CHÍN
BẰNG CHỨNG
Tin vào lời đề nghị khi không có chỗ cho nó thành
sự thật là điều không ai muốn.
-
Bertrand Russell
Bằng chứng giúp
chúng ta chứng minh điều gì có thể xảy ra hay có thể đúng hoặc sai. Bằng chứng
đến từ thực tế, quan sát, kinh nghiệm, so sánh, và thí nghiệm.
Các phương pháp khoa học
Thực tế, có 2 thứ: khoa học và quan điểm; thứ
đầu sinh ra tri thức, thứ sau thiếu tri thức.
-
Hippocrates
Tôi có thể làm thí nghiệm nào để tìm ra điều
này?
Năm 1986, tàu vũ
trụ con thoi Challenger bị nổ khi phóng lên, giết chết toàn bộ các phi hành gia
trên khoang. Sau thảm họa, NASA đã xem xét lại và Richard Feynman cho thấy tên
lửa tăng cường nhiên liệu không an toàn khi nhiệt độ lạnh. Nhiệt độ lúc cất
cánh là 32 F. Trong suốt quá trình phóng, các rung lắc khiến các khớp tên lửa
di chuyển. Trong các khớp tên lửa, có các vòng cao su hình chữ O được dùng
trong một giai đoạn then chốt trong hệ thống phân phối nhiên liệu của tàu con
thoi.
Richard Feynman
đã làm một thí nghiệm đơn giản với vòng cao su hình chữ O từ tên lửa của
Challenger. Ông bóp những chiếc vòng trong một kẹp chữ C và nhúng chúng vào một
cốc nước đá (32F) và thấy cao su không nở ra. Vì cao su không có khả năng phục
hồi ở 32F, vòng chữ O không thể điền đầy khe hở giữa các khớp tăng cường của
tên lửa đang mở rộng. Kết quả gây ra vụ nổ giữa bộ tăng cường và tàu con thoi.
Điều này cũng
minh họa, một thí nghiệm không phải làm phức tạp.
Hãy làm những gì
các nhà khoa học làm: chiến đấu vì tính khách quan. Các nhà khoa học cố gắng mô
tả thế giới như nó vốn thế, chứ không phải như họ muốn nó như thế. Họ tìm kiếm
câu trả lời cho các câu hỏi “tại sao” và “thế nào”, cố gắng tiên đoán hiện tượng
và các qui trình tự nhiên bằng cách sử dụng các phương pháp ngay thẳng khoa học.
Adam Smith đã nói trong cuốn An Inquiry
into the Nature and Causes of the Wealth of Nation (Điều tra đặc trưng và
nguyên nhân của tài sản quốc gia): “Khoa học là liều thuốc giải độc vĩ đại cho
độc dược của lòng nhiệt tình và sự mê tín.”
Qui trình khoa học
gồm các bước sau (tất nhiên, thử và sai, may mắn và trực giác cũng là vấn đề -
các nhà khoa học sử dụng bất kỳ phương pháp nào giúp họ giải quyết được vấn đề):
Bài toán, vấn đề hoặc quan sát – Chúng
ta cố gắng tìm ra một cái gì đó. Chúng ta có một bài toán hoặc chúng ta quan
sát một hiện tượng và tự hỏi chuyện gì đã xảy ra và tại sao (vấn để ở đây là
chuyện gì đã xảy ra).
Đoán tại sao – Chúng ta cố tìm một lời
giải khả thi hoặc một giải thích (một giả thuyết cái gì đó tại sao xảy ra và xảy
ra như thế nào) có thể được chứng minh hoặc bị phản bác bằng cách thử nghiệm nó
qua thí nghiệm hoặc quan sát. Có lẽ vài qui tắc hoặc mô hình có thể giải quyết
bài toán hoặc giải thích được quan sát của chúng ta. Phỏng đoán của chúng ta phải
có khả năng đo được và thống nhất với tự nhiên và bằng chứng được chứng minh.
Tiên đoán hậu quả - Chúng ta làm việc với
những hậu quả logic của phỏng đoán của chúng ta và nhìn xem cái gì có thể được
ám chỉ nếu phỏng đoán của chúng ta đúng.
Thử nghiệm – “Nếu tôi làm điều này,
chuyện gì sẽ xảy ra?” Khả năng thử nghiệm được là then chốt. Chúng ta so sánh
các hậu quả ám chỉ từ phỏng đoán của mình bằng thí nghiệm, bằng chứng, và quan
sát. Chúng ta lặp lại thí nghiệm trước lỗi, gian lận, trùng hợp ngẫu nhiên và
biến đổi trong hoàn cảnh hoặc môi trường. Chúng ta thông báo các kết quả của
mình một cách trung thực. Càng nhiều bằng chứng xác nhận phỏng đoán của chúng
ta, phỏng đoán càng có khả năng đúng. Nếu phỏng đoán bất đồng với thí nghiệm hoặc
bằng chứng, nó là sai. Như Richard Feynman nói:
Phỏng đoán của bạn đẹp đẽ thế nào không tạo
nên bất kỳ điều gì khác biệt. Cũng không tạo nên bất kỳ điều gì khác biệt khi bạn
thông minh đến mức nào, khi ai là người phỏng đoán, hoặc khi tên bạn là gì – nếu
nó khác với thí nghiệm, nó là sai.
Darwin nhận ra rằng
để một quan sát được ứng dụng, nó phải được thử nghiệm cho hoặc trước một lý
thuyết, giả thuyết hay mô hình (nếu chúng ta không “đoán tại sao”, có thể không
có thí nghiệm nào vì thử nghiệm không có gì để chỉ dẫn cho nó). Trên tàu HMS
Beagle, trong một bức thư gửi cho bạn mình Henry Fawcett, Darwin viết:
Khoảng 30 năm trước có nhiều tranh luận rằng
các nhà địa chất học chỉ phải quan sát và không được đặt ra giả thuyết; và tôi
vẫn nhớ rõ ai đó nói rằng với tốc độ này một người bình thường cũng có thể đi
vào hố sỏi, đếm các viên sỏi và mô tả màu sắc. Thật kì lạ biết bao khi ai đó
không nên nhìn nhận rằng toàn bộ quan sát phải ủng hộ hoặc chống lại một quan
điểm nào đó nếu nó thuộc về bất kỳ ngành nào.
Chúng ta không
chỉ quan sát một hành vi nào đó; chúng ta quan sát với mục đích trong đầu hoặc
trong ánh sáng của một học thuyết nào đó, hoặc với nền tảng về một điều quan trọng
cần tìm kiếm. Tương tự khi chúng ta tìm kiếm thông tin. Charles Munger nói:
… bạn phải có ý tưởng về lý do tại sao bạn
tìm kiếm thông tin. Đừng đọc các báo cáo hằng năm theo cách Francis Bacon bảo bạn
làm khoa học… trong đó bạn chỉ thu thập những dữ liệu vô hạn [một số lớn dữ liệu]
và rồi chỉ sau đó thôi bạn cố gắng làm cho nó có ý nghĩa. Bạn phải bắt đầu với
những ý tưởng thực tế. Sau đó bạn phải nhìn xem những điều bạn đang nhìn thấy
có khớp với cấu trúc mà bạn nghĩ là cơ bản không.
Dao cạo của
Occam là nguyên lý cống hiến bởi nhà logic học thế kỷ 14 William of Occam: “Các
thực thể không nên bị nhân lên không cần thiết.” Nếu chúng ta đối mặt với hai lời
giải thích khả thi cho cùng một tiên đoán, cái dựa trên số lượng ít nhất các giả
thiết không thể chứng minh sẽ được ưu tiên hơn, cho đến khi nhiều bằng chứng
hơn xuất hiện. Occam không loại trừ các lời giải thích khác. Albert Einstein
chú thích: “Các lý thuyết nên càng đơn giản càng tốt, nhưng đừng đơn giản hơn.”
Tìm bằng chứng từ quá khứ
Nhìn quá khứ đoán tương lai.
-
Khổng Tử
John đang suy nghĩ về việc thuê một quản lý
mới. Ghi chép quá khứ của quản lý hiện tại có vấn đề gì chăng?
Warren Buffett
nói:
Đánh giá tốt nhất chúng ta có thể làm về khả
năng quản lý không được phụ thuộc vào những gì người ta nói, mà đơn giản là những
gì bản ghi chép thể hiện. Tại Berkshire Hathaway, khi chúng tôi mua một doanh
nghiệp, chúng tôi thường giữ lại bất kỳ ai đã và đang vận hành nó, vì vậy chúng
tôi có một con số trung bình. Hãy lấy trường hợp của bà B. người đang quản lý
Trung tâm Nội thất của chúng tôi. Hơn 50 năm qua, chúng tôi nhìn thấy bà ấy lấy
$500 đưa nó vào vụ kinh doanh tạo ra $18 triệu trước thuế. Vì vậy chúng tôi biết
bà ấy là người có khả năng… Rõ ràng, bài học ở đây là các bản ghi chép quá khứ
là chỉ dẫn đơn lẻ tốt nhất.
Rồi sau đó bạn bước vào vấn đề với con ngựa
14 tuổi. Chúng tôi nói với bạn hãy mua The Daily Racing Form (hình thức đua ngựa
hằng ngày) và thấy con ngựa đó thắng trận Kentucky Derby khi 4 tuổi. Dựa trên
thành tích quá khứ, bạn biết rằng điều đó thật là địa ngục đối với một con ngựa.
Nhưng giờ nó 14 tuổi và hầu như không thể di chuyển. Vì thế bạn phải tự hỏi,
“Liệu có vấn đề gì về bản ghi quá khứ khiến nó trở thành một chỉ dẫn tồi khi
tiên đoán tương lai?”
Các câu hỏi sau
giúp chúng ta quyết định liệu bằng chứng quá khứ có đại diện cho tương lai hay
không:
Quan sát: Hành vi quá khứ/hiện tại vẫn
sẽ tiếp tục? Nó có thể tiếp tục trong bao lâu nữa?
Giải thích: Tại sao nó đã xảy ra trong
quá khứ hoặc tại sao nó xảy ra bây giờ? Nó đã xảy ra như thế nào? Chúng ta phải
hiểu các lý do tại sao kết quả quá khứ xảy ra. Các yếu tố chính là gì? Nó đòi hỏi
chúng ta hiểu phương trình – các biến số then chốt tham gia và các quan hệ của
chúng. Hãy bắt đầu bằng một giả thuyết. Hãy so sánh các hậu quả ẩn chứa trong lời
lý giải nguyên nhân với bằng chứng phù hợp - ủng hộ và chống lại.
Tiên đoán: Bằng chứng quá khứ/hiện tại
có khả năng tiên đoán (đại diện) như thế nào đối với thứ có khả năng xảy ra
trong tương lai? Hãy chắc chắn bằng chứng không phải ngẫu nhiên. Cái làm việc
trong quá khứ có thể là kết quả của ngẫu nhiên.
Nối tiếp và thay đổi: Điều gì cần có để
các bản ghi quá khứ/hiện tại tiếp tục hoặc để đạt được mục tiêu (nhìn lại vào
phương trình)? Cái gì phải xảy ra? Cái gì không phải xảy ra? Những lực nào có
thể thay đổi nó hoặc gây ra cái ta không muốn? Khả năng bao nhiêu? Thuốc giải độc
cho những gì ta không muốn xảy ra?
Chắc chắn và hậu quả: Tôi có bao nhiêu
chắc chắn? Sự kiện đơn lẻ nào tôi cá là nó phải xảy ra hoặc không xảy ra? Hậu
quả là gì nếu sai?
Làm sai lệch và Phản chứng
Tất cả các ý kiến thường thức của chúng ta
luôn luôn nên rộng mở cho những lời chỉ trích.
-
Karl Popper (nhà triết học người Áo – Anh, 1902
– 1994)
Các kết quả khoa
học luôn luôn có một xác suất đi kèm với nó. Ngày mai sẽ mang đến những bằng chứng
mới. Thay vì kiểm tra lại phát biểu, đôi khi tốt hơn là chứng minh nó sai. Một
mẩu bằng chứng đơn lẻ được ưu tiên trong phát biểu không chứng minh được sự thật
của nó – nó chỉ hỗ trợ sự thật. Nhưng một mẩu bằng chứng chống lại nó sẽ cho thấy
nó sai. Albert Einstein nói: “Không phải nhiều thí nghiệm có thể chứng minh tôi
đúng; nhưng chỉ một thí nghiệm có thể chứng minh tôi sai.”
“Tất cả thiên nga đều trắng.”
Chúng ta kiểm
nghiệm câu phát biểu này thế nào? Chúng ta có thể mở mắt, đi ra ngoài tìm những
con thiên nga không trắng. Nếu chúng ta tìm thấy một con thiên nga không trắng,
chúng ta đã bác bỏ câu phát biểu trên. Chúng ta càng tìm thấy nhiều thiên nga
trắng, câu phát biểu trên càng được hỗ trợ. Nhưng nó không được chứng minh. Một
con thiên nga đen thôi và câu phát biểu trên bị loại bỏ.
“Vũ trụ không nhiều hơn 10,000 năm tuổi.”
Thí nghiệm nào
chúng ta có thể tiến hành để khiến câu phát biểu trên sai? Chúng ta có thể tìm
kiếm trên bầu trời và quan sát các vì sao cách chúng ta vài triệu năm ánh sáng.
Điều đó có nghĩa là chúng ta đang nhìn thấy chúng khi chúng ở vài triệu năm trước.
“Phương pháp điều trị bệnh này thật tốt. Tôi
đã được chữa khỏi.” “So sánh với cái gì?”
Chúng ta có thể
kiểm tra việc chữa khỏi là do phương pháp điều trị, người bán thuốc tốt, sức mạnh
của lời đề nghị hay sự tưởng tượng của bệnh nhân không? Để giảm lỗi và thiên kiến,
các nghiên cứu y tế sử dụng một nghiên cứu đối chứng cặp giả dược mù, ngẫu
nhiên hóa. Các đối tượng nghiên cứu ngẫu nhiên chia thành hai nhóm phù hợp với
nhau về tuổi tác, tình trạng thể chất và các yếu tố khác. Một nhóm nhận được
phương pháp điều trị này và nhóm kia dùng giả dược. Cả các đối tượng nghiên cứu
và các nhà nghiên cứu đều không biết ai nhận được phương pháp nào. Sau đó, các
nhà nghiên cứu so sánh hiệu ứng.
“Không có rủi ro nào khi sử dụng thuốc này.”
Không có bằng chứng
về tổn hại (hay lợi ích), điều này không giống như bằng chứng cho cái gì đó an
toàn (hay có hại). Chỉ an toàn (hay có hại) dựa trên những gì chúng ta biết cho
đến nay. So sánh khảo cổ học – chỉ vì cái gì đó đã không được tìm ra không có
nghĩa là nó sẽ không được tìm ra.
Hãy phản bác lại
các ý tưởng. Charles Darwin luôn nhìn vào khả năng ông có thể sai:
Trong nhiều năm, tôi cũng có theo đuổi qui tắc
vàng, gọi tên như vậy, vì bất cứ khi nào một mẫu thực tế được công bố, một quan
sát mới hoặc ý nghĩ xuất hiện trong tôi, đối lập với các kết quả nói chung của
tôi, tôi liền ghi lại nó chính xác cùng lúc đó: vì bằng kinh nghiệm tôi đã thấy
rằng những mẫu thực tế và suy nghĩ như vậy thường nhanh chóng ra khỏi bộ nhớ
hơn những thứ ưu ái khác. Làm chủ thói quen này, rất ít phản đối sinh ra chống
lại quan điểm của tôi mà ít nhất tôi không nhận biết hay nỗ lực trả lời được…
Tôi nghĩ rằng tôi trở nên có kỹ năng hơn một
chút trong phỏng đoán các giải thích đúng đắn và phát minh ra các thử nghiệm;
nhưng điều này chắc có lẽ là kết quả của thực hành, và của một kho kiến thức rộng
lớn. Tôi đã gặp nhiều khó khăn chưa bao giờ gặp khi tự diễn đạt rõ ràng và
chính xác; và khó khăn này khiến tôi mất nhiều thời gian; nhưng nó có lợi thế
bù lại khi buộc tôi nghĩ lâu hơn và chăm chú hơn về từng câu, do đó tôi được dẫn
dắt để nhìn ra lỗi trong lập luận và trong các quan sát của chính tôi hay của
người khác.
“Vì có nhiều bằng chứng xác thực giải thích
của tôi, tôi phải đúng.”
Không nhất thiết,
cùng bằng chứng đó có thể xác thực cả những giải thích khác. Hãy tìm kiếm bằng
chứng phản bác lại giải thích của bạn.
Đừng dùng thời
gian cho những ý tưởng đã bị bác bỏ hoặc những thứ không thể bác bỏ. Hãy hỏi:
Thử nghiệm nào có thể bác bỏ điều đó? Ví dụ, ai đó nói với chúng ta rằng có sự
sống trên hành tinh Zeta. Điều đó không thể thử nghiệm. Không có nghĩa là không
có sự sống trên hành tinh này. Chỉ có nghĩa là không có cách nào chúng ta có thể
kiểm tra nó ngay hôm nay.
Các lý thuyết dựa
trên quan sát có ưu tiên cao hơn những lý thuyết đơn độc vì quan sát có thể bác
bỏ các giả thuyết. Galileo Galilei đặt cơ sở cho các lý thuyết của ông dựa trên
các quan sát trong cuộc tranh luận liệu mặt trời có quay quanh trái đất không.
Hãy tham gia tự
phê bình. Hãy đặt câu hỏi cho các giả thuyết của bạn. Hãy giải thích cái đối lập
với niềm tin của bạn. Hãy hỏi: Giả sử tôi sai, làm sao tôi biết điều đó? Tại
sao một lý thuyết đối lập có thể đúng? Giả sử câu trả lời của tôi đúng, điều gì
có thể khiến tôi thay đổi suy nghĩ? Sau đó, hãy tìm kiếm bằng chứng.
Chúng ta thường
không nhìn vào điểm yếu của bản thân và do đó không tạo động lực để cải thiện.
Vì vậy, hãy khuyến khích đúng người đưa ra các phản hồi mang tính xây dựng để
giúp chúng ta cải thiện.
Hãy nhìn ngược lại
và đo xem bạn đã làm ngược lại các lập luận ban đầu của mình như thế nào. Hãy
tìm ra lỗi sớm và sửa chúng nhanh chóng trước khi chúng gây tác hại.
Công cụ tiếp
theo buộc chúng ta phải khách quan. Charles Munger nói về cách tư duy ngược:
Thói quen trí óc của việc tư duy ngược buộc
phải khách quan – vì một trong những con đường để bạn nghĩ về một thứ ngược lại
là bạn lấy giả thuyết ban đầu và nói “Hãy thử bác bỏ nó.”
Đó không phải thứ mà hầu hết mọi người đều
làm với giả thuyết ban đầu của mình. Họ cố gắng xác nhận nó. Đó là một xu hướng
tự động trong tâm lý – thường gọi là “thiên kiến kết luận đầu tiên”. Nhưng đó
chỉ là một xu hướng. Bạn có thể tự đào tạo mình tránh xa xu hướng đó tới mức độ
bền bỉ. Bạn chỉ liên tục lấy giả thiết của mình và cố gắng bác bỏ nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét