơn gió giật. Màn đêm thật đáng yêu, bộ não chúng tôi đầy phấn khích bị đè nén dưới dạng này hay dạng khác, mà chúng tôi không cảm thấy cần thu lại. Gần một tiếng đồng hồ ngồi như vậy, tôi nghĩ cả hai đã ngủ gật. Ít ra tôi đang trong hồi tưởng mờ nhạt về Leo ngái ngủ giải thích cái đầu không phải chỗ tệ lắm để đâm vào một con bò rừng, nếu anh có thể tóm được nó chính xác giữa hai cái sừng, hay bắn đạn vào cổ nó, hay là làm hành động nào đó vô nghĩa kiểu thế.
Sau đó tôi không nhớ nữa; cho đến khi đột ngột – một tiếng gào ghê sợ của gió, và tiếng thét kinh hoàng từ thủy thủ đoàn đã thức giấc, một cái vòi nước như cái roi ngay trên mặt chúng tôi. Vài người chạy tới đống dây leo để hạ buồm, nhưng thùng kẹt và trục căng buồm không thể đi xuống. Tôi nhảy mạnh lên và treo trên một sợi dây thừng. Bầu trời phía sau đen như hắc ín, nhưng mặt trăng vẫn chiếu sáng lấp lánh trước mặt chúng tôi và soi rọi không gian tối đen. Dưới ánh trăng, một con sóng bạc đầu hùng vĩ, cao hai mươi feet hoặc hơn thế, đang xô về phía chúng tôi. Đó là vào khoảng nghỉ - mặt trăng tỏa sáng trên đỉnh sóng, bọt nước nghiêng nghiêng dưới ánh trăng. Phía trên nó, xô đẩy dưới bầu trời đen như mực, cuồng phong khủng khiếp đang vần vũ. Đột nhiên, trong một nháy mắt, tôi thấy hình dạng màu đen của chiếc thuyền cá voi bị ném lên cao vào không khí, ngay trên đỉnh ngọn sóng đang vỡ ra. Sau đó – một cú sốc nước, đống bọt sôi sục cuốn xô một cách điên dại, tôi đang giữ lấy mạng sống cho tấm vải niệm, được rồi, thế là đã bị quét thẳng ra khỏi đó như lá cờ trong cơn gió mạnh.
Chúng tôi bị đánh dạt xuống đuôi tàu.
Con sóng đã đi qua. Với tôi, dường như mới ở dưới nước vài phút – thực tế là vài giây. Tôi nhìn về phía trước. Luồng gió đã xé tan cánh buồm lớn, trên cao giữa không trung, nó bị gió rung và thổi tung như một con chim lớn bị thương. Một khoảnh khắc sau tương đối yên tĩnh, tôi nghe tiếng Job la hét dữ dội, “Tới chỗ con thuyền ngay.”
Hoang mang và như sắp chết đuối, tôi có cảm giác vội vã phía sau. Tôi cảm thấy con tàu lớn đang nhấn chìm tôi – nó đầy nước. Dưới đuôi tàu, chiếc thuyền cá voi đang tung lên giận dữ, và tôi nhìn thấy anh chàng Ả Rập Mahomed, người đang chỉ đạo, nhảy vào nó. Tôi kéo chiếc dây thừng một cách tuyệt vọng để đưa thuyền về bên cạnh. Tôi cũng điên cuồng nhảy lên, Job dùng tay bắt lấy tôi, rồi tôi lăn vào đáy thuyền. Con tàu lớn dần chìm xuống toàn bộ, còn Mahomed lấy cái dao quắm của anh ta ra cắt đứt sợi dây thừng, nhờ đó con thuyền đi nhanh hơn, trong một giây thôi, chúng tôi đã đi kịp trước khi cơn bão tràn qua nơi con thuyền đang đứng.
“Lạy Chúa!” Tôi rít lên, “Leo đâu rồi? Leo! Leo!”
“Cậu ấy đã đi rồi, thưa ngài, Chúa phù hộ cậu ấy!” Job gào lên bên tai tôi; trận cuồng phong giận dữ như thế mà giọng anh ta chỉ như một lời thì thầm.
Tôi siết chặt đôi tay trong đau đớn. Leo bị chết đuối, còn tôi lại sống để tang cậu ấy.
“Coi chừng,” Job hét lên; “Cái nữa đang đến đây”.
Tôi quay lại; con sóng hùng vĩ thứ hai đang vượt qua chúng tôi. Tôi nửa hy vọng nó có thể làm tôi chết đuối. Với đam mê tò mò tôi muốn xem cuộc đời khủng khiếp của nó. Mặt trăng giờ gần như đã bị che khuất bởi những đám mây cuồn cuộn của cơn bão vội vã, nhưng một chút ánh sáng vẫn bắt được đỉnh của con sóng đang ngấu nghiến. Có cái gì đó tối đen trên nó – một mảnh đổ nát. Giờ đây chỗ chúng tôi, con thuyền gần như đầy nước. Nhưng nó được tạo bằng chất chống thấm – Thượng Đế hãy ban phước cho người đã phát minh ra nó! – và nổi lên như một con thiên nga. Qua đám bọt bẩn tôi thấy thứ đen ngòm trên con sóng lao ngay vào tôi. Tôi đưa cánh tay phải ra để tránh nó, tay tôi đập vào một cái tay khác, cổ tay của nó bị những ngón tay tôi nắm chặt như trêu cợt. Tôi là một người rất khỏe, đã giữ được cái đó lại, nhưng cánh tay tôi gần như bị rách khỏi cơ thể vì căng và trọng lượng của cơ thể nổi. Nếu kéo dài thêm hai giây nữa thôi, có lẽ tôi đã đi đời hay bị cuốn theo nó. Nhưng nó đã đi qua rồi, bỏ lại chúng tôi với đầu gối ngập trong nước.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job hét lên, hành động lập tức theo lời nói.
Nhưng tôi không thể tát nổi nữa, đến khi mặt trăng đi mất và hoàn toàn bỏ lại chúng tôi trong bóng tối, một dải sáng bay bổng mờ nhạt chiếu trên gương mặt người đàn ông tôi đang nắm chặt, giờ người đó đang nửa nằm, nửa nổi trong đáy thuyền.
Đó là Leo. Leo được sóng mang trở lại – trở lại, chết hay sống, từ quai hàm Thần Chết.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job gào hét, “hoặc là chúng ta sẽ chìm đấy.”
Tôi nắm lấy một bát thiếc lớn với quai móc đã được gắn cứng dưới một trong những cái ghế. Và cả ba chúng tôi hì hục tát nước ra vì sự sống thân yêu. Cơn bão điên cuồng đi tới và quay vòng chúng tôi, ve vuốt chiếc thuyền cách này hay cách khác, gió và những đám mây bão cuồn cuộn cùng với cả đám bụi nước châm đốt làm chúng tôi không nhìn thấy gì và hoang mang, nhưng chính vì thế chúng tôi làm việc như ma quỷ bằng cả lòng hăng hái như điên dại của nỗi tuyệt vọng, vì thậm chí tuyệt vọng vẫn có thể hăng hái. Một phút! Ba phút! Sáu phút! Con thuyền trở nên nhẹ dần, không còn con sóng nào tràn vào trong khoang. Thêm năm phút nữa, nó đã khá sạch sẽ. Rồi bỗng nhiên, bên trên những tiếng thét khủng khiếp của cơn bão, một tiếng gầm sâu hơn, nhẹ hơn truyền đến. Lạy Chúa! Đó là tiếng sóng!
Vào lúc mặt trăng bắt đầu chiếu sáng trở lại – lần này phía sau đường đi của trận cuồng phong. Ngoài xa trên ngực rách nát của đại dương bắn lên những vòng sáng rách rưới, và ở đó, nửa dặm phía trước chúng tôi, là một dòng bọt trắng, rồi một không gian đen ngòm đang mở miệng, rồi lại một dòng bọt trắng nữa. Đó là sóng, và tiếng gầm của chúng tăng lên càng lúc càng rõ như thể chúng tôi đang lao xuống chúng như một con én. Chúng ở đó, sôi sục trong đống vòi phun như tuyết trắng, đánh và nghiền nhau như hàm răng bóng loáng của địa ngục.
“Cầm lái đi, Mahomed!” Tôi gào lên bằng tiếng Ả Rập. “Chúng ta phải cố lên và hạ chúng.”  Cùng lúc đó, tôi nắm lấy một mái chèo, đưa nó ra, rồi ra hiệu cho Job làm như vậy.
Mahomed chèo phía sau và giữ bánh lái, còn Job – thi thoảng kéo đẩy cái thùng trên trục cam – chật vật đưa mái chèo ra. Một phút sau đầu con thuyền đã lao thẳng vào đống bọt đó, liều mạng và xé gió với tốc độ của một con ngựa đua. Ngay phía trước chúng tôi lớp sóng đầu tiên có vẻ mỏng hơn so với lớp bên phải hay bên trái – có một bao nước khá sâu. Tôi xoay người và chỉ vào nó.
“Hãy lái vì mạng sống của cậu, Mahomed!” Tôi hét lên. Anh ta là một lái tàu khéo léo, và rất quen thuộc với những nguy hiểm của bờ biển khủng khiếp này, tôi thấy anh ta bám chặt tay lái, uốn thân hình nặng nề của anh ta về phía trước, nhìn chằm chằm vào đám khủng bố sôi bọt tới khi đôi mắt tròn to của anh ta như thể sắp rời khỏi đầu. Đầu thuyền bị lái vòng sang phải. Nếu chúng tôi lao vào lớp sóng năm mươi mét về mạn phải của lỗ hổng, chúng tôi sẽ chìm. Đây là một cánh đồng hùng vĩ của những con sóng phun trào xoắn cuộn chằng chịt. Mahomed chống chân vào cái ghế phía trước, và liếc nhìn anh ta, tôi thấy những ngón chân màu nâu xòe ra như bàn tay do khối lượng đặt trên đó khi anh ta giữ căng bánh lái. Con thuyền đi vòng một chút, nhưng không đủ. Tôi hét lên với Job vì nước trở lại, trong khi vẫn đang kéo mái chèo cật lực. Con thuyền phản ứng lại ngay, không gì quá sớm.
Trời, chúng tôi đang ở giữa chúng! Sau đó là vài phút phấn khích đến vỡ tim mà tôi không hy vọng mô tả. Tất cả những gì tôi nhớ là biển bọt gầm lên, bên ngoài nó sóng to dâng lên ở đây, ở kia, và ở khắp mọi nơi như đám ma quỉ từ nấm mồ đại dương đang trả thù. Khi chúng tôi xoay sang vòng phải, nhưng cũng có thể do may mắn hoặc do cú bẻ lái điêu luyện của Mahomed, đầu con thuyền thẳng trở lại trước khi con sóng xô tới chúng tôi. Một lần nữa – một con quái vật. Chúng tôi đi xuyên qua nó hay đi trên nó – xuyên qua hơn là trên nó – rồi với một tiếng thét hoang dại hân hoan của anh chàng Ả Rập, chúng tôi bắn vào vùng nước tương đối êm đềm ở cửa biển giữa tầng tầng lớp lớp sóng như hàm răng.
Con thuyền gần như đầy ngập nước trở lại, và hơn một dặm phía trước là lớp sóng to thứ hai. Chúng tôi đặt lại và tát nước điên cuồng. May thay cơn bão giờ đã hoàn toàn biến mất, mặt trăng chiếu sáng rực rỡ, để lộ một mũi đất bằng đá chạy dài hơn nửa dặm hướng xuống biển, nơi đó lớp sóng thứ hai đang tiếp tục xuất hiện. Bất cứ giá nào quan chân sóng cũng sôi sục. Có lẽ sườn núi hình thành nên mũi đất chạy ra phía đại dương, chỉ ở mức thấp hơn, cũng tạo thành rặng san hô. Mũi đất này kết thúc bởi một đỉnh cao kỳ lạ không giống như chỉ cách chúng tôi một dặm. Ngay khi chúng tôi làm sạch con thuyền lần thứ hai, Leo, cứu trợ to lớn của tôi, mở mắt và nhận ra quần áo tả tơi bị cuốn khỏi giường, cậu ấy cho là đã đến lúc chuẩn bị vào nhà nguyện. Tôi bảo cậu ấy nhắm mắt lại và im lặng, trong khi cậu ấy không nhận ra vị trí dù nhỏ nhất. Đối với bản thân mình, ý tưởng nhà nguyện của cậu ấy làm tôi nhớ đến căn phòng thoải mái của tôi ở Cambridge bằng loại khao khát bệnh tật. Tại sao tôi lại ngu ngốc đến mức rời bỏ nó? Loại suy nghĩ này từ đó lặp lại nhiều lần và không ngừng tăng lên mạnh mẽ.
Nhưng giờ chúng tôi lại đang trôi dần tới những con sóng to, dù tốc độ đã giảm đi vì gió đã giảm, chỉ dòng hải lưu hay thủy triều (sau đó hóa ra đó là thủy triều) đang đẩy chúng tôi đi.
Phút nữa trôi qua, bằng tiếng tru gửi tới Allah của anh chàng Ả Rập, lời cầu nguyện ngoan đạo của bản thân tôi, và lời nào đó không thành kính từ Job, chúng tôi bắt đầu đối mặt với chúng. Toàn cảnh sau đó lặp lại, cuối cùng chúng tôi cũng thoát ra được, chỉ là không quá dữ dội. Kỹ năng lái thuyền tài ba của Mahomed và vật liệu chống thấm đã cứu mạng chúng tôi. Trong vòng năm phút chúng tôi đã đi xuyên qua đó, rồi trôi dạt – vì tất cả đã kiệt sức, không thể làm bất kỳ việc gì để giúp chính mình trừ cố giữ đầu con thuyền thẳng lên – vòng qua mũi đất mà tôi đã mô tả nhanh một cách đáng ngạc nhiên.
Chúng tôi đi vòng qua nhờ thủy triều, cho đến khi ổn dưới mạn khuất gió, đột nhiên tốc độ chùng xuống, chúng tôi dừng đi và cuối cùng có vẻ như đang ở vùng nước bất động. Cơn bão hoàn toàn kết thúc, để lại bầu trời được gột rửa sạch sẽ phía sau; mũi đất chặn vùng biển nặng nề vì thường xuyên xuất hiện cuồng phong này, thủy triều nơi dòng sông hung tợn đang chảy (vì giờ chúng tôi đang ở cửa sông) đang lờ đờ trước khi nó quay trở lại, vì thế thuyền chúng tôi trôi lặng lẽ, trước khi mặt trăng lặn phải tát hết nước ra để nó giống một con tàu nhỏ. Leo đang ngủ say, nói chung tôi nghĩ khôn ngoan nhất là đừng đánh thức cậu ấy. Thực ra cậu ấy đang ngủ trong quần áo ướt nhẹp, nhưng ban đêm đang ấm áp đến mức tôi (và cả Job) nghĩ không nên làm tổn thương con người vốn dĩ thể chất tráng kiện phi thường của cậu ấy. Hơn thế, chúng tôi không có ai khô ráo cả.
Hiện tại mặt trăng đã lặn, để lại chúng tôi nổi trên mặt nước, nặng nề như ngực phụ nữ, giải trí bằng cách nghĩ lại tất cả những gì chúng tôi đã đi qua và thoát khỏi. Job ngồi ở mũi tàu, Mahomed giữ chốt ở tay lái, còn tôi ngồi trên chiếc ghế giữa thuyền gần chỗ Leo nằm.
Mặt trăng chậm rãi đi xuống trong vẻ đẹp bị kiềm chế; con thuyền trôi đi như cô dâu ngọt ngào vào phòng ngủ, bóng tối như bức màn dài treo trên bầu trời, xuyên qua nó các vì sao bẽn lẽn nhìn trộm. Tuy nhiên ngay sau đó, chúng bắt đầu mờ nhạt trước vẻ huy hoàng từ phương đông, rồi bước chân run rẩy của bình minh ùa ra trong màu xanh lam mơn mởn, giũ các vì sao trên cao ra khỏi chỗ. Biển trở nên càng lúc càng yên tĩnh, yên tĩnh như hạt sương mềm mại nghiền ngẫm trên ngực con thuyền, bao phủ lên nỗi phiền muộn của nó, như những vòng ảo ảnh mơ màng sinh ra trong tâm trí đầy đau thương, khiến nó quên đi nỗi buồn. Từ đông sang tây các thiên sứ của Bình Minh lao nhanh đến, từ biển tới biển, từ đỉnh núi tới đỉnh núi, rải đầy ánh sáng bằng hai bàn tay. Các thiên sứ vụt ra khỏi bóng tối, hoàn hảo, vinh quang, như những linh hồn vừa thoát khỏi nấm mồ; vượt qua biển yên tĩnh, qua đường bờ biển thấp, qua đầm lầy, và núi non phía trước chúng; vượt qua những ai đang ngủ trong hòa bình và những ai thức dậy trong muộn phiền; vượt qua xấu xa và tốt đẹp; vượt qua sự sống và cái chết; vượt qua thế giới rộng lớn và tất cả những gì đang thở hay đã thở.
Đó là một cảnh tuyệt đẹp, nhưng buồn, có lẽ, vì là tột cùng của cái đẹp. Mặt trời mọc; mặt trời lặn! Ở đó chúng ta có biểu tượng, giống loài, và tất cả những thứ nhân loại phải làm với nó. Biểu tượng và loài, phải, khởi đầu thuộc về trái đất, kết thúc cũng thế. Buổi sáng hôm đó nó về nhà cùng tôi với sức mạnh đặc biệt. Mặt trời mọc hôm đó vì chúng tôi giờ đã lặn đêm qua vì mười tám người đồng thám hiểm của chúng tôi! – đã lặn vĩnh viễn vì mười tám người mà chúng tôi biết!
Con tàu lớn đã đi xuống với họ, họ đang lăn lộn giữa những tảng đá và rong biển, quá nhiều người đã trôi dạt trên đại dương mênh mông của Thần Chết này! Bốn người chúng tôi được cứu thoát. Nhưng một ngày nào đó bình minh sẽ đến khi chúng tôi nằm giữa những người đã mất, còn người khác nhìn những vinh quang đó, sẽ thấy buồn bã giữa cái đẹp, mơ về Thần Chết trong ánh sáng tràn đầy của Sự Sống đang trỗi dậy!
Vì đó là vận mệnh của con người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét