CHƯƠNG 2
Thời gian trôi qua
Có lẽ đúng như dự
đoán, cái chết đột ngột của Vincey khốn khổ đã gây nên một chấn động lớn tại
trường Đại học này; nhưng vì mọi người đều biết anh ấy rất ốm yếu, xác nhận của
bác sỹ khám nghiệm đã thông qua, nên không có cuộc điều tra nào. Họ thường không
cho điều tra nếu không phải trường hợp rất đặc biệt, nhất là trong những ngày
này; quả thực nhà trường nói chung không thích chuyện này vì sợ bê bối. Trong
hoàn cảnh đó, không ai đặt câu hỏi, tôi không thấy cần tình nguyện khai báo
thông tin về cuộc nói chuyện của chúng tôi vào buối tối Vincey chết, ngoại trừ
việc nói anh ấy đã vào phòng tôi như anh ấy thường làm. Hôm tang lễ, một luật
sư xuống từ London và mang tro cốt người bạn khốn khổ của tôi đến mộ, sau đó
quay trở lại mang đi giấy tờ và tài sản của anh ấy, tất nhiên ngoại trừ cái hộp
sắt đang được tôi giữ. Một tuần sau tôi không còn nghe tin gì về chuyện này nữa,
thay vào đó, sự tập trung của tôi hoàn toàn bị những thứ khác chiếm giữ, vì tôi
đang theo đuổi học bổng nghiên cứu sinh, điều đó không cho phép tôi tham dự đám
tang hay gặp vị luật sư. Tuy nhiên cuối cùng kỳ thi đã kết thúc, tôi quay về
phòng mình và ngả vào chiếc ghế thoải mái, lòng tràn vui sướng, vì tôi nghĩ tôi
đã làm rất khá.
Tuy nhiên ngay
sau đó, những suy nghĩ của tôi, khi áp lực nghiền chúng thành một đường trong mấy
ngày qua đã nhẹ đi, giờ lại quay về những sự kiện vào đêm Vincey khốn khổ chết,
tôi lại tự hỏi mình lần nữa, tất cả chuyện này có nghĩa là sao, liệu tôi có nên
nghe ngóng thêm chuyện này không, nếu không thì bổn phận của tôi nên làm gì với
cái hộp sắt gây tò mò kia. Tôi ngồi đó và suy nghĩ mãi cho đến khi tôi bắt đầu
hoàn toàn bị rối trí với toàn bộ câu chuyện đã xảy ra: chuyến thăm bí ẩn lúc nửa
đêm, lời tiên đoán về cái chết thành hiện thực quá nhanh chóng, lời thề nghiêm
túc tôi đã nói, và cái mà Vincey yêu cầu tôi trả lời là cho một thế giới khác
hơn là thế giới này. Người đàn ông đó chắc chắn đã muốn tự tử ư? Có vẻ vậy. Còn
cuộc phiêu lưu về cái mà anh ấy nói là gì? Các tình huống kỳ lạ đến nỗi, dù tôi
không có cách nào căng thẳng, hoặc nhạy cảm bị điều gì đó dường như vượt khỏi
biên giới tự nhiên cảnh báo, tôi trở nên sợ hãi và bắt đầu ước mình đáng ra
không có gì làm với chúng. Hơn hai mươi năm sau, giờ tôi ước điều đó nhiều hơn
biết bao!
Khi tôi ngồi
nghĩ, có một tiếng gõ cửa, và một lá thư trong một phong bì màu xanh lớn đã được
mang vào cho tôi. Tôi thấy ngay đó là thư của một luật sư, bản năng nói cho tôi
nó giống như tôi đang nghĩ. Bức thư tôi vẫn đang giữ đây, viết như sau:
“Thưa ngài, -
Khách hàng của tôi, Ngài M.L. Vincey quá cố, đã mất ngày mồng 9 vừa rồi tại trường
Đại học Cambridge, đã để lại cho ngài một di chúc, ngài vui lòng xem bản sao di
chúc đình kèm và chúng ta sẽ thực hiện theo. Theo di chúc này ngài sẽ thấy,
ngài được hưởng lợi tức suốt đời từ gần một nửa số tài sản của ngài Vincey quá
cố, giờ đang được đầu tư vào Công trái, phụ thuộc việc ngài có chấp nhận việc
giám hộ cho con trai duy nhất của ngài ấy không, Leo Vincey, hiện tại là trẻ vị
thành niên, năm tuổi. Bản thân chúng tôi không tự tạo ra những tài liệu có thể
bị nghi ngờ là tuân theo chỉ dẫn rõ ràng chính xác của ngài Vincey, kể cả tài
liệu cá nhân và văn bản, và ngài ấy không đảm bảo có lý do hợp lý về những gì
ngài ấy định làm, chúng tôi buộc phải nói với ngài rằng qui định của di chúc dường
như hơi bất bình thường, do đó chúng ta có thể buộc phải yêu cầu sự quan tâm của
Toà Đại Pháp, để các bước này được thực hiện như mong muốn, cũng để thẩm tra
năng lực của người lập di chúc, hay nói cách khác, để bảo vệ quyền lợi của trẻ
vị thành niên. Như đã biết, người lập di chúc là một quý ngài đang ở mức sáng
suốt và nhạy bén cao nhất, ngài ấy tuyệt đối không có quan hệ sống còn với người
mà ngài ấy tin tưởng phó thác quyền giám hộ cháu bé, vì thế chúng tôi không cảm
thấy cần thực hiện việc này.
