TÁM
ĐỊNH LƯỢNG
Nói có nghĩa, là nói bằng con số. Thật vô dụng
khi nói quốc gia này lớn. - Lớn bao nhiêu? Thật vô dụng khi nói radium đáng sợ,
- Đáng sợ thế nào?
-
Alfred North Whitehead (trích từ Aims of
Education (Mục tiêu của giáo dục))
Hầu hết các khía
cạnh trong đời sống của chúng ta đều phụ thuộc vào năng lực định lượng và hiểu
biết các mô hình mẫu, các quan hệ, tỷ lệ, hay độ lớn. Toán học để làm gì? Nó
giúp chúng ta xây dựng các kết quả, và đánh giá khi nào những thứ này có nghĩa.
Và toán học là ổn định. Hai cộng hai bằng bốn là đúng từ 1 triệu năm trước và sẽ
đúng cả 1 triệu năm sau nữa.
Khi chúng ta dịch
cái gì đó thành các con số, chúng ta có thể so sánh. Chúng ta có thể đánh giá một
quyết định thông minh hay không thế nào nếu chúng ta không thể đo được nó theo
một thước đo tương ứng quan trọng?
Vài thứ không thể
đo được chính xác, vì thế ước lượng một khoảng là lựa chọn tốt nhất.
“Đúng nhờ làm
tròn tốt hơn sai một cách chính xác.” J.M. Keynes nói vậy. Đừng quá chú tâm vào
cái có thể đếm được và đừng xem nhẹ cái không thể. Nhận thức tính cụ thể sai –
thường chúng ta tin rằng dữ liệu dựa trên các con số có nhiều chữ số sau dấu phẩy
sẽ chính xác hơn chỉ toàn từ ngữ. Charles Munger nói:
Bạn có một hệ thống phức tạp, nó ném ra nhiều
con số tuyệt vời cho phép bạn đo vài yếu tố. Nhưng có những yếu tố khác quan trọng
khủng khiếp và bạn không thể tính ra số cho chúng một cách chính xác. Bạn biết
chúng quan trọng nhưng bạn không có các con số. Vâng, mọi người đều quá nghiêm
trọng chuyện có thể tính toán được không, vì đó là kỹ thuật họ được dạy trong
trường, mà không lẫn lộn với chuyện “khó mà đo được” - có thể chuyện này còn
quan trọng hơn.
Hãy minh họa tầm
quan trọng của lượng hóa với các ví dụ từ việc kinh doanh và đầu tư trên toàn
thế giới.
Bao nhiêu vốn cần để tạo ra một đô la trong
dòng tiền?
Lợi nhuận trên vốn
đầu tư (ROI) tạo nên sự khác biệt? Giả sử hai vụ kinh doanh – X và Y – sinh ra
cùng một doanh thu tiền mặt như nhau $10 triệu và tỷ lệ tăng trưởng bền vững là
5%. Sự khác biệt nằm ở bao nhiêu vốn họ dùng để tạo ra doanh thu này. X cần
$100 triệu và Y cần $40 triệu. Có nghĩa là lợi nhuận trên vốn đầu tư ROI của họ là 10% và 25%. Cũng có nghĩa là họ
khác biệt trong dòng tiền tự do (sau khi tái đầu tư) hoặc tiền mặt có thể chia.
X sinh ra $5 triệu và Y sinh ra $8 triệu. Lợi nhuận trên vốn đầu tư tạo ra sự
khác biệt trong giá trị.
X
|
Y
|
|
Vốn đầu tư
|
100
|
40
|
Dòng tiền tự do
|
10
|
10
|
Vốn tái đầu tư
|
-5
|
-2
|
Lợi nhuận trên vốn tái đầu tư
|
10%
|
25%
|
Dòng tiền có sẵn để phân bổ
|
5
|
8
|
Giá trị khi tỷ lệ chiết khấu 10%
|
100 (5/(0.1-0.05))
|
160
|
Warren Buffett
mô tả những thương vụ kinh doanh nào tốt nhất để sở hữu:
Bỏ câu hỏi về giá sang một bên, thương vụ
kinh doanh tốt nhất để sở hữu là thương vụ có thể thuê được số lượng lớn vốn
tăng dần với tỷ lệ hoàn vốn cao trong một khoảng thời gian đủ rộng. Vụ kinh
doanh tệ nhất để sở hữu là cái phải, hoặc sẽ, làm điều ngược lại – thuê liên tục
được một lượng vốn có thể còn lớn hơn thế với tỷ lệ hoàn vốn rất thấp.
Doanh thu cao hơn sẽ gây gấn tượng với chúng
ta?
Warren Buffett
đưa ra một ví dụ từ một trong các công ty con của Berkshire:
Trong khi việc tăng doanh thu từ $8 triệu tới
$72 triệu nghe có vẻ khinh khủng – thông thường – bạn không nên tự động giả thiết
điều đó cho một tình huống. Trước tiên, bạn phải chắc chắn rằng doanh thu không
bị giảm trong năm cơ sở. Nếu thay vào đó chúng bền vững với vốn thuê, một điểm
quan trọng hơn phải được kiểm tra: bao nhiêu vốn thêm vào để tạo ra lợi nhuận
thêm vào?
Chúng ta cần hiểu
chuyện gì đằng sau các con số. Warren Buffett nói rằng, “lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu ban đầu” là “thước đo phù hợp nhất cho hiệu quả quản lý một năm cụ thể”.
Ứng dụng đã nói của thước đo đó, tuy nhiên, đòi hỏi hiểu rõ nhiều yếu tố, bao gồm
chính sách kế toán, giá trị ghi sổ của tài sản, đòn bẩy tài chính, và các điều
kiện công nghiệp.”
Chúng ta không
thể kỳ vọng thu được lợi nhuận trên đầu tư theo thời gian cao hơn nghiệp vụ
kinh doanh cơ bản sinh ra trên vốn đầu tư theo thời gian. Charles Munger nói:
Trong dài hạn, thật khó để một cổ phiếu kiếm
được lợi nhuận nhiều hơn một việc kinh doanh cơ bản kiếm được. Nếu việc kinh
doanh kiếm 6% trên vốn trong 40 năm và bạn duy trì nó 40 năm, bạn sẽ không tạo
nên khác biệt so với 6% lợi nhuận – thậm chí nếu bạn mua nguyên gốc với tỷ lệ
chiết khấu lớn – Ngược lại, nếu việc kinh doanh kiếm 18% lợi nhuận trên vốn
trong 20 hay 30 năm, thậm chí nếu bạn trả một cái giá có vẻ rất đắt, bạn cũng sẽ
kết thúc với kết quả tốt đẹp.
Số ít công ty có
thể quản lý, theo giai đoạn 10 hoặc 20 năm, để duy trì lợi nhuận cao khoảng 20%
hoặc hơn trên vốn đầu tư trong khi tái đầu tư toàn bộ hoặc phần lớn doanh thu của
họ. Những thay đổi trong phạm vi cạnh tranh, thói quen người mua, và môi trường
hầu hết sẽ tạo ra sự chắc chắn.
Warren Buffett
tiết lộ giới hạn của tăng trưởng doanh thu và các tiên đoán ngạo mạn sẽ dẫn đến
hành vi ngu ngốc như thế nào:
Hãy kiểm tra bản ghi của 200 công ty có doanh
thu cao nhất từ 1970 hoặc 1980 và phân loại có bao nhiêu công ty đã làm tăng
doanh thu trên cổ phần (EPS) lên 15% hằng năm kể từ ngày đó. Bạn sẽ thấy rằng
chỉ có một bàn tay. Tôi cược với bạn một con số tổng rất cụ thể rằng có ít hơn
10 trong số 200 công ty có lợi nhuận cao nhất đó trong năm 2000 sẽ đạt được 15%
tăng trưởng hằng năm về EPS trong 20 năm kế tiếp.
Ông tiếp tục:
Cuối cùng, hãy nghi ngờ những công ty gióng
trống khua chiêng cho các mục tiêu doanh thu và kỳ vọng tăng trưởng. Hiếm có
doanh nghiệp nào vận hành trong một môi trường yên tĩnh, không gây ngạc nhiên,
và doanh thu đơn giản không tiến lên suôn sẻ (trừ khi, tất nhiên, nằm trong
danh sách mời chào của các ngân hàng đầu tư).
Charlie và tôi không chỉ không biết hôm nay
việc kinh doanh của chúng tôi sẽ kiếm được bao nhiêu năm tới – chúng tôi thậm
chí không biết chúng sẽ thu được trong quí tới là bao nhiêu. Chúng tôi nghi ngờ
các CEO suốt ngày tuyên bố họ biết tương lai – và chúng tôi trở nên hết sức
hoài nghi nếu họ đạt được mục tiêu đã tuyên bố. Các nhà quản lý luôn luôn hứa hẹn
“tạo ra các con số” đến lúc nào đó sẽ bị dụ dỗ dựng nên các con số.
Bỗng nhiên cầu giảm và cạnh tranh về giá nổi
lên.
Thay đổi trong tốc độ tăng trưởng làm thay đổi
giá trị kinh doanh như thế nào? Giá trị kinh doanh là một chức năng của khối lượng
và thời điểm của dòng tiền trong tương lai. Nếu dòng tiền giảm và/hoặc không xuất
hiện trong tương lai, giá trị kinh doanh sẽ giảm.
Warren Buffett
minh họa việc định giá phải thay đổi như thế nào khi các kỳ vọng tăng trưởng bị
sửa lại:
Vài năm trước, sự khôn ngoan thông thường
cho rằng các tài sản báo chí, truyền hình hay tạp chí có thể tăng doanh thu
vĩnh viễn mức 6% hằng năm và có thể làm thế mà không cần thuê thêm vốn, vì lý
do đó, chi phí khấu hao có thể được làm tròn khớp với các chi phí vốn và các
yêu cầu về vốn làm việc có thể nhỏ đi. Như vậy, doanh thu báo cáo (trước khi
trích khấu hao tài sản vô hình) cũng là doanh thu tự do có thể chia, có nghĩa
là quyền sở hữu một tài sản truyền thông có thể được hiểu giống như việc sở hữu
một bộ hiệu lực vĩnh viễn có tăng trưởng 6% một năm. Lại nói tiếp, tỷ lệ chiết
khấu 10% được dùng để xác định giá trị hiện tại của dòng doanh thu đó. Ai đó
sau đó có thể tính toán rằng thích hợp trả một con số khổng lồ $25 triệu cho một
tài sản mà doanh thu sau thuế hiện tại của nó chỉ $1 triệu [1/0.1-0.06].
Bây giờ hãy thay đổi giả thiết và cầu nguyện
rằng $1 triệu đại diện cho “sức mạnh doanh thu thông thường” và doanh thu đó sẽ
dao động quanh con số này theo chu kỳ. Mẫu “dao động xung quanh” hàm ý sâu xa
là nhiều doanh nghiệp nhất, dòng thu nhập của chúng chỉ tăng trưởng nếu chủ sở
hữu của chúng chắc chắn cam kết chi nhiều vốn hơn (thường ở dưới dạng doanh thu
giữ lại). Với các giả thiết đã bị sửa lại, $1 triệu doanh thu, được chiết khấu
cùng mức 10%, dịch thành giá trị $10 triệu. Như vậy sự thay đổi dường như khiêm
tốn trong các giả thiết làm giảm định giá tài sản tới 10 lần doanh thu sau thuế.
Chúng ta trả cùng một giá cho một doanh nghiệp
được tài trợ bằng nợ giống như cho một doanh nghiệp không nợ chứ?
Giả sử Mary đang
quan tâm đến việc mua một cửa hàng nội thất. Việc kinh doanh này ổn định không
có tăng trưởng, dòng tiền tự do 15 và được tài trợ 75 vốn chủ sở hữu. Mức giá
100 (15/0.15) sẽ cho cô ấy 15% lợi nhuận. Nợ có tạo ra sự khác biệt? Có, người
bán sau đó có thể kiếm được một khoản phụ trội bằng cách đòn bẩy việc kinh
doanh trước khi bán nó. Nếu người bán tài trợ lại việc kinh doanh với 50 nợ (và
doanh nghiệp có thể vay với lãi suất 6%) và thu hồi 50 như phần lời, thu nhập
sau lãi suất là 12 (15-3). Sau đó nếu Mary mua cửa hàng mức 80 (12/0.15), người
bán có thể kiếm thêm một khoản 30 (50+80-100) mà không cần bất kỳ thay đổi gì
trong vận hành hoạt động kinh doanh bên dưới.
Thay vào đó Mary
nên giả thiết cô ấy thu mua được doanh nghiệp không nợ và điều chỉnh nợ là 50
và trả 50 (15/0.15-50). Cô ấy cũng nên sửa lại (thêm vào giá) khoản tiền mặt vượt
trội – tiền mặt hay tài sản tiền mặt không cần dùng để dẫn dắt việc kinh doanh.
Cùng kiểu lý luận
như khi chúng ta mua một ngôi nhà. Nếu chẳng hạn chúng ta mua một ngôi nhà giá
$500,000 và lấy $200,000 từ tiền tiết kiệm của chúng ta, thế chấp phần còn lại
hay $300,000, giá của căn nhà vẫn là $500,000.
“Sức mạnh tổng hợp chúng tôi mong đợi từ việc
sát nhập không bao giờ được vật chất hóa. Chúng chỉ là ảo tưởng.”
Đừng quên định
lượng các hậu quả khi tiến hành các vụ thu mua. Hãy lấy báo cáo lỗ lãi và bản
cân đối kế toán của công ty thu mua và công ty đích. Hãy tính toán chuyện gì xảy
ra với khối lượng, giá, chi phí và vốn đầu tư khi các công ty kết hợp lại, cân
nhắc hậu quả và các biến đổi hành vi của nhân viên, nhà cung cấp, khách hàng,
và đối thủ cạnh tranh. Giá trị kinh doanh thay đổi như thế nào? Hãy thực tế.
Các nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ sát nhập đều thất bại trong việc tạo giá
trị cho các chủ sở hữu của công ty thu mua. Lý do chính là người mua đã trả quá
nhiều cho sức mạnh hợp nhất không có thật.
“Tuy nhiên, còn
một điều nữa, hãy chắc chắn,” Warren Buffett nói, “Nếu CEO nhiệt tình với một vụ
thu mua ngu ngốc nào đó, cả nhân viên nội bộ và các cố vấn bên ngoài của ông ta
sẽ mang đến bất kỳ kế hoạch nào cần thiết để biện minh cho lập trường của ông ấy.
Chỉ trong chuyện cổ tích về hoàng đế mới dám nói ông ta đang cởi truồng.”
John đọc báo. Một công ty thông báo hợp đồng
$10 triệu và vốn hóa thị trường của nó nhảy lên $1 tỷ.
Điều đó có ý
nghĩa gì không? Nếu chúng ta giả thiết hợp đồng sinh ra biên lợi nhuận 15%, mức
tăng giá trị thị trường ám chỉ trong đó là $1.5 triệu. Và ngay cả một dự án có
biên lợi nhuận cao cũng có thể thất bại nếu nó đòi hỏi nhiều vốn và nhân lực.
Nếu giá trị hiện tại của các doanh nghiệp
khác nhau là như nhau, thời điểm của cổ tức có gây ra vấn đề không?
Giả sử có 2
doanh nghiệp khác nhau X và Y – với cổ tức được dự đoán như dưới đây. Sau 5 năm
hai công ty này đều đóng cửa.
Năm
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
Cổ tức từ X
|
10
|
10
|
10
|
10
|
10
|
Cổ tức từ Y
|
0
|
0
|
0
|
0
|
61
|
Toàn bộ tiền mặt
do X sinh ra đều được chia hằng năm cho các chủ sở hữu của nó. Dòng tiền tự do
Y sinh ra được tái đầu tư và không trả đến tận 5 năm sau. Giả sử chúng ta muốn
lợi nhuận 10%, giá trị hiện tại của các cổ tức của X và Y tương ứng đều bằng
nhau và khoảng 38. Nhưng giả thiết rằng ta có thể tái đầu tư cổ tức từ X với mức
10%, như vậy ta sẽ có 61 sau 5 năm. Cũng giả thiết rằng Y có thể tái đầu tư
dòng tiền tại các mức tỷ lệ trên khiến thu được cổ tức là 61 sau 5 năm. Nhưng
trong cả hai trường hợp, tương lai có thể biến đổi khác so với kỳ vọng. Môi trường
kinh doanh có thể thay đổi và cạnh tranh gia tăng khiến cổ tức của X và Y sẽ
khác với những gì ta kỳ vọng. Tính toán của chúng ta càng dựa vào các dòng tiền
trong tương lai xa, càng nhiều cơ hội cho những sự kiện không mong muốn xảy ra,
và lợi nhuận kỳ vọng của chúng ta càng không chắc chắn.
Hãy làm toán!
Chúng ta có thể
làm một bài tập đơn giản để kiểm tra lợi nhuận có thể thu được từ việc đầu tư
vào một công ty và nếu định giá thị trường của nó có ý nghĩa. Hãy chỉ nghĩ về những
ngầm hiểu của toán học.
Dưới đây là vài
ví dụ trong đó chúng ta đã phớt lờ cổ tức và quyền chọn (trong thực thế, chúng
ta cần tính toán rõ ràng các quyền chọn và chắc chắn rằng kế toán của công ty
phản ánh thực tế và hiệu quả hoạt động thực). Hãy nghĩ về một cổ phiếu như một
phần của việc kinh doanh và ghi nhớ rằng những biến đổi nhỏ trong giả thiết có
thể biến đổi giá trị đáng kể.
John đang nghĩ về
việc mua 1,000 cổ phần của cổ phiếu nhà sản xuất kem đã niêm yết với giá thị
trường $1 tỷ và không nợ hay trái vụ ngoại bảng. John nên biện luận thế nào?
Tỷ lệ hồi vốn hằng năm tôi dự đoán là bao
nhiêu?
John nhắm vào
giá trị tương lai, và do đó so sánh giá trị đó với giá trị thị trường hiện tại
$1 tỷ. Tỷ lệ hoàn vốn hằng năm anh ấy ám chỉ là gì? Giá đã trả sẽ cho anh ấy đầy
đủ lợi nhuận chứ?
Doanh nghiệp có
doanh thu tiền mặt ban đầu (doanh thu + giá trị hao mòn của lợi thế thương mại)
$40 triệu và tốc độ tăng trưởng của doanh thu tiền mặt trung bình hằng năm giả
thiết là 10% trong 10 năm. Điều này dịch thành $104 triệu doanh thu tiền mặt
trong năm thứ 10. Giả sử thị trường trả trung bình 15 cho loại hình kinh doanh
này. Nó ám chỉ giá trị thị trường $1.56 tỷ vào năm thứ 10. Nếu John so sánh con
số này với giá trị thị trường hiện tại, lợi nhuận hằng năm ngụ ý là 4.5%. John
so sánh lợi nhuận này với lợi nhuận từ các cơ hội đầu tư có sẵn khác. Một vụ
kinh doanh có lẽ có một bản ghi theo dõi lớn, nhưng nếu toán học không làm việc,
hãy tránh xa nó ra.
Kịch bản nào để đạt được tỷ lệ hoàn vốn 15%
hằng năm?
Nhà sản xuất kem
phải kiếm bao nhiêu để sinh ra tỷ lệ hoàn vốn 15% hằng năm cho John? Nếu giá trị
thị trường hiện tại ở mức 15%, điều đó ám chỉ gì và hợp lý không?
Giá trị thị trường
hiện tại của $1 tỷ và lợi nhuận hằng năm 15% ngụ ý giá trị thị trường là $4 tỷ
vào năm thứ 10. Đó là những gì $1 tỷ sẽ tăng lên trong 10 năm tới nếu tăng trường
15% một năm. Hệ số nhân trung bình 15 ám chỉ doanh thu tiền mặt $270 triệu
trong năm thứ 10. Điều này dịch sang tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm
trong doanh thu tiền mặt là 21% (từ cơ sở $40 triệu). Biên lợi nhuận 15% ngụ ý khối
lượng hàng bán là $1.8 tỷ năm thứ 10. Anh ấy có thể tiếp tục với lượng hàng bán
trong tương lai, số người dùng và sử dụng, thị phần, v.v…
Sau đó John hỏi:
Cái gì tạo ra giá trị tương lai này? Điều đó ngụ ý gì trong các con số hôm nay?
Có hợp lý khi quan tâm đến bằng chứng ghi chép theo dõi của tăng trưởng, doanh
thu, biên lợi nhuận, tăng trưởng qui mô thị trường, thị phần, lợi thế cạnh
tranh, v.v…? Yếu tố nào tác động lớn nhất tới doanh thu tiền mặt trong tương
lai và giá trị? Sức mạnh nào có thể thay đổi kịch bản này? Công ty có thể đánh
mất lợi thế như thế nào?
Nếu công ty không tạo ra tiền hôm nay, dòng
tiền tự do nào trong tương lai nói lên giá trị thị trường của nó nếu tôi muốn lợi
nhuận 10%?
Giữa cuộc bùng nổ
Internet, Warren Buffett đã nói:
Khi chúng tôi mua một cổ phiếu, chúng tôi
luôn nghĩ đang mua toàn bộ doanh nghiệp vì nó cho phép chúng tôi suy nghĩ như một
doanh nhân chứ không phải một nhà đầu cơ cổ phiếu. Vì thế hãy chỉ lấy công ty
có viễn cảnh sáng lạn, trả cho bạn bây giờ không gì ngoài việc bạn mua nó tại mức
định giá $500 tỷ… Ví dụ, hãy giả thiết rằng sẽ chỉ trễ 1 năm trước khi doanh
nghiệp bắt đầu trả cho chúng ta, và bạn muốn nhận lợi nhuận 10%. Nếu bạn đã trả
$500 tỷ, thì tiền mặt $55 tỷ là khối lượng nó sẽ phải có khả năng đưa ra cho bạn
năm này qua năm khác. Để làm điều đó, nó phải kiếm được có lẽ $80 tỷ hoặc gần
con số đó, trước thuế. Hãy nhìn vô số các doanh nghiệp trên thế giới và tìm xem
có bao nhiêu đang kiếm được $80 tỷ trước thuế - hoặc $70 tỷ hoặc $60 hoặc $50
hoặc $40 hay thậm chí $30 tỷ. Bạn sẽ chẳng thấy cái nào.
Một doanh nghiệp
dù bán móng tay hay trang thiết bị viễn thông, nếu nhiều tiền đi ra hơn đi vào,
trên cơ sở giá trị hiện tại, sẽ vô giá trị. Như Warren Buffett nói, “Giá trị bị
phá hủy, không được tạo ra, bằng những việc kinh doanh mất tiền theo vòng đời của
nó, dù việc định giá tạm thời nó có thể cao thế nào đi chăng nữa.”
Ông tiếp tục:
Có rất nhiều điều kỳ diệu trong ngắn hạn khi
tăng P/E nhiều lần và những trò chơi người ta chơi với kế toán v.v… Nhưng cuối
cùng, bạn không thể nhận nhiều từ doanh nghiệp - giữa bây giờ và khi nó kết
thúc - so với doanh nghiệp kiếm ra. Thực tế bạn sẽ làm gì đó ít phụ thuộc hơn
vào những người quản lý kinh doanh của bạn, tiền chi cho an ninh có thường
xuyên không, và bao nhiêu bạn trả cho người quản lý dinh doanh v.v…