Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 10



Chương 10: Trong căn phòng của Pháp Sư

Một buổi tối, Simbri yêu cầu chúng tôi ăn tối với ông ta trong căn phòng của ông trên tòa tháp cao nhất của cung điện – chúng tôi biết điều đó, đối với chúng tôi, đó thực sự là một nơi định mệnh, nơi đây, cảnh cuối của vở kịch đồ sộ đã diễn ra. Chúng tôi tới đó, khá vui vì có sự thay đổi. Khi chúng tôi ăn, Leo trở nên rất trầm tư, rồi bỗng nhiên nói – “Simbri thân mến, tôi muốn cầu xin ngài một đặc ân – ngài có thể xin Khania để chúng tôi đi con đường của mình được không.”
Ngay lập tức khuôn mặt già nua xảo quyệt của Pháp Sư giống như chiếc mặt nạ bằng ngà.
“Tất nhiên tốt hơn ngươi nên yêu cầu đặc ân với chính nàng, anh bạn ạ; ta không nghĩ có lý do gì để từ chối ngươi,” ông ta đáp.
“Chúng ta hãy dừng việc tạo ra rào chắn,” Leo nói, “Và hãy nhìn vào thực tế. Theo tôi dường như Khania Atene không hạnh phúc bên chồng.”
“Con mắt của ngươi thật sắc bén, chàng trai, ai nói họ đang lừa dối ngươi chứ?”
“Hơn nữa có vẻ như,” Leo đỏ mặt tiếp tục, “nàng đã quan tâm đến tôi quá tốt tới mức – không đáng.”
“A! Có lẽ ngươi đã đoán ra khi ở ngôi nhà Cánh Cổng đằng kia, dù ngươi không quên những gì hầu hết đàn ông đều nhớ được.”
“Tôi nhớ vài thứ, ngài Simbri, vài thứ phải làm giữa nàng và ngài.”
Pháp Sư chỉ vuốt bộ râu của mình và bảo: “Nói tiếp đi!”
“Chỉ một chút thôi, ngài Simbri, ngoại trừ việc tôi không cố ý tạo ra tai tiếng cho tên tuổi của người phụ nữ quyền uy nhất mảnh đất này.”
“Thật cao thượng, chàng trai, thật cao thượng, dù ở đây những chuyện như thế không gây ra khó khăn nhiều lắm. Nhưng chuyện sẽ thế nào nếu không có tai tiếng? Giả sử, liệu Khania có chọn một người chồng khác khiến cả vùng đất này đều vui mừng không, vì nàng là người cuối cùng mang dòng máu hoàng tộc.”
“Làm sao nàng có thể lấy chồng khác khi nàng vẫn còn một người chồng đang sống kia chứ?”
“Đúng; quả là vấn đề ta đã cân nhắc, nhưng câu trả lời là, người đó sẽ chết. Nói chung, Khan gần đây đã luôn uống quá nhiều.”
“Ngài muốn nói người đó có thể sẽ bị giết hại,” Leo tức giận nói. “Được rồi, tôi không có gì để làm với một tội lỗi như thế. Ngài có hiểu tôi không?”
Khi lời vừa ra khỏi miệng cậu, tôi nghe thấy tiếng sột soạt và quay đầu lại. Đằng sau chúng tôi là tấm rèm che bên ngoài chỗ Pháp Sư ngủ, che cả dụng cụ tiên đoán và chiêm tinh của ông. Giờ chúng bị vén lên, ở đó, trong phong thái hoàng tộc, Khania đứng yên như một bức tượng.
“Ai bảo đó là tội lỗi?” cô ấy hỏi bằng giọng lạnh lẽo. “Là chàng sao, Leo, chúa tể của lòng ta?”
Đứng lên khỏi ghế, cậu đối mặt với cô và nói – “Thưa quí bà, tôi rất vui khi nàng nghe thấy những lời tôi nói, ngay cả nếu chúng làm nàng phật ý.”
“Tại sao nó làm ta phật ý khi biết có một người đàn ông trung thực nhất cung điện này sẽ không tham gia vụ giết người? Không, ta tôn trọng chàng vì những lời đó. Hãy nhớ rằng không một suy nghĩ bẩn thỉu nào có thể tới gần ta. Nhưng, Leo Vincey, điều đó đã được viết ra – đã được viết ra rồi.”
“Chắc chắn rồi, thưa Khania; nhưng cái gì đã được viết ra thế?”
“Hãy nói cho chàng đi, Pháp Sư.”
Bây giờ Simbri đi tới sau tấm rèm và quay lại cùng một cuộn giấy và đọc lên: “Trời đưa ra các dấu hiệu không thể sai lầm được, trước tuần trăng tiếp theo, Khan Rassen sẽ chết dưới tay người lạ - vị chúa tể tới đất nước này từ dãy núi.”
“Thế thì trời đưa ra lời dối trá rồi.” Leo khinh bỉ nói.
“Tùy chàng thôi,” Atene trả lời; “nhưng nó sẽ xảy ra như vậy, không phải dưới tay ta hay những người tùy tùng của ta, mà chính là chàng. Rồi sao nữa?”
“Tại sao lại bởi tay tôi? Tại sao không phải bởi Holly? Nếu vậy, chắc chắn tôi sẽ đau đớn vì người vợ góa của ngài sẽ trừng phạt tội lỗi tôi gây ra,” cậu bực tức trả lời.
“Xin chàng đừng thử thách ta, Leo Vincey, chàng biết rõ người đàn ông này là người chồng như thế nào với ta.”
Bây giờ tôi cảm thấy cuộc khủng hoảng đã tới, Leo cũng vậy, vì cậu nhìn thẳng vào cô ấy và nói – “Nói đi, thưa quí bà, hãy nói tất cả những gì nàng muốn; có lẽ điều đó sẽ tốt hơn với cả hai ta.”
“Ta nghe theo lời chàng. Lúc bắt đầu câu chuyện định mệnh này, ta không biết gì hết, nhưng ta đã đọc được trang đầu tiên mở ra trước mắt ta. Đó là điều phải làm với cuộc đời hiện tại này của ta. Chàng hiểu chứ, Leo Vincey, từ lúc còn thơ ấu, chàng đã ám ảnh ta. Ôi! Khi lần đầu tiên nhìn thấy chàng trên bờ sông, gương mặt chàng không hề xa lạ với ta, vì ta biết nó – ta biết nó rõ ràng trong những giấc mơ. Khi ta là một cô gái nhỏ và một ngày nọ ngủ quên giữa đám hoa bên cửa sông, giấc mơ đó đã lần đầu tới bên ta – hãy hỏi bác ta ở đây đi, liệu có đúng vậy không, dù thật ra gương mặt chàng trẻ hơn bây giờ. Sau đó ta cứ gặp nó hết lần này đến lần khác trong giấc ngủ và hiểu rằng chàng là của ta, vì sự thần bí của trái tim đã dạy ta điều đó.”
“Rồi năm tháng dài lê thê cứ trôi qua trong khi ta cảm thấy chàng đang ở rất gần ta, chậm chạp, rất chậm chạp, nhưng càng lúc càng gần hơn, đi đi lại lại giữa các tộc người trên thế gian; qua những ngọn đồi, qua các đồng bằng, qua cát, qua tuyết, tới bên ta. Cuối cùng kết cục cũng đến, một đêm không quá ba tuần trăng trước, cùng với nhà thông thái này, bác của ta, và ta ngồi cùng nhau ở đây nghiên cứu kiến thức ông đã dạy ta và cố gắng tìm ra bí mật trong quá khứ, một ảo cảnh đã hiện ra trước mắt ta.”
“Chàng nhìn đi, ta bị lạc lối trong giấc ngủ mê làm linh hồn rời khỏi thể xác và trao cho nó sức mạnh đi xa hơn, nhìn thấy những chuyện đã, đang và sắp xảy ra. Rồi ta thấy chàng cùng người bạn đồng hành của chàng đang bám vào một mảnh băng vỡ, trên con sông dưới vực thẳm. Ta không nói dối; điều đó đã được viết ở đây, trên cuộn giấy. Đúng, chính là chàng, người đàn ông trong những giấc mơ của ta, chứ không phải ai khác, chúng ta biết nơi đó và vội vã tới đó chờ đợi bên dòng nước, cho rằng có lẽ chàng đã nằm chết dưới đó.”
“Sau đó, lúc chúng ta đang đợi, ôi! Hai thân ảnh nhỏ nhoi xuất hiện phía xa trên sông băng mà chưa ai trèo qua, và than ôi, chàng đã biết phần còn lại rồi đó. Chúng ta đứng đó như bị mê hoặc và thấy chàng trượt đi, bị treo lơ lửng, thấy chàng cắt sợi dây mỏng và rơi xuống, thấy người đàn ông dũng cảm này, Holly, đâm đầu lao theo chàng.”
“Nhưng bàn tay ta đã lôi chàng khỏi dòng nước xiết, nếu không chàng đã chết đuối, chàng là tình yêu trong quá khứ xa xôi và hiện tại, phải, tình yêu mãi mãi của ta. Đúng, chàng chứ không phải ai khác, Leo Vincey. Chính linh hồn này đã nhìn thấy trước hiểm nguy của chàng và bàn tay này đã kéo chàng khỏi tử thần – giờ chàng muốn từ chối chúng sao – khi ta, Khania của Kaloon, đã hiến dâng chúng cho chàng?”
Cô ấy nói vậy, dựa vào chiếc bàn, nhìn vào gương mặt cậu với đôi môi run rẩy cùng đôi mắt như khẩn cầu.
“Thưa quí bà,” Leo nói, “nàng đã cứu tôi, tôi xin cảm ơn nàng lần nữa, dù có lẽ sẽ tốt hơn nếu nàng để tôi chết đuối. Nhưng hãy tha thứ cho câu hỏi của tôi, nếu toàn bộ chuyện này là thật, tại sao nàng lại cưới người đàn ông khác?”
Giờ cô ấy co người lại như thể bị một con dao đâm vào.
“Ôi! Đừng đổ lỗi cho ta,” cô rên rỉ, “đó là khế ước trói buộc ta với kẻ điên rồ này, kẻ khiến ta căm ghét. Họ buộc ta phải làm điều đó; đúng, thậm chí cả ngươi, Simbri, bác ta, vì hành động đáng nguyền rủa đó do ngươi dẫn đầu – họ hối thúc ta, bảo rằng cần phải chấm dứt cuộc chiến giữa phe cảnh của Rassen và của ta. Ta là người cuối cùng mang huyết thống thực sự, hơn nữa cũng bảo rằng những giấc mơ và ký ức của ta chỉ là đống ảo tưởng bệnh hoạn. Vậy đấy, than ôi! Than ôi! Ta đã cúi đầu, vì muốn làm cho dân tộc của ta vĩ đại hơn.”
“Bản thân nàng là người vĩ đại nhất trong số họ, nếu những gì ta nghe là sự thật,” Leo thẳng thắn nhận xét, vì cậu đã kiên quyết kết thúc chuyện này. “Phải rồi, tôi không đổ lỗi cho nàng, Khania, dù giờ đây nàng bảo tôi phải cắt đi nút dây nàng buộc bằng cách tước đi tính mạng người chồng do chính nàng chọn kia, vì số phận đã ra lệnh thế, số phận nàng đã tạo nên. Đúng, tôi phải làm những gì nàng không làm, giết hắn ta. Câu chuyện về mệnh lệnh từ trên trời và ảo cảnh dẫn nàng tới vách núi để cứu chúng tôi là dối trá. Thưa quí bà, nàng gặp tôi bên bờ sông là do Hesea “hùng mạnh”, Linh Hồn của Ngọn Núi, đã ra lệnh cho nàng làm vậy.”
“Làm sao chàng biết điều đó?” Atene nói, đứng bật dậy đối mặt với cậu ấy trong khi quai hàm của Simbri già nua há ra và mí mắt chớp chớp nhìn cậu qua lăng kính.
“Ta còn biết nhiều nữa cơ. Thưa quí bà, sẽ tốt hơn nếu nàng nói toàn bộ sự thật.”
Giờ gương mặt Atene đã tái mép và gò má cô lõm xuống.
“Ai nói cho chàng?” cô ấy thì thào. “Là ngươi phải không, Phù Thủy?” và cô quay về phía bác mình như một con rắn chuẩn bị tấn công. “Ôi! Nếu vậy, chắc ta sẽ phải biết chứ, dù chúng ta cùng một dòng máu và đã luôn yêu thương nhau, ta sẽ bắt ngươi phải trả giá trong đau đớn.”
“Atene, Atene,” Simbri ngắt lời, giơ tay lên, “nàng biết rõ rằng đó không phải là ta.”
“Thế thì là ngươi đúng không, ngươi, kẻ lang thang có gương mặt như tinh tinh này, ngươi là sứ giả của quỉ dữ? Ôi! Tại sao ta không giết chết ngươi ngay từ đầu? Phải, sai lầm đó có thể khắc phục được thôi.”
“Thưa quí bà,” tôi ôn tồn đáp, “Tôi cũng là một phù thủy ư?”
“Phải,” cô trả lời, “ta nghĩ ngươi là phù thủy, ngươi có một nữ chủ nhân ngự trong ngọn lửa.”
“Thế thì, thưa Khania,” tôi nói, “đám người hầu và những nữ chủ nhân như thế thật phát ốm nếu dính vào. Hãy nói mà xem, Hesea đã gửi cho nàng thông báo trả lời thế nào về việc chúng tôi đến mảnh đất này?”
“Nghe đây,” Leo ngắt lời trước khi cô ta đáp lại. “Tôi đã hỏi một câu về Nhà Tiên Tri trên đỉnh núi đằng kia. Dù nàng nguyện ý hay không, tôi đã phải nói rằng, tôi sẽ ra đi, sau đó nàng có thể tự quyết định ai là kẻ mạnh hơn – Khania của Kaloon hay Hesea của Cung Điện Lửa.”
Atene lắng nghe và đứng im lặng một lúc, có lẽ vì cô không có câu trả lời. Rồi cô cười khẽ - “Đó là ý nguyện của chàng ư? Được thôi, ta nghĩ trên đó không có người chàng muốn cưới đâu. Chỉ có ngọn lửa để phục tùng, một linh hồn vô sỉ không hề đáng yêu ám ảnh làm người ta điên cuồng trong khát vọng tội lỗi;” và như đang triền miên trong suy tư thầm kín, nỗi đau đớn co rút hiện qua gương mặt và bắt chẹt hơi thở của cô. Sau đó cô ấy tiếp tục với giọng lạnh lẽo – “hỡi những kẻ lang thang, vùng đất này có nhiều bí mật, không một người bên ngoài nào được tò mò về chúng. Ta nói lại lần nữa, trong khi ta vẫn còn sống, các ngươi không được đặt chân lên Ngọn Núi đó. Cũng nhớ cho, Leo Vincey, ta đã phơi bày trái tim ta trước chàng, ta cũng được đáp lại rằng cuộc hành trình dài này của chàng không phải vì ta, như thể ta là kẻ ngu ngốc, nhưng ta nghĩ, vì quỉ dữ đang mang hình hài người phụ nữ đó, chàng sẽ không bao giờ tìm thấy. Giờ ta sẽ không cầu nguyện cho chàng nữa; điều đó không phù hợp, mà chàng đã biết quá nhiều.”
“Do đó, từ đêm nay tới trước lúc mặt trời lặn ngày mai, hãy cân nhắc trả lời. Đã đưa đề nghị rồi, ta sẽ không quay lại, ngày mai chàng hãy nói cho ta, liệu chàng sẽ lấy ta khi thời khắc tới như nó phải thế, và thống trị mảnh đất này, sống cuộc đời vĩ đại và hạnh phúc trong tình yêu của ta, hay chàng và người bạn thân thiết của chàng, các người sẽ phải chết. Hãy lựa chọn giữa sự báo thù của Atene và tình yêu của nàng, vì ta không bận tâm khi bị nhạo báng trên mảnh đất của mình như một kẻ bừa bãi tìm kiếm một người lạ và – bị từ chối.”
Cô từ từ, từ từ nói ra từng lời trong tiếng thì thầm dữ dội, từng từ từng từ rơi trên môi cô như giọt máu rơi ra từ vết thương chết người, và theo sau đó là sự im lặng. Tôi không bao giờ quên được cảnh đó. Ở đó vị phù thủy già quan sát chúng tôi qua đôi mắt có lớp vảy sừng, chớp chớp như con cú đêm. Ở đó người phụ nữ uy quyền đứng trong chiếc hoàng bào, cơn thịnh nộ buốt giá hiện rõ trên gương mặt cô và sự thù hận cả trong ánh mắt. Ở đó, đối diện với cô ấy, là dáng hình to lớn của Leo, im lặng, cảnh cáo, kiên quyết, giữ chặt những nghi ngờ và sợ hãi của cậu trong bàn tay ý chí sắt đá. Và ở đó, tôi có quyền ghi nhớ mọi thứ và tự hỏi, tôi, “người bạn thân thiết” bị Atene căm ghét, còn có thể sống sót trên đời bao lâu nữa.
Chúng tôi đứng đó nhìn nhau, tới khi bỗng nhiên thấy ánh đèn chập chờn phía trên, rồi cảm thấy một làn gió lướt qua mặt. Tôi nhìn quanh, và nhận ra một người nữa hiện diện. Đằng kia trong bóng tối hiện ra dáng hình cao lớn của một người đàn ông. Nhìn xem! Hắn yên lặng lê bước về phía trước, tôi thấy đôi chân trần. Giờ hắn đã tới vầng sáng của ánh đèn và bật ra tiếng cười man rợ.
Đó là Khan.
Atene, vợ anh ta, ngước lên và nhìn anh ta, chưa bao giờ tôi ngưỡng mộ sự can đảm của người phụ nữ đầy đam mê này hơn thế, trong khi ngưỡng mộ sự tiết kiệm và vẻ đẹp của cô ít hơn một chút, vì gương mặt cô không hiện lên sự tức giận hay sợ hãi, mà chỉ có sự khinh bỉ. Dù cô ấy có lý do để sợ hãi, như chính cô cũng biết rõ điều đó.
“Ngài làm gì ở đây thế, Rassen?” cô hỏi, “đang bò lại phía ta trên đôi chân rắn rết của ngài sao? Trở lại với rượu và đám phụ nữ trong cung điện của ngài đi.”
Nhưng anh ta vẫn cười, tiếng cười của một kẻ tàn bạo.
“Ngài đã nghe thấy gì?” cô ấy nói, “điều đó làm ngài vui đến vậy sao?”
“Ta đã nghe thấy gì à?” Rassen ồng ộc tuôn ra những tiếng la hét trong niềm vui mừng ghê tởm. “ô hô! Ta đã nghe thấy Khania, người cuối cùng mang dòng máu hoàng tộc thực sự, người đầu tiên trên mảnh đất này, nàng công chúa kiêu hãnh không để áo khoác của mình bị lấm bẩn bởi đám ‘phụ nữ trong cung điện’, và vợ ta, vợ ta, người đã đề nghị ta cưới nàng – nhớ điều này nhé, những kẻ xa lạ kia – vì ta là họ hàng của nàng và là đối thủ cầm quyền, là lãnh chúa giàu nhất của vùng đất này, thế nên nàng nghĩ nàng có thể gia tăng quyền lực – ta đã nghe thấy lời đề nghị của nàng với một kẻ lang thang vô danh có bộ râu vàng lớn, và ta đã nghe thấy hắn ta căm hận muốn trốn thoát khỏi nàng” – nói đến đây anh ta cười lớn – “từ chối nàng theo cách mà ngay cả ta cũng chưa từng dùng để từ chối người phụ nữ thấp hèn nhất trong cung điện.”
“Ta cũng nghe thấy – dù ta luôn biết điều đó – rằng ta là kẻ điên; hỡi những kẻ xa lạ kia, ta bị điên vì lá bùa căm hận của con Chuột già kia,” anh ta chỉ vào Simbri, “khiến ta chìm trong say xỉn – đúng, ngay tại tiệc cưới của mình. Nó đã rất công hiệu, vì thực ra không có ai khiến ta căm ghét hơn Khania Atene. Tại sao ư, ta không thể chịu đựng được sự đụng chạm của nàng ta, nó khiến ta phát ốm. Ta không ưa nổi khi cùng phòng với nàng ta; nàng làm không khí dơ bẩn; nàng ta đầy mùi tà thuật.”
“Có lẽ các ngươi cũng thấy thế, đúng không Râu Vàng? Phải, nếu vậy, hãy hỏi con Chuột già kia thứ đồ uống tình yêu; hắn ta có thể tạo ra nó, và ngươi sẽ nghĩ nàng ta thật ngọt ngào, tốt bụng, xinh đẹp, và dành thêm vài tháng nữa đủ để vui vẻ. Tên kia, đừng ngu ngốc nữa, cái cốc đẩy vào tay ngươi trông được đấy. Uống đi, uống nhiều vào. Ngươi sẽ không bao giờ đoán ra chất lỏng đó tệ hại thế nào – cho đến ngày mai – khi nó đã bị trộn máu đã nhiễm độc của một ông chồng,” Rassen lại la hét trong niềm hân hoan tội lỗi.
Trước tất cả những lời nhục mạ cay đắng đó, châm chọc chua cay sự thật, Aten lắng nghe không nói một lời. Sau đó, cô quay lại cúi người trước chúng tôi.
“Các vị khách của ta,” cô ấy nói, “ta cầu xin các người ta thứ vì tất cả những gì ta không thể giúp được. Các người đã lạc tới một vùng đất đồi bại và đầy quỉ dữ, dù nó vẫn mang vương miện và hoa. Khan Rassen, kết cục của ngài đã được viết ra, ta không thúc đẩy nó, vì một khi làm vậy, chúng ta sẽ gần nhau hơn thôi, dù với ta, ngươi là kẻ vô dụng suốt nhiều năm qua, chỉ làm một con rắn ám nhà ta. Dù không có nó, chiếc cốc tiếp theo ngươi uống cũng vẫn làm ngươi điên thôi, miệng lưỡi thấp hèn làm giọng ngươi trở nên độc ác. Bác, hãy đi cùng ta. Bàn tay của ngươi khiến ta trở nên yếu đuối vì xấu hổ và đau đớn.”
Pháp Sư già khập khiễng bước về phía trước, nhưng khi ông ta đi tới mặt đối mặt với Khan, ông ta dừng lại và nhìn trên dưới anh ta qua đôi mắt mờ đục. Rồi ông ta nói – “Rassen, ta đã nhìn ngươi sinh ra, con trai của một phụ nữ xấu xa, cha ngươi không biết gì nhưng ta biết. Ngọn lửa bùng lên đêm đó trên ngọn núi Lửa, những vì sao cũng dấu mặt, vì không ai muốn làm chủ ngươi, không, thậm chí ngay cả kẻ có ảnh hưởng xấu xa nhất. Ta nhìn ngươi kết hôn và say xỉn trong lễ cưới, cánh tay ngươi đặt trên cổ một kẻ dâm đãng. Ta nhìn ngươi cai trị, lãng phí đất đai cho thú vui chơi bạo lực, biến những cánh đồng màu mỡ thành bãi săn lớn cho những trò chơi của ngươi, để người dân cày cấy chết đói trên đường hay chết đuối trong mương vì khốn khổ. Và sẽ sớm thôi, sớm thôi, ta sẽ chóng thấy ngươi chết trong đau đớn và máu, rồi sợi xích sẽ rơi khỏi cổ người phụ nữ cao quí mà ngươi chửi rủa này, sẽ có người khác xứng đáng hơn thế chỗ ngươi và sinh con đẻ cháu lấp vào ngôi vị của ngươi, mảnh đất này sẽ lại vẫn tồn tại.”
Giờ đây tôi lắng nghe những lời đó – không ai chưa nghe thấy lại có thể đoán ra nỗi cay đắng ghê người đang được nói đến – trông đợi từng giây phút Khan sẽ rút thanh gươm ngắn bên mình và đâm ông già ngã xuống. Nhưng anh ta đã không làm vậy; anh ta co rúm người như một con chó trước chủ nhân tàn bạo, đã biết rõ sức nặng của cây roi. Đúng, không nói gì, anh ta co người vào góc và rúm ró ở đó, trong lúc đó, Simbri cầm tay Atene đi ra khỏi phòng. Tại cánh cửa sắt to lớn, ông ta quay lại chỉ vào thân ảnh đang co quắp bằng cây gậy và nói – “Khan Rassen, ta đã đưa ngươi lên, và giờ ta đẩy ngươi xuống. Hãy nhớ tới ta khi ngươi nằm xuống chết đi – trong vũng máu và đau đớn.”
Bước chân của họ biến mất, Khan bò ra khỏi góc, lén lút nhìn quanh.
“Con Chuột đó và người kia đã đi rồi à?” anh ta hỏi chúng tôi, dùng tay áo lau trán đẫm mồ hôi; tôi thấy nỗi sợ hãi làm anh ta tỉnh táo và lúc đó, cơn điên loạn biến mất khỏi đôi mắt anh ta.
Tôi trả lời rằng họ đã đi rồi.
“Các ngươi nghĩ ta là một kẻ hèn nhát,” anh ta tiếp tục đầy say mê, “đó là sự thật, ta sợ hắn và nàng ta – cũng như ngươi, Râu Vàng, sợ hãi khi tới lượt ngươi. Ta bảo ngươi này, bọn họ làm ta suy sụp sức khỏe và điên loạn khi uống thuốc mê, khiến ta thành thứ như bây giờ, vì ai chống lại được ma thuật của bọn họ chứ? Giờ ngươi nhìn đi. Ta từng là một hoàng tử, lãnh chúa của một nửa vùng đất này, hình thức cao quí và trái tim thẳng thắn, và ta yêu vẻ đẹp đáng nguyền rủa của nàng giống như tất cả mọi người đều yêu nó từ khi nàng mở mắt. Và nàng trở thành thù địch với ta, nàng tìm ta để kết hôn; chính con Chuột già kia truyền thông điệp của nàng.”
“Vì thế ta dừng cuộc chiến lớn lại và cưới Khania, rồi trở thành Khan; nhưng với ta có lẽ bò vào bếp của nàng như tên phụ bếp còn tốt hơn bò lên giường nàng như một người chồng. Nàng đã ghét ta ngay từ đầu, ta càng yêu, nàng càng căm ghét, tới lúc cưới, nàng đưa ta chất độc dược khiến ta không còn ưa thích nàng nữa, vì thế chúng ta đã ly hôn; điều đó cũng khiến ta phát điên, gặm nhấm não ta như ngọn lửa.”
“Nếu nàng ấy ghét ngài ghê gớm đến vậy, thưa Khan,” tôi hỏi, “tại sao nàng không trộn một liều mạnh hơn cho ngài?”
“Tại sao ư? Vì hiệp ước, vì ta thống trị một nửa vùng đất. Vì nó yêu cầu nàng, ta phải còn sống, thật nực cười, khi ta còn sống, người dân không được ép nàng lấy chồng khác. Vì nàng không phải là một phụ nữ, nàng là một phù thủy khao khát sống đơn độc, hoặc ta đã nghĩ vậy cho tới tận hôm nay” – và anh ta trừng mắt nhìn Leo.
“Nàng cũng biết dù ta co rúm trước nàng, ta vẫn yêu nàng bằng cả trái tim, vẫn ghen tuông, và do đó, ta vẫn bảo vệ nàng khỏi mọi tên đàn ông. Chính nàng đưa ta tên lãnh chúa để đàn chó của ta xé xác lúc trước, vì hắn rất quyền lực và đòi hỏi đặc ân của nàng mà nàng không thể từ chối. Đó là vì có một người đàn ông nàng cưới nơi đây cố làm tan chảy tảng băng trong lòng nàng bằng ngọn lửa.”
Rồi Leo vốn vẫn đứng im lặng, đã bước lên phía trước.
“Thưa Khan, hãy nghe này,” cậu nói. “Tảng băng đó trước đây đã tan chảy chưa, dù chỉ một chút thôi?”
“Không – trừ khi ngươi nằm xuống. Nhưng đó chỉ vì ngọn lửa chưa đủ nóng. Hãy đợi một lúc cho đến khi nó bùng lên, ngươi sẽ phải tan chảy, vì ai có thể mang ý chí của mình chống lại Atene chứ?”
“Chuyện gì xảy ra nếu tảng băng muốn chạy trốn khỏi ngọn lửa? Thưa Khan, họ nói tôi sẽ giết ngài, nhưng tôi không tìm kiếm máu của ngài. Ngài nghĩ tôi muốn cướp vợ ngài khỏi ngài sao, nhưng tôi không hề có ý định đó với nàng ta. Chúng tôi muốn trốn khỏi thành phố này của ngài, nhưng không thể, vì các cánh cổng đều bị khóa, chúng tôi là tù nhân, bị canh giữ cả ngày lẫn đêm. Hãy nghe tôi. Ngài có quyền lực đủ để trả tự do cho chúng tôi và tống khứ chúng tôi đi.”
Khan khôn khéo nhìn cậu ấy. “Nếu ta giải thoát cho các ngươi, các ngươi muốn đi đâu? Các ngươi sẽ rơi xuống hẻm núi đằng kia thôi, chỉ chim chóc mới vượt qua độ cao của nó.”
“Tới ngọn núi Lửa, chúng tôi có việc ở đó.”
Rassen nhìn cậu ấy chằm chằm.
“Ta là kẻ điên, hay là các ngươi, muốn tới ngọn núi Lửa ư? Nhưng chả là gì với ta cả, ta không tin ngươi. Nhưng nếu vậy, ngươi có thể sẽ trở lại và mang những người khác theo. Không chừng là phụ nữ ở đó, ngươi cũng muốn mảnh đất này với quyền lợi của kẻ chinh phạt. Kẻ thù ở đằng kia đó.”
“Không phải vậy,” Leo kiên định trả lời. “Với tư cách một người đàn ông, tôi bảo không phải vậy. Tôi không đòi hỏi dù một nụ cười từ vợ ngài, không đòi hỏi dù chỉ một acre đất đai. Hãy khôn ngoan lên và giúp chúng tôi đi khỏi đây, hãy sống cuộc đời không bị xáo trộn theo cách làm ngài hài lòng.”
Khan vẫn đứng một lúc, đung đưa đôi cánh tay dài lơ đãng, tới khi có gì đó dường như xuất hiện trong đầu anh ta khiến anh ta vui vẻ, vì anh ta nở nụ cười xấu xa.
“Ta đang nghĩ,” anh ta nói, “Atene sẽ nói gì đây nếu nàng tỉnh giấc thấy con chim đẹp đẽ của mình bay mất. Nàng sẽ tìm kiếm các ngươi và điên tiết lên với ta.”
“Có lẽ nàng ấy sẽ không tức giận hơn bây giờ đâu,” tôi trả lời. “Hãy cho chúng tôi một đêm để ra đi và để nàng tìm kiếm chặt chẽ đến mức chưa bao giờ có, nàng sẽ không tìm ra chúng tôi đâu.”
“Ngươi đã quên rồi, kẻ lang thang kia, nàng và con Chuột già của nàng có nhiều mưu mẹo. Kẻ biết nơi gặp được các ngươi có lẽ sẽ biết nơi tìm được các ngươi thôi. Nhưng mà thật hiếm khi nhìn thấy nàng nổi giận. ‘Ôi, Râu Vàng, chàng đang ở đâu, Râu Vàng?’” Anh ta tiếp tục nhại lại giọng vợ mình. “’Hãy quay về đi và để ta làm chàng tan chảy, hỡi Râu Vàng của ta.’”
Anh ta lại cười; rồi đột nhiên nói – “Khi nào các ngươi có thể sẵn sàng?”
“Nửa giờ nữa,” tôi trả lời.
“Tốt. Về phòng và chuẩn bị đi. Ta sẽ cùng đi với các ngươi tới đó.”
Thế là chúng tôi đi.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham 

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 9



Chương 9: Cung điện Kaloon

Kinh hoàng và trong lòng phát ốm, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Không ngạc nhiên khi Khania căm ghét một tên bạo chúa điên cuồng như vậy. Và người phụ nữ này đang yêu Leo, còn vị Khan điên rồ kia, chồng cô, là nạn nhân của ghen tuông, hắn trả thù theo cách rất khó chịu mà chúng tôi đã chứng kiến. Thật sự là một cảnh thích hợp cho tất cả chúng tôi! Nhưng tôi không thể không suy nghĩ, nếu là một bài học quan trọng, khung cảnh kinh hoàng đó có lợi ích gì.
Giờ chúng tôi đã tới nơi con sông chia ra ở cuối hòn đảo, và được đưa lên bờ trên một cầu cảng. Ở đó một đoàn người bảo vệ do chỉ huy của Ngự Lâm Quân ra lệnh đang đợi đón chúng tôi. Họ dẫn chúng tôi đi qua cánh cổng của bức tường lớn, vì thành phố đã được tôn tạo, trên một con phố hẹp lát đá chạy giữa những ngôi nhà mang phong cách Trung Á thông thường, tôi quan sát được dưới ánh trăng, chúng không mang vẻ đẹp kiến trúc, kích thước cũng không lớn.
Rõ ràng việc chúng tôi tới đã được lên kế hoạch và được quan tâm cùng nhiều phấn kích, vì người dân đã tập trung trong các điểm nút trung tâm trên đường phố để nhìn chúng tôi đi qua; cũng như từ các cửa sổ của những ngôi nhà và thậm chí cả trên mái nhà bằng phẳng của họ. Ở đầu con phố dài, có một chỗ giống như chợ, khi đi qua, đám đông tò mò đang nhận xét về chúng tôi nhưng chúng tôi không hiểu được, chúng tôi tới cổng của thành đại nội. Chúng tôi bị chặn lại ở đây, nhưng chỉ với một lời từ Simbri, nó đã mở ra, rồi chúng tôi đi qua và thấy những khu vườn. Cứ đi theo một con đường, chúng tôi đến một ngôi nhà, hay đúng hơn là một cung điện lớn, lộn xộn, nhô lên những tháp cao và được xây rất kiên cố bằng đá theo phong cách Ai Cập nặng nề, lai tạp.
Ngoài cửa cung điện, chúng tôi thấy mình đang ở trong một sân nhỏ có hành lang bao quanh và những lối đi hẹp dẫn tới những phòng khác nhau. Một sĩ quan dẫn chúng tôi đi xuống một trong những lối đi này tới một căn phòng, đúng hơn là một tổ hợp phòng ở, gồm một phòng khách và hai phòng ngủ, được ốp và trang bị nội thất phong phú theo phong cách man rợ, đủ ánh sáng từ những cây đèn dầu nguyên thủy.
Simbri để chúng tôi lại chỗ này, nói rằng viên sĩ quan sẽ đợi chúng tôi ở phòng ngoài để dẫn chúng tôi tới phòng ăn ngay sau khi chúng tôi đã sẵn sàng. Sau đó chúng tôi bước vào phòng ngủ, thấy đám người hầu hay nô lệ đang ở đó, họ im lặng và khúm núm. Những người phục vụ này thay đồ ở chân cho chúng tôi, cởi những chiếc áo choàng đi đường nặng nề xuống, thay chúng bằng quần áo có kiểu dáng áo khoác văn minh, làm từ chất liệu màu trắng viền lông chồn ermine tuyệt đẹp.
Mặc xong quần áo cho chúng tôi, họ cúi người thể hiện việc thu xếp quần áo đã kết thúc, rồi dẫn chúng tôi ra phòng lớn bên ngoài nơi vị sĩ quan đang đợi. Anh ta dẫn chúng tôi đi qua vài căn phòng khác, tất cả chúng đều rộng rãi và trống trải, tới một khán phòng rất lớn chiếu sáng từ rất nhiều cây đèn và những đống lửa lớn từ than bùn để sưởi ấm – vì đêm vẫn lạnh. Mái khán phòng này phẳng và đỡ bởi các cột đá dày, đầu cột chạm khắc, tường treo nhiều thảm trang trí, mang lại không khí tương đối thoải mái.
Tại đầu khán phòng, một chiếc bàn dài và hẹp đặt trên bệ, phủ vải và đặt nhiều chén đĩa bằng bạc. Chúng tôi đợi ở đó tới khi các phục vụ mang đũa vén rèm xuất hiện. Rồi tới một người gõ chiêng bạc, nhiều phụ nữ theo sau, vài người trong đó rất trẻ trung và ưa nhìn, hầu hết đều cùng một kiểu xinh đẹp, với những đường nét nổi bật, đều là người da vàng. Họ cúi chào chúng tôi và chúng tôi chào họ.
Sau đó dừng một lúc, tới khi một tiếng kèn thổi lên để truyền lệnh từ người hầu mang sắc phục màu vàng, hai thân ảnh được trông thấy đang đi xuống lối đi bên ngoài rèm, đi đầu là Pháp Sư Simbri, theo sau là các thủ lĩnh khác. Họ là Khan và Khania của Kaloon.
Không ai nhìn vào Khan khi anh ta đang bước vào phòng ăn tối phủ trang phục trắng của lễ hội lại có thể tưởng tượng ra đó chính là kẻ vũ phu điên cuồng chúng tôi vừa thấy thúc giục bầy chó săn như quỉ dữ xé xác một sinh vật đồng loại và một con ngựa vô dụng thành từng mảnh và ăn sống nuốt tươi họ. Bây giờ anh ta dường như là một người đàn ông nặng nề, thô tục, rất khỏe mạnh và trông không hề bệnh hoạn, nhưng đối mắt gian xảo, rõ ràng là một người có trí tuệ ngu đần, kẻ khiến ai cũng có thể nghĩ không có khả năng nảy sinh cảm xúc mãnh liệt dưới bất cứ dạng nào. Còn Khania thì không cần phải miêu tả. Cô vẫn giống như lúc trong căn phòng ở Cánh Cổng, chỉ trông mệt mỏi hơn; quả thật mắt cô ấy có vẻ như ma ám và dễ thấy những sự kiện đêm trước đã để lại dấu ấn trong tâm trí cô. Trước cái nhìn của chúng tôi, cô ấy hơi đỏ mặt, rồi vẫy tay ra hiệu chúng tôi tiến tới, và nói với chồng cô – “Hoàng Thượng, đây là các vị khách lạ ta đã kể với chàng.”
Đôi mắt buồn tẻ của anh ta rơi trên người tôi đầu tiên, vẻ bề ngoài của tôi dường như làm anh ta mơ hồ vui sướng, dù sao anh ta cũng đã cười thật thô lỗ, nói bằng giọng Hy Lạp lai tạp pha lẫn các thổ ngữ địa phương – “Thật là một động vật già nua kì lạ! Ta chưa bao giờ từng thấy ngươi trước đây, đúng không?”
“Không, thưa Khan vĩ đại,” tôi trả lời, “nhưng tôi đã trông thấy ngài đi săn tối qua. Ngài chơi thể thao rất giỏi đúng không?”
Anh ta ngay lập tức trở nên hoàn toàn tỉnh táo, xoa tay trả lời – “Tuyệt vời. Hắn đã mang đến cho chúng ta một cuộc rượt đuổi đẹp mắt, nhưng đám chó nhỏ của ta cuối cùng cũng bắt được hắn, rồi sau đó – “ anh ta nghiến quai hàm trèo trẹo.
“Ngừng những lời tàn bạo của chàng lại,” vợ anh ta quyết liệt ngắt lời, anh ta lẩn xa khỏi cô ấy và lúc đó vấp phải Leo đang đợi bên cạnh.
Hình ảnh người đàn ông tuyệt đẹp râu vàng này có vẻ làm anh ta kinh ngạc, vì anh ta nhìn chằm chằm cậu ấy, rồi hỏi – “Ngươi là người bạn khác của Khania mà nàng tới gặp ở dãy núi ngoài Cánh Cổng đúng không? Ta đã không thể hiểu tại sao nàng lại lo lắng nhiều đến vậy, nhưng giờ ta đã hiểu. Được rồi, hãy cẩn thận đấy, nếu không ta cũng sẽ săn đuổi ngươi.”
Bây giờ đến lượt Leo tức giận và muốn đáp lại, nhưng tôi đã giữ tay cậu và nói bằng tiếng Anh – “Đừng trả lời; người đàn ông này rất điên cuồng.”
“Bác muốn nói đó là kẻ tồi tệ đúng không,” Leo càu nhàu; “và nếu hắn cố đẩy đám chó đáng nguyền rủa kia vào cháu, cháu sẽ vặn gãy cổ hắn.”
Sau đó Khania đi tới chỗ Leo để cậu ngồi cạnh cô ấy, để tôi ngồi bên kia cô, giữa cô và bác cô, Người Bảo Vệ, trong khi đó Khan lê bước tới một chiếc ghế nhỏ hơn dưới bàn, ở đó anh ta gọi hai người phụ nữ xinh đẹp nhất phục vụ anh ta.
Chúng tôi đã được giới thiệu tới cung điện Kaloon như vậy. Đối với bữa ăn sau đó, rất nhiều món nhưng thô sơ, gồm cá gần nguyên con, thịt cừu, đồ ngọt, tất cả đều đặt trong những chiếc đĩa bạc lớn. Đồ uống rất mạnh cũng được phục vụ, một loại rượu mạnh chưng cất từ ngũ cốc, tất cả mọi người hiện giờ gần như đã uống nhiều hơn mức có thể chịu được. Sau vài lời với tôi về cuộc hành trình, Khania quay sang Leo và nói với cậu suốt thời gian còn lại trong buổi tối, còn tôi cống hiến bản thân cho vị Pháp Sư già Simbri.
Sau một thời gian ngắn, thực chất những gì tôi học được từ ông ấy lúc đó và sau này là như sau – thương mại là thứ vô nghĩa đối với người dân Kaloon, vì mọi trao đổi với miền nam đều bị cắt đứt từ nhiều thế hệ rồi, những cây cầu từng tồn tại giữa vực thẳm ngăn cách đã bị mục nát. Mảnh đất của họ rất rộng lớn và đông dân cư, bao quanh bởi núi non không thể trèo qua được, trừ phương bắc, nơi có ngọn núi Lửa hùng vĩ. Các sườn của đỉnh núi đó cùng dải đồng quê chưa ai đến thăm chạy tới tận biên giới với sa mạc, là nhà của các bộ lạc miền núi hung dữ, những Người Cao Nguyên khó thuần hóa, họ giết mọi người lạ mà họ bắt được. Kết quả là, dù kim loại quí và các kim loại khác được khai thác ở mức độ nhất định, được chế tạo thành vật dụng và đồ trang trí, nhưng tiền vẫn không tồn tại giữa các dân tộc trên Đồng Bằng cũng như trên Ngọn Núi, mọi việc kinh doanh đều được giao dịch trên nguyên tắc trao đổi, thậm chí doanh thu cũng được tính bằng hiện vật.
Trong số hàng chục nghìn thổ dân của Kaloon cư ngụ, chỉ một số ít là giai cấp thống trị, được cho là hậu duệ của những kẻ chinh phạt từng xuất hiện vào thời Alexander – có lẽ thế thật. Nhưng huyết thống của họ giờ đã bị pha trộn rất nhiều với người bản địa, những người có con cháu đều da vàng và mang vẻ ngoài thuộc về phân nhánh nào đó của chủng tộc người Tartar vĩ đại. Chính phủ, nếu có thể gọi như vậy, nói chung là một ý tưởng đơn giản có tính chất chuyên chế, được trao cho vị Khan hoặc Khania kế thừa, tức là một người đàn ông hoặc một phụ nữ trong lớp phả hệ trực tiếp gần nhất.
Có hai tôn giáo, người dân ở đây thờ phụng Linh Hồn Ngọn Núi Lửa, còn những người thống trị, họ tin vào phép thuật, ma quỉ và những lời tiên tri. Ngay cả bóng dáng của một tôn giáo khác, nếu có thể gọi thế, đều cũng sẽ chết yểu như các tín đồ của nó, vì từ thế hệ này qua thế hệ khác, các lãnh chúa da trắng tăng trưởng ít hơn về số lượng hoặc số lớn người dân bị họ lôi cuốn.
Luật pháp của họ vẫn được chấp nhận. Tôi hỏi Simbri tại sao, dù họ có số lượng ít ỏi đến vậy. Ông ấy nhún vai đáp rằng, vì nó phù hợp với đất nước nơi người bản địa không hề có tham vọng. Hơn nữa, Khania hiện tại, nữ chủ nhân của chúng tôi, là người cuối cùng trong dòng chính thống của tầng lớp thống trị, chồng cô và đám anh chị em họ mang ít huyết thống hoàng tộc thuần chủng trong tĩnh mạch hơn, vì thế dân tộc này bị gắn liền với cô ấy.
Cũng giống như trường hợp của các phụ nữ mạnh mẽ và xinh đẹp nói chung, cô ấy rất nổi tiếng, đặc biệt cô hào phóng vô cùng và duy nhất với người nghèo. Lượng người này rất đông, vì đất nước đang quá tải dân số, do điều kiện nuôi trồng quá tuyệt vời. Cuối cùng, họ tin vào trình độ và lòng dũng cảm của cô ấy có thể bảo vệ họ khỏi những cuộc tấn công liên tục của các bộ tộc trên Ngọn Núi, những kẻ thường đột kích cướp phá mùa màng và gia súc của họ. Chỉ một lời than phiền về cô ấy là, cô không có con cái để nối dõi cho ngôi vị Khan, điều đó có nghĩa là sau khi cô chết, cũng như đã từng xảy ra sau khi cha cô chết, sẽ có nhiều cuộc tranh đoạt ngai vàng.
“Thật vậy,” Simbri nói thêm đầy hàm ý, và liếc nhìn Leo nơi khóe mắt, “trong dân gian người ta kháo nhau rằng, thật tốt nếu vị Khan đang áp bức người dân và bị người dân căm ghét này chết đi, như vậy Khania sẽ lấy chồng khác vì nàng vẫn còn trẻ. Dù ngài rất điên cuồng, ngài biết điều đó, đó là tại sao ngài ghen tuông như thế với bất kì lãnh chúa nào ngắm nhìn nàng giống như, anh bạn Holly ạ, như ngươi đã nhìn nàng đêm nay. Vì nếu ai giành được ưu ái của nàng, Rassen nghĩ lúc đó ngài sẽ phải chết.”
“Ngài ấy cũng bị trói buộc vào vợ mình,” tôi đặt giả thiết như thế nên thì thào nói.
“Có lẽ vậy,” Simbri trả lời; “nhưng nếu vậy, nàng sẽ vẫn không yêu ngài, không yêu bất kỳ người đàn ông nào,” và ông ta nhìn quanh phòng.
Chắc chắn mọi người không còn vẻ đáng mến nữa, vì lúc này hầu hết đã nửa say nửa tỉnh, trong khi những cô gái dường như vẫn cứ rót cho họ càng nhiều càng tốt. Bản thân Khan đang trưng ra một cảnh thật đáng hổ thẹn, anh ta dựa lưng vào ghế, la hét gì đó về cuộc săn đuổi của mình bằng giọng nặng nề. Cánh tay của một trong những người hầu xinh đẹp vòng quanh cổ anh ta, còn tay kia rót rượu cho anh ta từ chiếc cốc vàng; một ít rượu bị rơi trên áo choàng trắng của anh ta.
Ngay lúc đó Atene nhìn quanh và thấy cảnh đó, vẻ căm hận và khinh bỉ tụ lại trên gương mặt xinh đẹp của cô ấy.
“Nhìn kìa,” tôi nghe thấy cô nói với Leo, “hãy nhìn người bạn đời của ta đi, để hiểu Khania của Kaloon được những gì.”
“Thế tại sao nàng không dọn sạch cung điện đi?” cậu ấy hỏi.
“Chàng ơi, vì nếu ta làm vậy, sẽ chẳng còn cung điện nữa. Heo sa trong bùn, đám đàn ông và phụ nữ này sống biếng nhác trên gian khổ của người dân thấp cổ bé họng, chúng đã sa lầy trong rượu và sự xa xỉ thấp hèn. Phải, ngày tàn đã gần kề rồi, vì nó đang giết dần bọn họ, con cháu của bọn họ rất ít ỏi và yếu ớt, huyết thống cổ xưa đã mỏng dần và mất dần hiệu lực. Nhưng chàng đã mệt mỏi rồi và nên nghỉ ngơi thôi. Ngày mai chúng ta sẽ đi cùng nhau,” rồi cô gọi một sĩ quan, ra lệnh anh ta dẫn chúng tôi về phòng.
Chúng tôi đứng dậy, Simbri theo sau, cúi chào cô ấy và đi, cô đứng đó nhìn theo chúng tôi, một thân ảnh hoàng tộc đau thương giữa chốn vui chơi phóng đãng đó. Khan cũng đứng dậy, mang vẻ xảo quyệt dường như đã hiểu ra ý nghĩa gì đó từ chuyện này.
“Nàng có nghĩ chúng ta đồng tính không,” hắn thét lên; “tại sao chúng ta không phải là những người không biết mình phải sống bao lâu? Nhưng tên tóc vàng kia, ngươi không được để Atene nhìn ngươi như thế. Ta nói cho ngươi biết, nàng là vợ ta, nếu ngươi làm vậy ta chắc chắn sẽ săn đuổi ngươi.”
Trong lúc say sưa đó, đám cận thần cười ầm lên, nhưng Simbri lấy tay kéo Leo vội vã đưa cậu ra khỏi căn phòng.
“Ông bạn à,” Leo nói khi chúng tôi đã ở bên ngoài, “theo tôi, có lẽ vị Khan này của các người đang đe dọa tính mạng tôi.”
“Đừng sợ, chàng trai,” Người Bảo Vệ trả lời; “chừng nào Khania không đe dọa thì ngươi vẫn an toàn. Nàng là người cai trị thực sự của mảnh đất này, và ta đứng cạnh nàng.”
“Thế thì tôi cầu xin ngài,” Leo nói, “hãy giữ tôi tránh xa người đàn ông xay xỉn đó, vì ngài thấy đó, nếu tôi bị tấn công, tôi phải tự vệ.”
“Ai có thể đổ lỗi cho ngươi được chứ?” Simbri đáp cùng nụ cười chậm rãi, bí ấn.
Rồi chúng tôi chia tay, về giường ngủ khá ngon lành, vì chúng tôi đều rất mệt mỏi, tận tới lúc bị đánh thức vào buổi sáng bởi tiếng sủa của đàn chó săn tử thần kinh hoàng, tôi nghĩ chắc chúng đang được cho ăn ở một nơi gần đây.
Bây giờ trong thành phố Kaloon này, định mệnh khốn khổ buộc chúng tôi phải sống ở đó ba tháng dài, có lẽ là một trong những khoảng thời gian đáng ghét nhất mà chúng tôi từng trải qua trong đời. Quả thực vậy khi so sánh với những lần lang thang vô định giữa tuyết và sa mạc ở Trung Á vẫn còn vui vẻ hơn, và cả khi dừng chân ở tu viện bên dãy núi trú nơi Thiên Đường nữa. Hồi tưởng lại chi tiết mọi chuyện sẽ làm chúng ta thấy tẻ nhạt và vô ích, nên tôi sẽ chỉ kể ngắn gọn về những cuộc phiêu lưu chính của chúng tôi.
Vào sáng ngày chúng tôi tới, Khania Atene đưa cho chúng tôi hai con ngựa trắng rất đẹp thuộc giống thuần chủng từ cổ xưa, buổi trưa chúng tôi cưỡi chúng và đi dạo cùng cô ấy, theo sau là một đội lính bảo vệ. Đầu tiên cô dẫn chúng tôi tới khu trại nơi trông giữ đám chó săn tử thần, khu sân được treo cờ lớn với nhiều thanh sắt bao quanh; cổng hẹp đã được khóa lại. Tôi chưa bao giờ thấy đám thú vật nào to lớn và hung hăng đến thế; đám chó ngao Tây Tạng cũng chỉ như chó con so với chúng. Chúng có màu đỏ và đen, phủ lông mượt mà, và cái đầu của kẻ đi săn khát máu, lúc nhìn thấy chúng tôi, chúng trở nên đói khát, nhô lên trên những thanh sắt như con sóng giận dữ đập vào tảng đá.
Những con chó săn này đặt dưới trách nhiệm của đàn ông một vài gia tộc, những người đã chăm sóc chúng qua nhiều thế hệ. Chúng vâng lời người trông giữ và Khan, nhưng không người lạ nào có thể mạo hiểm tới gần chúng. Những con thú tàn bạo này cũng là những tên đao phủ của nơi này, vì với chúng, tất cả những kẻ giết người hay phạm tội khác đều bị ném ra, và giống như chúng tôi đã nhìn thấy, Khan sẽ săn đuổi bất kỳ ai làm anh ta không hài lòng. Hơn nữa, chúng còn bị sử dụng với mục đích đáng thương hơn, để săn đuổi đám hươu nai khổng lồ được khu rừng và đầm lầy đầy lau sậy bảo vệ. Vì thế chúng là nỗi kinh hoàng ở đất nước này, vì không ai biết liệu mình có thể bị chúng ăn tươi nuốt sống không. “Lũ chó tới” là câu đầy ý nghĩa ở bất kỳ vùng đất nào, nhưng ở Kaloon, rõ ràng nó rất kinh khủng.
Sau khi nhìn đám chó săn không phải không rùng mình như tiên đoán, chúng tôi cưỡi ngựa đi vòng quanh tường thành, giống như đại lộ để người dân đi lại và giải trí buổi tối. Nhưng trên đó không nhìn thấy nhiều thứ lắm, ngoại trừ con sông và đồng bằng bên dưới, hơn nữa dù tường dày và cao, vẫn có vài chỗ trên đó phải đi thật cẩn thận, vì giống những thứ khiến giai cấp thống trị bất lực khác, chúng đều bị để cho rơi vào hư mục.
Bản thân thành phố không phải là nơi thú vị, do hầu hết đều cư ngụ bởi những người của Cung Điện. Vì thế chúng tôi không tiếc phải đi qua con sông trên cây cầu nhô lên cao, nơi vài ngày trước theo định mệnh, tôi nhìn thấy một trong những cảnh kỳ lạ nhất mà người trần tục từng thấy, và tiến vào đất nước này. Mọi thứ ở đó giờ đã khác, chúng tôi thấy nhiều người làm nông, con cháu của những chủ nhân xa xưa của vùng đất, đang sinh sống và sản xuất trên đó. Mỗi inch đất đều được nuôi trồng cùng hệ thống thủy lợi trợ lực hoàn hảo. Nước được nâng lên ở nhiều cấp độ, không cho chảy tự nhiên, bằng bánh xe quay với con la, vài chỗ được quay bởi phụ nữ, họ mang đầu kéo trên vai để cân bằng các xô nước.
Leo hỏi Khania chuyện gì xảy ra nếu mùa vụ thất bát. Cô trả lời không hề nao núng rằng, nạn đói sẽ xảy ra, hàng nghìn người sẽ chết đói, theo sau nạn đói là bệnh dịch. Những nạn đói này đều có chu kỳ, cô nói thêm, nếu không có chúng, người dân từ xưa đã không bị thôi thúc giết hại lẫn nhau như bầy chuột đói, do không có lối ra và dân số tăng trưởng quá nhanh, mảnh đất này dù lớn tới đâu cũng không thể giữ được tất cả bọn họ.
“Năm nay là một năm được mùa chứ?” tôi hỏi.
“E là không,” cô trả lời, “vì con sông không dâng lên đủ nước và mưa rất ít. Ánh sáng chiếu đêm qua trên ngọn núi Lửa cũng được cho là một điềm xấu, người ta nói rằng nó có nghĩa là, Linh Hồn Ngọn Núi đang tức giận và hạn hán sẽ kéo đến. Chúng ta hy vọng họ không bảo đó là do những người lạ đã tới thăm vùng đất, mang theo bất hạnh.”
“Nếu vậy,” Leo cười nói, “chúng tôi sẽ phải bay tới Ngọn Núi để nương nhờ ở đó mất.”
“Chàng mong muốn được nương nhờ bằng cái chết ư?” cô ấy mơ hồ hỏi. “Tất nhiên là thế rồi, những vị khách của ta, trong khi ta còn sống, không bao giờ các ngươi được phép đi qua con sông tiếp giáp với đỉnh núi cao đằng kia.”
“Tại sao không, hỡi Khania?”
“Leo của ta, - tên của chàng là thế phải không? – vì ý nguyện của ta là như vậy, khi ta còn cai trị nơi này, ý nguyện của ta là luật pháp. Đi nào, chúng ta phải quay về nhà thôi.”
Đêm đó chúng tôi không ăn trong căn phòng lớn, mà trong phòng cạnh phòng ngủ của chúng tôi. Nhưng chúng tôi không bị bỏ lại một mình, vì Khania và bác cô ấy, vị Pháp Sư luôn tham dự cùng cô, cũng cùng ăn với chúng tôi. Khi chúng tôi băn khoăn chào đón họ, cô ấy giải thích ngắn gọn rằng đã sắp xếp thế vì chúng tôi sẽ không phải nghe những lời công kích. Cô cũng nói thêm có một lễ hội sắp bắt đầu, có lẽ kéo dài một tuần, cô ấy không muốn chúng tôi thấy dân tộc mình tồi tệ đến mức nào.
Đêm đó và nhiều đêm khác sau đó – chúng tôi không bao giờ ăn tối ở căn phòng trung tâm nữa – trôi qua khá vui vẻ, vì Khania khiến Leo kể cho cô nghe về nước Anh nơi cậu được sinh ra, về những vùng đất cậu đã tới, người dân và phong tục ở đó. Tôi cũng kể câu chuyện về Alexander, có vị tướng quân Rassen, ông tổ xa xôi của cô ấy, kẻ đã chinh phạt đất nước Kaloon, kể về lịch sử vùng đất Ai Cập từ xưa đến gần đây, và cứ thế tới tận nửa đêm, Atene khao khát lắng nghe chúng tôi, đôi mắt cô luôn dán lên gương mặt Leo.
Chúng tôi dành nhiều đêm như thế trong cung điện của thành phố Kaloon, nơi thực chất chúng tôi gần như là tù nhân. Nhưng than ôi! Ngày tháng nặng nề lơ lửng trên bàn tay. Nếu chúng tôi đi vào sân hay các phòng chiêu đãi ở cung điện này, các lãnh chúa và những người đi theo họ sẽ tụ tập quanh chúng tôi, quấy rầy chúng tôi bằng rất nhiều câu hỏi, vì họ rất nhàn rỗi và rất tò mò.
Đám phụ nữ cũng vậy, một số họ khá xinh đẹp, bắt đầu viện mọi cớ này nọ liếc mắt đưa tình với Leo; vì trái ngược với đám đàn ông tinh tế, xảo quyệt, họ thấy vị khách lạ tóc vàng, ngực nở này hợp với khẩu vị của họ. Thật vậy, họ làm cậu ấy bối rối với đống quà tặng bằng hoa và thư được người hầu hay lính bảo vệ gửi tới, tất nhiên cậu không giữ lại.
Nếu chúng tôi đi dạo trên phố, tình hình cũng tệ như vậy, vì người dân dừng cả việc làm ăn và đi theo chúng tôi, nhìn chằm chằm chúng tôi tới tận khi chúng tôi trốn vào khu vườn ngoài cung điện.
Do đó, chúng tôi chỉ còn cách cưỡi ngựa ra đồng quê với Khania, nhưng vẫn có ba hay bốn người theo sau, rồi tất cả những chuyện này đều kết thúc vì sự ghen tuông của Khan, kẻ đã thề, nếu chúng tôi cùng nhau đi chơi lần nữa, hắn sẽ đi theo cùng bầy chó săn tử thần. Vì vậy chúng tôi phải cưỡi ngựa một mình, giữa đội quân bảo vệ để trông chừng không cho chúng tôi cố gắng trốn chạy, và thường xuyên kèm theo một đám nông dân không ngừng đe dọa hay cầu xin chúng tôi mang trả lại mưa mà chúng tôi đã lấy mất của họ. Vì giờ đây hạn hán khủng khiếp đã thực sự bất đầu.
Cuối cùng, việc duy nhất chúng tôi có thể làm là câu cá bên bờ sông, nơi nước trong và nông tới mức chúng tôi chẳng thể bắt được gì, đồng thời quan sát ngọn núi Lửa lờ mờ hiện ra xa xa đầy thần bí và không thể chạm tới được, đổ đầy bộ não chúng tôi với những kế hoạch chạy trốn vô dụng, hoặc ít ra cũng phải truyền tin cho vị nữ tu sĩ kia, người chúng tôi không thể biết gì thêm nữa.
Hai gánh nặng lớn đè lên tâm trí chúng tôi. Gánh nặng khao khát tiếp tục cuộc tìm kiếm và thu được phần thưởng mà chúng tôi chắc chắn đang nằm giữa đống tuyết trắng trên đỉnh núi đằng kia, nếu chúng tôi có thể tới được đó; và gánh nặng vì đang sắp gặp thảm họa dưới bàn tay Khania Atene. Cô ấy không còn làm tình với Leo nữa kể từ đêm ở Cánh Cổng, quả thực nếu cô ấy muốn làm thế, cũng rất khó, vì tôi chú ý thấy rằng cậu ấy chưa bao giờ bị bỏ lại một mình dù chỉ một giờ. Không có người hầu nào bám theo công chúa Tây Ban Nha chặt hơn tôi bám theo Leo. Nhưng tôi vẫn có thể thấy rõ niềm khao khát của cô ấy không hề dịu đi; mà lớn dần ngày ngày, thật sự như ngọn lửa đang lớn dần lên ở tâm ngọn núi lửa, nó sẽ sớm phá vỡ mọi ràng buộc và tàn phá tràn lan xung quanh. Điềm báo đó đã đọc được trong từng lời nói, cử chỉ và đôi mắt bi thảm của cô ấy.

           Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 8



Chương 8: Bầy chó săn Tử Thần

Có lẽ đã mười giờ sáng hôm sau, hoặc hơn một chút, khi Pháp Sư Simbri bước vào phòng tôi và hỏi tôi ngủ thế nào.
“Như một khúc gỗ,” tôi trả lời, “như một khúc gỗ. Một người bị đánh thuốc cũng không thể ngủ ngon hơn được.”
“Thật ra, anh bạn Holly ạ, trông anh rất mệt mỏi.”
“Những giấc mơ làm phiền tôi đôi chút,” tôi trả lời. “Tôi bị dằn vặt từ những chuyện thế này. Nhưng chắc chắn nhìn mặt ngài, Simbri thân mến, ngài đúng là đã hoàn toàn không thể ngủ được, vì tôi chưa bao giờ thấy ngài có vẻ mệt mỏi đến thế này.”
“Ta đang rất mệt mỏi,” ông ta bảo và thở dài. “Đêm qua ta dành thời gian làm việc – quan sát trên Những Cánh Cổng.”
“Những cánh cổng nào?” tôi hỏi. “Những cánh cổng chúng tôi bước qua để vào vương quốc này ư, nếu vậy, tôi cũng muốn quan sát chúng hơn là du ngoạn qua chúng.”
“Những Cánh Cổng của Quá Khứ và Tương Lai. Đúng, ngươi đã đi qua hai cánh cổng, nếu ngươi muốn nghĩ vậy; vì ngươi đã không đi ra khỏi Quá Khứ kỳ diệu để hướng tới một Tương Lai ngươi không thể đoán được, đúng không?”
“Nhưng cả hai ngài đều rất quan tâm,” tôi giả thiết.
“Có lẽ thế,” ông ta trả lời, rồi nói thêm, “Ta tới để nói với ngươi rằng, trong vòng một giờ nữa, ngươi sẽ khởi hành tới thành phố, nơi Khania đã tới để chuẩn bị cho ngươi.”
“Vâng; ngài chỉ kể cho tôi cô ấy đã đi vài ngày trước. Được rồi, tôi đã khỏe lại và sẵn sàng đi bộ, nhưng còn con trai tôi thì sao?”
“Anh ta đang bình phục, anh ta đang bình phục. Nhưng ngươi sẽ được chính mắt nhìn thấy anh ta thôi. Đó là ý muốn của Khania. Nô lệ đang mang áo choàng cho ngươi rồi kìa, ta sẽ để chúng lại cho ngươi.”
Vì vậy, với sự giúp đỡ của họ, tôi tự mặc quần áo, thoạt nhìn khá tốt, áo trong bằng vải lanh sạch sẽ, quần dài và vest bằng len rộng rãi, cuối cùng là áo khoác từ lông lạc đà nhuộm đen mặc rất thoải mái, nhìn bề ngoài không khác gì một cái áo khoác dài. Một chiếc mũ phẳng cùng chất liệu và đôi ủng làm từ da chưa thuộc hoàn thành bộ trang phục của tôi.
Tôi đã sẵn sàng khi mấy người hầu da vàng vô cùng cung kính đỡ tôi trên tay và đưa tôi theo các lối đi xuống cầu thang của ngôi nhà Cánh Cổng để ra cửa chính. Nơi đây, trong niềm vui sướng tột cùng, tôi thấy Leo, trông nhợt nhạt và khó khăn, nhưng ngược lại đã khỏe mạnh như tôi dự đoán sau trận ốm. Cậu mặc trang phục giống tôi, nhưng quần áo của cậu có chất lượng tốt hơn, chiếc áo choàng màu trắng có thêm mũ trùm đầu, tôi cho rằng để bảo vệ vết thương trên đầu cậu khỏi giá lạnh và mặt trời. Chiếc áo trắng kia tôi nghĩ rất phù hợp với cậu, vì nhờ nó, không có gì trở nên kỳ cục hay quá vượt trội. Cậu nhảy ngay tới chỗ tôi và nắm lấy tay tôi, hỏi tôi thế nào và tôi đã bị dấu đi đâu, chào đón tất cả như tôi nhìn thấy, là vẻ ấm áp không hề mất đi trên người Simbri đang đứng bên cạnh.
Tôi trả lời, giờ đã đủ khỏe để chúng tôi lại bên nhau, còn phần còn lại tôi muốn kể cho cậu nghe sau.
Rồi họ mang chúng tôi lên kiệu, mỗi kiệu có hai con ngựa, một con đi trước và con kia đi sau giữa hai càng xe dài. Chúng tôi ngồi trong đó, theo sự ra hiệu của Simbri, những người nô lệ thúc cương ngựa và chúng tôi lên đường, bỏ lại phía sau ngôi nhà Cánh Cổng cũ kĩ ảm đạm mà chúng tôi là những người lạ đầu tiên tới đó suốt nhiều thế hệ qua.
Sau khoảng hơn một dặm, con đường chạy xuống hẻm núi đá quanh co, tới khi đột ngột rẽ ngoặt, và đất nước Kaloon nằm trải dài trước mặt chúng tôi. Dưới chân chúng tôi là một con sông, có lẽ chính là con sông chúng tôi gặp trong vực thẳm, phủ đầy tuyết trên núi, là khởi nguồn của nó. Chỗ này nó chảy rất nhanh, nhưng trên những vùng đất phù sa mênh mông bên dưới nó lại trở thành dòng suối rộng hiền hòa uốn khúc giữa vùng đồng bằng vô hạn tới khi biến mất trong màu xanh lá phía xa xa.
Nhưng ở phía bắc, vùng rộng lớn mượt mà đơn điệu này bị phá vỡ bởi Ngọn Núi đã chỉ dẫn chúng tôi từ xa về Cung Điện Lửa. Khoảng cách từ chúng tôi tới đó rất lớn, hơn một nghìn dặm, tôi có thể nói đó là khung cảnh uy nghi nhất trong bầu không gian thoáng đãng này. Nhiều dặm quanh chân núi trên mặt đất mọc lên những ngọn đồi nhỏ màu nâu gồ ghề, chúng hướng tới chính Ngọn Núi thần thánh, một điểm màu trắng rực rỡ cao hai mươi nghìn feet giữa trời.
Đúng, trên đó nơi miệng núi lửa một cây cột trụ khổng lồ đứng thẳng, có một vòng đá khổng lồ nữa xuyên qua, nằm trong bóng tối, dứt khoát chống lại bầu trời xanh bên ngoài và tràng tuyết chói mắt bên dưới.
Chúng tôi nhìn chằm chằm nó đầy sợ hãi, ngọn hải đăng mang hy vọng này chúng tôi biết, có lẽ là một tượng đài của họ, thậm chí có cảm giác định mệnh của chúng tôi muốn tự xướng lên đằng kia. Tôi nhớ tất cả mọi người đi cùng chúng tôi đều thể hiện sự cung kính bằng cách cúi đầu khi họ nhìn thấy khung cảnh đỉnh núi kia, rồi đặt ngón trỏ của tay phải bắt chéo với ngón trỏ của tay trái, một biểu tượng sau này chúng tôi biết được, dùng để ngăn chặn ảnh hưởng ma quái của nó. Đúng, thậm chí Simbri cũng cúi đầu, uốn mình trước phong tục mê tín di truyền mà tôi hiếm khi nghi ngờ ông ta.
“Ngài cũng từng tới Ngọn Núi?” Leo hỏi ông ta.
Simbri lắc đầu và lảng tránh trả lời.
“Người dân của Đồng Bằng không được đặt chân tới Ngọn Núi. Giữa các sườn núi của nó có con sông tưới nước, hàng đám người hoang dã và dũng cảm sinh sống, chúng ta thường xảy ra chiến tranh với chúng; vì khi chúng đói, chúng sẽ tấn công cướp bóc gia súc và mùa màng của chúng ta. Hơn nữa, ở đó, khi Ngọn Núi hoạt động, chảy ra hàng suối đá nóng chảy đỏ rực, tro nóng lại rơi xuống và giết chết người đi qua.”
“Đám tro đó có từng rơi xuống đất nước của ngài không?” Leo hỏi.
“Chúng đã từng rơi xuống khi Linh Hồn Ngọn Núi tức giận, đó là lý do tại sao chúng ta sợ bà ấy.”
“Ai là Linh Hồn đó?” Leo háo hức nói.
“Ta không biết,” ông ta không kiên nhẫn trả lời. “Con người có thể thấy nhìn thấy linh hồn sao?”
“Ngài trông như thể ngài có lẽ đã từng thấy cách đây không lâu lắm,” Leo đáp lại, dán mắt nhìn gương mặt như sáp và đôi mắt khó chịu của ông già. Vì giờ đây vẻ bình tĩnh trên lớp sừng đã biến mất khỏi con mắt của Simbri, như thể có gì đó đã ám ảnh ông ấy.
“Ngươi làm ta thấy quá vinh dự rồi, chúa tể ạ,” ông ta đáp; “trình độ và khả năng của ta chưa đạt được xa đến vậy. Nhưng nhìn kìa, kia là bãi đỗ, có thuyền đợi chúng ta, vì phần còn lại của hành trình là trên nước.”
Những con thuyền này rất rộng rãi và thoải mái, có vòm và đuôi phẳng, đôi khi buồm được kéo lên, chúng được thiết kế để kéo, chứ không phải được chèo bằng mái. Leo và tôi đi vào chỗ rộng nhất, vui sướng vì được bỏ lại một mình, trừ người cầm lái.
Phía sau chúng tôi là con thuyền khác, nơi của đám người phục vụ và nô lệ, vài người như binh lính, vì họ mang cung và gươm. Giờ đám ngựa được tháo ra khỏi kiệu, kiệu được đóng gói lại, chằng dây da xanh buộc chặt vào những vòng sắt bên mạn thuyền, những con vật được bọc yên được gắn vào hệ thống dây đợ để lai kéo thuyền. Sau đó chúng tôi lên đường, đám ngựa được bố trí hai con một song song trên mỗi thuyền nhỏ, đi nước kiệu dọc theo đường kéo làm sẵn bằng các cầu gỗ thường được trang bị ở bất kỳ kênh đào hay nhánh sông nào đổ vào sông chính.
“Cảm ơn Thượng Đế,” Leo nói, “cuối cùng chúng ta lại bên nhau! Bác có nhớ không, bác Horace, khi chúng ta vào vùng đất Kôr cũng thế, trên một con thuyền? Câu chuyện lại lặp lại.”
“Bác hoàn toàn tin rồi,” tôi trả lời. “Bác có thể tin bất kỳ điều gì. Leo, bác nói này, chúng ta đang là con muỗi mắc trong cái mạng nhện, Khania kia là con nhện và Simbri, vị Pháp Sư là người bảo vệ cái mạng. Nhưng hãy kể cho bác tất cả những gì cháu nhớ được về mọi chuyện xảy ra với cháu, nhanh lên, vì bác không biết họ bỏ lại chúng ta một mình bao lâu.”
“Vâng,” cậu nói, “tất nhiên cháu nhớ chúng ta tới được Cánh Cổng sau khi người phụ nữ và ông già kia kéo chúng ta khỏi con sông, và bác Horace, nói về nhện lại nhắc cháu nhớ tới lúc bị treo trên đầu sợi dây bằng da con bò. Không phải cháu cần nhớ lại, mà vì cháu hầu như không thể quên được nó. Bác có biết không, cháu cắt sợi dây vì cảm thấy mình sắp phát điên, và mong chết trong tỉnh táo. Chuyện gì xảy ra với bác? Bác đã trượt xuống à?”
“Không; bác nhảy theo cháu. Có lẽ tốt nhất chúng ta nên chết cùng nhau, vì thế chúng ta có thể bắt đầu lại cùng nhau.”
“Ông bác Horace già can đảm của cháu!” cậu trìu mến nói, nước mắt bắt đầu rơi ra từ đôi mắt xám của cậu.
“Thật thú vị, nhưng không quá lâu,” cậu trả lời màu mè. “Cháu đi vào giấc ngủ, và khi tỉnh dậy, cháu thấy một phụ nữ xinh đẹp đang đứng nghiêng trước mặt, bác Horace – thoạt tiên cháu nghĩ đó chính là – bác biết là ai rồi mà, và nàng hôn cháu; nhưng có lẽ tất cả chỉ là một giấc mơ.”
“Đó không phải là mơ,” tôi trả lời. “Bác đã nhìn thấy chuyện này.”
“Cháu rất tiếc khi nghe vậy – rất tiếc. Dù sao đó là một phụ nữ đẹp – Khania – vì sau đó cháu gặp nàng nhiều lần, và nói chuyện với nàng bằng tiếng Hy Lạp hiện đại ở mức tốt nhất của mình – dù sao, Ayesha cũng biết tiếng Hy Lạp cổ mà, thật kỳ lạ.”
“Bà ấy biết vài ngôn ngữ cổ, người khác cũng vậy. Tiếp đi.”
“Vâng, nàng chăm sóc cháu rất tốt, nhưng theo cháu biết, tận tới đêm qua, không gì cảm động hơn thế, cháu đủ cảm xúc để từ chối nói về quá khứ đầy sự kiện của chúng ta. Cháu giả vờ không hiểu, nói rằng chúng ta là những nhà thám hiểm, v.v… và cố hỏi nàng chúng ta đang ở đâu, vì cháu quên mất đã nói thấy bác biến mất. Cháu nghĩ nàng bắt đầu tức giận với cháu, vì nàng muốn biết gì đó, cháu đoán vậy, cháu muốn một vụ giao dịch có hời. Nhưng cháu không nhận được gì ngoài việc biết nàng là Khania – một người quyền lực. Không nghi ngờ về điều đó, vì khi một nô lệ hay người hầu đi vào ngắt lời nàng trong lúc nàng đang cố vẽ ra các sự kiện về cháu, nàng ta đã gọi người ném anh ta khỏi cửa sổ, anh ta chỉ tự cứu mình bằng cách chạy thật nhanh xuống cầu thang.”
“Phải rồi, cháu có thể không chú ý gì tới nàng ta, nhưng nàng có lẽ hơi chú ý tới cháu, đó là tại sao nàng quan tâm tới một khách lạ dịu dàng đến vậy, cháu không biết nữa – trừ khi, trừ khi – ôi, nàng ta là ai, bác Horace?”
“Nếu cháu tiếp tục, bác sẽ nói cho cháu những gì bác nghĩ hiện giờ. Nghe một câu chuyện tại một thời điểm thôi.”
“Rất tốt. Cháu hoàn toàn khỏe lại, nói tương đối thôi, tới đỉnh điểm là đêm qua, khiến cháu lại buồn. Sau khi vị tiên tri già, ngài Simbri, mang cho cháu bữa tối, ngay lúc cháu nghĩ chuẩn bị đi ngủ, Khania đi vào một mình, mặc như một nữ hoàng. Cháu có thể nói với bác rằng nàng ấy thực sự trông rất cao quí, như công chúa trong truyện thần tiên, có vương miện, có mái tóc đen nhánh như hạt dẻ tuôn chảy quanh người.”
“Đúng vậy, bác Horace, sau đó nàng bắt đầu làm tình với cháu một cách tao nhã, hoặc cháu nghĩ vậy, nàng nhìn cháu và thở dài, nói rằng chúng cháu đã biết nhau trong quá khứ - quả thực cháu tập trung rất tốt – nàng ám chỉ mong muốn chúng cháu tiếp tục tình bạn. Cháu ngăn nàng bằng mọi cách có thể; nhưng một người đàn ông đều sẽ cảm thấy bất lực khi nằm trên giường trước một phụ nữ vô cùng xinh đẹp và rất cao quí đứng trước mặt đang ngợi ca anh ta.”
“Cuối cùng, để lái đi câu hỏi của nàng và chấm dứt chuyện này, cháu nói với nàng ấy rằng cháu đang tìm vợ mình, người cháu đã để mất, vì dù sao cuối cùng, Ayesha cũng chính là vợ cháu mà, bác Horace. Nàng ấy mỉm cười đề nghị cháu không cần nhìn đâu xa; nói ngắn gọn, người vợ đã mất kia đã được tìm thấy rồi – chính là nàng ấy, người đã tới cứu cháu thoát chết trên con sông. Quả thực, nàng ấy tin tưởng như vậy và bảo cháu chắc chắn sẽ tin dần dần rằng, nàng không phải chỉ đang vui đùa, cháu cũng cảm thấy rất muốn tin nàng, vì cuối cùng, Ayesha bây giờ có lẽ đã biến đổi.”
“Sau đó vào đoạn cuối trong mưu kế của mình, cháu nhớ ra lọn tóc – những gì còn lại của chúng ta về Ayesha,” và Leo chạm tay vào ngực. “Cháu lấy nó ra và so sánh nó với tóc của Khania, lúc đó nàng ta trở nên hoàn toàn khác biệt, ghen tuông, cháu nghĩ vậy, vì tóc đó dài hơn của nàng ta và hoàn toàn không giống.”
“Bác Horace, cháu kể bác nghe này, cái chạm vào lọn tóc đó – vì nàng ta đã chạm vào nó – dường như khiến nàng ấy hành động đúng bản chất tự nhiên của nàng ta hơn, như axit nitric với vàng giả vậy. Nó biến thành đen; tất cả những gì tồi tệ của nàng ta hiện ra. Trong cơn giận dữ, tiếng nàng ta thật thô tục; đúng, nàng ta như một kẻ thô tục, và bác biết đấy, khi Ayesha giận dữ, nàng có thể độc ác như chúng ta đã biết, chắc chắn rất khủng khiếp, nhưng nàng không bao giờ thô tục, thậm chí còn chói sáng hơn nữa.”
“Phải, từ lúc đó cháu chắc chắn rằng Khania này có thể là bất cứ ai, nhưng nàng ta không có gì với Ayesha; họ khác nhau đến mức họ không thể là cùng một người – giống như lọn tóc vậy. Vì thế cháu im lặng nằm đó nghe nàng ta nói, dụ dỗ, đe dọa, cuối cùng nàng ta đứng dậy đi ra khỏi phòng, cháu nghe tiếng khóa cửa phía sau. Đó là tất cả những gì cháu kể với bác, hoàn toàn đầy đủ, vì cháu không nghĩ Khania đang làm bộ với cháu, nói thật cháu sợ nàng ấy.”
“Đúng,” tôi nói, “thế là đủ rồi. Giờ hãy ngồi đây, đừng đi đâu hay nói to, vì người cầm lái có thể là một gián điệp, và bác có thể cảm nhận được ánh mắt của ông già Simbri vẫn dán lên lưng chúng ta. Cũng đừng ngắt lời, vì thời gian ở riêng bên nhau của chúng ta có thể rất ngắn.”
Rồi tôi ngồi kể cho cậu ấy mọi thứ tôi biết, trong khi cậu ấy lắng nghe đầy kinh ngạc.
“Lạy Chúa! Ôi câu chuyện là thế sao,” cậu thốt lên khi tôi kết thúc. “Giờ đây vị Hesea gửi bức thư từ Ngọn Núi kia là ai? Và Khania là ai đây?”
“Bản năng nói với cháu nàng là ai, Leo?”
“Amenartas?” cậu thì thào nghi ngờ. “Người phụ nữ đã viết trên mảnh gốm, người mà Ayesha bảo đó là công chúa Ai Cập – vợ cháu hai nghìn năm trước ư? Amenartas tái sinh ư?”
Tôi gật đầu. “Bác nghĩ vậy. Tại sao không? Như bác đã nói đi nói lại với cháu, bác luôn chắc chắn một điều, nếu chúng ta được phép xem phần tiếp của vở kịch, chúng ta sẽ tìm thấy Amenartas, hay thực ra là linh hồn của Amenartas, đóng vai chính trong đó; cháu nhớ ra bác đã viết vậy trong bản thảo trước đấy thôi.”
“Nếu nhà sư già theo Phật giáo Kou-en có thể nhớ được quá khứ của mình, như hàng nghìn người trong số họ thề rằng có chuyện đó, ông ấy chắc chắn danh tính mình vẫn tiếp tục từ quá khứ, tại sao người phụ nữ này không thể chứ, với chuyện nan giải này, trợ giúp nàng ấy lại là trò ma thuật của Pháp Sư, bác của nàng, hoàn toàn có thể triệu hồi lại quá khứ của nàng ấy đúng không?”
“Leo, tại sao nàng ta vẫn không chịu nổi ảnh hưởng nó tác động lên mình, khi không hề có sai lầm hay đã tự tìm kiếm theo cách riêng của mình rồi, mà vẫn điên cuồng rơi vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với người đàn ông nàng ta vẫn luôn từng yêu?”
“Lập luận thế là đủ rồi, bác Horace, nếu vậy cháu thấy tiếc thương cho Khania, người không có nhiều lựa chọn trong vấn đề này – đã bị buộc phải làm thế, có thể nói là như vậy.”
“Đúng, nhưng lúc đó bàn chân cháu lại rơi vào một cái bẫy khác. Hãy tự bảo vệ mình, Leo, hãy tự bảo vệ mình. Bác tin đây là thử thách dành cho cháu, không nghi ngờ gì, sẽ còn nhiều thứ theo sau. Nhưng bác tin, với cháu, chết sẽ tốt hơn làm ra bất kì sai lầm nào.”
“Cháu hiểu rõ điều đó,” cậu trả lời; “và bác đừng sợ. Khania có thể là bất kì cái gì với cháu trong quá khứ - nếu thực sự đúng vậy – chuyện này thế là xong. Cháu tìm kiếm Ayesha, duy nhất một mình Ayesha thôi, và thần Vệ Nữ sẽ không dụ dỗ cháu rời khỏi nàng.”
Sau đó trong hy vọng và sợ hãi, chúng tôi bắt đầu nói về Hesea bí ẩn, người đã gửi bức thư từ Ngọn Núi, ra lệnh cho Pháp Sư Simbri gặp chúng tôi: vị nữ tu sĩ hay linh hồn mà ông ta bảo là ‘hùng mạnh do tuổi tác’ và có ‘những người phục phụ trên mặt đất và trong không gian’.
Hiện giờ, mũi tàu đã cập vào bờ sông, nhìn quanh tôi thấy Simbri đã rời thuyền và chuẩn bị tiến tới chỗ chúng tôi. Ông ta đến ngồi nghiêm túc trên một chỗ trước mặt chúng tôi, giải thích rằng màn đêm sắp buông xuống, ông ấy muốn đưa chúng tôi theo đoàn để bảo vệ trong đêm tối.
“Và để xem chừng khiến chúng ta không trốn được khỏi ông ta,” Leo lẩm bẩm.
Rồi những người điều khiển quất ngựa đi ra, chúng tôi lại tiếp tục.
“Hãy nhìn phía sau các ngươi,” Simbri nói, “các ngươi sẽ thấy thành phố nơi các ngươi ngủ đêm nay.”
Chúng tôi quay lại, nơi đó, cách khoảng mười dặm, nhận ra một thị trấn mái bằng, không lớn lắm. Vị trí của nó khá đẹp, vì nằm trên một đảo lớn cảo hàng trăm feet so với bề mặt đồng bằng, con sông chia làm hai nhánh dưới chân nó, sau đó chúng tôi phát hiện ra chúng lại hợp lại phía xa.
Gò đất mênh mông nơi thành phố này được xây dựng trên đó có vẻ đã qua bàn tay con người tu tạo, nhưng rất có thể đất hình thành nên nó bị rửa sạch nhiều niên đại đã qua trong lũ lụt, do đó lớp bùn đọng lại ở trung tâm con sông rộng tăng dần thành cái đảo hiện tại. Ngoại trừ một dinh thự có cột cao vút lên nằm trên đỉnh thành phố và được bao quanh bởi những khu vườn, chúng tôi không nhìn thấy tòa nhà lớn nào nơi này.
“Thành phố này tên là gì?” Leo hỏi Simbri.
“Kaloon,” ông ta trả lời, “mảnh đất này vẫn mang tên đó khi cha ông ta, những kẻ chinh phạt, hành quân theo dãy núi tới đây hơn hai nghìn năm trước. Họ vẫn giữ cái tên cổ xưa, nhưng lãnh thổ của Ngọn Núi họ gọi là Hes, vì họ bảo vòng thòng lọng trên đỉnh kia là biểu tượng của nữ thần mang tên đó, cũng là người vị tướng của họ tôn thờ.”
“Các nữ tu sĩ vẫn sống ở đó chứ?” Leo hỏi, cố gắng lần lượt tìm ra sự thật.
“Đúng, và cả các nam tu sĩ nữa. Học Viện của họ do những người chinh phạt xây dựng lên, những kẻ đã chinh phục toàn bộ vùng đất. Hay đúng hơn, nó là chỗ Học Viện dành cho những người đã tạo ra Nơi Thiêng Liêng và Đền Thờ, ở đây vị thánh của nó là lửa trong Ngọn Núi, chính là của dân tộc Kaloon ngày nay.”
 “Thế giờ ai được thờ ở đó?”
“Nữ thần Hes, người ta nói vậy; nhưng chúng ta biết rất ít về chuyện này; vì chúng ta và cư dân Ngọn Núi đều đã là kẻ thù nhiều thế hệ rồi. Chúng giết chúng ta và chúng ta giết chúng, vì người ta ghen tị với điện thờ, nơi không ai được phép tới thăm để tham khảo ý kiến vị Tiên Tri, để cầu nguyện hay để dâng hiến mỗi khi tai họa, mỗi khi một vị Khan chết đi, hay khi nguồn nước của con sông cạn dần và mùa màng thất bát, khi tro bụi rơi xuống và động đất rung chuyển vùng đất, hoặc khi dịch bệnh lớn tràn tới. Dù sao, trừ khi chúng tấn công, nếu không chúng ta đều để bọn chúng cô độc ở đó, mọi người dân đều được huấn luyện cách dùng vũ khí, có thể đánh nhau nếu cần, chúng ta là những người yêu hòa bình, chỉ nuôi trồng trên mảnh đất này từ thế hệ này qua thế hệ khác, rồi trở nên giàu có. Hãy nhìn quanh ngươi đi. Khung cảnh không thanh bình sao?”
Chúng tôi đứng trên thuyền và nhìn chăm chú khung cảnh đồng quê phía trước. Nơi nơi đều xuất hiện những đàn gia súc đang ăn cỏ trên đồng, từng bầy la ngựa, hay những cánh đồng vuông vắn trồng ngô và in rõ cây cối. Dân làng cũng mặc áo dài xám, lao động trên mảnh đất, cực nhọc một ngày kết thúc, đưa đàn gia súc về nhà theo các con đường bên bờ đê thủy lợi, hướng về thôn xóm nằm trên những gò đất nhô lên giữa những lùm cây dương cao cao.
Dáng vẻ ngược lại với sa mạc khô cằn và núi non ghê sợ chúng tôi lang thang suốt bao năm qua, đất nước này hiện ra trong mắt chúng tôi thật duyên dáng, quả thật nhìn ánh đỏ của ráng chiều chìm dần ngày xuân, đẹp như vẻ đẹp của Hà Lan. Ai cũng có thể hiểu được chủ đất và nông dân ở đây đều là những người thanh bình, của cải thật cám dỗ với những bộ lạc hoang dã đói khát trên dãy núi.
Cũng thật dễ đoán khi những người sống sót trong quân đoàn của Alexander dưới quyền vị tướng Ai Cập vượt qua dải núi đá phủ đầy tuyết và nhìn thấy đất nước ngọt ngào này, với nhà cửa, gia súc, đồng cỏ chín muồi, họ hẳn phải than khóc, “Chúng ta sẽ không phải hành quân, đánh nhau và chịu mọi gian khổ nữa. Chúng ta sẽ dừng chân ở đây để sống và chết.” Chắc chắn họ đã làm thế, lấy vợ trong số phụ nữ của dân tộc ở vùng đất họ vừa chinh phục – có lẽ chỉ sau một trận đánh nhỏ.
Giờ khi ánh sáng mờ dần, những vòng khói đang lơ lửng phía ngọn núi lửa xa xa bắt đầu bùng lên khủng khiếp. Chúng càng lúc càng đỏ hơn và giận dữ hơn khi đêm tới, cuối cùng chúng biến thành những tảng lửa bùng cháy đẩy ra từ lòng núi lửa, ném những chùm sáng xuyên qua con mắt trên trán, chính là chiếc thòng lọng khổng lồ trên đỉnh núi. Những chùm sáng bắn ra rất xa, rất xa, tạo ra con đường sáng chói trên mặt đất, làm nổi bật các đỉnh trắng xóa của dãy núi bao quanh làm tường chắn. Trên cao trong không trung, vượt qua con đường, vượt qua những mái nhà mờ ảo của thành phố Kaloon, vượt trên con sông, phải, ngay thẳng trước chúng tôi, trên dãy núi, không nghi ngờ gì – xuyên qua những nơi chúng tôi không thể theo tới – qua sa mạc tới đỉnh cao chót vót sườn bên kia nơi chúng tôi từng nằm tắm trong vẻ rực rỡ của nó. Thật là một khung cảnh kỳ diệu và ấn tượng vô cùng, cũng khiến những người đồng hành của chúng tôi tràn đầy sợ hãi, vì người cầm lái trên thuyền và những người điều khiển đẩy thuyền đi đều rên to và bắt đầu thốt ra lời cầu nguyện. “Họ nói gì vậy?” Leo hỏi Simbri.
“Họ nói, Linh Hồn Ngọn Núi đang tức giận, và truyền ánh sáng từ chỗ kia bay xuống gọi là Con Đường của Hes, để gây ra tội lỗi với mảnh đất của chúng ta. Do đó, họ phải cầu nguyện bà ấy đừng tàn phá họ.”
“Thế ánh sáng đó không phải lúc nào cũng chiếu như thế sao?” cậu lại hỏi.
“Không, rất hiếm. Một lần vào ba tháng trước, và giờ là đêm nay, nhưng nhiều năm qua chưa hề như vậy. Chúng ta hãy cầu nguyện để nó không mang bất hạnh tới Kaloon và dân cư nơi đây.”
Ánh sáng ghê sợ vẫn tiếp tục vài phút sau đó, rồi nó ngừng lại đột ngột như lúc bắt đầu, chỉ còn lại ánh mờ nhạt trên đỉnh núi.
Giờ trăng đã lên, một quả cầu trắng sáng lấp lánh, dưới ánh sáng của nó, chúng tôi nhận ra đã gần vào thành phố. Nhưng vẫn có gì đó để xem trước khi chúng tôi tới nơi trú ngụ. Trong lúc chúng tôi đang ngồi im lặng trên thuyền – sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng vỗ nhẹ của nước tĩnh lặng ở hai bên và tiếng bắn lên liên tục của sợi dây kéo bị chùng trên bề mặt – chúng tôi nghe thấy một âm thanh xa xôi như trong cuộc săn đuổi đầy tiếng kêu khóc.
Nó càng lúc càng gần, âm lượng to lên mỗi lúc, tới khi thật gần. Giờ vang vọng lại trên mặt đất chỗ lai dắt thuyền – không phải với đám ngựa kéo, mà là thứ khác trên bờ tây dòng sông – nghe như nhịp đập của tiếng vó ngựa phi nước đại đầy giận dữ. Hiện tại nó đã hiện ra, một con vật trắng mịn đẹp đẽ, trên lưng có một người cưỡi. Nó phi qua chúng tôi như một tia chớp, nhưng người đàn ông nó mang theo quay đầu lại, chúng tôi nhìn thấy gương mặt anh ta dưới ánh trăng; cũng nhìn thấy sự đau đớn vì sợ hãi viết rõ trên đó và trong mắt anh ta.
Con vật hiện ra từ bóng tối. Nó lại biến mất trong bóng tối, theo sau nó là thứ nhạc điệu khủng khiếp. Nhìn kìa! Một con chó xuất hiện, một con chó khổng lồ màu đỏ, rỏ đầy rãi trên đất từ mõm khi phi nhanh qua, sau đó chồm lên và phát ra tiếng sủa sâu từ cuống họng, như tiếng chuông. Những con khác theo sau, rồi lại những con khác nữa: phải có cả trăm con, mỗi con đều sủa vang như đang đánh hơi.
“Bầy chó săn tử thần!” tôi thì thào, siết chặt cánh tay Leo.
“Đúng,” cậu đáp lại, “chúng đang chạy theo kẻ xấu xa khốn khổ kia. Đây là cuộc săn người.”
Khi cậu nói vậy, có một bóng hình thứ hai xuất hiện, phục sức lộng lẫy, áo choàng trên vai, tay cầm cây roi dài, anh ta vẫy tay. Anh ta to lớn nhưng các khớp lỏng lẻo, khi đi qua anh ta cũng quay mặt lại, và chúng tôi nhận ra đó là gương mặt của một người điên. Không nghi ngờ gì về điều đó; vẻ điên rồ bùng lên trong đôi mắt trống rỗng và vang lên trong tiếng cười hoang dại gầm rít đó.
“Khan! Khan!” Simbri nói, và tôi có thể thấy ông ta đang sợ hãi.
Giờ anh ta cũng biến mất, theo sau là những người bảo vệ anh ta. Tôi đếm có tám người, đều mang roi, họ quất ngựa bằng những cây roi đó.
“Thế là sao, Simbri đáng mến?” tôi hỏi, khi những âm thanh đã mờ dần phía xa.
“Có nghĩa là, anh bạn Holly ạ,” ông ta đáp, “Khan đang phán xét theo cách của ngài – săn đuổi tới chết ai đó làm ngài tức giận.”
“Vì tội gì thế? Và ai là kẻ khốn khổ kia?”
“Hắn là một lãnh chúa lớn của vùng này, một trong những người bà con hoàng tộc, tội lỗi của hắn là hắn đã nói với Khania rằng hắn yêu nàng, sẵn sàng gây chiến với chồng nàng và giết Ngài, nếu nàng hứa sẽ cưới hắn. Nhưng nàng ghét hắn, cũng như ghét tất cả đàn ông, và mang chuyện đó nói trước Khan. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Thật hạnh phúc khi hoàng tử có người vợ đức hạnh đến vậy!” tôi không thể giúp gì ngoài nói ngọt ngào và đầy hàm ý như thế, ông già Pháp Sư xấu xa quay đầu lại trước lời đó và bắt đầu vuốt chòm râu trắng.
Nhưng chỉ một lúc sau, chúng tôi lại nghe thấy tiếng sủa của bầy chó săn tử thần một lần nữa. Đúng, chúng đang đâm đầu hướng thẳng tới chỗ chúng tôi, lúc này chạy dọc theo vùng đất. Con ngựa trắng và người cưỡi nó lại xuất hiện trở lại, cả hai hoàn toàn kiệt sức, vì con vật khốn khổ đó hiếm khi chạy vào đường kéo thuyền. Do đã ngoặm được, con chó đỏ to lớn với cái tai đen kẹp chặt sườn nó, khi bị hàm răng năng chạm vào, nó hí to lên trong kinh sợ theo cách chỉ một con ngựa có thể. Người cưỡi ngựa nhảy khỏi lưng nó, trước sự kinh hoàng của chúng tôi, anh ta chạy tới bờ sông, rõ ràng nghĩ rằng muốn nương tựa nhờ thuyền chúng tôi. Nhưng trước khi anh ta chạm được vào nước, những con quái vật như quỉ dữ đã nhảy chồm vào anh ta.
Những gì tiếp theo tôi sẽ không mô tả nữa, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng bầy sói đáng lo ngại kia, và cả vị Khan điên cuồng đã thét lên trong niềm vui tàn bạo, cổ vũ bầy chó săn tử thần hoàn thành công việc đẫm máu đó.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...