Theo như chỉ dẫn
này, xin ngài vui lòng gửi cho chúng tôi câu trả lời liên quan đến việc chăm
sóc cháu bé và thanh toán phần cổ tức thuộc về ngài,
Chúng tôi đảm bảo
trung thành với lợi ích của quí ngài,
Geoffrey và
Jordan.
Ngài Horace
L.Holly”
Tôi để bức thư xuống,
và đưa mắt đến di chúc, nó hiện ra có vẻ không dễ hiểu, với những nguyên tắc
pháp lý nghiêm ngặt nhất. Tuy nhiên rốt cục tôi cũng có thể phát hiện ra, nó
chính xác giống như những gì Vincey bạn tôi đã nói vào đêm anh ấy mất. Cuối
cùng tất cả đã trở thành sự thật. Tôi phải mang cậu bé về. Đột nhiên tôi nhớ ra
lá thư Vincey đã bỏ lại với cái hộp. Tôi đi tìm và mở nó ra. Nó chỉ có những chỉ
dẫn tương tự như vậy, anh ấy đã đưa cho tôi để mở cái hộp vào ngày sinh nhật thứ
hai mươi lăm của Leo, và đặt ra bản phác thảo về giáo dục cho thằng bé, gồm cả
tiếng Hy Lạp, toán cao cấp, và tiếng Ả Rập. Cuối cùng có một phần tái bút nói rằng,
nếu thằng bé chết trước hai mươi lăm tuổi, tất nhiên anh ấy không tin khả năng
này, thì tôi sẽ mở cái hộp, và hành động theo thông tin mà tôi thu được nếu tôi
thấy phù hợp. Nếu tôi không thấy phù hợp, tôi phải tiêu hủy toàn bộ nội dung
bên trong hộp. Tôi không phải chịu trách nhiệm nào về chúng với tư cách một người
xa lạ.
Vì lá thư này
không có thêm tài liệu nào so với những gì tôi đã biết, và chắc chắn trong đầu
tôi không nảy sinh việc phản đối nhận nhiệm vụ tôi đã hứa với người bạn đáng mến
nữa, chỉ còn một việc với tôi, cụ thể, đó là viết cho Messrs. Geoffrey và
Jordan, thể hiện sự đồng ý của tôi với lời ủy thác, cũng đồng thời nói rằng tôi
đã sẵn sàng việc giám hộ cho Leo trong thời gian mười ngày nữa. Điều này làm
tôi phải đi đến các cơ quan chức năng trong trường tôi, nói với họ rất nhiều về
câu chuyện mà tôi đã cân nhắc hợp lý, sau những khó khăn đáng kể, cuối cùng đã
thành công thuyết phục họ nới ra một điểm, đó là trong trường hợp tôi đạt học bổng
nghiên cứu sinh – điều này tôi rất chắc chắn mình sẽ làm được – sẽ cho phép tôi
mang theo đứa trẻ sống với tôi. Tuy nhiên sự đồng ý của họ được cấp cho với điều
kiện tôi phải bỏ phòng mình ở trường Đại học, mất chỗ ở và phải đi thuê phòng.
Có một chút khó khăn, nhưng tôi đã tìm được một căn hộ rất tốt ngay gần sát cổng
trường đại học. Việc tiếp theo là tìm một bảo mẫu. Về điểm này, tôi đã có quyết
định. Tôi không thể để bất kỳ phụ nữ nào sai bảo tôi về thằng bé, và lấy trộm mất
tình cảm của nó khỏi tôi. Cậu bé đã đủ lớn để làm những việc mà không cần phụ nữ
hỗ trợ, vì vậy tôi quyết định tìm kiếm một người chăm sóc là nam giới phù hợp.
Sau một vài khó khăn, tôi đã thuê được một chàng trai trẻ có gương mặt tròn khá
đứng đắn, đang làm giúp việc cho khu đua ngựa, nhưng cậu ta nói rằng cậu là
thành viên một gia đình có mười bảy người và quen thuộc với việc chăm sóc trẻ
con, đồng thời bày tỏ đã sẵn sàng đảm nhận công việc của ông chủ Leo khi cậu bé
đến. Sau đó, mang cái hộp sắt vào thành phố, tự tay tôi gửi nó vào ngân hàng,
tôi mua vài quyển sách về sức khỏe và chăm sóc trẻ em rồi đọc chúng, trước tiên
cho bản thân, sau đó đọc to lên cho Job – là tên của chàng trai trẻ - và chờ đợi.
Cuối cùng cậu bé
đã đến dưới sự chăm sóc của một người cao tuổi, người này đã khóc lóc thảm thiết
lúc chia tay cậu, và đó thật là một cậu bé xinh đẹp. Quả thực tôi không nghĩ rằng
mình từng nhìn thấy một đứa trẻ hoàn hảo đến vậy từ trước đến giờ. Cậu bé có đôi
mắt xám, trán rộng, và gương mặt sạch sẽ như gốm mài, không nhăn nhúm cũng
không gầy gò. Nhưng có lẽ điểm hấp dẫn nhất của cậu là mái tóc, màu vàng tinh
khiết cuộn chặt trên cái đầu quyến rũ. Cậu bé khóc một chút khi bà bảo mẫu cuối
cùng cũng rứt ra và để lại cậu cho chúng tôi. Không bao giờ tôi quên được cảnh
đó. Cậu bé đứng đó, ánh mặt trời từ cửa sổ chơi đùa trên những lọn tóc vàng óng
của cậu, một tay cậu đưa lên che một mắt, trong khi mắt kia nhìn chúng tôi. Tôi
ngồi trên một chiếc ghế, và đưa tay tôi cho cậu, bảo cậu lại phía tôi, trong
khi Job, ở trong góc, giả bộ tiếng cục tác, có lẽ theo kinh nghiệm trước đây của
anh ta, giống tiếng gà mái, anh ta có lẽ cho rằng nó sẽ tạo tác dụng xoa dịu,
truyền cảm giác tin tưởng vào tâm trí non nớt, rồi điều khiển một con ngựa gỗ xấu
xí chạy ngược chạy xuôi một cách khá ngớ ngẩn. Được vài phút, bỗng nhiên cậu bé
đột ngột giơ hai cánh tay nhỏ xíu và chạy về phía tôi.
“Cháu thích
chú,” cậu nói: “chú xấu xí, nhưng chú thật tốt.”
Mười phút sau cậu
đã đang ngồi ăn những lát bánh mỳ lớn với bơ rất thỏa mãn; Job muốn cho mứt vào
nhưng tôi nghiêm khắc nhắc nhở anh ta nhớ về những quyển sách tuyệt vời chúng
tôi vừa đọc, và cấm không được làm thế.
Trong một khoảng
thời gian rất ngắn (vì như tôi kỳ vọng, tôi đã đạt được học bổng nghiên cứu
sinh) cậu bé trở thành người được yêu thích của cả trường Đại học – nơi đó, tất
cả mệnh lệnh và luật lệ không được làm trái, cậu bé liên tục vào ra – một kiểu
tự do đặc quyền được ưu ái với mọi qui tắc đã được nới lỏng. Đề nghị ái mộ cậu
bé đơn giản không đếm hết, và tôi có quan điểm khác biệt nghiêm trọng với một nghiên
cứu sinh thường trú lâu năm, giờ đã mất từ lâu, người thường được coi là người
cứng rắn nhất trường Đại học và rất chán ghét khi thấy một đứa trẻ. Rồi tôi
phát hiện ra, khi một trận ốm vốn thường xảy ra buộc Job phải trông coi nghiêm
túc, ông già vô nguyên tắc này có thói quen lôi kéo cậu bé đến phòng ông ấy và
cho cậu nhóc xài vô độ các loại kẹo có rượu mạnh, buộc cậu hứa không được nói
gì về điều này. Job nói với ông ta rằng ông ta phải thấy xấu hổ về bản thân, “ở
tuổi của ông ấy cũng vậy, có khi ông ấy đã làm ông nội nếu ông ấy hành động
đúng đắn”, nhờ đó Job hiểu ông ta đã có gia đình và thế là phát sinh một vụ ồn
ào.
Nhưng tôi không
có không gian để sống những năm tháng đầy màu sắc này, dù ký ức vẫn dao động
quanh quẩn nhẹ nhàng. Từng người từng người một đi qua, và khi họ đi qua, cả
hai chúng tôi đều dần trưởng thành và thân thiết yêu thương nhau hơn. Rất ít
người con nào được yêu thương như tôi yêu thương Leo, và cũng ít có người cha
nào biết được tình cảm sâu sắc không ngừng nghỉ mà Leo dành cho tôi.
Cậu bé trở thành
một thanh niên, và từ thanh niên lại trở thành một người đàn ông trẻ trung,
trong khi lần lượt từng ngày tháng trôi qua không hối tiếc, khi cậu cao lớn
lên, vẻ đẹp của cậu cũng thế, vẻ đẹp tâm hồn cũng trưởng thành cùng cậu. Khi cậu
khoảng mười lăm tuổi, người ta thường gọi cậu là Người Đẹp của trường Đại học,
còn tôi họ đặt biệt danh là Quái Vật. Người Đẹp và Quái Vật là những gì họ gọi
chúng tôi khi chúng tôi đi cùng nhau - đó là việc chúng tôi thường làm mỗi
ngày. Một lần Leo đánh một người bán thịt to con gấp đôi cậu ấy, vì anh ta chửi
chúng tôi, cậu ấy đè bẹp hắn, phải, đè bẹp hắn rất đẹp. Tôi bước đi và giả bộ
không nhìn thấy, cho đến khi trận đấu trở nên gây cấn, tôi trở lại và cổ vũ cậu
chiến thắng. Đó là chuyện vặt ở trường Đại học lúc đó, nhưng tôi không thể làm
gì khác được. Rồi khi cậu ấy lớn hơn một chút, đám sinh viên chưa tốt nghiệp lại
tìm ra những tên mới cho chúng tôi. Họ gọi tôi là Charon, và Leo là Vị thần Hy
Lạp! Tôi sẽ bỏ qua cách gọi tên tôi với chú ý khiêm tốn rằng, tôi chưa bao giờ
đẹp trai và cũng không không lớn lên nhiều khi tôi già đi. Với cậu ấy, thật phù
hợp, không nghi ngờ gì nữa. Leo khi hai mươi mốt có lẽ có thể thay thế cho chân
dung Apollo khi trẻ. Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ ai chạm vào bên ngoài cậu ấy,
hay bất kỳ ai làm điều đó một cách vô thức. Vì về mặt trí tuệ, cậu ấy rất thông
minh và cơ trí, nhưng không phải là một học giả. Cậu không cố hết sức cần thiết
để đạt được kết quả đó. Chúng tôi theo chỉ dẫn của cha cậu về việc giáo dục cậu
phải đủ nghiêm khắc, và kết quả rất thỏa đáng, đặc biệt trong môn tiếng Hy Lạp
và tiếng Ả Rập. Tôi đã học ngôn ngữ thứ hai để trợ giúp việc dạy dỗ cậu ấy,
nhưng sau năm năm cậu ấy và tôi đã có trình độ ngang nhau – hầu như giáo sư đều
đồng thời dạy cho cả hai chúng tôi. Tôi luôn là một tay chơi thể thao rất cừ -
đó là niềm đam mê của tôi – mỗi mùa thu chúng tôi lại đi đâu đó bắn súng hay
câu cá, thi thoảng tới Scotland, thi thoảng tới Na uy, thậm chí có lần còn đến
tận nước Nga. Tôi là một tay súng khá, nhưng ngay cả trò này cậu ấy cũng xuất sắc
hơn tôi.
Khi Leo mười tám
tuổi tôi đã trở về phòng cũ của tôi, và đưa cậu ấy vào trường Đại học của tôi,
khi hai mươi mốt tuổi, cậu ấy đã lấy bằng loại ưu, nhưng không phải thứ hạng rất
cao. Khi đó lần đầu tiên, tôi kể cho cậu ấy một chút câu chuyện của chính cậu,
và về sự bí ấn lờ mờ trong đó. Tất nhiên cậu ấy rất tò mò, và tất nhiên tôi phải
nói với cậu rằng sự tò mò này hiện tại không thể thỏa mãn được. Sau đó, chuyện ấy
qua đi, tôi đề nghị cậu ấy nên trở thành luật sư; và cậu ấy đã làm được, đọc
sách ở Cambridge, chỉ tới London để ăn trưa.
Tôi chỉ có một rắc
rối với cậu ấy, đó là mọi phụ nữ trẻ đi qua cậu ấy, hay không phải tất cả nhưng
cũng gần như thế, đều không do dự rơi vào yêu đương với cậu ấy. Thế nên đã sinh
ra những khó khăn mà tôi không cần kể ra ở đây, mặc dù bản thân những chuyện đó
cũng đủ rắc rối rồi. Nói chung, cậu ấy xử lý khá tốt; tôi không thể nói gì hơn
thế.
Rồi thời gian cuối
cùng cũng đi đến ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của cậu ấy, vào ngày kỳ lạ ấy,
nói theo một cách nào đó, câu chuyện khủng khiếp thực sự bắt đầu.
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét