Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 2



CHƯƠNG 2

Thời gian trôi qua
Có lẽ đúng như dự đoán, cái chết đột ngột của Vincey khốn khổ đã gây nên một chấn động lớn tại trường Đại học này; nhưng vì mọi người đều biết anh ấy rất ốm yếu, xác nhận của bác sỹ khám nghiệm đã thông qua, nên không có cuộc điều tra nào. Họ thường không cho điều tra nếu không phải trường hợp rất đặc biệt, nhất là trong những ngày này; quả thực nhà trường nói chung không thích chuyện này vì sợ bê bối. Trong hoàn cảnh đó, không ai đặt câu hỏi, tôi không thấy cần tình nguyện khai báo thông tin về cuộc nói chuyện của chúng tôi vào buối tối Vincey chết, ngoại trừ việc nói anh ấy đã vào phòng tôi như anh ấy thường làm. Hôm tang lễ, một luật sư xuống từ London và mang tro cốt người bạn khốn khổ của tôi đến mộ, sau đó quay trở lại mang đi giấy tờ và tài sản của anh ấy, tất nhiên ngoại trừ cái hộp sắt đang được tôi giữ. Một tuần sau tôi không còn nghe tin gì về chuyện này nữa, thay vào đó, sự tập trung của tôi hoàn toàn bị những thứ khác chiếm giữ, vì tôi đang theo đuổi học bổng nghiên cứu sinh, điều đó không cho phép tôi tham dự đám tang hay gặp vị luật sư. Tuy nhiên cuối cùng kỳ thi đã kết thúc, tôi quay về phòng mình và ngả vào chiếc ghế thoải mái, lòng tràn vui sướng, vì tôi nghĩ tôi đã làm rất khá.
Tuy nhiên ngay sau đó, những suy nghĩ của tôi, khi áp lực nghiền chúng thành một đường trong mấy ngày qua đã nhẹ đi, giờ lại quay về những sự kiện vào đêm Vincey khốn khổ chết, tôi lại tự hỏi mình lần nữa, tất cả chuyện này có nghĩa là sao, liệu tôi có nên nghe ngóng thêm chuyện này không, nếu không thì bổn phận của tôi nên làm gì với cái hộp sắt gây tò mò kia. Tôi ngồi đó và suy nghĩ mãi cho đến khi tôi bắt đầu hoàn toàn bị rối trí với toàn bộ câu chuyện đã xảy ra: chuyến thăm bí ẩn lúc nửa đêm, lời tiên đoán về cái chết thành hiện thực quá nhanh chóng, lời thề nghiêm túc tôi đã nói, và cái mà Vincey yêu cầu tôi trả lời là cho một thế giới khác hơn là thế giới này. Người đàn ông đó chắc chắn đã muốn tự tử ư? Có vẻ vậy. Còn cuộc phiêu lưu về cái mà anh ấy nói là gì? Các tình huống kỳ lạ đến nỗi, dù tôi không có cách nào căng thẳng, hoặc nhạy cảm bị điều gì đó dường như vượt khỏi biên giới tự nhiên cảnh báo, tôi trở nên sợ hãi và bắt đầu ước mình đáng ra không có gì làm với chúng. Hơn hai mươi năm sau, giờ tôi ước điều đó nhiều hơn biết bao!
Khi tôi ngồi nghĩ, có một tiếng gõ cửa, và một lá thư trong một phong bì màu xanh lớn đã được mang vào cho tôi. Tôi thấy ngay đó là thư của một luật sư, bản năng nói cho tôi nó giống như tôi đang nghĩ. Bức thư tôi vẫn đang giữ đây, viết như sau:
“Thưa ngài, - Khách hàng của tôi, Ngài M.L. Vincey quá cố, đã mất ngày mồng 9 vừa rồi tại trường Đại học Cambridge, đã để lại cho ngài một di chúc, ngài vui lòng xem bản sao di chúc đình kèm và chúng ta sẽ thực hiện theo. Theo di chúc này ngài sẽ thấy, ngài được hưởng lợi tức suốt đời từ gần một nửa số tài sản của ngài Vincey quá cố, giờ đang được đầu tư vào Công trái, phụ thuộc việc ngài có chấp nhận việc giám hộ cho con trai duy nhất của ngài ấy không, Leo Vincey, hiện tại là trẻ vị thành niên, năm tuổi. Bản thân chúng tôi không tự tạo ra những tài liệu có thể bị nghi ngờ là tuân theo chỉ dẫn rõ ràng chính xác của ngài Vincey, kể cả tài liệu cá nhân và văn bản, và ngài ấy không đảm bảo có lý do hợp lý về những gì ngài ấy định làm, chúng tôi buộc phải nói với ngài rằng qui định của di chúc dường như hơi bất bình thường, do đó chúng ta có thể buộc phải yêu cầu sự quan tâm của Toà Đại Pháp, để các bước này được thực hiện như mong muốn, cũng để thẩm tra năng lực của người lập di chúc, hay nói cách khác, để bảo vệ quyền lợi của trẻ vị thành niên. Như đã biết, người lập di chúc là một quý ngài đang ở mức sáng suốt và nhạy bén cao nhất, ngài ấy tuyệt đối không có quan hệ sống còn với người mà ngài ấy tin tưởng phó thác quyền giám hộ cháu bé, vì thế chúng tôi không cảm thấy cần thực hiện việc này.
Theo như chỉ dẫn này, xin ngài vui lòng gửi cho chúng tôi câu trả lời liên quan đến việc chăm sóc cháu bé và thanh toán phần cổ tức thuộc về ngài,
Chúng tôi đảm bảo trung thành với lợi ích của quí ngài,
Geoffrey và Jordan.
Ngài Horace L.Holly”
Tôi để bức thư xuống, và đưa mắt đến di chúc, nó hiện ra có vẻ không dễ hiểu, với những nguyên tắc pháp lý nghiêm ngặt nhất. Tuy nhiên rốt cục tôi cũng có thể phát hiện ra, nó chính xác giống như những gì Vincey bạn tôi đã nói vào đêm anh ấy mất. Cuối cùng tất cả đã trở thành sự thật. Tôi phải mang cậu bé về. Đột nhiên tôi nhớ ra lá thư Vincey đã bỏ lại với cái hộp. Tôi đi tìm và mở nó ra. Nó chỉ có những chỉ dẫn tương tự như vậy, anh ấy đã đưa cho tôi để mở cái hộp vào ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của Leo, và đặt ra bản phác thảo về giáo dục cho thằng bé, gồm cả tiếng Hy Lạp, toán cao cấp, và tiếng Ả Rập. Cuối cùng có một phần tái bút nói rằng, nếu thằng bé chết trước hai mươi lăm tuổi, tất nhiên anh ấy không tin khả năng này, thì tôi sẽ mở cái hộp, và hành động theo thông tin mà tôi thu được nếu tôi thấy phù hợp. Nếu tôi không thấy phù hợp, tôi phải tiêu hủy toàn bộ nội dung bên trong hộp. Tôi không phải chịu trách nhiệm nào về chúng với tư cách một người xa lạ.
Vì lá thư này không có thêm tài liệu nào so với những gì tôi đã biết, và chắc chắn trong đầu tôi không nảy sinh việc phản đối nhận nhiệm vụ tôi đã hứa với người bạn đáng mến nữa, chỉ còn một việc với tôi, cụ thể, đó là viết cho Messrs. Geoffrey và Jordan, thể hiện sự đồng ý của tôi với lời ủy thác, cũng đồng thời nói rằng tôi đã sẵn sàng việc giám hộ cho Leo trong thời gian mười ngày nữa. Điều này làm tôi phải đi đến các cơ quan chức năng trong trường tôi, nói với họ rất nhiều về câu chuyện mà tôi đã cân nhắc hợp lý, sau những khó khăn đáng kể, cuối cùng đã thành công thuyết phục họ nới ra một điểm, đó là trong trường hợp tôi đạt học bổng nghiên cứu sinh – điều này tôi rất chắc chắn mình sẽ làm được – sẽ cho phép tôi mang theo đứa trẻ sống với tôi. Tuy nhiên sự đồng ý của họ được cấp cho với điều kiện tôi phải bỏ phòng mình ở trường Đại học, mất chỗ ở và phải đi thuê phòng. Có một chút khó khăn, nhưng tôi đã tìm được một căn hộ rất tốt ngay gần sát cổng trường đại học. Việc tiếp theo là tìm một bảo mẫu. Về điểm này, tôi đã có quyết định. Tôi không thể để bất kỳ phụ nữ nào sai bảo tôi về thằng bé, và lấy trộm mất tình cảm của nó khỏi tôi. Cậu bé đã đủ lớn để làm những việc mà không cần phụ nữ hỗ trợ, vì vậy tôi quyết định tìm kiếm một người chăm sóc là nam giới phù hợp. Sau một vài khó khăn, tôi đã thuê được một chàng trai trẻ có gương mặt tròn khá đứng đắn, đang làm giúp việc cho khu đua ngựa, nhưng cậu ta nói rằng cậu là thành viên một gia đình có mười bảy người và quen thuộc với việc chăm sóc trẻ con, đồng thời bày tỏ đã sẵn sàng đảm nhận công việc của ông chủ Leo khi cậu bé đến. Sau đó, mang cái hộp sắt vào thành phố, tự tay tôi gửi nó vào ngân hàng, tôi mua vài quyển sách về sức khỏe và chăm sóc trẻ em rồi đọc chúng, trước tiên cho bản thân, sau đó đọc to lên cho Job – là tên của chàng trai trẻ - và chờ đợi.
Cuối cùng cậu bé đã đến dưới sự chăm sóc của một người cao tuổi, người này đã khóc lóc thảm thiết lúc chia tay cậu, và đó thật là một cậu bé xinh đẹp. Quả thực tôi không nghĩ rằng mình từng nhìn thấy một đứa trẻ hoàn hảo đến vậy từ trước đến giờ. Cậu bé có đôi mắt xám, trán rộng, và gương mặt sạch sẽ như gốm mài, không nhăn nhúm cũng không gầy gò. Nhưng có lẽ điểm hấp dẫn nhất của cậu là mái tóc, màu vàng tinh khiết cuộn chặt trên cái đầu quyến rũ. Cậu bé khóc một chút khi bà bảo mẫu cuối cùng cũng rứt ra và để lại cậu cho chúng tôi. Không bao giờ tôi quên được cảnh đó. Cậu bé đứng đó, ánh mặt trời từ cửa sổ chơi đùa trên những lọn tóc vàng óng của cậu, một tay cậu đưa lên che một mắt, trong khi mắt kia nhìn chúng tôi. Tôi ngồi trên một chiếc ghế, và đưa tay tôi cho cậu, bảo cậu lại phía tôi, trong khi Job, ở trong góc, giả bộ tiếng cục tác, có lẽ theo kinh nghiệm trước đây của anh ta, giống tiếng gà mái, anh ta có lẽ cho rằng nó sẽ tạo tác dụng xoa dịu, truyền cảm giác tin tưởng vào tâm trí non nớt, rồi điều khiển một con ngựa gỗ xấu xí chạy ngược chạy xuôi một cách khá ngớ ngẩn. Được vài phút, bỗng nhiên cậu bé đột ngột giơ hai cánh tay nhỏ xíu và chạy về phía tôi.
“Cháu thích chú,” cậu nói: “chú xấu xí, nhưng chú thật tốt.”
Mười phút sau cậu đã đang ngồi ăn những lát bánh mỳ lớn với bơ rất thỏa mãn; Job muốn cho mứt vào nhưng tôi nghiêm khắc nhắc nhở anh ta nhớ về những quyển sách tuyệt vời chúng tôi vừa đọc, và cấm không được làm thế.
Trong một khoảng thời gian rất ngắn (vì như tôi kỳ vọng, tôi đã đạt được học bổng nghiên cứu sinh) cậu bé trở thành người được yêu thích của cả trường Đại học – nơi đó, tất cả mệnh lệnh và luật lệ không được làm trái, cậu bé liên tục vào ra – một kiểu tự do đặc quyền được ưu ái với mọi qui tắc đã được nới lỏng. Đề nghị ái mộ cậu bé đơn giản không đếm hết, và tôi có quan điểm khác biệt nghiêm trọng với một nghiên cứu sinh thường trú lâu năm, giờ đã mất từ lâu, người thường được coi là người cứng rắn nhất trường Đại học và rất chán ghét khi thấy một đứa trẻ. Rồi tôi phát hiện ra, khi một trận ốm vốn thường xảy ra buộc Job phải trông coi nghiêm túc, ông già vô nguyên tắc này có thói quen lôi kéo cậu bé đến phòng ông ấy và cho cậu nhóc xài vô độ các loại kẹo có rượu mạnh, buộc cậu hứa không được nói gì về điều này. Job nói với ông ta rằng ông ta phải thấy xấu hổ về bản thân, “ở tuổi của ông ấy cũng vậy, có khi ông ấy đã làm ông nội nếu ông ấy hành động đúng đắn”, nhờ đó Job hiểu ông ta đã có gia đình và thế là phát sinh một vụ ồn ào.
Nhưng tôi không có không gian để sống những năm tháng đầy màu sắc này, dù ký ức vẫn dao động quanh quẩn nhẹ nhàng. Từng người từng người một đi qua, và khi họ đi qua, cả hai chúng tôi đều dần trưởng thành và thân thiết yêu thương nhau hơn. Rất ít người con nào được yêu thương như tôi yêu thương Leo, và cũng ít có người cha nào biết được tình cảm sâu sắc không ngừng nghỉ mà Leo dành cho tôi.
Cậu bé trở thành một thanh niên, và từ thanh niên lại trở thành một người đàn ông trẻ trung, trong khi lần lượt từng ngày tháng trôi qua không hối tiếc, khi cậu cao lớn lên, vẻ đẹp của cậu cũng thế, vẻ đẹp tâm hồn cũng trưởng thành cùng cậu. Khi cậu khoảng mười lăm tuổi, người ta thường gọi cậu là Người Đẹp của trường Đại học, còn tôi họ đặt biệt danh là Quái Vật. Người Đẹp và Quái Vật là những gì họ gọi chúng tôi khi chúng tôi đi cùng nhau - đó là việc chúng tôi thường làm mỗi ngày. Một lần Leo đánh một người bán thịt to con gấp đôi cậu ấy, vì anh ta chửi chúng tôi, cậu ấy đè bẹp hắn, phải, đè bẹp hắn rất đẹp. Tôi bước đi và giả bộ không nhìn thấy, cho đến khi trận đấu trở nên gây cấn, tôi trở lại và cổ vũ cậu chiến thắng. Đó là chuyện vặt ở trường Đại học lúc đó, nhưng tôi không thể làm gì khác được. Rồi khi cậu ấy lớn hơn một chút, đám sinh viên chưa tốt nghiệp lại tìm ra những tên mới cho chúng tôi. Họ gọi tôi là Charon, và Leo là Vị thần Hy Lạp! Tôi sẽ bỏ qua cách gọi tên tôi với chú ý khiêm tốn rằng, tôi chưa bao giờ đẹp trai và cũng không không lớn lên nhiều khi tôi già đi. Với cậu ấy, thật phù hợp, không nghi ngờ gì nữa. Leo khi hai mươi mốt có lẽ có thể thay thế cho chân dung Apollo khi trẻ. Tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ ai chạm vào bên ngoài cậu ấy, hay bất kỳ ai làm điều đó một cách vô thức. Vì về mặt trí tuệ, cậu ấy rất thông minh và cơ trí, nhưng không phải là một học giả. Cậu không cố hết sức cần thiết để đạt được kết quả đó. Chúng tôi theo chỉ dẫn của cha cậu về việc giáo dục cậu phải đủ nghiêm khắc, và kết quả rất thỏa đáng, đặc biệt trong môn tiếng Hy Lạp và tiếng Ả Rập. Tôi đã học ngôn ngữ thứ hai để trợ giúp việc dạy dỗ cậu ấy, nhưng sau năm năm cậu ấy và tôi đã có trình độ ngang nhau – hầu như giáo sư đều đồng thời dạy cho cả hai chúng tôi. Tôi luôn là một tay chơi thể thao rất cừ - đó là niềm đam mê của tôi – mỗi mùa thu chúng tôi lại đi đâu đó bắn súng hay câu cá, thi thoảng tới Scotland, thi thoảng tới Na uy, thậm chí có lần còn đến tận nước Nga. Tôi là một tay súng khá, nhưng ngay cả trò này cậu ấy cũng xuất sắc hơn tôi.
Khi Leo mười tám tuổi tôi đã trở về phòng cũ của tôi, và đưa cậu ấy vào trường Đại học của tôi, khi hai mươi mốt tuổi, cậu ấy đã lấy bằng loại ưu, nhưng không phải thứ hạng rất cao. Khi đó lần đầu tiên, tôi kể cho cậu ấy một chút câu chuyện của chính cậu, và về sự bí ấn lờ mờ trong đó. Tất nhiên cậu ấy rất tò mò, và tất nhiên tôi phải nói với cậu rằng sự tò mò này hiện tại không thể thỏa mãn được. Sau đó, chuyện ấy qua đi, tôi đề nghị cậu ấy nên trở thành luật sư; và cậu ấy đã làm được, đọc sách ở Cambridge, chỉ tới London để ăn trưa.
Tôi chỉ có một rắc rối với cậu ấy, đó là mọi phụ nữ trẻ đi qua cậu ấy, hay không phải tất cả nhưng cũng gần như thế, đều không do dự rơi vào yêu đương với cậu ấy. Thế nên đã sinh ra những khó khăn mà tôi không cần kể ra ở đây, mặc dù bản thân những chuyện đó cũng đủ rắc rối rồi. Nói chung, cậu ấy xử lý khá tốt; tôi không thể nói gì hơn thế.
Rồi thời gian cuối cùng cũng đi đến ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của cậu ấy, vào ngày kỳ lạ ấy, nói theo một cách nào đó, câu chuyện khủng khiếp thực sự bắt đầu.


(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 1



CHƯƠNG 1

Vị khách
Có một số sự kiện mà mỗi hoàn cảnh và chi tiết xung quanh dường như được khắc vào trong ký ức như một thói quen khiến ta không thể quên được, và cảnh mà tôi sắp mô tả cũng vậy. Nó hiện lên rõ ràng trong tâm trí tôi lúc này như thể nó vừa mới xảy ra ngày hôm qua.
Chính vào đúng tháng này hai mươi năm về trước, tôi - Ludwig Horace Holly, đã ngồi suốt một đêm trong căn phòng ở Cambridge, hì hục giải mấy bài toán mà tôi không nhớ chính xác nữa. Tôi dự định đi lên vì quyền lợi của mình trong một tuần nay, gia sư của tôi và trường đại học nói chung đã kỳ vọng tôi sẽ nổi tiếng. Cuối cùng, mệt mỏi, tôi ném quyển sách xuống, đi đến bệ lò sưởi, lấy xuống một cái tẩu và nhồi thuốc vào. Một ngọn nến đang cháy trên bệ lò sưởi, và một cái gương hẹp dài sau nó; khi tôi đang đốt thuốc, tôi bắt gặp gương mặt của chính mình trong gương, nên tạm ngừng để suy nghĩ. Mồi thuốc cháy đến khi nó xém vào ngón tay, buộc tôi phải thả ra; nhưng tôi vẫn đứng nhìn chằm chằm vào bản thân trong gương, và suy nghĩ.
“Phải,” cuối cùng tôi nói to,” hy vọng là mình sẽ có thể làm được gì đó với thứ trong đầu mình, vì chắc chắn mình sẽ không bao giờ nhờ đến sự giúp đỡ từ phía ngoài.”
Điều này không cần nghi ngờ, sẽ đánh vào bất kỳ ai đọc nó chút mơ hồ, nhưng thực tế, tôi đang ám chỉ những khiếm khuyết về thể chất của tôi. Hầu hết đàn ông hai mươi hai tuổi đều được thời thanh xuân đẹp đẽ ưu ái ở một mức độ nào đó, nhưng với tôi, nó đã từ chối. Thấp, gầy, ngực hầu như biến dạng, cánh tay dài gân guốc, nét mặt nặng nề, đôi mắt xám sâu, cái trán thấp một nửa phủ mái tóc đen dày như cái chổi, giống như một bãi hoang mà rừng cây bắt đầu xâm lấn; đó là vẻ ngoài của tôi gần một phần tư thế kỷ trước, bây giờ cũng vẫn thế, chỉ có vài thay đổi. Giống như Cain, tôi đã bị dán nhãn – bị Tạo Hóa dán nhãn, là dấu hiệu của sự xấu xí không bình thường, nhưng Tạo Hóa cũng tặng tôi món quà, đó là sức khỏe sắt đá phi thường và năng lực trí tuệ đáng kể. Tôi xấu xí đến mức những anh chàng trẻ trung bảnh bao ở Đại học, dù họ đủ lòng tự hào về độ bền và sức mạnh thể chất của tôi, cũng không quan tâm đến việc được trông thấy đi cùng tôi. Có tuyệt không khi tôi chán đời và ủ rũ? Có tuyệt không khi tôi lo nghĩ và làm việc một mình, không bạn bè – dù ít nhất chỉ một người? Tôi đã được Tạo Hóa đặc cách cho sống đơn độc, thoải mái trong ngực người mẹ thiên nhiên này, và chỉ với bà mà thôi. Phụ nữ ghét cái nhìn của tôi. Mới một tuần trước tôi nghe thấy một người gọi tôi là “quái vật” khi cô ta cho rằng tôi không nghe thấy, cô ta nói tôi là bản ngược lại của cô ta theo lý thuyết về loài vượn. Quả thật một lần, một phụ nữ giả vờ quan tâm đến tôi, và tôi đã không tiếc tiền và tình cảm bị dồn nén trao tất cả cho cô ấy. Sau đó số tiền của tôi đã đi tới nơi nào đó, còn cô ta bỏ tôi. Tôi đã cầu xin cô ấy dù tôi chưa bao giờ từng cầu xin một sinh vật sống nào trước đó, chỉ vì tôi đã bị gương mặt ngọt ngào ấy chiếm giữ và yêu cô ấy; cuối cùng cách trả lời của cô ta là, mang tôi tới trước một chiếc gương, rồi đứng cạnh tôi, và nhìn vào đó.
Cô ấy nói “Bây giờ nếu tôi là Người Đẹp, anh là ai?” Đó là câu chuyện khi tôi chỉ hai mươi.
Và tôi đứng đó, nhìn chằm chằm, cảm thấy một loại thỏa mãn nghiệt ngã trong sự cô độc của chính tôi; vì tôi không cha, không mẹ, cũng không có anh em; và tôi cứ như thế khi có tiếng gõ cửa.
Tôi nghe ngóng trước khi ra mở cửa, vì gần mười hai giờ đêm rồi, và tôi không có tâm trạng gặp người lạ. Nhưng tôi có một người bạn ở trong trường Đại học, thực ra là trong cả thế giới này – có lẽ là anh ấy.
Ngay sau đó người ngoài cửa ho, tôi vội vàng mở cửa, vì tôi biết tiếng ho này.
Một người đàn ông cao lớn khoảng ba mươi, với những nét đẹp riêng hoàn hảo, bước nhanh vào trong, loạng choạng vì trọng lượng chiếc hộp sắt lớn anh ta mang bên tay phải. Anh ấy đặt chiếc hộp trên bàn, rồi rơi vào một trận ho khủng khiếp. Anh ấy ho, rồi lại ho, cho đến khi gương mặt chuyển sang tím tái, cuối cùng anh lún dần trong cái ghế và bắt đầu thổ huyết. Tôi rót một chút whisky vào cốc, rồi đưa cho anh ấy. Anh uống, có vẻ đỡ hơn; mặc dù cái đỡ hơn của anh thực tế là rất tệ.
“Sao cậu bắt tôi đứng chết cóng ngoài đó?” Anh cáu gắt hỏi. “Cậu có biết gió lùa sẽ làm tôi chết mất không.”
“Tôi không biết là ai,” tôi trả lời, “Anh là một vị khách tới muộn.”
“Phải; và tôi tin chắc đây là lần gặp cuối cùng của tôi,” anh ấy trả lời, nỗ lực nở một nụ cười xanh mét. “Tôi đã xong rồi, Holly. Tôi đã xong rồi. Tôi không tin tôi còn thấy ngày - mai.”
“Vớ vẩn!” Tôi nói. “Để tôi đi tìm bác sĩ.”
Anh ấy vẫy tay ép tôi quay lại. “Tôi tỉnh táo; nhưng tôi không cần bác sĩ. Tôi học y và biết rõ điều này. Không bác sĩ nào có thể giúp tôi. Giờ cuối của tôi đã tới! Một năm qua tôi sống là một điều kỳ diệu. Giờ hãy nghe tôi, vì cậu chưa bao giờ nghe ai trước đó; vì cậu sẽ không có cơ hội bảo tôi lặp lại những lời này. Chúng ta là bạn đã hai năm; giờ hãy nói cho tôi cậu biết về tôi bao nhiêu?”
“Tôi biết anh rất giàu có, và có một đam mê học Đại học dù ở tuổi này hầu hết mọi người đều rời nó. Tôi biết anh đã kết hôn, và vợ anh đã chết; và anh là người tốt nhất, thực sự hầu như là người bạn duy nhất mà tôi từng có.”
“Cậu có biết tôi có một đứa con trai không?”
“Không.”
“Tôi có đấy. Nó năm tuổi. Nó khiến tôi phải trả giá bằng mạng sống của mẹ nó, và vì thế tôi không bao giờ có thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy mặt nó. Holly, nếu cậu đồng ý lời ủy thác này, tôi sẽ để cậu làm người bảo trợ duy nhất của thằng bé.”
Tôi gần như nhảy ra khỏi ghế. “Tôi ư!” Tôi nói.
“Phải, cậu. Tôi không tìm hiểu về cậu suốt hai năm qua một cách vô nghĩa. Tôi đã từng biết rằng tôi không thể sống lâu, và khi tôi nhận ra thực tế đó, tôi đã đi tìm kiếm người mà tôi có thể tin tưởng cho cậu con trai và thứ này,“ anh ấy vỗ nhẹ cái hộp sắt. “Cậu là một người đàn ông, Holly; dù giống như một cái cây thô ráp xù xì, cậu cứng cỏi và lành mạnh tận xương tủy. Hãy nghe này; thằng bé là đại diện duy nhất cho một trong những gia tộc cổ xưa nhất thế giới, vì thế cho đến ngày nay các gia tộc này có thể vẫn bị săn đuổi. Cậu sẽ cười nhạo tôi khi tôi nói ra, nhưng một ngày nào đó sẽ chứng minh để cậu không nghi ngờ nữa, rằng, tổ tiên trực hệ thứ sáu mươi lăm hay sáu mươi sáu của tôi là một linh mục người Ai Cập của Isis, dù ông tự khai mình là người gốc Hy Lạp, tên là Kallikrates. [1] Cha ông là một trong những lính đánh thuê Hy Lạp do Hak-Hor, một Pharaoh người Mendes ở triều đại thứ hai mươi chín, tuyển mộ, còn ông của ông hay ông cố của tôi, tôi tin đó chính là Kallikrates đã được Herodotus đề cập đến. [2] Vào khoảng năm 339 trước Công Nguyên, ngay thời điểm sụp đổ cuối cùng của các Pharaoh, Kallikrates này (vị linh mục) đã phá vỡ lời thề độc thân và trốn khỏi Ai Cập với một công chúa mang dòng máu hoàng tộc yêu thương ông, cuối cùng bị đắm thuyền ở bờ biển Châu Phi, một nơi nào đó mà tôi tin là cạnh Vịnh Delagoa bây giờ, hoặc lên phía bắc của nó, ông ấy và vợ đã được cứu sống, rồi tất cả những gì còn lại của họ bị phá hủy bằng cách này hay cách khác. Ở đó họ đã trải qua những tháng ngày rất khốn khổ, là trò tiêu khiển cho Nữ Vương phi thường của một tộc người hoang dã, một phụ nữ da trắng có vẻ đẹp đặc biệt, người mà vì hoàn cảnh tôi không thể đi sâu hơn, nhưng cậu sẽ có ngày tìm ra từ nội dung của cái hộp - nếu cậu còn sống, cuối cùng bà ta đã giết ông tổ của tôi Kallikrates. Tuy nhiên vợ ông đã trốn thoát tới Athens, tôi không biết bằng cách nào, mang theo một đứa bé mà bà đặt tên là Tisisthenes, nghĩa là Người Báo Thù Vĩ Đại. Năm trăm năm sau hay lâu hơn nữa, gia đình đó di cư tới Rome – không còn dấu vết nào lưu lại trong hoàn cảnh đó, và từ đó, có lẽ với ý nghĩ bảo vệ tư tưởng báo thù mà chúng tôi tìm thấy trong cái tên Tisisthenes, họ xuất hiện rất thường xuyên bằng tên riêng Vindex, nghĩa là Người Trả Thù. Cứ như thế chúng được duy trì năm thế kỷ tiếp theo hoặc hơn nữa, tới khoảng năm 770 sau Công Nguyên, khi Charlemagne xâm lược Lombardy, nơi họ đang cư ngụ, khi đó người đứng đầu gia tộc dường như tự cột lợi ích của họ với vị Hoàng Đế vĩ đại này, rồi trở về với Hoàng Đế dọc theo dãy Alps, cuối cùng định cư ở Brittany. Sau tám thế hệ, người đại diện trực hệ đã tới Anh dưới triều đại nhà Edward – Người Xưng Tội, và trong thời đại của William – Kẻ Chinh Phạt đã đạt được danh vọng và quyền lực to lớn. Từ thời đó đến nay tôi có thể theo dấu tổ tiên của mình mà không bị gián đoạn. Không còn là gia tộc Vincey – vì đó là sự bại hoại cuối cùng của cái tên này sau khi danh tiếng của nó đã chìm dần vào bùn nhơ nước Anh – những người đặc biệt xuất chúng – họ không bao giờ nổi bật quá nhiều nữa. Đôi khi họ là người lính, đôi khi là thương nhân, nhưng nói chung họ vẫn duy trì địa vị ở mức kiệt quệ, và vẻ tầm thường ở mức độ tệ hại lặng lẽ hơn. Từ thời Charles II tới đầu thế kỷ này, họ đều là thương nhân. Vào khoảng năm 1790, ông nội tôi trở nên giàu có đáng kể nhờ sản xuất bia, rồi về hưu. Năm 1821 ông mất, bố tôi kế thừa ông, làm tiêu tán phần lớn tiền của. Mười năm sau ông ấy cũng mất, bỏ lại tôi với một khoản thu nhập ròng khoảng hai ngàn mỗi năm. Thế rồi tôi cam đoan tiến hành một cuộc viễn chinh để kết nối với cái đó,“ và anh ấy chỉ vào cái hộp sắt, “nó đã kết thúc thảm hại. Trên đường trở về tôi du lịch qua Nam Âu, cuối cùng tới Athens. Tôi đã gặp vợ yêu của tôi ở đó, người có thể coi là “đẹp”, giống như tổ tiên người Hy Lạp xa xưa của tôi. Tôi đã kết hôn ở đó, và một năm sau, cũng ở đó, khi con trai tôi ra đời, cô ấy mất.”
[1] Khỏe và Đẹp, hay chính xác hơn, vẻ đẹp trong sức mạnh.
[2] Kallikrates ở đây - tham khảo từ bạn tôi- là một người Sparta, được Herodotus nói đến (Herod. Ix. 72) đặc biệt nhấn mạnh ở vẻ đẹp của anh ta. Anh ta ngã xuống trong trận Plataea vinh quang (ngày 22 tháng 9 năm 479 trước Công Nguyên), khi người Lacedaemon và Athen theo Pausanias trên đường tới Ba Tư, khiến gần 300,000 người trong số họ chết dưới lưỡi gươm. Đoạn dịch sau, “Vì Kallikrates đã chết ngoài trận chiến, anh trở thành người đàn ông quân nhân đẹp nhất của người Hy Lạp hôm đó – không chỉ của người Lacedaemon, mà còn của người Hy Lạp. Khi Pausanias hy sinh, anh bị thương một bên do tên bắn; và họ tiếp tục đánh nhau, nhưng khi được cáng vào, anh ta tiếc nuối cái chết của mình, và nói với Arimnestus, một người Plataea, rằng anh không buồn vì chết cho Hy Lạp, mà vì không đánh hết sức, hay mặc dù anh ta mong làm được điều đó, như vậy đã thể hiện được giá trị sâu sắc của bản thân anh ta.” Kallikrates này hiện ra rất dũng cảm và đẹp đẽ, đã được Herodotus đề cập đến và bị chôn vùi trong số ἰρένες (các sỹ quan trẻ), cùng với những người Sparta và nô lệ khác. – T.H.H.
Anh ấy dừng một lúc, đầu vùi trong bàn tay, rồi lại tiếp tục.
“Việc kết hôn đã chuyển hướng tôi khỏi kế hoạch và từ giờ tôi không thể đi vào sâu hơn. Tôi không có thời gian, Holly – Tôi không có thời gian! Một ngày nào đó, nếu cậu chấp nhận lời ủy thác này, cậu sẽ hiểu tất cả. Sau cái chết của vợ tôi, tôi gắng ổn định tâm trí trở lại. Nhưng trước tiên điều cần thiết, hay ít nhất tôi nghĩ là cần thiết, là tôi phải có một kiến thức hoàn hảo về thổ ngữ phương Đông, đặc biệt, tiếng Ả rập. Để thuận tiện nghiên cứu, tôi đã tới đây. Tuy nhiên rất nhanh sau đó, căn bệnh của tôi đã tự phát, và giờ đã đến hồi kết của tôi.” Và như để nhấn mạnh những lời này, anh phát ra những tràng ho khủng khiếp.
Tôi đưa cho anh ấy thêm chút whisky, sau khi nghỉ ngơi, anh lại tiếp tục.
“ Tôi chưa bao giờ gặp con trai tôi, Leo, từ khi nó là một đứa bé nhỏ xíu. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn thấy nó, nhưng người ta nói với tôi nó là một đứa trẻ rất nhanh nhẹn và đẹp trai. Trong phong thư này,“ anh ấy đưa một lá thư từ túi quần đề địa chỉ của tôi, “Tôi đã ghi nhanh xuống khóa học mà tôi mong theo học để giáo dục thằng bé. Nó khá đặc biệt. Ở một mức độ nào đó, tôi không thể tin tưởng phó thác nó cho một người xa lạ. Một lần nữa thôi, cậu sẽ thực hiện điều đó chứ?”
“Trước hết tôi phải biết tôi sẽ thực hiện cái gì đã.“ tôi trả lời.
“Việc cậu sẽ thực hiện là để thằng bé, Leo, sống cùng với cậu cho tới khi nó hai mươi lăm tuổi – nhớ đừng gửi nó đến sống trong một ngôi trường nào đó. Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của nó, vai trò bảo trợ của cậu kết thúc, và với chìa khóa tôi đưa cho cậu bây giờ, cậu sẽ mở chiếc hộp sắt, rồi để nó xem và đọc nội dung bên trong, hãy hỏi xem liệu nó có muốn thực hiện cuộc thám hiểm không. Đừng ép buộc nó làm điều đó. Giờ hãy quan tâm đến các điều kiện. Thu nhập hiện tại của tôi là hai ngàn hai trăm một năm. Một nửa thu nhập này tôi đã bảo đảm cho cậu suốt đời bằng di chúc, do ngẫu nhiên cậu đảm nhận vai trò giám hộ - nghĩa là, một ngàn mỗi năm dành cho cậu, vì cậu sẽ phải từ bỏ cuộc sống của mình để thực hiện nó, và một trăm một năm để trả cho tiền ăn của thằng bé. Phần còn lại tích lũy tới khi Leo hai mươi lăm, có lẽ sẽ có đủ một số tiền trong tay nếu thằng bé muốn thực hiện cuộc phiêu lưu mà tôi đã nói. “
“Nếu như tôi chết thì sao?” Tôi hỏi.
“Thì thằng bé phải chịu sự giám hộ của Tòa Đại Pháp và phó thác cho may rủi thôi. Chỉ cần cẩn thận để cái hộp sắt này chuyển tới thằng bé bằng di chúc của cậu. Hãy nghe này, Holly, đừng từ chối tôi. Hãy tin tôi, điều này có lợi cho cậu. Cậu không phù hợp để trộn lẫn vào cái thế giới này – nó chỉ làm cậu cay đắng. Trong một vài tuần tới cậu sẽ trở thành nghiên cứu sinh của trường Đại học này, và thu nhập cậu có được từ nó cộng với những gì tôi để lại cho cậu sẽ cho phép cậu sống một cuộc đời an nhàn, học hành xen kẽ với môn thể thao cậu thích, đó chính xác là những gì phù hợp với cậu.”
Anh dừng lại và nhìn tôi đầy lo lắng, nhưng tôi vẫn do dự. Nhiệm vụ có lẽ rất kỳ lạ.
“Vì lợi ích của tôi, Holly. Chúng ta là bạn tốt, và tôi không có thời gian thu xếp nữa.”
“Được rồi,” tôi nói, “Tôi sẽ làm việc này, với điều kiện không có gì trong tờ giấy này làm tôi thay đổi suy nghĩ.“ Và tôi chạm vào cái phong bì anh để trên bàn với chùm chìa khóa.
“Cảm ơn cậu, Holly, cảm ơn cậu. Không còn gì nữa đâu. Hãy thề với tôi trước Chúa rằng, cậu sẽ là cha thằng bé, và tuân theo các chỉ dẫn của tôi trong thư.”
“Tôi thề.” Tôi long trọng đáp lời.
“Rất tốt, hãy nhớ rằng có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ đòi hỏi trách nhiệm với lời thề của cậu, vì dù tôi chết và bị quên lãng, tôi sẽ vẫn sống. Không có gì như cái chết, Holly, chỉ là một sự biến đổi, và khi cậu lĩnh hội được theo thời gian, tôi tin rằng sự biến đổi đó có thể bị trì hoãn vô thời hạn dưới những điều kiện nhất định,” rồi anh ấy lại ngắt bằng những tràng ho rợn người.
“Giờ,” anh nói, “Tôi phải đi, cậu cầm cái hộp, di chúc của tôi sẽ được tìm ra trong đống giấy tờ, theo thẩm quyền, thằng bé sẽ được trao cho cậu. Cậu sẽ được trả công xứng đáng, Holly, tôi biết cậu là một người trung thực, nhưng nếu cậu phản bội lòng tin của tôi, trên Thiên đường, tôi sẽ ám cậu.”
Tôi không nói gì, thực sự, quá hoang mang nên không thể nói.
Anh ấy cầm ngọn nến lên, và nhìn vào gương mặt chính mình trong gương. Đó từng là một gương mặt đẹp, nhưng bệnh tật đã tàn phá nó. “Thức ăn cho sâu,” anh nói, “Thật tò mò khi nghĩ tới vài giờ nữa tôi sẽ cứng lại và lạnh đi – cuộc hành trình đã xong, trò chơi nhỏ đã kết thúc. Ôi cái thân tôi, Holly! Sống không đáng giá, thật khó khăn để sống, trừ khi đang yêu – ít nhất, sự sống của tôi không đáng thế; nhưng của thằng bé Leo thì có thể nếu nó dũng cảm và có lòng tin. Tạm biệt, bạn của tôi!” Bằng sự dịu dàng bất ngờ, anh đưa cánh tay về phía tôi và hôn trên trán tôi, rồi đi ra.
“Quay lại đây, Vincey,” Tôi nói, “nếu anh ốm đau như anh nghĩ, tốt nhất anh nên để tôi gọi bác sĩ.”
“Không, không,” anh ấy tha thiết nói. “Hãy hứa với tôi cậu sẽ không làm thế. Tôi sắp chết, và giống như con chuột bị đầu độc, tôi muốn chết một mình.”
“Tôi không tin anh sẽ làm thế,” Tôi trả lời. Anh ấy mỉm cười, và với từ “Hãy nhớ lấy” trên môi, anh ấy đã đi mất. Về phía mình, tôi ngồi xuống và dụi mắt, tự hỏi có phải tôi vừa mơ ngủ không. Nhưng vì giả thiết kiểu này không thể điều tra được, tôi đành từ bỏ và bắt đầu nghĩ có lẽ Vincey đã say. Tôi biết anh ấy đã, và đang rất ốm yếu, nhưng không thể có chuyện anh ấy có thể biết mình chắc không sống qua một đêm. Nếu anh ấy sắp lâm chung, chắc chắn anh ấy khó có thể đi bộ, và mang theo một hộp sắt nặng thế. Suy đi tính lại, toàn bộ câu chuyện dường như hoàn toàn không thể tin được với tôi, do khi đó tôi không đủ tuổi để nhận ra có bao nhiêu chuyện sẽ xảy ra trong những lời nói đó, mà ý thức chung của một người bình thường cũng cho rằng càng không chắc chắn thì tuyệt đối không có khả năng xảy ra. Thực sự gần đây tôi mới làm chủ được. Liệu có khả năng một người có một cậu con trai năm tuổi mà anh ta không bao giờ gặp từ khi nó nhỏ xíu không? Không. Anh ta có khả năng tiên đoán cái chết của chính mình một cách chính xác không? Không. Liệu anh ta có khả năng lần theo dấu cây phả hệ nhà mình tới tận ba thế kỷ trước Công Nguyên không, hay anh ta bỗng nhiên tin tưởng phó thác việc bảo trợ tuyệt đối cho con trai mình và để lại một nửa gia tài, cho một người bạn ở đại học? Hầu như chắc chắn là không. Rõ ràng Vincey đã say xỉn hay điên rồi. Nếu vậy, điều này có nghĩa gì? Và có gì trong cái hộp sắt đã niêm phong kia?
Toàn bộ những điều này làm tôi bối rối hoang mang đến mức tôi không thể chịu được nữa, và quyết định đi ngủ. Vì thế tôi nhảy đến, lấy chùm chìa khóa và lá thư Vincey để lại bỏ vào cái hộp thư từ của tôi, cất cái hộp sắt vào chiếc vali da lớn, tôi quay vào và nhanh chóng buồn ngủ.
Dường như tôi chỉ ngủ được vài phút khi bị đánh thức bởi ai đó đang gọi tôi. Tôi ngồi dậy, dụi mắt; ánh sáng ban ngày trải rộng – quả thật đã tám giờ.
“Sao thế, có chuyện gì thế, John?” Tôi hỏi người phục vụ trường học hay đợi Vincey và tôi. “Trông anh như gặp ma ấy!”
“Vâng, thưa ngài, đúng vậy,“ ông ấy trả lời, “thực ra tệ hơn thế, tôi vừa nhìn thấy một xác chết. Tôi đã vào trong đó gọi ngài Vincey như thường lệ, ngài ấy nằm ở đó đông cứng và đã chết.”

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Sợ hãi - cách hành xử phù hợp di truyền từ tổ tiên chúng ta


"Những nỗi sợ hãi của chúng ta luôn luôn nhiều hơn số lượng nguy hiểm."
-          Lucius Annaeus Seneca (Nhà triết học La Mã, 4 TCN-65)

Các hành khách lên chuyến bay 651 đi Chicago. Hai giờ sau khi cất cánh, người phục vụ chuyến bay nghe thấy tiếng ồn khả nghi từ phòng vệ sinh. Các hành khách bắt đầu truyền nhau. Sự hoảng loạn tràn ra.

Chúng ta đều sợ hãi những sự kiện bi đát và đe dọa chúng ta. Ta sợ mất sức khỏe, gia đình, bạn bè, an toàn, tiền bạc, địa vị xã hội, quyền lực, hay công việc. Chúng ta cũng sợ hãi bạo lực, tội phạm, trừng phạt, từ chối, thất bại, không biết, sự cố bất thình lình, những gì không thể tiên đoán trước hay những gì không thể điều khiển được. Các nghiên cứu chỉ ra rằng ngay khi chứng kiến một sự kiện gây chấn thương cũng có thể sinh ra những phản ứng sợ hãi giống như chính bạn bị chấn thương vậy.
Nỗi sợ hãi là cảm xúc cơ bản nhất của chúng ta. Sợ hãi tiến hóa để giúp chúng ta dự đoán nguy hiểm và tránh đau đớn. Nhà văn khoa học Rush Dozier đã viết trong cuốn Fear itself (Bản chất nỗi sợ hãi): “ Nỗi sợ hãi là cơ bản, vì sự sống là cơ bản. Nếu chúng ta chết, mọi thứ đều trở nên vô giá trị.”

Nhân loại đã phát triển cảm xúc mạnh mẽ về nỗi sợ hãi. Môi trường của tổ tiên chúng ta đầy hiểm nguy. Nỗi sợ hãi với những nguy hiểm vật lý, sự không thừa nhận của xã hội, thiếu thức ăn, không bạn tình, thú dữ, v.v… Tự tồn tại là một sự khuyến khích mạnh mẽ. Các sai lầm có thể phải trả giá cực đắt. Giả sử hai cá thể cùng nghe thấy một âm thanh lạ sau bụi rậm. Một người nhìn ra phía sau bụi rậm và bị một con rắn độc cắn rồi chết. Người kia nhìn những gì đã xảy ra, chạy trốn và sống sót. Luôn giả thiết có mối đe dọa sau những bụi cây và chạy trốn có thể cứu mạng ta. Chi phí của sai lầm và chạy khi không có con rắn nào là rất nhỏ. Nhưng cái giá của việc ở lại quanh quẩn khi có một con rắn có thể là chính mạng sống. Thất bại trong việc phát hiện ra các mối đe dọa tiềm tàng thường phải trả giá đắt hơn một cảnh báo sai. Tổ tiên chúng ta đã học thông qua việc thử và sai trong một thời gian dài, đau khổ có thể tránh được nếu họ sợ hãi. Họ sống sót thoát khỏi các hiểm nguy vì họ đã học được phải đáp trả như thế nào.
Nếu đau khổ và sung sướng là những chỉ dẫn hướng chúng ta tới sống sót và sinh sản, nỗi sợ hãi là dấu hiệu cảnh báo sinh học của chúng ta để tránh khỏi nỗi đau.  Sợ hãi cảnh báo chúng ta những đe dọa tiềm tàng và giữ chúng ta không hành động theo những con đường dẫn đến tự diệt. Nó giúp chúng ta tránh khỏi những đe dọa và khiến chúng ta hành động để ngăn chặn những tổn thương lớn hơn. Sợ hãi chỉ dẫn ta tránh khỏi những gì đã không làm việc trong quá khứ. Sợ hãi gây ra lo lắng và băn khoăn, một phản ứng bình thường trước các hiểm nguy vật lý. Nó kích hoạt các hormone như adrenaline và cortisol, chúng khiến chúng ta luôn chú ý các nguy cơ vì chúng ta đang cần tập trung trọn vẹn vào việc thoát ra khỏi mối đe dọa.
Mức độ sợ hãi mà chúng ta cảm nhận phụ thuộc vào việc biên dịch nguy cơ và nhận thức cách điều khiển. Chúng ta càng cảm thấy vô dụng và dễ bị tổn thương bao nhiêu, cảm xúc sợ hãi càng mạnh bấy nhiêu.
Giả sử bạn đang đi dạo một mình lúc đêm khuya trên một con phố hoang ở thành phố New York. Bỗng nhiên bạn nghe thấy những bước chân phía sau bạn. Chuyện gì xảy ra? Ngay lập tức bạn cảm thấy đang rơi vào tình trạng tồi tệ nhất – cướp, cưỡng hiếp, v.v… Hệ thống thần kinh tự trị của bạn sẽ chuyển giao và chuẩn bị cho bạn chiến đấu hoặc chạy trốn. Phản ứng của bạn bắt đầu hình thành trong bộ não và kích hoạt một quá trình hóa sinh học. Nhịp tim, nhịp thở, áp suất máu, xung thần kinh và lượng đường trong máu bạn đều tăng lên. Hành vi thông thường khi bạn là nạn nhân của stress, cũng được nhận thức tương tự. Bạn phản ứng với nỗi sợ hãi trên một con phố hoang vì tiến hóa đã đóng gói vào trong não bạn và đăng ký nỗi đau khổ này cần nhạy cảm hơn bất kỳ cảm xúc nào khác. Bạn đã sử dụng “bộ nhớ” của quá khứ các tổ tiên của bạn – hệ thống sợ hãi nguyên thủy của bạn để chiến đấu hoặc chạy trốn.
Những gì chúng ta sợ hãi và cường độ phản ứng của chúng ta phụ thuộc vào các gene, kinh nghiệm sống, và tình huống cụ thể. Thoạt tiên bạn sẽ phản ứng theo bản năng, nhưng nếu tình huống này bạn đã có kinh nghiệm trước đó (vì não bạn đã được nối dây liên tục với các kinh nghiệm sống), phản ứng cuối cùng có thể bình tĩnh hơn. Bạn nhìn quanh và thấy một bà già đang dắt chó đi dạo. Hoặc bạn có lẽ sẽ chạy mất, vì bạn muốn tránh những tình huống như trong quá khứ khiến bạn đau đớn. Bạn càng được tiếp xúc với một kích thích càng nhiều, dù là thứ rất kinh khủng đi chăng nữa, ngưỡng chịu đựng sợ hãi của bạn càng cao. Nếu bạn đã từng đi dạo trên cùng con phố hoang này rất nhiều lần trước đó và nhận ra mỗi lần tiếng ồn đều từ bà già dắt chó đi dạo kia, bạn có lẽ sẽ không sợ hãi nữa. Trừ khi một điều gì đó kinh khủng đã xảy ra.

Thường thường các cảm xúc mang thông tin cảm tính giúp chúng ta ra quyết định tốt hơn. Ví dụ, tội lỗi có thể làm chúng ta ăn năn hối hận khi gây ra những việc sai trái, và ta sẽ sữa chữa. Nó cũng có thể khiến ta hợp tác. Sự thù ghét có vẻ cũng là một phản ứng với nguy hiểm bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật và nguy cơ bị làm hại. Xấu hổ cũng giúp ta tránh vài cám dỗ hay giảm rủi ro đối đấu trong nhóm. Người không thể trải nghiệm với các đáp ứng cảm xúc do não bị thương tổn, sẽ có thể không có khả năng học từ sai lầm hay lựa chọn một cách thức mạnh lạc.
(Trích Tìm kiếm trí khôn: Từ Darwin tới Munger - Peter Bevelin)

Hợp tác - Prisoner's Dilemma



Nếu con người không vị tha như bản chất tự nhiên, họ có thể hợp tác không?


Trợ giúp lẫn nhau có giá trị sống còn to lớn. Nhưng con người đã cộng tác với nhau trong hoàn cảnh nào? Trò chơi Prisoner’s Dilemma (Bài toán khó của tù nhân) có lẽ sẽ mở ra tia sáng cho vấn đề: Giả sử bạn và đối tác đồng ý đi ăn trộm. Cả hai bạn bị cảnh sát bắt và hỏi cung từng người một. Không đủ bằng chứng để kết tội bạn, trừ khi đối tác của bạn thú nhận. Điều tra viên cho các bạn lựa chọn hợp tác hoặc không.

“Nếu cả hai từ chối phạm tội, vẫn đủ bằng chứng đưa cả hai vào tù một năm.”
“Nếu cả hai thú nhận, cả hai cùng vào tù 3 năm.”
“Nếu bạn thú nhận nhưng đối tác của bạn từ chối, bạn được tự do còn đối tác của bạn sẽ đi tù 10 năm.”
“Nếu bạn từ chối nhưng đối tác của bạn thú nhận, bạn sẽ vào tù 10 năm.”

Bạn nên làm gì? Kết quả của bạn đều phụ thuộc vào những gì đối tác của bạn làm. Từ quan điểm của một người ngoài cuộc, có vẻ như tốt nhất là cả hai cùng chối tội (chỉ bị tù 1 năm). Nhưng từ quan điểm cá nhân của chính bạn, có vẻ như tốt nhất là thừa nhận (tự do). Vấn đề là bạn không biết đối tác của bạn sẽ làm gì. Nếu anh ta phản bội bạn, tốt hơn là bạn cũng phản bội anh ta và cùng nhận 3 năm tù, thay cho 10 năm nếu bạn chối tội còn anh ta thừa nhận. Nếu anh ta từ chối nhận tội, cũng vẫn tốt hơn là bạn nên thừa nhận vì bạn sẽ được tự do, hơn là 1 năm tù nếu bạn cũng không thừa nhận.
Vì cả hai cùng theo đuổi logic như thế và đều nhận tội, cả hai bạn sẽ đi tù 3 năm. Làm những gì bạn tin là tốt nhất sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ hơn nếu hai bạn cùng hợp tác và từ chối. Nhưng đây là một tình thế khó khăn. Bạn không biết liệu bạn có nên tin tưởng đối tác của mình hay không. Hợp tác chỉ có thể vận hành nếu bạn và đối tác của bạn tin tưởng lẫn nhau.
Các thử nghiệm cho thấy, nếu người ta chơi game thua lên thua xuống, họ học được một điều, sẽ có lợi hơn nếu hợp tác. Việc lặp đi lặp lại sẽ kiểm tra độ tin cậy. Tin tưởng là chìa khóa và rất mong manh. Nó có thể biến mất lúc nào đó. Tổng thống Mỹ thế kỷ 19 Abraham Lincoln đã viết: “Nếu bạn làm mất lòng tin của quần chúng, bạn không bao giờ có thể dành lại sự tôn trọng và yêu mến của họ. “
Cách khác tạo ra sự hợp tác là để cho các đối tác giao tiếp trong suốt trò chơi. Nói chuyện sẽ khích lệ việc cộng tác. Vì con người là động vật xã hội, họ có thể thay đổi hành vi của mình để người khác có lợi thế. Cuối cùng, vấn đề của lòng tin và trao cho các cá nhân lời khích lệ hợp tác.
Trong chương ba cuốn The Descent of Man (Nguồn gốc loài người), Charles Darwin viết:

Vào thời điểm hành động, con người không nghi ngờ nữa, sẽ hành động theo sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn; và dù đôi khi điều đó cũng có lẽ nhắc nhở anh ta hướng tới những hành vi cao quý nhất, nói chung nó vẫn dẫn dắt anh ta đi tới thỏa mãn các mong muốn cá nhân của chính anh ta nhiều hơn là chi phí cho người khác. Nhưng sau khi đã thỏa mãn bản thân, khi quá khứ và các ấn tượng trở nên yếu ớt hơn đối lập với những bản năng xã hội bất tận, việc trừng phạt chắc chắn sẽ đến. Con người khi đó sẽ cảm thấy bất mãn với bản thân, và sẽ giải quyết bằng ít hoặc nhiều nỗ lực hơn nữa để hành động khác đi trong tương lai. Đó gọi là lương tâm; khi lương tâm nhìn lại và phán xét quá khứ, trong đó có cả những loại bất mãn kia, nếu yếu đuối, chúng ta sẽ kêu gọi sự nuối tiếc, và nếu nghiêm trọng, sẽ ăn năn hối hận.

Nhưng chúng ta cũng phải nhận thấy giao tiếp có thể cũng lừa phỉnh. Con người cũng giả dối. Cũng như vậy, giao tiếp trò chuyện không phải hoàn hảo – có thể có lỗi hay hiểu nhầm.
Chiến lược được sử dụng hiệu quả trong một thời gian dài là một phiên bản hiện đại của “răng đền răng” hay TIT – FOR – TAT. Nó cho rằng, chúng ta nên hợp tác ngay từ lần gặp đầu tiên và sau đó làm bất kỳ những cái gì mà “đối thủ” của chúng ta đã làm trong quá khứ. Khi đối thủ của bạn hợp tác, chúng ta nên hợp tác. Khi đối thủ không hợp tác, chúng ta nên trả đũa. Rồi sau đó hãy tha thứ và quay lại hợp tác lần kế tiếp. Nó tưởng thưởng sự hợp tác đã qua và trừng phạt việc bỏ đi trước đây. Nó giả sử rằng trò chơi được lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác. Thực tế chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu chúng ta có gặp lại đối thủ đó trong tương lai hay không. Cũng như đối thủ, chúng ta cũng không biết khi nào trò chơi kết thúc, có vẻ công bằng. Tất nhiên, trò Prisoner’s Dilemma chỉ là trò chơi hai người. Thực tế thường là sự tương tác của rất nhiều người.
Có một nhóm các nhà khoa học nói rằng, chúng ta cư xử tốt hơn người khác – các con cháu họ hàng gần về mặt di truyền với chúng ta. Đó là sự chọn lọc nhân thân. Chúng ta hành xử vị tha với thân nhân mình vì họ chia sẻ các gene chung với ta. Các nghiên cứu chỉ ra rằng trong các loài có tính xã hội, họ hàng thường giúp nhau nhiều nhất. Hai cá thể càng gần gũi nhau về mặt di truyền, họ càng có khuynh hướng đối xử với nhau tốt hơn. Nếu bạn hy sinh điều gì cho con cái bạn, có lẽ sẽ tổn hại bản thân bạn, nhưng vì con cái của bạn chia sẻ các gene của bạn, hiệu ứng nói chung là vẫn tích cực. Các nhà khoa học cho rằng một thử nghiệm chọn lọc thân nhân là những gì chúng ta có thể làm nếu một người họ hàng và một người bạn tốt cùng sắp bị chết đuối. Chúng ta chỉ có thể cứu được một trong số họ. Điều gì xảy ra nếu một trong số họ là anh em họ hàng xa mà bạn chỉ gặp 2 lần, còn người bạn kia ngày nào cũng cùng bạn chơi đùa? Bạn sẽ cứu ai?

(Trích "Tìm kiếm trí khôn: Từ Darwin tới Munger" - Peter Bevelin)

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

Tìm kiếm sự khôn ngoan Từ Darwin tới Munger (bản dịch tiếng Việt) - Peter Bevelin

"Đọc và hiểu tác phẩm này sẽ giúp bạn có lợi thế hơn những người khác trong cuộc sống, cho dù đó chỉ là những lợi thế rất nhỏ. Tuy nhiên, đôi khi những khác biệt nhỏ giữa mỗi người lại tạo ra sự chênh lệch rất lớn trong cuộc sống về sau."


Link free download



Trích từ tác phẩm:



"Cuộc đấu tranh để sinh sản đôi lúc có thể có những hiệu ứng đặc biệt. Trong tự nhiên, mọi thứ không phải luôn luôn là những gì chúng có vẻ như thế.
Một con kiến trèo lên đầu một ngọn cỏ, ngã xuống, rồi lại cố thử đi thử lại… cho đến khi một con cừu đến và xơi luôn ngọn cỏ (và cả con kiến). TẠI SAO con kiến cứ mãi cố chấp trèo lên ngọn cỏ? Con kiến có lợi gì?
Không có lợi gì đối với con kiến. Đây là hành vi được thao tác bởi một loại sâu bọ ký sinh có nhu cầu đi vào ruột cừu để sinh sản. Bằng cách trưng dụng vật chủ tức thời là con kiến để trèo lên các ngọn cỏ, ký sinh trùng sẽ làm tăng cơ hội con kiến bị động vật ăn cỏ ăn thịt. Lợi ích ở đây là sự thành công về mặt sinh sản của ký sinh trùng, chứ không phải con kiến. Một loại ký sinh trùng khác, Toxoplasma, chỉ có thể sinh sản trong cơ thể mèo. Nó làm cho con chuột mất đi nỗi sợ hãi được kế thừa với loài mèo (mùi mèo) và sau đó khiến cho con chuột kết thúc trong bữa tối của một con mèo. Một loại ký sinh trùng khác làm cho cá bơi trong những vùng nước nông khiến chim có thể bắt được chúng, vật chủ cuối cùng của loại ký sinh trùng này.
Hầu hết động vật (gồm cả con người) làm vài việc để thu hút giới tính đối lập. Do chọn lọc tự nhiên tuyệt đối chỉ dành cho sinh sản trong một thế giới hữu hạn bạn tình, vài cá thể có năng lực tìm kiếm bạn tình tốt hơn những cá thể khác. Những cá thể có lợi thế trong thu hút bạn tình tiềm năng sẽ được “chọn lọc”. Những đặc điểm nào khiến chúng có lợi thế? Những đặc trưng giải phẫu hay hành vi nào sẽ thu hút được bạn tình khác giới hay đe dọa các đối thủ?
Darwin nhận thấy rằng nhiều đặc điểm giải phẫu và hành vi không có bất kỳ giá trị sống sót nào nhưng có thể đóng vai trò quan trọng trong thu hút bạn tình. Sức mạnh và vẻ đẹp là những dấu hiệu như vậy. Ông gọi cơ chế này là chọn lọc giới tính. Ví dụ, màu sắc phát sáng tạo ra sức hút giới tính giữa các con bướm. Và gà mái thích những con gà trống có đuôi to và đầy màu sắc.
Trong cuốn Parental Investment and Sexual Selection (Đầu tư của cha mẹ và chọn lọc giới tính), nhà sinh học Robert Trivers nói rằng sức mạnh đằng sau chọn lọc giới tính là đầu tư của cha mẹ, hay “một loại đầu tư nào đó của cha mẹ cho một cá thể của thế hệ con cháu để gia tăng cơ hội sống sót của con cháu (và do đó cả khả năng sinh sản thành công) với cái giá là khả năng đầu tư của cha mẹ cho một cá thể con cháu khác.”
Nam cần thu hút nữ. Nhưng họ cũng cần phải làm cho những người đàn ông khác tránh xa khỏi người phụ nữ “của họ”. Một phụ nữ phải đầu tư vào mỗi một trong các con của cô ấy. Đó là chín tháng mang thai và nhiều năm sau đó nữa để chăm con. Cô ấy đầu tư thời gian, năng lượng và làm tăng khả năng chết sớm của cô ấy. Có vài giới hạn trong việc có bao nhiêu đứa con cô ấy có thể sinh trong suốt cuộc đời. Một người đàn ông có ít chi phí hơn trong sinh sản. Anh ta có thể tương tác với nhiều phụ nữ và tạo ra một số lượng con khổng lồ. Anh ta không cần phải ở bên chúng suốt ngày. Nhiều phụ nữ có thể nuôi lớn con mà không cần trợ giúp.

Vì mục tiêu của tiến hóa là sinh sản, người đàn ông sẽ muốn quan hệ tình dục với càng nhiều phụ nữ càng tốt. Điều này gây ra sự cạnh tranh giữa đàn ông vì phụ nữ. Làm thế nào một người đàn ông trừ bỏ được cuộc cạnh tranh này? Anh ta phải làm bản thân cuốn hút hơn với phái nữ hoặc anh ta có thể bị loại khỏi cuộc cạnh tranh.
Thành công sinh sản của phụ nữ không phụ thuộc vào việc cô ta quan hệ với bao nhiêu đàn ông, mà là khả năng cô ta có cơ hội sử dụng các tài nguyên (như thức ăn, nơi trú ẩn, và sự bảo vệ) cho bản thân và các con của cô ta. Phụ nữ do đó phân biệt đối xử hơn đàn ông. Cô ta không thể lấy ngay anh chàng đầu tiên. Điều này làm cô ấy phải cạnh tranh với những người khác để sử dụng tài nguyên. Một người đàn ông được công nhận là giàu có và địa vị là một lợi thế. Vì thế các lựa chọn bạn tình (thể hiện như những ưu đãi vô thức) sẽ bị tác động bởi thực tế rằng phụ nữ gặp nhiều đe dọa hơn đàn ông.
Năm 1989, Giáo sư tâm lý học David Buss xuất bản một nghiên cứu với hàng nghìn đàn ông và phụ nữ từ 37 nền văn hóa trên thế giới, chỉ ra xếp hạng các chỉ tiêu quan trọng nhất khi lựa chọn ai đó để hẹn hò hay kết hôn. Phụ nữ nhấn mạnh vào triển vọng tài chính của bạn tình tiềm năng. Phụ nữ cùng thích những người đàn ông có tham vọng và siêng năng hơn. Phụ nữ thích đàn ông già hơn mình. Đàn ông thích phụ nữ trẻ hơn mình. Đàn ông xếp hạng cho sức hấp dẫn cơ thể cao hơn phụ nữ. Nghiên cứu cũng cho thấy đàn ông cảm thấy ghen tuông nhất khi người phụ nữ của anh ta quan hệ tình dục với bất kỳ ai khác. Phụ nữ cảm thấy ghen tuông nhất khi người đàn ông của cô ta bị cuốn hút về mặt cảm xúc từ bất kỳ ai khác.
Các nghiên cứu đã cho thấy sự khác nhau giữa các giới tính. Phụ nữ ít có khuynh hướng chấp nhận rủi ro. Họ bị tác động nhiều hơn nếu mất mát xảy ra. Họ ít cạnh tranh hơn và có ý thức về địa vị. Những nghiên cứu khác cũng cho thấy đàn ông và phụ nữ khác nhau trong hành vi và khả năng nhận thức. Vài khả năng trong số này phản ánh sự biến đổi hormone tác động đến sự phát triển của bộ não. Giống như hầu hết những thứ khác, điều này phụ thuộc hoàn cảnh.  "