Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

Luận Anh Hùng-Cheryl Pham: Chương Mười Tám-Nửa đời hào kiệt, nửa đời gian



Chương Mười Tám: Nửa đời hào kiệt, nửa đời gian

Hào kiệt năm nào ai hay
Vương thất đạo hạnh có ngày tiện ti

Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập trở về, được y sư tận tình chữa trị và bồi bổ, tinh thần lẫn thể chất cường tráng trở lại chỉ sau hai tháng. Em trai gợi ý, nay thê thiếp đã mất hết, Thiên Sách Vương đồng ý cưới thêm hai thê tử: tiểu thư nhà Nguyễn gia và Lôi gia – hai đại gia tộc đều đang chống lưng mấy sứ quân không thần phục nhà Ngô. Sau đều phong hai nàng làm hậu.
Hơn hai tháng trôi qua, so sánh với dàn phi tử xinh đẹp động lòng người của em trai, thấy hai nàng này đều không bằng, Thiên Sách Vương không khỏi phiền muộn. Vua nghĩ mình chịu sáu năm khổ sở trong hang hốc, sống như thú hoang, còn em trai mình thì cẩm y ngọc thực, mỹ nữ hầu hạ. Vua thấy vô cùng bất mãn cuộc đời bất công, muốn thụ hưởng cho bõ những ngày cơ cực. Vua mở tiệc chiêu đãi văn võ bá quan và phú thương kinh thành suốt gần chục ngày trời, đòi lập hậu cung của riêng mình. Lại cho người tuyển thêm 20 mĩ nữ trẻ đẹp nhất Giao châu làm phi tần. Sau vua cấp thêm một chức quan, gọi là Ty giám, chuyên đi nghe ngóng khắp nơi, nếu thấy có con gái nhà nào xinh đẹp, chưa thành gia thất, thì đều đưa về hậu cung để vua sủng hạnh. Đến cuối năm, hậu cung đã có tới 50 phi tần.
Nam Tấn Vương nghĩ nhu cầu sinh lý của anh mình từ trước vốn hơn người, nên giả mắt điếc tai ngơ, ngầm đồng ý.
Tĩnh Hải khi đó có hai vua cùng trị, nhưng Thiên Sách Vương mới về kinh, phải lo điều dưỡng và tầm hoan, nên hầu như ít khi lâm triều. Chính sự chủ yếu vẫn là Nam Tấn Vương lo liệu. Trận đánh Đinh Bộ Lĩnh là việc duy nhất Thiên Sách Vương động tay làm trong cả một năm đầu tiên cai trị. Trận này thua khiến vua càng không có mặt mũi nào mà ra lâm triều, gặp những ánh mắt cổ quái, khinh khi của bá quan. Hai thừa tướng đều lấy sự này làm may mắn.

Sang năm Nam Tấn Vương thứ 2 (952), Thiên Sách Vương có tham gia đánh thêm vài đám loạn dân nữa. Nhưng đến giữa năm, vua suýt chết trên giường vì túng dục quá độ, phải nằm một chỗ điều trị suốt ba tháng trời. Tin này bị em trai cho người giữ kín. Nhưng lửa không giữ được khói, chả mấy chốc cả triều đều biết. Tiếng xấu này sau còn lan khắp Tĩnh Hải, sang tận Chiêm Thành và Nam Hán. Khắp thôn cùng ngõ hẻm, trẻ con lẫn người già đều thuộc một đống vè kể về thành tích hoang dâm vô độ của vua.
Ve vẻ vè ve
Cái vè Thiên Sách
Vua tôi hống hách
Đòi lập hậu cung
Bảy đêm tiệc tùng
Thâu đêm suốt sáng
Mỗi ngày trong tháng
Vui vầy cung phi
Năm chục nữ nhi
Vẫn không thấy đủ
Tầm hoan vô độ
Vua tôi liệt giường
Ba tháng đau thương
Vua không dựng nổi
Vua tôi lắm nỗi
Tôi kể mà nghe.
Vua nghe được mấy lời này, tức giận công tâm, đánh phạt tất cả đám người hầu hạ quanh mình.

Năm Nam Tấn Vương thứ 3 (953), Kiều Thuận thu thập đủ binh mã, xưng Kiều Lệnh Công, dấy binh làm loạn Phong châu.
Tháng 4, Nam Tấn Vương dẫn 3.000 binh đi đánh, bị thua phải quay về.
Tháng 6, Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Man và Phạm Bạch Hổ dẫn 5.000 binh đi đánh, lại thua tiếp, quay về.
Tháng 7, Kiều Thuận chiếm thêm ba châu ấp ở Phong châu. Thứ sử Phong châu sợ hãi, liên tục dâng sớ cầu cứu triều đình.
Tháng 8, Nam Tấn Vương cùng Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đi đánh, lại thua quay về.
Nam Tấn Vương đau đầu không thôi, ngày đêm lo lắng không ngủ được.
Ngô Nhật Kha từng có thời gian trấn thủ Phong châu, cũng không có cao kiến gì giúp vua, chợt y nghĩ ra một ý, bèn xin gặp Nam Tấn Vương, tâu:
-         Thưa bệ hạ, ngài đã quên mất một người. Trong triều ta, người dẹp yên phỉ rợ và loạn dân ở Phong châu nhiều kinh nghiệm nhất chính là người này.
Nam Tấn Vương sáng mắt, vội vã hỏi:
-         Là ai vậy?
-         Chính là Thiên Sách Vương.
Vua nghe thế, gật gù, nhưng cũng thở dài não nề, than:
-         Ngươi không thấy anh ta ngày ngày chỉ vui chơi, đâu có quan tâm tới chính sự triều đình.
-         Bệ hạ, dẫu không quan tâm nhưng uy danh vẫn còn đó. Ngày trước ngài ấy từng không đánh mà khiến cả lũ loạn dân Phong châu thần phục, Kiều Thuận cũng phải cống nạp lễ vật xin kết minh. Nay chỉ cần ngài ấy ra mặt, tất sẽ khiến lũ thảo khấu kia sợ vỡ mật. Không khiến chúng quy hàng thì cũng phải bại trận lui binh.
-         Được, để ta tới gặp anh ta.

Nam Tấn Vương đi gặp anh trai, kể rõ sự tình. Thiên Sách Vương nhớ tới mấy lần bị Kiều Thuận hại, cơn tức giận lại nổi lên. Xong nhớ ra bản chất vấn đề bình định Phong châu năm xưa, Thiên Sách Vương ngẫm một lúc rồi bảo em:
-         Kiều Thuận năm xưa bao lần hại ta, ta rất hận hắn. Thực ra ta cũng chưa giáp mặt đánh thực sự với hắn trận nào. Hắn qui hàng chỉ là mưu kế hòng lợi dụng ta, dâng lễ vật làm ô danh ta, khiến thiên hạ hiểu nhầm ta cùng hắn liên minh. Nay ta nghĩ kỹ rồi, người có thể khiến Thuận sợ, chỉ có Dương Tam Kha và Lã Xử Bình. Sinh thời Tiên Vương cai trị, Tam Kha từng đánh hắn hai lần, suýt bắt sống được. Khi Kha cai trị, cũng một lần cho người đánh hắn hoa rơi nước chảy, còn một lần y thân chinh đi, nghe nói cũng khiến Thuận suýt vong mạng, hơn hai năm sau mới thấy tái xuất giang hồ.
Nam Tấn Vương nghe thấy thế thì sợ hãi bảo:
-         Nhưng Dương bá phụ ta không thể dùng được. Còn Lã Xử Bình, hơn chục năm nay y không cầm quân ra trận lần nào, có khi còn chẳng cầm nổi gươm ấy chứ. Ta phải làm sao đây?
-         Hừm, Thuận cả đời đều bại trong tay hai người này, nên rất sợ bóng sợ gió. Em xem có thể lợi dụng uy danh của hai người này không? Xử Bình không thạo binh đao, nhưng lắm mưu nhiều kế, kiểu gì chẳng nghĩ ra cách.
-         Trên triều, hắn không có ý kiến gì về loạn lần này. Trong con mắt hắn, chỉ có đám binh nhỏ xíu của Đinh Bộ Lĩnh mới đáng bận tâm. Hắn khuyên em nên diệt Lĩnh, còn Thuận thì cứ kệ đó. Hắn bảo, tên ấy có nổi lên làm vài trận phong ba cũng không lấy nổi Phong châu. Nhưng Lĩnh thì đã thiết lập quan hệ với hầu hết đám loạn thần tặc tử xung quanh, lại được Trần Lãm coi như con, cho làm thân tín. Đây mới là cái họa lớn cần diệt ngay.
-         Nếu hắn đã nói vậy, tất có cách diệt Kiều Thuận. Em cứ cho hắn dẫn binh đi, ắt hắn phải tự nghĩ kế.
-         Được, em sẽ nghe theo anh. Còn Đinh Bộ Lĩnh, anh thấy sao? Ngô thúc bảo Bình chỉ có cái nhìn của văn sĩ, tạo quan hệ thì chưa đáng sợ, sợ nhất là binh lực. Nay Lĩnh là người dưới trướng Trần Lãm, chỉ cần cho người để ý, mua chuộc Lãm như thường làm là đủ.
-         Ta cũng nghĩ như Ngô thúc. Lĩnh là kẻ lòng dạ độc ác, đến con cũng dám giết. Kẻ như thế sao được lòng người mà đòi mưu sự lâu dài. Không cần bận tâm.

Tháng 10 năm Nam Tấn Vương thứ 3 (953), hai vương cùng lâm triều, ra chiếu cử Tả Thừa tướng Lã Xử Bình đi đánh Kiều Thuận trước sự kinh ngạc của bá quan văn võ. Xử Bình đồng ý, lại xin thêm Phạm Bạch Hổ đi cùng. Hai vương đều ân chuẩn.
Tháng 12, Bình và Bạch Hổ dẫn binh về kinh, mang theo Kiều Thuận bị bắt sống. Hai vua hỉ hả, khen thưởng Bình và Bạch Hổ hậu hĩnh.
Nhưng việc xử lý Thuận thế nào lại khiến hai vua nảy sinh mâu thuẫn gay gắt. Nam Tấn Vương muốn giết. Thiên Sách Vương muốn tha chết, dùng đại nghĩa cảm hóa hắn. Văn võ bá quan đều ủng hộ Nam Tấn Vương. Đến cả anh trai Thuận – Hữu tướng Kiều Tri Hựu cũng đồng tình giết. Thiên Sách Vương thấy không ai triều ủng, tức giận long nhan, bỏ triều ra về.
Nam Tấn Vương thấy vậy, cho bãi triều, sau ngẫm đi ngẫm lại, thấy có gì không đúng, bèn đi hỏi Xử Bình:
-         Tại sao anh ta muốn tha Kiều Thuận, kẻ mà anh ấy từng hận không tự tay phanh thây xé xác?
-         Thuận từng bắt cóc Thiên Sách Vương bán cho Nam Hán đổi lấy bạc. Nhưng y cũng có công lớn khiến ngài ấy không đánh mà bình loạn Phong châu, khiến Ngô tiên vương thay đổi cái nhìn về Thiên Sách Vương, rồi giữ lại ý định truyền ngôi cho ngài ấy. Sau này, ta có nhận được tin báo Thuận chính là người đã bắt được rồi tha mạng Thiên Sách Vương, lại chỉ ngài ấy tới nương nhờ Phạm Lệnh Công. Vương là người trọng tình nghĩa, có ơn tất báo. Hai ơn lớn thế, ngài ấy sao đành lòng giết hắn?
-         Thì ra là vậy.
Nam Tấn Vương tường tận sự việc, bèn tới khuyên anh:
-         Ta hiểu lòng anh vấn vương ân nghĩa với Kiều Thuận. Nhưng hắn là kẻ có dã tâm, lại không thần phục nhà Ngô chúng ta, đối đầu cùng triều đình hơn mười năm qua, gây bao đổ máu, chết chóc và thiệt hại. Nay nếu tha cho hắn, chỉ vì ân của hắn với riêng mình anh, hẳn bá tánh sẽ không phục.
-         Ngươi nói thế vì ngươi không trải qua sinh tử như ta. Lúc ta tuyệt vọng vì bị nghi kị của cả phụ vương, chính hắn cũng là kẻ giúp ta lấy lại tâm ý của người. Lúc cả thiên hạ đầu phục Dương Tam Kha, coi hắn là vua mà truy diệt ta, chỉ có con người này, dù kình địch cũng không buồn giết, lại thả cho ta đường sống. Phản tặc như hắn mà còn biết đạo quân thần, nghĩa vua tôi, thử hỏi bao kẻ trung thần nghĩa sĩ kia mấy ai làm được? Nếu ngươi khăng khăng giết hắn thì tất không còn nể mặt người anh cả này nữa. Thế chi bằng giết luôn ta đi.
-         Sao ta có thể làm thế? Anh đừng giận quá mất khôn.
-         Ngươi vì lấy lòng lũ quan tướng kia mà không đoái hoài đến huynh đệ. Lúc ta thập tử nhất sinh thì ngươi ở đâu? Hắn cứu mạng ta, duy trì được huyết mạch Tiên vương, là công thần của nhà Ngô, thế mà ngươi muốn triệt. Hãy hỏi lương tâm ngươi xem làm thế có xứng ngôi vương không? Phụ vương cả đời ân đền oán trả, nay ngươi đối xử với ân công như thế, người có đau lòng không?
Nam Tấn Vương không khuyên nổi anh, hậm hực đi về.
Mấy phiên triều sau, Thiên Sách Vương đều tham dự, một mực phủ quyết hành hình Kiều Thuận, lại tỏ rõ uy quyền muốn nắm giữ mọi sự vụ, khiến Nam Tấn Vương và văn võ bá quan nhiều người tức giận khôn nguôi. Cuối cùng, Thiên Sách Vương hỏi Xử Bình:
-         Ngươi đọc nhiều sách vở, lại tự cho mình biết đạo làm người. Vậy ta hỏi ngươi, kẻ cứu mạng thiên tử thì thế nào?
Xử Bình đáp:
-         Trung quân ái quốc, đức cả vô thường, công lao sánh cùng thiên địa.
Thiên Sách Vương hỉ hả gật đầu ra lệnh:
-         Tốt, tốt. Xưa Kiều Thuận cứu mạng ta. Công lao hắn đúng là sánh cùng thiên địa. Nay y chỉ là phường tặc nhân, nổi dậy can qua, đến ngươi cũng cho là không đáng để vào mắt, y lại bị triều ta đánh cho tan tác, thân bại danh liệt, chẳng còn gì. Tội y cũng chỉ là tội lũ phỉ rợ, nhưng công y như hải hà, bồ tát. Xét công chuộc tội, ta tuyên bố tha chết cho y, phạt 30 trượng, đuổi đi biệt xứ xuống biên giới Chiêm Thành. Bay đâu, cứ thế mà y lệnh!
Nam Tấn Vương bên cạnh, dù tức giận, nhưng không muốn huynh đệ mâu thuẫn khiến bá quan cười chê, đành im lặng ngầm chấp nhận.
Thế là Kiều Thuận thoát chết, được giải tới Phúc Lộc châu. Tại đây, chưa đầy sáu tháng sau, thân tín của hắn và Kiều gia lại tới giúp hắn trốn thoát về Hồ Hồi, thu thập tàn quân, dựng cờ chiêu binh trở lại.

Năm Nam Tấn Vương thứ 4 (954).
Lại nói chuyện ở Cổ Loa. Kể từ sau sự vụ Kiều Thuận, Thiên Sách Vương cảm thấy mình bị em trai và mọi người khi dễ thì phẫn nộ, lại thấy em trai thực ra cũng chỉ là quả hồng mềm, mình cứng tất nó phải buông, liền quyết định tăng cường quyền lực và sức ảnh hưởng, đồng thời không ngừng tìm cách áp chế em trai. Nhà vua do đó rất đều đặn thiết triều, ra lệnh mọi sự vụ của Tĩnh Hải các quan lại phải báo cáo cho mình, có phê chuẩn của vua thì mới được thi hành; ai vi phạm, lỗi nhẹ đánh 50 trượng, nặng thì xử trảm, nặng nữa thì tru di ba họ. Vua lại lôi kéo các tướng họ Ngô, khiến họ đều về phe mình. Ngay cả Thống lĩnh cấm vệ quân Ngô Nhật Kha, vốn dĩ là thân tín nhất của Nam Tấn Vương, nay cũng đứng về phe Thiên Sách Vương.
Hai vua tranh chấp, bất đồng và cãi nhau ngày càng nhiều. Đám quan tướng nhiều lúc chẳng biết phải xử lý thế nào. Sự vụ đình đốn. Dân tình nhiều nơi oán thán khôn nguôi. Đến tai Nam Tấn Vương, vua hậm hực bảo:
-         Nay anh em ta tranh chấp thế này, dân chúng trăm họ sẽ khổ sở. Chi bằng ta tự rút lui khỏi chính sự, để anh ta toàn quyền điều hành.
Nam Tấn Vương sau đó không thiết triều nữa, để một mình Thiên Sách Vương cai trị Tĩnh Hải.
Dương Thái hậu biết chuyện, lo cơ nghiệp nhà Ngô sớm sụp đổ, Thái hậu suốt ngày lên chùa tụng kinh niệm phật, cầu an cho xã tắc và hưng thịnh cho nhà Ngô.

Thiên Sách Vương kể từ lúc nắm toàn bộ quyền hành, liền chuyên quyền độc đoán, sinh tâm nghi kị bề tôi, chỉ trọng dụng thân tín trong họ. Vua tước bớt quyền hành của Tả tướng và Hữu tướng, khiến Kiều Tri Hựu giận dữ không thèm vào thiết triều gần một tháng liền. Các tướng tá họ Ngô đều được giao các chức vụ quan trọng. Bác họ Ngô Nhật Khiêm chẳng bao giờ làm quan cũng được vua mời về triều giữ chức Thủ Lĩnh đội cận vệ. Tướng quân Ngô Nhật Kha kiêm giữ nhiều chức vụ lớn: thống lĩnh cấm vệ quân, thống lĩnh đại quân cơ yếu đóng ở Đại La, lại làm thứ sử Giao châu, đồng thời là tham mưu chính cho nhà vua, thay cho Lã Xử Bình. Nhật Kha ngày một lộng quyền, mang theo cả con trai Ngô Nhật Khánh mới 8 tuổi cùng luyện binh, thiết triều, xử lý công vụ, cũng chẳng ai dám oán thán ra mặt.

Thấy nội loạn khắp nơi, tô thuế thu được ít hơn hẳn năm trước, sự vụ ngày càng đình đốn, bá quan thường xuyên tìm lý do mà vắng mặt trên triều, vua bàn với Ngô Nhật Kha:
-         Nam Tấn Vương giở trò không thiết triều, hòng lôi kéo đám thân tín làm theo, hạ nhục uy danh của ta. Rõ ràng ngôi vị này chính danh là của ta, mà sao nay ai cũng chạy ra đầu phục hắn. Ta phải làm sao để bắt đám người kia trở vào qui củ?
Nhật Kha ngẫm nghĩ một lúc rồi tâu:
-         Thưa bệ hạ, đây là do chuyện Tĩnh Hải ta một lúc có tới hai vương cùng trị. Trước ngài chỉ hữu danh vô thực, để em ngài độc quyền, sẽ không có sự biến gì. Giờ ngài cũng muốn làm vua thực sự. Một núi không thể có hai hổ. Nên khi có, tất sẽ đả nhau đến thân bại danh liệt, một mất một còn. Ngài có chính danh. Em trai ngài có nhân tâm. Mà cái ngôi này rốt cuộc chỉ thuộc về một người thôi. Nay Nam Tấn Vương đã ra tay. Nếu ngài không có động tĩnh đáp trả mạnh tay hơn, e là sẽ sớm bại.
Thiên Sách Vương nghe thế thì sợ quá, bảo:
-         Ta phải làm sao bây giờ?
-         Thân là người trong hoàng tộc, luận đại sự, không có anh em, chỉ có đồng minh. Em trai ngài đã trở mặt, không còn là đồng minh, mà là kẻ thù của ngài rồi. Ngài cũng nên tức thời mà nghĩ kế để bảo vệ vương vị.
-         Vương vị này đáng giá đến thế kia ư? Khiến anh em ta trở mặt thành thù? Nếu nó muốn, ta sẽ chia bớt quyền lực cho nó, ta chỉ cần tính mạng và vinh hoa phú quí.
-         Ngài đã bước chân lên vương vị thì không còn đường lùi nữa rồi. Ngài mấy năm u mê trong sắc dục và rượu chè, đột ngột ra tay đoạt lại binh quyền như tố lốc. Ai sẽ tin ngài không lắm mưu nhiều kế, chỉ muốn an phận hưởng thụ vinh hoa? – Nhìn gương mặt tái xám như tro tàn của Thiên Sách Vương, Nhật Kha lại bồi thêm mấy câu nữa - Giờ tính mạng và cuộc đời ngài gắn liền với vương vị. Ngài còn, vương vị còn. Ngài mất ngôi, thì cũng vong mạng. Nay ta cùng phe cánh với ngài. Tính mạng ta cũng đi liền với ngài. Mong ngài ra lệnh, ta sẽ nghe theo.
Ngập nhắm mắt lại, mệt mỏi thở dốc. Rồi cho Kha lui ra để vua suy nghĩ.
Hôm sau thiết triều, có cấp báo từ Ái châu, nội loạn nổ ra ở mấy quận huyện, trong đó có cả thôn Đường Lâm, đất tổ nhà Ngô. Loạn dân tuyên bố nếu Xương Ngập không thoái vị, sẽ đánh lên tận kinh thành. Dưới thư còn có lạc khoản của mấy nhà họ Ngô và họ Dương.
Thiên Sách Vương nhìn mà tức nổ mắt. Lũ hỗn láo dám lôi cả tên húy của vua ra phẩm bình. Lại còn Ngô gia và Dương gia cùng ra mặt, thế thì ắt hẳn Nam Tấn Vương động chân động tay. Vương nghiến răng nghiến lợi, lòng thầm oán hận em trai.
Tối đó, vua lại cho mời Nhật Kha tới hội ý. Nhật Kha đọc thư của loạn dân xong thì đỏ mắt, thống thiết tâu với vua:
-         Thưa bệ hạ, ta thật lo lắng cho những ngày sắp tới của ngài. Đây mới chỉ là khởi đầu. E rằng sóng to gió lớn còn ở phía sau kia. Từ hôm nay, ta sẽ bí mật điều một đạo quân vào thường trực bên ngài, để bảo vệ an nguy, phòng vạn nhất…
-         Im!
Thiên Sách Vương mặt cắt không còn hột máu. Vua ngồi trên ghế rồng im lặng một lúc. Khi đã bình tĩnh trở lại, vua hỏi Nhật Kha:
-         Muốn diệt Nam Tấn Vương, nên làm thế nào?
Ngô Nhật Kha mắt sáng lên, sau làm bộ suy tư, rồi thì thầm vào tai vua một lúc lâu. Đêm đó hai người nhẹ nhàng bàn tính, đạt thành hiệp nghị.

Tháng 6 năm ấy, Nam Tấn Vương bị hành thích đúng vào lễ sinh thần(1). Rất may Tả tướng Lã Xử Bình và Dương Huy đến cứu kịp, nên vụ hành thích thất bại.
Số là Nam Tấn Vương tuy lui ra hậu đài, nhưng vẫn muốn duy trì ảnh hưởng và tỏ tường chuyện thế sự. Nhân dịp lễ này, vua cho mời đông đủ quan lại có vai vế và những phú thương hàng đầu đất Tĩnh Hải tới để củng cố quan hệ và nghe ngóng thêm tin tức. Buổi lễ yến tổ chức rất trang trọng linh đình ở trong cung, đúng tầm uy thế vương giả của một vị vua. Đêm đó, người đông như nước, áo quần như nêm. Có thêm đội cấm vệ quân của Ngô Nhật Khiêm bảo vệ.
Sau nửa đêm, vua anh say xỉn, được người khiêng về cung trước. Một số quan tướng nhân đó cũng xin cáo từ. Còn quan khách đã ngà ngà say, bên cạnh lại có giai nhân tú lệ, ca múa yên hoa như sương như trăng, thổn thức cả lòng người. Ai nấy đều muốn quên hết mọi sự trên đời. Bỗng nhiên, tiếng đàn hát bỗng dưng im bặt, đám ca múa vốn tô son trát phấn, vẽ mặt nạ đủ loại kỳ quái, bỗng hết thảy đứng lên rút gươm, lao thẳng tới chỗ Nam Tấn Vương đang say sưa bên sủng phi. Rất may tướng quân Dương Huy, cũng là một khách mời hôm đó, nhanh tay nhanh mắt ra tay cứu giá. Cả lễ yến nhốn nháo, bỏ chạy tán loạn vì sợ hãi. Mấy tướng lĩnh rút gươm đánh nhau với thích khách, hòng chặn đường, bảo vệ vua tôi. Nàng sủng phi bị chém đôi người, còn nhà vua chạy thoát.
Vua nhặt được thanh kiếm của thích khách mà Huy hất tới cho, cũng vừa chạy vào hậu cung, vừa đánh. Dương tướng quân yểm trợ chặn địch phía sau. Hai người cứ thế vừa đánh vừa chạy với hơn hai chục thích khách giả trang ca kỹ. Nam Tấn Vương và Dương Huy đều thương tích đầy mình. Lúc một tốp cấm vệ quân đi tới, nhà vua tưởng được cứu, nhưng thấy chúng rút kiếm, lao tiếp vào nhà vua, Nam Tấn Vương biết bị phục kích nơi này, bèn nhanh chân đổi hướng chạy vào hậu chính điện. Dương Huy một mình ở lại, cản cả đám địch nhân.
Lúc vua chạy tới chính điện, đã sức cùng lực kiệt, thấy một đám đao kiếm đi tới, là Lã Xử Bình dẫn đầu. Bình hô to:
-         Bảo vệ bệ hạ! Bắt lấy thích khách! Bắt lấy thích khách!
Vua vừa khuỵu xuống đã được Bình giữ lấy. Binh lính chia hai nhóm, một đội vây bọc bảo vệ vua, một đội đi lùng bắt thích khách. Y sư nhanh chóng được triệu tới.
Hóa ra Xử Bình ngồi đối ẩm bên ngoài dạ yến với mấy lão tướng, thấy trong có biến, lại thấy cấm vệ quân bảo hộ lễ yến đứng yên không nhúc nhích, biết là không hay, bèn bảo Kiều Tri Hựu lúc đó vẫn tỉnh táo, phát tín hiệu cấp cứu. Quân lực dự phòng đóng gần đó dưới trướng Hữu tướng nhanh chân chạy tới, diệt sạch đám cấm vệ quân cản trở, mới cứu được một màn. Thích khách bắt sống được 27 tên, còn lại đều bị giết. Nhưng qua một đêm giam giữ, tất cả chúng cũng bị độc chết. Không thể tra ra manh mối gì.
Nam Tấn Vương may mắn chỉ bị thương bên ngoài, tĩnh dưỡng một tuần là đi lại được. Dương Huy thương tích nặng hơn nhiều, lúc đó tưởng không qua khỏi. Sau mấy lần hôn mê suýt chết, cuối cùng cũng được trời phù hộ mà về với nhân thế. Lão tướng Dương Cát Lợi bạc cả đầu chỉ sau một đêm trông cháu nội. Nam Tấn Vương và Dương thái hậu vô cùng cảm kích, cho người mang tới rất nhiều thuốc quí và vàng bạc.
Việc kinh hách này cũng khiến Thiên Sách Vương hết sức bất bình. Vua giao cho Ngô Nam Nhạc điều tra tường tận, còn tuyên bố trước triều đình, nếu bắt được kẻ nào liên quan, quyết giết không tha.

Nam Tấn Vương lúc ở trên giường bệnh, nhìn mẫu thân và hoàng hậu khóc đến chết đi sống lại, không khỏi phiền não, đuổi đi để dành thời gian tĩnh dưỡng. Vua ngẫm nghĩ mấy ngày, thấy cấm vệ quân là đáng ngờ nhất. Nhưng đó là quân dưới trướng Ngô gia, do hai kẻ thân tín nhất trong họ nắm quyền. Anh cả Xương Ngập say rượu, lui đi từ giữa yến tiệc. Không ngờ trong lúc cấp bách, chỉ có hai người cứu mình là Dương Huy và Lã Xử Bình, còn tướng tá Ngô gia cùng thân tín chiếm gần nửa lễ hội lại không thấy bóng ai. Quá nhiều hoài nghi.
Vua âu sầu mãi, nghi kị khiến lòng càng hoang mang. Cuối cùng mệt mỏi, vua kín đáo cho mời Xử Bình tới hỏi chuyện.
-         Theo khanh, kẻ nào muốn hại ta?
Bình từ tốn đáp:
-         Tâu bệ hạ, kẻ có thể trà trộn vào lễ yến của vua, lại điều khiển được cấm vệ quân, biết được đường lối trong phủ chúa mà tập kích, sau lại không phong phanh hạ độc toàn bộ thích khách bị bắt sống trong đại lao của hoàng cung, hẳn lòng người đã có đáp án.
-         Chỉ là ta vẫn không muốn tin. – Nam Tấn Vương thở dài, nước mắt cứ vậy mà trào ra – Ta dùng hết lòng hết dạ đối đãi với hắn, nhún nhường chiều theo mọi trò ngang tai trái mắt của hắn, những tưởng bù đắp cho hắn những năm cơ cực,  hàn gắn tình anh em.
Đợi vua bình tĩnh hơn, Bình hỏi:
-         Nay sự đã thế, bệ hạ tính thế nào?
-         Hắn muốn độc chiếm vương quyền. Ngôi vị này vốn dĩ là của hắn. Nếu ta cũng tranh vào thì huynh đệ tương tàn, lợi kẻ nghịch tâm; Tiên chúa trên trời sẽ oán hận; mẹ ta, em ta đau lòng; bá tánh khinh khi. Ta muốn kệ mọi sự. Hắn muốn, ta sẽ trả lại hắn tất cả.
Nói rồi vua nhắm mắt lại, lệ nóng vẫn trào quanh. Bình thở dài ngao ngán nhìn vua tôi, rồi lặng lẽ cáo lui.

Tuy nhiên chuyện thích khách chưa kịp tra ra, Nam Tấn Vương còn chưa khỏi hẳn, hai tuần sau sự vụ đó, Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập đột ngột qua đời trên giường. Nghe nói đêm ấy vua và năm phi tần cùng giao hoan từ giờ tuất. Đến canh hai chợt nghe tiếng thét rung động của đám nữ nhi, cảnh vệ chạy vào, thấy vua đã biến sắc, mặt trắng bệch, tay chân co giật. Lúc ngự y và anh em Ngô Nhật Kha, Ngô Nhật Khiêm chạy tới, vua đã ngưng thở. Ngự y hối hả suốt đêm cũng không làm ngài sống lại được. Lão ngự y uyên bác nhất nói nhỏ với Nhật Kha tình trạng bệnh. Kha thoáng kinh ngạc, lòng như lửa đốt, y vội vã bảo em trai canh giữ cẩn mật, chưa thông báo vội cho ai, còn mình thân chinh phi ngựa trong đêm tới Đại La tìm danh y. Nhưng vị danh y này nhìn tình trạng nhà vua, lúc này toàn thân đã tím tái, người lạnh ngắt, đành lắc đầu quay đi. Nhật Kha thẫn thờ một lúc, rồi đành cho người đi báo với Dương Thái hậu, Nam Tấn Vương và Tả, Hữu thừa tướng.
Tin nhà vua mất chẳng mấy chốc mà cả triều đình, rồi cả nước đều biết.
Ngày 25 tháng 6 năm Nam Tấn Vương thứ 4 (954), triều đình ra cáo, Thiên Sách Vương lâm bạo bệnh, đã băng hà, thọ 40 tuổi, trị vì được hơn ba năm, an táng tại Ái châu quê nhà.
Dù Nam Tấn Vương chỉ ra cáo nói anh trai mất do bạo bệnh, nhưng tin nhà vua chết trên giường vì thượng mã phong trong lúc hoan ái cùng năm mỹ nữ, vài ngày sau đã lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm, nhận lấy vô số khinh khi của người đời.
Người của hoàng thất tới chùa Khai Quốc(2), tìm con trưởng của Thiên Sách Vương là Ngô Xương Tỷ, đã đổi tên thành Ngô Chân Lưu, nay 23 tuổi, đang quy y cửa Phật, thọ giới Cụ túc, làm một Tỳ kheo. Chân Lưu nói đã xa rời chốn hồng trần, không còn vướng bận ý ái hỷ nộ. Ngài chịu tang cha, nhưng từ chối bước vào hoàng thất hay Ngô gia, chỉ tụng kinh cầu siêu cho cha nơi cửa Phật.
Lúc này, đứa con trai còn lại trong thế tục của Thiên Sách Vương mới được hoàng thất nhớ tới. Phạm Bạch Hổ về đón Ngô Xương Xí lên kinh chịu tang cha. Trên đường đứa bé còn thắc mắc hỏi Bạch Hổ, Thiên Sách Vương là ai mà nó phải chịu tang ông ta. Sau khi biết đó là cha mình, trong lễ phát tang, nó lại hỏi Nam Tấn Vương – người lúc đó nó mới biết là chú ruột mình:
-         Sao cha cháu làm vua mà không cho cháu lên kinh làm hoàng tử?
Trong lúc vương không biết trả lời cháu mình thế nào, thì thằng bé đã nhớ ra đây là ông vua mà dân gian đồn đại chết vì sắc dục. Nó mếu máo nắm tay vương, lắc đầu quầy quậy:
-         Cha cháu là ông vua mà mọi người căm ghét đó sao? Thế thì cháu không chịu đâu. Cụ nội kể chuyện triều đình cháu đều biết hết. Cha cháu phải là Bình Vương chứ, sao có thể là ông vua xấu xa này.
Thằng bé kêu khóc khiến vương phải giao nó lại cho Phạm Bạch Hổ. Hổ đưa nó về phủ của mình, nó mới chịu yên. Thê tử Bạch Hổ nhìn thằng bé nằm ngủ, than thở với chồng:
-         Kẻ làm vua mà đến con đẻ mình cũng không chăm nổi ngày nào. Trước bảo hắn bị truy đuổi, phải sống trong hang hốc, đã đành. Khi hắn lên ngôi, có thì giờ tiệc tùng trụy lạc, cũng chẳng cho con nổi cái bánh hay manh áo. Bạc bẽo đến thế, sao mà không vô phúc. Bảo sao còn sót lại hai đứa con, chả đứa nào chịu đến đưa hắn về nơi an nghỉ. Một đứa còn phải quy y. Hẳn là trời phạt, muốn con chuộc lỗi cho cha.

Đầu tháng 7, kiệu quàn linh cữu Thiên Sách Vương được đưa về châu Ái. Tiễn vua về nơi an nghỉ cuối cùng là Dương Thái hậu, hai anh em Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng, hai hoàng hậu cùng gần 100 phi tần của vua khi còn sống.
Sau đó, Nam Tấn Vương cho giải tán hậu cung này. Hai vị hoàng hậu cũng qui y cửa Phật. Cậu bé Ngô Xương Xí được phong hoàng tử, đưa vào hậu cung nuôi nấng dưới trướng Dương Thái hậu.

Nam Tấn Vương quay lại cai quản chính sự. Việc đầu tiên vua làm là phế bỏ mọi chức vụ của Ngô Nhật Kha, Ngô Nhật Khiêm; cho Kha về làm hào trưởng thôn Đường Lâm, Ái châu, quê tổ Ngô Tiên chúa. Vua cũng phế bỏ một loạt chức vụ của tướng tá họ Ngô do Thiên Sách Vương đã phong trước đó, cho quay về chức vụ cũ. Tả, Hữu thừa tướng cũng được phục lại binh quyền như trước. Dương Huy được phong Uy Vũ tướng quân, kiêm Chỉ huy sứ Vũ Ninh châu.
Những tháng ngày yên ả hơn đã trở lại.

Ở một nơi bên sông Nhị Hà, Chương Dương Công nhận thư báo đến từ kinh thành, đọc xong khẽ gật đầu, rồi đem đốt đi.

Kinh thành.
Trong thư phòng phủ Tả thừa tướng, Lã Xử Bình nhìn ván cờ chơi dở trên bàn, khẽ than:
-         Nhìn thấu thời cuộc. Dụng quân như thần. Vẫn không ai bằng Tam Kha.


(1)     Lễ sinh nhật của vua em.
(2)     Nay là chùa Trấn Quốc ở Tây Hồ, Hà Nội.




Luận Anh Hùng - Cheryl Pham: Chương Mười Bảy - Vận biến tắc anh hùng



Chương Mười Bảy: Vận biến tắc anh hùng

Nhân nghĩa là đạo của người
Luân chuyển là đạo của đời bao la

Năm Dương Bình Vương thứ 7 (950), lại một mùa bội thu.
Hoàng tử Văn cưới thêm hai phi tử: Ngô thị - thứ nữ của tướng trấn thủ phương Bắc Ngô Nhật Kha, Hoàng thị - trưởng nữ của đại gia tộc Hoàng thị giàu có nức tiếng gốc gác từ Tấn quốc.
Cuối năm ấy, hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình(1) có biến. Người của Nguyễn Khoan xích mích với một hào trưởng họ Ngô ở thôn Đường. Lời qua tiếng lại, đao kiếm vô tình, Ngô hào trưởng bị giết hại. Vị hào trưởng này là anh em với Ngô Nhật Khiêm. Ngô gia sao chịu để yên. Khiêm mang binh đến tận thôn Đường trả đũa. Nguyễn Khoan là kẻ có thanh thế ở Tam Đái mấy chục năm nay, sao để một người lạ nước lạ cái nhảy lên đầu. Khoan cho quân ra đánh lại Khiêm. Khiêm tận dụng lúc hỗn loạn, dùng tiền bạc Ngô gia chiêu thêm binh mã, loáng cái lên tới gần 2.000 người, bằng một phần tư binh của Khoan, lại quay ra thôn Nguyễn đánh úp Khoan. Cứ thế loạn ở hai thôn này do hai cánh quân họ Ngô và họ Nguyễn khơi ra, kéo dài gần tháng trời. Quan án sát địa phương không xử lý nổi, đành viết sớ dâng lên cầu cứu triều đình.
Lúc này sắp sang năm mới, sự vụ đều bận rộn.
Bình Vương hỏi các quan tướng trong triều:
-         Ai đi dẹp loạn hai thôn Đường, Nguyễn này?
Văn thần Tô Khải đứng ra tâu:
-         Thưa bệ hạ, đây là nội loạn của mấy đám sứ quân tự phô trương thanh thế, đánh chiếm lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến việc an cư lạc nghiệp của dân chúng, lại còn lạm sát người vô tội, coi thường trật tự kỷ cương. Phải bắt mấy kẻ đầu sỏ về nghiêm trị. Hai toán quân ở hai thôn này là người Nguyễn gia và Ngô gia. Triều ta dĩ hòa vi quí, hàng phục không được mới đánh, thế nên cử một tướng họ Ngô hoặc họ Nguyễn đi là hay nhất, hạn chế tối đa việc đụng binh đao.
Triều thần đều cho là phải. Hoàng tử Văn, Nguyễn Thủ Tiệp và Ngô Trọng xin đi. Lúc Bình Vương còn đang phân vân, tướng Ngô Nam Nhạc bèn thưa:
-         Thưa bệ hạ, ta thấy hoàng tử Văn đã lịch lãm rèn luyện đánh phỉ rợ và ngoại bang được một thời gian. Nay nội loạn này cũng nên để cho hoàng tử học hỏi, ra uy với những kẻ bừng bừng dã tâm với triều ta. Địa vị của hoàng tử sẽ dễ dàng áp chế được người Ngô gia, chiêu hàng được người Nguyễn gia.
Bình Vương khen ý hay, bèn sai hoàng tử Văn đi dẹp hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình. Sau, vua thấy loạn quân khá đông, sức Văn e sẽ gặp khó khăn, không nên khinh suất, bèn phái thêm hai tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đi cùng hiệp trợ.
Đêm đó Văn mất ngủ, ngồi nghĩ kế chiêu dụ Lợi và Thạc cùng thực hiện mưu với mình.
Hôm sau, Văn cùng hai tướng dẫn 5.000 binh đi Thái Bình. Khi quân nghỉ chân ở Từ Liêm, Văn nói với hai tướng:
-         Hai thôn này có gây tội gì với triều ta không?
-         Không, thưa hoàng tử.  – Hai tướng đồng thanh tâu.
-         Họ vô tội, sao ta lại phải tiến đánh?
Hai tướng nhìn nhau, không biết phải trả lời Văn thế nào. Thấy vậy, Văn bảo:
-         Đức lớn của Tiên Vương ta đã thấm vào tận lòng dân, cho nên, chính lệnh ban ra, không ai là không thuận nghe theo. Nay, không may Tiên Vương đã lìa bỏ quần thần, Bình Vương làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh ta, tội thật không có gì lớn bằng. Giờ đây, Bình Vương lại sai chúng ta đi đánh hai làng vô tội. Nếu may mà thắng được thì chẳng nói làm gì, còn như họ không chịu hàng phục thì ta biết làm sao được?
Lúc này Lợi và Thạc đều lờ mờ nhìn ra chút manh mối, lại nhìn nhau gật đầu. Thạc e dè bảo với Văn:
-         Chúng tôi xin nghe theo lệnh ngài.
Văn bảo tiếp:
-         Ta muốn đem quân quay lại đánh úp Bình Vương để khôi phục cơ nghiệp của Tiên Vương ta. Các ngươi có cùng đi với ta không?
Hai tướng mắt sáng lên, đồng thanh tâu:
-         Chúng thần xin đi theo phò tá ngài.
Văn rất hài lòng, bày kế cho hai người:
-         Dương tướng quân mang 1.000 binh đi vào cổng tây. Đỗ tướng quân mang 1.000 binh đi vào cổng đông. Hai người các ngươi dàn quân vây lấy cung điện. Ta sẽ đem quân còn lại quay về cổng bắc, tiến vào chính điện. Lúc này Bình Vương và văn võ bá quan còn đang mải vui tất niên, mừng năm mới nơi chính điện, sẽ lơ là cảnh giác với chúng ta. Lại thêm binh của Ngô Trọng và Ngô Nam Nhạc trong thành yểm trợ, chúng ta cùng tiến đánh đúng lúc giao thừa, tất sẽ thắng lợi.
Lợi và Thạc đều nhất trí với kế sách. Sau đó cả ba chia binh quay lại thành Cổ Loa theo ba hướng khác nhau. Lợi và Thạc ngay sau đó đều sai người cấp báo cho Dương Bình Vương.

Đêm giao thừa, lúc đang chuẩn bị chờ dâng lễ tế trời đất, Bình Vương và Xử Bình đều nhận được tin hoàng tử Văn khởi binh tạo phản. Tả tướng ngay lập tức sai Thống lĩnh cấm vệ quân Dương Thế Hiển dàn quân đợi lệnh, lại cho người đi báo tướng trấn giữ quân đội ở Đại La Phạm Bạch Hổ thần tốc điều binh vây chặt ngoài thành Cổ Loa.
Bình Vương nhìn bầu trời tối đen như mực, than thở:
-         Đứa trẻ này, cũng quá hấp tấp rồi. Mưu lược trẻ con thế này, sao qua mặt được mấy lão tướng như Cát Lợi và Cảnh Thạc. Ba bốn năm rèn luyện mà hành sự vẫn không cẩn trọng. Tĩnh Hải này hắn giữ được bao lâu? Âu cũng là ý trời. Ta nhìn hắn cùng Ngô gia ngày đêm khổ não hai năm nay rồi. Đã đến lúc thứ của Ngô gia phải trả lại cho Ngô gia. Tiên Vương, chớ trách ta phụ người, là Ngô gia người không có phúc.
Xử Bình chạy tới, tâu:
-         Bệ hạ yên tâm, Dương Thế Hiển và Phạm Bạch Hổ đã vào vị trí. Mấy tướng lĩnh họ Ngô kia đều bị bắt lại. Hoàng tử chắc cũng sắp vào thành.
-         Bảo bọn họ không làm gì hết. Ta muốn xem rốt cuộc hắn làm được đến đâu.

Cuối giờ tuất, Văn dẫn 3.000 binh dễ dàng đi qua cổng bắc vào thành. Đêm cuối năm tối đen như mực, chỉ có bóng đuốc lờ mờ tại mỗi chốt canh. Đội quân không gặp trở ngại nào, ào ào lao tới cung điện nhà vua như gió cuốn. Tới cổng, thấy Cát Lợi và Cảnh Thạc đều đã đứng đó, hành lễ chào mình, Văn đầy tin tưởng, nhảy xuống ngựa, hỏi hai tướng:
-         Quân các người đã bao vây điện?
-         Vâng, chúng tôi đã làm theo ý chỉ của ngài. – Hai tướng cùng đáp.
-         Tốt. Hãy chốt giữ ở đây, không cho kẻ nào ra thoát.
Sau đó Văn sai 3.000 binh đi theo mình, một nửa nhanh chóng bao vây chính điện, số còn lại cùng mình xông vào.
Cảnh tượng lúc đó trong chính điện thật rộn ràng. Bình Vương ngự trên ghế rồng. Các quan tướng mũ áo đẹp đẽ ngồi hai bên. Ca kỹ đang múa hát tưng bừng ở giữa. Nhìn thấy hoàng tử cùng quân lính lăm lăm đao kiếm đạp cửa xộc vào, đám ca kỹ sợ hãi, ngưng bặt, dạt về hai bên tường chính điện. Một đám vệ quân chạy tới vây quanh bảo vệ nhà vua, lăm lăm vũ khí chĩa về phía hoàng tử. Còn các đại thần, đa số há hốc mồm vì kinh ngạc, một số đã biết trước nội tình thì giữ được chút thản nhiên, nhưng cũng không nén nổi tò mò xem kịch hay. Bình Vương vẫn giữ vẻ mặt bình thản ngàn năm không đổi, lạnh lùng nhìn Văn.
Văn gặp ánh mắt này, có hơi chột dạ, nhưng nghĩ đây là mưu kế cả năm nay y cùng Ngô Nhật Kha, Ngô Nhật Khiêm nghĩ ra, không thể phút cuối lại động lòng làm hỏng đại sự. Hoàng tử Văn lấy lại bình tĩnh, xua quân vây quanh các triều thần, bản thân dẫn binh đi thẳng tới trước mặt Bình Vương, dõng dạc nói:
-         Dương Bình Vương! Ngươi nhân lúc Tiên Vương mất đi, cậy thế ngoại thích mà chuyên quyền, cướp ngôi anh ta, truy sát bức anh ta không còn chỗ dung thân, tội ấy trời đất này sao dung được? Nay đã đến lúc ta vì Tiên vương và bá tánh, lấy lại công đạo cho anh ta cùng Ngô gia.
-         Đó là những gì ngươi thực sự nghĩ được? – Bình Vương lạnh lẽo hỏi.
-         Phải, ta nuôi căm hận trong lòng đã bao năm. Nay đến lúc báo thù nhà nợ nước. Quân đâu, tiến lên bắt lấy hắn!
Quân hai bên xông vào giao chiến. Bình Vương vẫn im lặng ngồi yên trên ghế rồng. Mọi người trố mắt nhìn màn đâm chém kịch liệt. Chỉ Xử Bình là kinh ngạc nhất khi nhận ra đám binh mình cắt cử bảo vệ chính điện đã biến mất tự lúc nào, thay vào đó chỉ có hai chục tay cận vệ bảo vệ bên người nhà vua. Kẻ nào có thể sai khiến được thống soái cấm vệ quân Dương Thế Hiển – trưởng tử của Dương Nhất Kha - làm việc này? Y nhìn vẻ mặt bình lặng của Bình Vương, hiểu ra sự tình, lòng đắng chát, người túa mồ hôi.
Số lượng hai bên quá chênh lệch. Cận vệ rất nhanh bị giết sạch. Dù hơi ngạc nhiên vì số binh lực quá ít ỏi của cấm vệ quân, nhưng cho rằng là do Ngô gia đã xử lý chu toàn, hoàng tử Văn đường hoàng chĩa kiếm vào ngực Bình Vương. Thấy Bình Vương vẫn không nói một câu, ánh mắt càng lúc càng lạnh, Văn quay mặt sang đám lính, hét:
-         Bắt trói lấy hắn, giải xuống triều điện!
Bình Vương bị quân lính xông lên, trói gô lại, lôi xuống, ép quì dưới ghế rồng. Hoàng tử Văn bước lên ngôi vị cao nhất, hùng dũng tuyên bố:
-         Chư vị văn võ bá quan nghe đây. Tiên Vương ta qua đời, di huấn lại nhường ngôi cho anh ta. Nhưng Dương Bình Vương mang tâm phản nghịch, làm trái đạo quân thần, cướp ngôi và truy diệt anh ta. Nay ta dùng chính danh dòng dõi Ngô Tiên Vương, phế truất Bình Vương đi, đòi lại ngai vị. Các người có phục không?
Văn võ bá quan nhìn nhau, vài người tức thời hô lạy:
-         Phục.
Văn nhìn đa số quan tướng vẫn sững sờ, kinh ngạc, bần thần trong điện, bèn bảo:
-         Nay ta lên ngôi, sẽ hết lòng vì bá tánh trăm họ. Mong các vị dốc lòng hiệp trợ, cùng ta trị quốc an dân. Văn ta nhất định không bạc đãi.
Tả tướng Xử Bình đứng ra hành lễ hô ‘Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!”
Diễn biến quá nhanh khiến đám quần thần kinh ngạc không thôi. Làm sao mà Dương Bình Vương chinh chiến trên lưng ngựa từ khi 7 tuổi, đánh Hán, diệt Tiễn, hạ phỉ rợ, bình loạn dân gần cả cuộc đời, lại dễ dàng bại trận như vậy? Cả Tả thừa tướng, kẻ luôn cùng phe cánh Dương gia bao năm qua cũng nhanh chóng bỏ chủ chạy lấy người.
Bá quan rời rạc kẻ đứng người ngồi, lòng đầy nghi kị. Nhưng nhiều kẻ đã nhanh chóng nhận ra sự tình. Một số bất bình không chịu nổi, hậm hực dậm chân tại chỗ. Số khác chậm rãi lục đục hành lễ, hô theo Xử Bình: “ Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!”
Văn thấy có thêm nhiều người triều ủng, rất lấy làm hài lòng. Lại nhìn xuống Bình Vương đang quì ở dưới, gương mặt vẫn bình thản như không, Văn quay ra hỏi các quan:
-         Nên xử hắn thế nào?
Văn võ bá quan đều im lặng. Lúc này, Tả tướng Lã Xử Bình mắt đẫm lệ, đứng ra tâu:
-         Thưa hoàng thượng, bảy năm trước cũng nơi này, Bình Vương lên ngôi, ta đã xin ngài ấy diệt sạch dòng dõi Tiên chúa để bảo vệ vương vị, nhưng ngài ấy đã không làm theo. Nay ngài lên ngôi, là một thần tử phải phân ưu với nhà vua chính sự, ta cũng xin ngài hãy diệt Bình Vương. Người này tài đức, uy thế đều hơn người, công cao lấn chủ, để lại tất là hậu họa cho nhà Ngô.
Bá quan có vài người đồng thanh hô phải, còn lại đa số đều mở to mắt nhìn Văn. Văn lại nhìn Bình Vương vẫn im lặng và bình thản, ngẫm một lúc rồi nói:
-         Bình Vương đối với ta có ơn, sao lại nỡ giết?
Bình cùng bá quan nhiều người thở phào. Cũng có kẻ thầm rủa mắng trong lòng, đúng là tâm tính hơn thua trẻ con, mới nghe Xử Bình nói câu bóng gió đã dao động, thu đao hạ kiếm, kẻ làm vua mà nhu nhược. Còn Văn, sau một lúc do dự, bảo:
-         Dương Bình Vương có tội lớn với triều đình, lẽ ra phải giết không tha. Nhưng nể tình y có công lao với xã tắc, trị quốc an dân bao năm qua, nên ta tha chết. Nay ban cho đất Chương Dương xứ làm thực ấp, phong làm Chương Dương Công. Chỉ có điều phải lưu lại ấn ký, thề từ nay trở đi, không bao giờ được phép can dự chính sự.
Bình Vương thản nhiên nhìn Văn, đáp:
-         Tạ ơn bệ hạ đã tha chết. Xin người đừng lo, Tam Kha ta đảm bảo từ nay sẽ không bao giờ can dự bất kỳ sự vụ nào của Tĩnh Hải.
Bình Vương được dẫn đi, giam lỏng tại một biệt viện. Triều lễ tất niên hạ màn trong không khí hoang mang rõ rệt.
Tết Nguyên Đán năm Tân Hợi (951) ở Cổ Loa diễn ra đầy lặng lẽ và nghi ngờ. Văn cùng đám thân tướng Ngô gia vẫn không tin được việc đoạt lại vương quyền lại dễ dàng đến thế, nên ra sức phòng bị. Các quan lại cũng đầy hoài nghi, đành nhẫn nại chờ diễn biến kế tiếp.
Dương Thị Như Ngọc nghe kể về chính biến của con với anh trai mình, khóc suốt một đêm. Hôm sau gọi Văn lại, bảo:
-         Cẩn thận các võ tướng trong triều. Họ vốn dĩ không phục con, sẽ gây bất lợi. Cũng thận trọng khi dùng người Ngô gia. Đa số họ chẳng có mấy thực tài. Phụ vương con năm xưa tin dùng người nhà quá mức mà bị quần thần oán thán, bá tánh không phục nổi loạn. Đợi tới lễ Nguyên Tiêu, mọi người trở lại sự vụ, hãy ra cáo thiên hạ.
Tình trạng cầm cự và nghi kị cứ thế diễn ra thêm hai tuần.

Đến rằm tháng giêng năm đó, Xương Văn cho ra cáo thiên hạ, xưng vương, lấy tên Nam Tấn Vương. Phong Dương Thị Như Ngọc làm thái hậu, Dương Thị Minh Ngọc làm hoàng hậu. Phong tước quan phẩm và ban thực ấp cho hai em trai Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng. Lúc này Văn 20 tuổi.
Bộ máy quan lại vẫn giữ nguyên, chỉ cho Ngô Nhật Kha về kinh thay Dương Thế Hiển làm Thống lĩnh cấm vệ quân; còn Hiển tới phương bắc làm tướng trấn giữ biên ải thay Nhật Kha.

Thiên hạ lại được một phen xôn xao bàn luận. Số phận của Dương Bình Vương được người ta quan tâm hơn hết thảy. Khi biết cựu vương vẫn còn giữ được cái mạng, chấp nhận làm Chương Dương Công, nhiều người thấy vui mừng, có kẻ lại khinh bỉ ‘Hóa ra Dương Tam Kha chỉ được cái vỏ ngoài. Đến một con hổ giấy vắt mũi chưa sạch cũng không đánh lại được.’
Dương Nhị Kha ở châu Ái bừng bừng tức giận nói với các con cháu mình:
-         Các ngươi trông đấy mà thấm cho sâu. Đừng dùng nghĩa khí hành đại sự như nhị gia. Bao tâm huyết phò tá nhà Ngô đổi lại được tiếng bất trung bất nghĩa. Chưa bị diệt thân, diệt tộc cũng là do Dương gia ta tích phúc ngàn năm mới được, chớ đâu phải do chúa kia đại lượng.
Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu đọc cáo, còn không tin nổi vào mắt mình.
-         Không thể nào. Bình Vương người này nếu không tự nguyện thì há có thể phục?
Vị thủ lĩnh trẻ Đinh Bộ Lĩnh thì không nén nổi tức giận:
-         Dương Bình Vương, uổng công ta ngưỡng mộ ông.
Nguyễn Khoan ở Siêu Loại biết kinh đô thay vương, ngẫm lại thấy các sự kiện có liên quan đến vụ loạn ở thôn Nguyễn nhà mình, y không hỏi trầm tư:
-         Chẳng lẽ mình bị tên vua trẻ kia và Ngô gia lợi dụng? Hừm, nếu cả đến Dương Tam Kha cũng không nhìn ra thì mình bị dắt mũi một chút cũng không phải đại sự gì. Nay không còn Kha, cơ hội của ta đã đến rồi.
Vui nhất vẫn là Kiều Thuận. Y vừa trở về từ cõi chết, nay lại nghe tin kẻ thù truyền kiếp của mình thất thế, bèn lập đàn cúng tế ngay tức thì.
-         Tạ ơn trời đất. Cuối cùng cũng đến ngày ta nhìn thấy cơ hội cho họ Kiều.

Cuối tháng giêng năm Nam Tấn Vương thứ 1 (951), Dương Tam Kha cùng thê tử Đỗ Nhâm Phi và gia nhân rời khỏi kinh thành, về Chương Dương xứ. Rất nhiều người tới chào bái biệt: Phạm Bạch Hổ, Nguyễn Thủ Tiệp, Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc, … và cả Tả, Hữu thừa tướng Lã Xử Bình, Kiều Tri Hựu.
Xử Bình còn đi tiễn Tam Kha tới tận cổng thành ngoài. Bình hỏi Kha:
-         Ông không oán ta chứ?
Tam Kha cười nói:
-         Sao ta lại oán ông? Ông luôn là người nhìn thấu thời cuộc. Ông dạy hoàng thượng mấy năm, tất đã nhìn ra tâm tính của ngài ấy, nên mới nói thế. Dẫu ngài ấy muốn giết ta, hẳn ông cũng sẽ có cách cứu ta thôi.
Xử Bình xúc động:
-         Hiểu ta không ai bằng Tam Kha.
-         Nay chúa còn non nớt, hành sự hấp tấp, lại hiếu thắng. Ta không còn cơ hội để chỉ giáo. Mong ông hãy hết lòng giúp ngài thấu hiểu nhân tình thế thái, phụng sự xã tắc, kéo dài cơ nghiệp nhà Ngô.
-         Tam Kha, ngươi cũng biết Nam Tấn vương hiếu thắng, hấp tấp. Cũng may chưa nghi kị hiền tài, trọng dụng gia quyến như Ngô tiên chúa. Mới chỉ thăng quan cho Ngô Nhật Kha, còn đám tướng tá Ngô gia vọng động cũng chưa bị họ làm cho u mê. Hẳn vẫn còn cơ kéo dài nhà Ngô thêm dăm bữa nữa. Nhưng với tính tình nông nổi, hời hợt như thế, e có muốn thiên hạ phục cũng không dễ đâu. Tuy vậy, nhận lời ký thác của ông, ta sẽ gắng hoàn thành.
-         Ta hiểu. Cảm tạ ông. Còn lại đành dựa vào sức lực của ngài ấy thôi.
Lúc bái biệt ở cửa Ô quan, Kha kín đáo dặn Xử Bình:
-         Chú ý Xương Ngập và động tĩnh ở Hoa Lư.

Nhân tiết thanh minh năm ấy, Nam Tấn Vương sau khi vừa đánh dẹp trận nổi loạn ở thôn Nguyễn của Nguyễn Khoan, liền tới thăm Dương thái hậu. Vương hỏi nàng:
-         Nay anh con vẫn còn trốn ở mạn Trà Hương. Con đã cho người đi đón anh về, cùng chung hưởng phú quí. Mẫu hậu thấy sao?
Dương thái hậu gật đầu bảo:
-         Con đã trưởng thành, tất có chủ ý riêng của mình. Nếu không phải đại sự gì khó nghĩ, thì không phải hỏi ta.
Vương lúc đó đã sai hai tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc tới tìm Phạm Lệnh Công để đón anh mình về.

Tại làng Trà Hương, trong lúc chờ người đi lên núi Hun Sơn tìm Ngô Xương Ngập, Lệnh Công dắt Ngô Xương Xí, hỏi hai tướng:
-         Có mang thằng bé này về kinh thành không?
Dương lão tướng trả lời:
-         Ta chỉ được lệnh đón Ngập. Còn gia quyến thì không thấy Vương nói tới. Vậy cứ theo ý của Ngập đi.
Cậu bé Xương Xí, lúc này 7 tuổi, nghe nói tới kinh thành, bèn hỏi ông cụ:
-         Cụ ơi, ở kinh thành có Dương Bình Vương phải không? Cháu muốn đến gặp Bình Vương, xem ngài ấy có anh tuấn, thần võ như cụ kể không.
Hai tướng Lợi và Thạc cùng tròn mắt nhìn đứa bé, lại nhìn Lệnh Công. Phạm lão tướng quân bối rối, vội xoa đầu cháu mình nói:
-         A, đúng vậy, đúng vậy. Nhưng bây giờ Bình Vương đi vắng rồi. Nên có một vua khác trông giữ giang sơn. Vua này là Nam Tấn Vương.
-         Sao cụ bảo một nước chỉ có một vua thôi? – Đứa bé bất mãn hỏi.
-         Phải, phải. Nói chung một nước chỉ có một vua. – Ông cụ bắt đầu nói lộn xộn, không theo kịp với tư duy đứa trẻ.
-         Tuy nhiên cũng có nước có thể có nhiều vua. Như nước ta phải không cụ?
-         À, ờ… ờ, như nước ta.
Phạm lão tướng toát mồ hôi hột nhìn đứa bé, lại xấu hổ cười cười với hai vị lão tướng bên cạnh.
Khi gia nhân đưa Ngập vào nhà, Lệnh Công hỏi hắn, hắn bảo:
-         Nay kinh thành chưa rõ bạn hay thù. Ta xin để lại nhi tử để ông tiếp tục chăm sóc giùm. Ta có 6 nhi tử, đã chết 4. Trưởng tử nghe nói đã lên chùa qui y. Giờ chỉ còn mình nó, ta không muốn nó có mệnh hệ gì nếu ta lại gặp bất trắc.
Lệnh Công bảo hắn thay đồ nhưng Ngập từ chối, đòi lên đường ngay. Thế là một mình Ngập theo Lợi và Thạc về kinh thành, bỏ lại Phạm Lệnh Công ôm lấy đứa bé đang gào hét ầm ĩ đòi theo lên kinh thăm Bình Vương.

Lúc Nam Tấn Vương trông thấy người anh đã 10 năm không gặp, lại thấy người y hốc hác, râu tóc tua tủa, mặc bộ đồ thô sờn cũ kỹ, nhà vua rớt nước mắt vì xót thương.
-         Đại ca, mười năm không gặp, không ngờ đại ca lại bị đọa đày ra nông nỗi này. Là ta có tội lớn với đại ca.
-         Bệ hạ, xin ngài đừng quá đau xót. Ta sống kham khổ trong rừng núi Hun Sơn ấy sáu năm nay cũng quen rồi. Không thấy khổ sở nữa. Nay nhìn thấy cơ nghiệp nhà Ngô ngài đã lấy lại được, ta vô cùng tự hào và vui sướng. Phụ vương trên trời chắc cũng hả lòng hả dạ.
Nam Tấn Vương đích thân đi thay quần áo cho anh. Lại cho người mang những thứ đẹp đẽ, quí giá nhất đến viện của Ngập, bảo anh từ nay sống trong phủ cùng mình. Nhưng Ngập từ chối. Y bảo:
-         Thưa bệ hạ, đây là nơi thân quyến của vương trú ngụ. Ta không có thân phận ấy, ở lại lâu sẽ không tiện. Người khác biết được, sẽ lời ra tiếng vào, reo rắc thanh danh không tốt cho hoàng thất. Xin người ban cho ta một ngôi nhà nhỏ ngoài thành là được. Thân quyến ta cũng chẳng còn ai. Ở thế là ổn rồi.
-         Hừ, kẻ nào to gan dám đặt điều xằng bậy. Đại ca là anh cả ta, cũng là người hoàng thất. Nay ta muốn ở cùng đại ca, cùng nhau chung hưởng phú quí, cung điện nhà lầu này, để bù đắp lại những tháng ngày cơ cực đã qua. Nếu đại ca không nhận, phải chăng nghĩ đứa em này bất hiếu, lại bất tài? Ta làm vua một nước mà không lo nổi cho anh mình, thì vô dụng lắm thay. Thiên hạ chả cười chê ta đến muôn đời ấy chứ.
-         Chỉ là một thường dân ở đây há lại không ai cười chê? Ta là con trưởng Tiên chúa, nay em ta lên ngôi, ta lại đòi vào điện của chúa ở, không phải là lòng dạ bất chính thì cũng là kẻ có mưu đồ soán vị. Danh không chính, ngôn không thuận, mong bệ hạ suy xét.
Ngập tạm thời ở lại trong phủ chúa. Còn Nam Tấn Vương thì trằn trọc suốt mấy đêm nghĩ về lời anh trai. Vua khéo léo hỏi Tả tướng liệu có thể để Ngập ở lại cung cùng mình được chăng. Xử Bình biết ý định của Nam Tấn Vương thì vô cùng tức giận. Bình khuyên vua:
-         Bệ hạ, người chí công vô tư, thâm tình trượng nghĩa, ta hiểu. Nhưng để anh trai người lại trong phủ lâu dài là không nên. Chưa nói sẽ có phát sinh gia sự gì, nhưng đã phạm vào đại kị của quân vương. Từ trước tới nay, con cháu hoàng gia cứ trưởng thành đều cho ra ngoài phong tước ban thực ấp, như hai em trai ngài vậy. Nếu giữ lại bên người, trừ khi còn nhỏ, hoặc là người kế vị, nếu không tất sẽ đại họa.
Nam Tấn Vương than thở:
-         Làm vua thật khó thay. Nay ta chỉ muốn bù đắp cho anh ta những ngày cơ cực, vậy mà cũng lắm nỗi tỵ hiềm. Lòng này biết tỏ cùng ai?
Vương ưu sầu mất cả tuần liền, lại tự hỏi, nếu phong vương cho anh thì có nực cười lắm không? Đắn đo mãi, cuối cùng nhà vua đi gặp Dương thái hậu hỏi chuyện.
-         Mẫu thân, nay ta đã đón được anh cả về phủ. Hiềm một nỗi phép quân thần không dung tình anh em. Ta muốn báo đáp anh cả. Vì ngôi vị này lẽ ra là của anh ấy. Nếu ta lập anh ta làm vương, cùng nhau trị vì và chung hưởng phú quí, mẫu thân thấy có được chăng?
Dương thái hậu không khỏi kinh hãi.
-         Con ơi, thế có khác gì cõng rắn cắn gà nhà? Xương Ngập là kẻ thế nào, không phải con không biết. Một núi đâu thể có hai hổ. Sao con nỡ mang hiểm họa tới cho nhà Ngô khi lên ngôi chưa được dăm ngày? Rồi huynh đệ tương tàn, chỉ lợi kẻ nghịch tâm, lại mang tiếng xấu muôn đời cho hậu thế, sao ta chịu cho đặng?
Nam Tấn Vương trấn an nàng:
-         Mẫu thân đừng lo. Con đã tính hết các đường nước rồi. Anh con bị quan tướng khinh ghét, bá tánh không ưa, nên sẽ không thể tham gia luận bàn chính sự, có tham gia cũng không ai theo. Con nay cũng đã trưởng thành, qua nhiều biến cố, thu phục được lòng người, há lại không thu phục được anh mình? Phong vương để anh con có danh, có bạc, có thể ngẩng cao đầu sau bao năm cay đắng, uất hận. Con cũng được tiếng thơm và thanh thản tâm hồn vì trọn chữ hiếu đạo. Hơn nữa, hữu danh vô thực, đâu sợ anh ta có thể gây cơn phong ba nào?
Dương thái hậu không biết phải làm sao, chỉ đành dặn con mình:
-         Nay ý con đã quyết, ta cũng không xen vào. Chỉ mong con hãy thận trọng, hỏi thêm Tả tướng, hữu tướng để được thành nhân tâm.
-         Con hiểu. Con sẽ bàn bạc với hai vị thừa tướng.

Khi Nam Tấn Vương nói ý định với Xử Bình và Tri Hựu, hai người này đều hoảng sợ mà can vua:
-         Mong bệ hạ nghĩ cho thấu đáo. Tình nghĩa anh em không nên lẫn vào việc công. Đại sự này đâu phải gia sự của riêng một nhà, không thể đùa giỡn được.
Sau khi phất tay cho hai trung thần đi về, Vương thầm nghĩ mà tức giận:
-         Tĩnh Hải này không của nhà ta thì của cả nhà các ngươi chắc. Tìm được kẻ thật lòng thật dạ tận trung với mình quả không phải dễ.
Vua lại vời Thống lĩnh cấm vệ quân Ngô Nhật Kha, người thân tín nhất của mình hiện nay, cũng là kẻ có công đầu trong việc giúp vua giành vương vị. Vua hỏi Nhật Kha:
-         Nay ta muốn anh ta cùng làm vương, có được chăng?
Nhật Kha nhìn nhà vua trẻ, thầm nghĩ đúng là khẻ khờ. Sau y lại nghĩ tới đứa con trai mới 5 tuổi mà thông minh hơn người của mình, mắt lóe lên tia sáng lạnh. Nhật Kha tâu với vua:
-         Ngài đủ tài đức khiến quần thần nể phục. Nay lại có cử chỉ cao thượng, bác ái đến vậy, ta và bá tánh tất phải ngả mũ cúi chào. Người như ngài dễ có mấy ai. Âu cũng là cái phúc Tiên chúa để lại.
Nam Tấn Vương được lời như cởi tấm lòng.

Đầu tuần tháng 5 năm Nam Tấn Vương thứ 1 (951), nhà vua ra cáo thiên hạ, phong anh trai mình Ngô Xương Ngập làm Thiên Sách Vương, cùng trị vì Tĩnh Hải.
Các sử gia phong kiến đời sau khen ngợi vị vua trẻ hết lời. Thời này Nho giáo và Đạo giáo chưa ảnh hưởng lớn tới dân cư, nên bá tánh không quá đề cao hành xử và dụng tâm của Nam Tấn Vương cũng như Dương Bình Vương trước đây. Nhưng chỉ trăm năm sau, kể từ thời nhà Lý, với sự mở mang bờ cõi và bang giao chủ yếu với phương Bắc, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử ào ạt vào đồng hóa nhận thức đám tinh anh rồi lan xuống thường dân. Cách hành xử của Nam Tấn Vương được giới nho gia coi là hợp đạo làm người, còn Bình Vương bị phỉ báng, đày xuống hạng loạn thần tặc tử.
‘Nam Tấn nhà Ngô dùng chính nghĩa trừ kẻ tàn bạo, lấy lại được cơ nghiệp cũ. Công việc ấy cũng đã yên ủi vong linh tiên tổ mình, làm nguôi lòng bực tức của quỷ thần, của nhân dân.’(2)
Hậu Ngô Vương ở chỗ thâm cung, nên tặc thần không ngờ đến, ở giữa đường quay về, mà chư tướng không dám trái ý, truất phục được kẻ gian tà dễ như thay bàn cờ, 15 năm giữ cơ nghiệp, đáng gọi là lương chúa, đẻ con như thế Ngô Quyền cũng như là không chết.’ ‘nhưng xét bản tâm của Xương Văn thì chỉ biết cung kính anh, để kính nhường dòng con trưởng, không giết cậu, để mẹ được yên lòng, cũng là người có tư chất tốt, không thế, thì nếu không giết anh là Xương Ngập, cũng không để Tam Kha được sống.(3)
Tất nhiên, những tư tưởng kiểu này, sang thời hiện đại, đều bị các học giả xét lại dưới con mắt công bình và khách quan hơn.

Lại nói chuyện Tĩnh Hải khi đó. Bản cáo gây ra một cơn phong ba. Quan tướng và người dân khắp nơi bất bình, phẫn nộ.
Xử Bình tức giận, cáo ốm một tuần liền không đến dự triều. Tri Hựu lúc này đồng ý cho người nhà nơi Phong châu lập ấp, chiêu binh. Đến ngay cả người Ngô gia cũng bất mãn, nhưng bị Ngô Nhật Kha trấn trụ.
Thủ lĩnh và loạn dân múa kiếm đòi lật đổ kẻ làm vương mà bất tài vô dụng. Phỉ rợ mọc lên như nấm, tranh thủ lúc loạn lạc hòng kiếm chác chút tư sản. Nam Hán và Đại Lý nghe phong phanh tin, cũng cho quân liên tục đánh tỉa mạn bắc.
Cuối tháng 5 năm đó, Trần Lãm tự xưng Trần Minh Công(4), dấy binh đòi diệt nhà Ngô ở Bố Hải Khẩu. Sau bị hai lão tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẹp.
Tháng 6, Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, nổi dậy ở Tam Đái. Đích thân Nam Tấn Vương và Nguyễn Thủ Tiệp đi dẹp.
Lý Khuê tự xưng Lý Lãng Công, nổi dậy ở Siêu Loại. Phạm Bạch Hổ và Phạm Man đi dẹp.
Lữ Đường, xưng Lữ Tá Công, nổi loạn ở Tế Giang. Kiều Tri Hựu đi dẹp.
Nguyễn Siêu, xưng Nguyễn Hữu Công, nổi loạn ở Tây Phù Liệt. Thạc và Lợi lại đi dẹp.
Nhưng nổi dậy mạnh mẽ nhất lại là một toán binh mới lập chưa đầy chục năm: sứ quân Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh. Tiệp rồi tới Thạc đi dẹp, đều thất bại quay về.
Trong triều, tướng soái đều tranh cãi kịch liệt chuyện ai đi đánh, ai ở lại luyện quân. Thiên Sách Vương thấy loạn lần này, cả quan lẫn dân đều lôi tên mình ra chửi rủa, tức giận bèn đề nghị với em, rằng y thân chinh đi dẹp cái ổ Hoa Lư. Nam Tấn Vương thấy anh mình tức giận công tâm, lo lắng, bèn lên đường cùng anh.
Tháng 10 năm đó, hai vua mang một vạn đại binh tới Hoa Lư, vây thành suốt hai tháng trời. Bị cắt đường tiếp tế với bên ngoài một thời gian dài, quân của Lĩnh lâm vào nguy khốn. Lĩnh lo lắng không yên nhìn quân triều đình ngày ngày công thành hăng hái, còn quân mình ít ỏi hơn nhiều, lại sắp chết vì đói, đánh sao nổi đây? Sau cùng thân tín bàn bạc, nghĩ rằng trước xin hòa hoãn, cho một toán tải lương vào, rồi đánh tiếp. Lĩnh sai sứ giả sang tâu với hai vua cho xin hoãn binh, lại để con trai mình là Đinh Liễn - lúc này đã 9 tuổi, tới làm con tin.
Thiên Sách Vương bảo với em:
-         Lũ loạn dân này đâu phải là kẻ anh hùng hào kiệt gì mà đòi bày đặt con tin làm chữ tín. Nay cho hắn hoãn binh, cấp thêm lương, hắn lại đánh tiếp hai tháng. Rồi lại hoãn binh, đòi cấp lương. Cứ thế đánh đến bao giờ? Sự vụ triều đình còn chồng chất, cứ chôn chân mãi nơi này cũng không phải hay. Cần nghĩ cách khiến hắn hàng phục sớm. Ta nghe nói tên giặc kia có 5 đứa con, nhưng chỉ có 1 đứa con trai duy nhất này làm hương hỏa, yêu như mạng, luôn cho bên mình. Nay ta bắt con hắn, dong ra giữa trận, khiến hắn kinh sợ, tất phải hàng ngay.
Nam Tấn Vương suy nghĩ một lúc, dù thấy cách này có hơi đê tiện một chút, nhưng nghĩ tới sự vụ trong triều, sợ đi lâu có kẻ làm phản cướp mất ngôi vị, đành đồng ý.
Đinh Liễn tức thì bị hai vua ra lệnh bắt trói lại, đem đi đánh. Ngày nào hai vua cũng dong đứa bé ra giữa trận, khiến lính của Bộ Lĩnh không dám bắn tên. Đánh suốt một tháng, cũng không thấy Lĩnh đầu hàng, Thiên Sách vương tức giận giơ đao ra, thét lớn:
-         Trói con hắn lên ngọn sào, bảo người nói cho hắn biết, nếu không hàng ngay, ta sẽ giết con hắn.
Đứa bé bị trói gô lại, treo lên cây sào, đặt trước cổng thành Hoa Lư.
Được người vội vã chạy vào báo lại, Bộ Lĩnh vô cùng tức giận, nói:
-         Tài trai đã quyết chí công danh, khi nào lại chịu bắt chước như đàn bà con trẻ!
Rồi sai hơn mười tay nỏ cùng nhằm chực bắn vào Liễn.
Thiên Sách Vương thấy thế, kinh hãi bảo em:
-         Ta treo con hắn là cốt muốn cho hắn đầu hàng ngay, nay hắn tàn nhẫn như vậy, thì dẫu giết con hắn đi cũng chẳng ích gì.
Hai vương bèn không giết Liễn nữa, rút quân về Cổ Loa.
Đinh Liễn làm con tin ở kinh thành cũng khiến hai vương đau đầu không thôi. Đứa bé gào khóc suốt ngày và gây ra đủ thứ chuyện. Sau Nam Tấn Vương giao Liễn cho lão tướng Dương Cát Lợi trông chừng. Cát Lợi nhớ đến lần cùng Bình Vương tới bản doanh Hoa Lư, nên cũng có chút cảm tình với cha con họ Đinh. Nhờ thế, đứa bé này được Dương lão tướng dạy dỗ khá chu đáo suốt 15 năm liền, không thua kém bất cứ công tử thế gia nào ở kinh thành.

Còn Đinh Bộ Lĩnh, sau trận này nhận ra mình yếu nhiều thứ, bèn kết bạn với các thủ lĩnh xung quanh để học hỏi kinh nghiệm của họ.
Cuối năm đó, Lĩnh thành tâm mang lễ vật đến yết kiến Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu, một sứ quân cát cứ gần đó, tồn tại đã hơn ba trăm năm. Trần Lãm thấy người này dũng khí khác thường, nhanh nhẹn tuấn tú, lại nghĩ Dương Tam Kha từng hai lần chiêu dụ y mà không được, tất kẻ này phải có nhiều điểm hơn người. Lãm đồng ý nhận Lĩnh làm bổ tướng dưới trướng. Sau một thời gian, Lãm phát hiện người này tài trí đều vượt trội, rất lấy làm tâm đắc, nhận làm con nuôi, dốc lòng bồi dưỡng thành người kế nghiệp.



(1)     Hai thôn này được nhắc đến mấy lần trong chính sử. Nhưng do các sử gia đương thời không ghi rõ, nên sau này nhiều phỏng đoán được đưa ra. Các sử gia thời nhà Nguyễn cho rằng, hai thôn này thuộc về Thái Bình, mà Thái Bình khi đó ở Phong châu. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, thôn Đường chính là Đường Lâm, quê tổ của Ngô Quyền, thôn Nguyễn là Nguyễn Gia Loan, nơi cát cứ của sứ quân Nguyễn Khoan, hai thôn này đều ở Phong châu.
(2)     Lời bàn của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí toàn thư.
(3)     Lời bàn của Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án.
(4)     Tước vị khi đó: Vương – tương đương với vua, cai trị cả Tĩnh Hải, Công – tương đương với Chỉ huy sứ, cai trị một lãnh địa nhỏ trong Tĩnh Hải, như châu/huyện/trấn/xã/làng. Tước vị của các sứ quân này đều là tự phong. Sau này khi nhà Ngô mất, các sứ quân đều nhận mình là Vương của các lãnh thổ chiếm được; không ai công nhận ai; cho tới khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước năm 967.