Thứ Năm, 18 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 1



Chương 1: Điềm báo kép

Hai mươi năm nặng nề trôi qua kể từ đêm đó trong ký ức của Leo – có lẽ là những năm tháng khủng khiếp nhất mà con người từng chịu đựng – hai mươi năm tìm kiếm đầy gian nan kết thúc trong nỗi băn khoăn và kinh ngạc đến lay động tâm hồn.
Cái chết đã rất gần với tôi, tôi rất vui, vì tôi khao khát theo đuổi cuộc phiêu lưu trong cõi khác, như đã từng hứa hẹn. Tôi khao khát tìm hiểu phần khởi đầu và kết thúc của vở kịch tâm linh mà vận mạng kỳ lạ cho tôi đọc được vài trang nơi trần thế.
Tôi, Ludwig Horace Holly, đang rất ốm yếu; người ta đưa tôi trong trạng thái chết nhiều hơn sống xuống từ dãy núi mà tôi có thể nhìn thấy những sườn dốc thấp nhất của nó từ cửa sổ, vì tôi đang viết những dòng này từ vùng biên giới phía bắc Ấn Độ. Thực ra nếu là người khác có lẽ đã chết từ lâu, nhưng Định Mệnh đã giữ lại hơi thở cho tôi, đúng là lưu lại một kỷ lục. Tôi phải chờ ở đây một tới hai tháng cho tới khi đủ khỏe để về nhà, vì tôi mong được chết ở nơi tôi sinh ra. Vì thế trong khi đợi phục hồi sức lực, tôi sẽ viết lại câu chuyện, hoặc ít ra những phần cơ bản nhất, vì dù sao nhiều phần có thể bị bỏ đi. Tôi không còn nhiều thời gian để nỗ lực viết một cuốn sách, dù ghi chép và trí nhớ có thể cung cấp đủ nguyên liệu để tôi viết vài cuốn.
Tôi sẽ bắt đầu với Ảo Cảnh.
Sau khi Leo Vincey và tôi trở về từ châu Phi năm 1885, với mong muốn sống tách biệt, điều chúng tôi thực sự rất cần để hồi phục lại sau cú sốc sợ hãi vừa trải qua, và cho bản thân thời gian cùng cơ hội suy ngẫm, chúng tôi tới ngôi nhà cổ trên bờ biển Cumberland của nhiều thế hệ gia đình tôi. Ngôi nhà này, trừ khi ai đó tin tôi đã chết nên lấy đi, nếu không nó vẫn là tài sản của tôi và tôi sẽ chết ở đó.
Những người đang dõi mắt đọc những dòng tôi viết có lẽ sẽ hỏi – chuyện gì gây sốc thế?
Phải, tôi là Horace Holly, và bạn đồng hành của tôi, người bạn yêu quí, đứa con tôi đã nuôi dưỡng từ thuở còn thơ – Leo Vincey.
Chúng tôi là những người theo đuổi một manh mối cổ xưa, lên đường tới Khu Hang Động Kôr ở Trung Phi, và ở đó phát hiện ra người chúng tôi tìm kiếm, Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh bất tử. Bà ấy tìm thấy tình yêu của mình trong Leo, một Kallikrates tái sinh, vị linh mục người Hy Lạp của thần Isis bà ấy đã giết chết trong cơn giận dữ ghen tuông hai nghìn năm trước, hành quyết ông ấy theo phán xét của nữ thần phẫn nộ. Tôi cũng tìm thấy phẩm chất thần thánh trong con người bà ấy, thứ tôi có sứ mệnh tôn thờ từ lâu, không phải xác thịt mà là ý chí và linh hồn tạo nên sinh khí con người qua vô số kiếp tồn tại. Xác thịt rồi cũng chết hoặc biến đổi, đam mê dục vọng rồi cũng trôi qua, nhưng còn niềm đam mê về tinh thần – khao khát duy nhất đó – sẽ bất tử như chính bản thân nó.
Tôi đã phạm tội gì mà hình phạt đau đớn này lại đặt vào tôi? Nhưng đó có thật là hình phạt? Có lẽ không chứng minh được gì ngoài Cánh Cổng đen kinh khủng dẫn tới cung điện Đền Ơn vui vẻ kia? Bà ấy đã thề rằng tôi mãi mãi là bạn của bà ấy và sống muôn đời bên họ, tôi tin bà ấy.
Chúng tôi đã lang thang giữa những ngọn đồi băng giá và sa mạc biết bao mùa đông! Cuối cùng Sứ Giả tới dẫn chúng tôi đến Ngọn Núi, trên Ngọn Núi chúng tôi tìm thấy Đền Thờ, trong Đền Thờ thấy Linh Hồn. Những thứ đó không phải là câu chuyện ngụ ngôn chuẩn bị sẵn dành cho chúng tôi sao? Tôi sẽ chiếm lấy tiện nghi này. Tôi hy vọng đúng là vậy. Không, tôi chắc chắn đúng là vậy.
Nên nhớ ở Kôr chúng tôi đã thấy người phụ nữ bất tử. Nơi đó trước những tia chớp và làn hơi hư ảo của Cột Trụ của Sự Sống, bà ấy đã công khai tình yêu thần bí của mình, sau đó chúng tôi bị cuốn vào kết cục khủng khiếp đến mức tới giờ, sau khi tất cả đã trôi đi, tôi vẫn rùng mình khi hồi tưởng lại nó. Nhưng những lời cuối cùng của Ayesha là gì? “Đừng quên ta… thật xấu hổ. Ta sẽ không chết. Ta sẽ trở lại và một lần nữa càng xinh đẹp hơn. Ta thề - thật đấy.
Phải, tôi không thể quay lại câu chuyện từ đầu. Hơn nữa đã viết, người tôi tin tưởng trong chuyện này đã không làm tôi thất vọng, cuốn sách anh ta thực hiện đã nổi tiếng khắp thế giới, vì tôi thấy nó ở Anh, phải, và lần đầu đọc nó là bản được dịch sang tiếng Hindu Bắc Ấn Độ. Tôi đọc nó vì tò mò.
Trong ngôi nhà bên bờ biển Cumberland hoang vắng, chúng tôi sống ở đó một năm, để tang những người đã mất, tìm kiếm con đường để tìm lại và phát hiện không có cách nào. Ở đây, sức khỏe chúng tôi đã phục hồi, tóc của Leo trắng xóa ghê rợn ở Khu Hang Động giờ đã chuyển từ xám sang vàng. Vẻ đẹp trai đã trở lại với cậu ấy, gương mặt cậu lại giống như xưa, chỉ có điều đầy vẻ tinh khiết và đau buồn.
Tôi cũng nhớ đêm đó – giờ phút rực sáng đó. Chúng tôi đã tan nát trái tim, chúng tôi đã tuyệt vọng. Chúng tôi tìm kiếm các dấu hiệu và không thể tìm được. Với chúng tôi, chết chóc vẫn hoàn chết chóc, không có câu trả lời nào cho tiếng kêu khóc của chúng tôi.
Vào một đêm tháng tám ủ ê, sau bữa tối chúng tôi đi dạo trên bãi biển, lắng nghe từng con sóng chậm chạp vỗ về và ngắm tia sáng nhấp nháy trên tầng mây xa xăm. Chúng tôi đi trong im lặng, tới khi Leo rên rỉ - một tiếng nức nở hơn là rên rỉ - rồi siết chặt tay tôi.
“Cháu không thể chịu đựng hơn nữa, bác Horace,” cậu nói – và giờ cậu gọi tôi như thế - “Cháu đau khổ quá. Khao khát nhìn thấy Ayesha một lần nữa hủy hoại đầu óc cháu. Không có hy vọng thì cháu sẽ phát điên mất. Cháu rất khỏe, có lẽ cháu sẽ sống thêm năm mươi năm nữa.”
“Thế thì cháu có thể làm gì?” Tôi hỏi.
“Cháu có thể đi con đường ngắn hơn để tiếp thu tri thức – hay tìm được chốn yên nghỉ an bình,” cậu trả lời nghiêm trang, “cháu có thể chết, cháu sẽ chết – phải, ngay tối nay.”
Tôi quay lại đầy giận dữ, vì những lời của cậu ấy làm tôi sợ hãi.
“Leo, cháu là một kẻ hèn nhát!” tôi nói. “Cháu không thể chịu đựng được nỗi đau của mình như những người khác sao?”
“Đúng như bác nói đấy, bác Horace,” cậu trả lời bằng nụ cười thê lương, “vì lời nguyền cũng nhằm vào bác đấy – nhẹ hơn chút thôi. Phải, bác khỏe hơn cháu, và dai sức hơn; nên bác có thể sống lâu hơn. Không, cháu không thể chịu đựng được. Cháu muốn chết.”
“Thật là tội lỗi,” tôi nói, “điều sỉ nhục lớn nhất cháu có thể mang tới cho Quyền Năng đã ban cho cháu, là bỏ lại món quà sự sống như một thứ lỗi thời, đáng khinh và đáng ghét. Tội lỗi, bác nghĩ thế đấy, nó sẽ trừng phạt tệ hơn bất cứ thứ gì cháu tưởng; có thể là trừng phạt bằng sự chia ly vĩnh viễn.”
“Một người chịu tra tấn trong thời gian dài sẽ phạm tội nếu anh ta giật lấy con dao vào tự sát sao, bác Horace? Có lẽ thế; nhưng chắc chắn tội lỗi đó sẽ được tha thứ - nếu xẻ thịt và dày vò thần kinh có thể cầu xin được lòng thương xót. Cháu là người như thế đó, cháu sẽ dùng con dao đó và tìm cơ may. Nàng đã chết, và chỉ có cái chết mới khiến cháu cảm thấy gần nàng hơn.”
“Tại sao lại thế, Leo? Cháu biết đấy, Ayesha có lẽ vẫn còn sống.”
“Không, nếu thế nàng đã phải để lại dấu hiệu nào đó. Đầu óc cháu đang rối loạn, nên đừng nói gì nữa, nếu phải nói thì nói về chuyện khác đi.”
Rồi tôi năn nỉ cậu dù rất ít hy vọng, vì tôi thấy những gì mình lo sợ trước đây đã xảy ra. Leo đang phát điên: cú sốc và đau buồn đã phá hủy lý trí cậu ấy. Nếu không, cậu ấy – một người mộ đạo mà tôi biết, có quan điểm khe khắt về những vấn đề như vậy, sẽ không bao giờ muốn làm việc tội lỗi như tự sát.
“Leo,” Tôi nói, “cháu nhẫn tâm bỏ lại bác một mình sao? Cháu đáp lại cho tình yêu và sự chăm sóc của bác như thế sao, và mong đưa bác tới chỗ chết ư? Hãy làm đi nếu cháu muốn, máu của bác sẽ rơi trên đầu cháu.”
“Máu của bác ư, tại sao lại có máu của bác, bác Horace?”
“Vì đường rất rộng, hai ta có thể đi du lịch. Chúng ta phải sống cùng nhau nhiều năm nữa, càng lâu càng tốt; bác chắc chắn chúng ta sẽ không bị chia cắt nữa.”
Rồi xoay xoay lòng bàn tay, cậu bắt đầu e sợ tôi. Nhưng tôi chỉ đáp, “Nếu cháu chết, bác cũng sẽ chết. Điều đó chắc chắn sẽ giết chết bác.”
Leo đành nhượng bộ. “Được rồi,” cậu đột nhiên giải thích, “cháu hứa với bác sẽ không chết đêm nay. Chúng ta hãy cho sự sống một cơ hội nữa.”
“Tốt,” tôi đáp; nhưng tôi đi ngủ mà lòng đầy sợ hãi. Vì tôi chắc rằng khát khao được chết này một khi chiếm giữ con người cậu ấy, nó sẽ lớn dần, lớn dần, cho tới khi trở nên quá mạnh, và rồi – rồi tôi sẽ khô héo và chết, ai có thể sống cô độc một mình chứ. Trong tuyệt vọng, tôi ném hồn mình về hướng của bà ấy, người đã lìa đời.
“Ayesha!” tôi kêu than, “nếu người có quyền năng, nếu có cách nào đó, hãy cho thấy người vẫn còn sống, cứu rỗi người yêu của người khỏi tội lỗi và cứu tôi khỏi bị tan nát trái tim. Xin hãy thương xót nỗi đau buồn của cậu ấy và hãy truyền hi vọng vào linh hồn cậu ấy, vì nếu không còn hy vọng, Leo không thể sống tiếp, mà nếu không còn cậu ấy, tôi cũng sẽ không sống tiếp nữa.”
Rồi kiệt sức, tôi ngủ mất.
Tôi bị đánh thức bởi giọng nói của Leo đang phát ra âm thanh trầm thấp kích động trong bóng đêm.
“Bác Horace,” cậu nói, “Bác Horace, bạn của cháu ơi, cha ơi, nghe này!”
Trong khoảnh khắc tôi hoàn toàn tỉnh táo, mọi dây thần kinh và mạch máu đều tỉnh, vì âm thanh của cậu nói cho tôi biết có gì đó đã xảy ra chen vào số phận của chúng tôi.
“Để bác thắp nến trước đã,” tôi nói.
“Không cần nến, bác Horace; cháu thích nói chuyện trong bóng tối hơn. Cháu đã đi ngủ, và mơ một giấc mộng vô cùng sống động. Cháu dường như đang đứng dưới vòm trời, nó tối đen, tối đen, không một vì sao trên đó, sự cô độc mênh mông ấy chiếm giữ cháu. Rồi đột ngột cái vòm ấy vụt cao lên, hàng dặm nối hàng dặm, cháu thấy chút ánh sáng và nghĩ một hành tinh đang hiện ra giữ cháu đồng hành cùng. Ánh sáng ấy bắt đầu hạ dần từ từ, giống như chùm lửa trôi nổi. Nó chìm dần xuống, đi xuống, đi xuống, tới khi ở ngay phía trên cháu, và cháu nhận ra nó giống như cái lưỡi hay cái quạt lửa. Ở độ cao ngang đầu cháu, nó dừng lại và đứng yên, trong ánh sáng ma quái của nó, cháu thấy bên dưới là hình dáng một phụ nữ có ngọn lửa đang cháy trên trán. Ánh sáng tập trung mạnh và rồi cháu nhìn ra người phụ nữ.”
“Bác Horace, đó chính là Ayesha, đôi mắt nàng, gương mặt đáng yêu của nàng, mái tóc mây của nàng, và nàng nhìn cháu buồn bã như trách móc, cháu nghĩ giống như đang nói, ‘Sao chàng lại nghi ngờ?’”
“Cháu cố nói với nàng nhưng môi cháu như bị câm. Cháu cố tiến lên ôm nàng, nhưng tay cháu không thể cử động. Có rào chắn giữa chúng cháu. Nàng nâng tay lên và vẫy vẫy như ra hiệu cháu đi theo.”
“Rồi nàng lướt đi, bác Horace, tâm trí cháu dường như nhẹ bẫng thoát khỏi cơ thể và được trao sức mạnh để đi theo nàng. Chúng cháu nhanh chóng đi về phía đông, vượt qua những vùng đất và biển cả - cháu biết đường. Tới một lúc nàng dừng lại và cháu nhìn xuống dưới. Bên dưới, trong ánh trăng tỏa sáng, hiện ra những cung điện đổ nát của Kôr, không xa là vịnh nơi chúng ta đã cùng nhau đặt chân lên.”
“Bên trên đầm lầy, giờ chúng cháu đã đứng trên tảng đá hình đầu của người Ethiopia, và tụ tập xung quanh nhìn chúng cháu tha thiết là những gương mặt người Ả Rập, những người bạn đồng hành của chúng ta đã chết đuối dưới biển. Job cũng ở trong số họ, anh ta mỉm cười buồn bã với cháu và lắc đầu, như thể anh ta muốn đi cùng chúng cháu mà không thể được.”
“Vượt qua một cái biển nữa, vượt qua những sa mạc đầy cát, lại qua biển, và bờ biển Ấn Độ nằm bên dưới chúng cháu. Sau đó đi về hướng bắc, luôn là hướng bắc, đi trên những bình nguyên tới khi chúng cháu tới nơi những dãy núi đỉnh phủ tuyết vĩnh cửu. Chúng cháu vượt qua đó và nghỉ lại một lúc ở tòa nhà trên đỉnh một cao nguyên. Đó là một tu viện, vì các nhà sư già đang cầu nguyện trên sân thượng. Cháu sẽ lại nhớ ra nó, vì nó có hình bán nguyệt và phía trước đặt một tượng đổ nát khổng lồ hình một vị thần linh đang vĩnh viễn nhìn chằm chằm về hướng sa mạc. Cháu biết, cháu không thể nói bằng cách nào, nhưng giờ chúng cháu đang ở biên giới xa xôi nhất của Tây Tạng và trước mặt là vùng đất không có người qua. Vô số núi non lan ra phía sa mạc, một biển hàng trăm đỉnh núi tuyết trắng.”
“Gần tu viện, nhô ra khỏi đồng bằng như một mũi đá là một ngọn đồi đơn độc, cao hơn tất cả phía sau. Chúng cháu đứng trên đỉnh đầy tuyết của nó và chờ đợi, tới khi trên dãy núi và sa mạc dưới chân bắn lên một chùm sáng đột ngột đập vào chúng cháu, giống như tín hiệu lóe sáng trên biển. Khi chúng cháu đi, chùm sáng trôi nổi và chìm dần xuống – vượt qua sa mạc và những dãy núi, vượt qua mảnh đất bằng phẳng rộng lớn nơi có nhiều ngôi làng và một thành phố trên gò đất, tới khi chúng cháu tỏa sáng trên một đỉnh cao chót vót. Cháu nhận ra đỉnh cao này mang hình giống biểu tượng Sự Sống của người Ai Cập – crux-ansata (cây thập giá chìa khóa) – bao quanh là đỉnh núi lửa cao hàng trăm feet. Cháu cũng thấy ngọn lửa chiếu sáng sinh ra từ miệng núi lửa bên dưới. Trên đỉnh của nó, chúng cháu dừng lại một lúc, tới lúc Hình Bóng Ayesha trỏ tay xuống, mỉm cười và biến mất. Rồi cháu tỉnh giấc.”
“Bác Horace, cháu nói cho bác biết điềm báo đã tới chỗ chúng ta rồi.”
Giọng cậu biến mất trong bóng đêm, nhưng tôi vẫn ngồi đó, trầm ngâm trước những gì vừa nghe thấy. Leo mò mẫm tới chỗ tôi và giữ lấy tay tôi lắc lắc.
“Bác vẫn buồn ngủ sao?” Cậu hỏi đầy giận dữ. “Nói đi, người này, nói đi!”
“Không,” tôi trả lời, “chưa bao giờ bác tỉnh táo hơn thế. Hãy cho bác thời gian.”
Rồi tôi đứng lên, đến bên cửa sổ đang mở, như một người mù và đứng đó nhìn chăm chú lên bầu trời đang hiện ra sắc ngọc trai với ánh bình minh mờ nhạt đầu tiên. Leo cũng tới và nghiêng người trên khung cửa sổ, tôi có thể cảm nhận được thân hình cậu đang run rẩy như cảm lạnh. Rõ ràng cậu đã di chuyển rất nhiều.
“Cháu nói về một điềm báo,” tôi nói với cậu ấy, “nhưng trong điềm báo của cháu, bác chẳng thấy gì ngoài một giấc mộng hoang dại.”
“Đó không phải giấc mộng,” cậu ấy quyết liệt ngắt lời, “đó là một ảo cảnh.”
“Được rồi, một ảo cảnh nếu cháu muốn, nhưng có những ảo cảnh thật và giả, làm sao chúng ta biết cái nào là thật? Nghe này, Leo. Có gì trong câu chuyện tuyệt vời đó lại không thể đồng điệu với bộ não của chính cháu, quẫn trí như sắp phát điên vì đau buồn và khao khát? Phải, mọi sinh vật sống đều không đơn độc đó sao? Cháu đã mơ hình bóng Ayesha tới bên cháu. Nó đã bao giờ rời khỏi cháu đâu? Cháu mơ thấy bà ấy dẫn cháu đi qua biển cả và những vùng đất, những nơi trong quá khứ ám ảnh ký ức của cháu, trên những đỉnh núi huyền bí Vô Danh tới một ngọn núi chưa được khám phá. Thế nên bà ấy không phải đang dẫn dắt cháu suốt đời đi tới đỉnh núi có Cánh Cổng Địa Ngục đó sao? Cháu đã mơ –“
“Ôi! Đừng nói nữa,” cậu đáp. “Những gì cháu đã thấy, cháu đã nhìn thấy, thì cháu sẽ đi theo. Hãy nghĩ những gì bác muốn, bác Horace, và hãy làm những gì bác muốn. Ngày mai cháu sẽ khởi hành tới Ấn Độ, cùng với bác nếu bác lựa chọn đi; nếu không, cháu sẽ đi mà không có bác.”
“Cháu nói chuyện thật thô lỗ, Leo,” Tôi nói. “Cháu quên rằng bác không có điềm báo hiệu, và cơn ác mộng của một người gần phát điên mà chỉ vài giờ trước anh ta còn muốn tự sát sẽ là chỉ dẫn nghèo nàn nếu dựa vào khi chúng ta ngắc ngoải trong tuyết ở Trung Á. Khung cảnh lộn xộn của cháu, Leo, với đỉnh núi hình crux-ansata và những thứ khác nữa. Cháu cho rằng Ayesha được đầu thai lại ở Trung Á – là một Nữ Lạt Ma Vĩ Đại hay một ai đó tương tự sao?”
“Cháu chưa bao giờ nghĩ tới điều đó, nhưng tại sao lại không chứ?” Leo lặng lẽ hỏi. “Bác có nhớ cảnh trong Khu Hang Động Kôr kia không, khi người sống trông như người chết, người sống và người chết đều như nhau đó sao? Bác có nhớ Ayesha từng thề rằng nàng sẽ quay lại – phải, trở lại thế giới này; có thể bằng cách nào ngoài việc tái sinh đây, hay theo cách tương tự như nhập hồn?”
Tôi không đáp lại lời phê phán đó. Tôi đang đấu tranh với bản thân.
“Không có điềm báo nào tới với bác,” tôi nói, “mà bác đã có một phần trong vở kịch, bác khiêm tốn thừa nhận, bác tin mình vẫn là một phần trong đó.”
“Không,” cậu nói, “không có điềm báo hiệu nào tới với bác. Cháu mong là có. Ôi! Cháu mong bác cũng được thừa nhận như cháu biết bao, bác Horace!”
Rồi chúng tôi im lặng một lúc lâu, im lặng, đôi mắt dán lên bầu trời.
Một bình minh đầy bão tố. Mây thành từng khối kỳ ảo kéo ra từ đại dương. Một đám mây trong đó như ngọn núi lớn, chúng tôi yên lặng nhìn nó. Nó thay đổi hình dạng, đỉnh của nó biến hóa thành rỗng như miệng núi lửa. Từ cái miệng đó lại sinh ra một đám mây ở giữa, một cột trụ thô kệch với cái núm hay khối u trên đỉnh. Đột nhiên những tia sáng mặt trời đập vào ngọn núi và cột trụ, chúng biến thành trắng như tuyết. Rồi như thể bị tan chảy bởi những mũi tên lửa, phần tâm cục u trên cột trụ mỏng dần và biến mất, bỏ lại một đống mây đen như mực khổng lồ.
“Nhìn kìa,” Leo cất giọng trầm thấp sợ hãi, “đó là hình ngọn núi cháu đã thấy trong Ảo Cảnh. Trên nó là vòng xoáy đen kịt, ở đó có ngọn lửa chiếu xuyên qua. Có lẽ là điềm báo hiệu cho cả hai ta, bác Horace.”
Tôi nhìn đi nhìn lại tới khi vòng xoáy khổng lồ đó biến mất trên nền trời xanh. Rồi tôi quay lại và nói, “Bác sẽ đi với cháu tới Trung Á, Leo ạ.”

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Giới thiệu

Ayesha: the return of SHE (H.R.Haggard), phần tiếp theo của SHE: the history of advanture.
Tựa đề tiếng Việt: Nữ Hoàng Ayesha trở lại
Người Dịch: Cheryl Pham



Giới Thiệu

Quả thật thực tế điều không mong đợi đã xảy ra! Có lẽ nếu có ai đó trên trái đất mà Biên Tập Viên của tác phẩm này, đúng ra là của câu chuyện trước đó, không nghĩ lại nghe về người đó, chính là Ludwig Horace Holly. Điều này cũng có lý do chính đáng; biên tập viên đã tin rằng ông ấy đã rời khỏi trái đất.
Khi lần cuối ngài Holly viết từ rất nhiều năm trước đây, ngài để lại bản thảo về Bà ấy, và bảo rằng ngài và người ngài đang bảo trợ, Leo Vincey, người yêu của thánh nữ Ayesha, sắp sửa du hành tới Trung Á, tôi cho rằng họ hi vọng bà ấy có thể thực hiện lời hứa và xuất hiện lại bên mình lần nữa ở đó.
Tôi thường vu vơ tự hỏi, chuyện gì đã xảy ra với họ ở đó; họ đã chết rồi hay đang ăn không ngồi rồi lãng phí cuộc đời mình như nhà sư trong ngôi chùa của các lạt ma Tây Tạng, hoặc đang nghiên cứu ma thuật và thực hành phép tu khổ hạnh dưới sự hướng dẫn của các Bậc Thầy phương Đông, với niềm tin có thể xây chiếc cầu nối từ những gì họ cần trải qua để đến bên người bất tử yêu dấu của họ.
Bây giờ, cuối cùng khi tôi không còn nghĩ về họ suốt nhiều tháng qua, không hề báo trước, câu trả lời cho những băn khoăn đó đã tới!
Nghĩ mà xem, tôi – người Biên Tập Viên đã nói ở trên, chỉ vì vẻ ngoài của gói bưu kiện bọc giấy nâu tồi tàn, không đăng ký, gửi tới từ bàn tay vô danh nào đó, cho rằng nó quá quen thuộc và không có lợi ích gì, đã đẩy nó sang một bên, suốt hai ngày liền nó bị quên lãng. Quả thực, giờ nó sẽ vẫn đang nằm đó nếu không có một người khác di chuyển nó do tò mò, rồi mở ra, và phát hiện ra một đống bản thảo bị đốt cháy trên gáy trong tình trạng rất tệ, có hai chữ trên đó đề cập đến tôi.
Dù thật tuyệt vời, một khoảng thời gian đã trôi qua từ lúc tôi nhìn thấy nó, giờ vẫn là nét chữ run rẩy do tuổi tác hay bệnh tật của tác giả, tôi từng biết nét chữ này – không ai từng viết chữ “H” xoắn vòng đặc biệt như thế trừ ngài Holly. Tôi xé mở phong bì niêm phong, và chắc chắn thứ đầu tiên mắt tôi nhìn tới là chữ ký L.H. Holly. Đã lâu lắm rồi kể từ khi tôi từng háo hức đến vậy khi đọc chữ đó. Và bức thư viết như sau:
“Quí ngài thân yêu của tôi – tôi chắc chắn ngài vẫn còn sống, thật kỳ lạ phải nói rằng tôi cũng vẫn còn sống – trong một ít thời gian nữa thôi.
Ngay khi tôi chạm vào thế giới văn minh một lần nữa, tôi đã thấy cuốn sách ‘Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr’ của ngài, hay đúng hơn là cuốn sách của tôi, và đã đọc nó – lần đầu tiên đó là bản dịch tiếng Hindu Bắc Ấn Độ. Chủ nhà của tôi – ông ta là bộ trưởng của một cơ quan tôn giáo, một người đàn ông giàu có nhưng trí tuệ tầm thường – đã tỏ ra ngạc nhiên khi ‘chuyện tình lãng mạn hoang dã’ đó lại thu hút tôi nhiều đến vậy. Tôi trả lời rằng những ai có nhiều trải nghiệm với những biến cố khó khăn trong đời thường quan tâm tới sự lãng mạn. Ngài có biết những biến cố khó khăn mà tôi đề cập tới là gì không, tôi tự hỏi người xuất sắc như ngài có thể sẽ nói gì đây?
Tôi thấy ngài đã kinh doanh tốt đẹp và làm việc trung thực. Mọi chỉ dẫn đều đươc tuân thủ, không gì được thêm vào hay bỏ đi. Do đó, ngài là người hai mươi năm trước tôi đã tin tưởng phó thác câu chuyện mở đầu, nay cũng là người tôi muốn phó thác phần kết của nó. Ngài là người đầu tiên biết về Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh, người đã ngồi cô độc từ thế kỷ này qua thế kỷ kia, mang vẻ đẹp bất biến trong khu mồ Kôr, chờ đợi người yêu đã mất tái sinh, và Định Mệnh đã mang người đó trở lại cho bà ấy.
Đúng vậy, do đó ngài cũng sẽ là người đầu tiên biết Ayesha, Hesea và Linh Hồn Núi, nữ tu sĩ của Oracle từ thời Alexander Đại Đế trị vì những cột trụ rực lửa trong Đền Thờ, người giữ vương trượng cuối cùng của Ngài hay thần Isis trên trái đất. Ngài cũng là người đầu tiên của loài người tôi sẽ tiết lộ kết cục thần bí của bi kịch lạ lùng bắt đầu tại Kôr, hay không chừng cả ở Ai Cập và những nơi khác thời xa xưa.
Tôi đang rất suy yếu; tôi đang vật lộn để được trở lại ngôi nhà cũ của tôi để chết ở đó, kết cục của tôi đã trong tầm tay. Tôi đã yêu cầu bác sĩ ở đây, sau khi tất cả kết thúc, hãy gửi cho ngài bản ghi chép, trừ khi tôi đổi ý và đốt sạch nó. Ngài cũng sẽ nhận được một tập bản vẽ thô có thể hữu ích với ngài, và một cái trống, dụng cụ luôn được dùng tới trong các lễ tôn thờ các nữ thần Tự Nhiên của người Ai Cập cổ, thần Isis và thần Hathor, những người ngài sẽ thấy thật đẹp đẽ và cổ xưa. Tôi trao chúng cho ngài vì hai lý do; vì sự biết ơn cùng tôn trọng của tôi, và vì đó là bằng chứng duy nhất còn lại bên tôi về sự thật tôi viết trong bản thảo đi kèm, ngài sẽ thấy nó thường xuyên được đề cập tới. Có lẽ ngài cũng sẽ đánh giá chúng như một món đồ kỷ niệm về sinh vật kỳ lạ nhất và đẹp đẽ nhất từng thấy trên đời kia. Đó là vương trượng của bà ấy, cây gậy quyền lực mà tôi thấy bà ấy chào đón Thần Bóng Tối trong Đền Thờ, và là món quà bà ấy dành cho tôi.
Nó cũng có đức hạnh; một phần sức mạnh của Ayesha ám ảnh biểu tượng này khiến cả các linh hồn cũng phải cúi đầu, nhưng nếu ngài muốn khám phá chúng, hãy thận trọng với cách sử dung chúng.
Tôi cũng không còn sức mạnh và ý chí để viết thêm. Bản ghi chép sẽ tự nó nói lên tất cả. Hãy dùng nó vào việc ngài muốn, hãy tin nó hoặc không tùy ngài. Tôi không quan tâm ai biết nó có phải là thật hay không.
Ayesha là ai, là gì, không, Ayesha là cái gì thế? Một tinh chất nhập thế, một linh hồn của Tự Nhiên được vật chất hóa không thể tiên đoán được, một người xinh đẹp, một kẻ độc ác và bất tử; mang tâm hồn cô độc, chỉ có thể được cứu vớt nhờ Nhân Loại và sự hy sinh đáng thương của họ ư? Ngài nói xem! Tôi đã suy đoán người tới giải đáp những bí ẩn này.
Tôi chúc ngài hạnh phúc và may mắn. Tạm biệt ngài và tất cả.
L. Horace Holly”
Tôi đặt bức thư xuống, tràn đầy thứ cảm xúc mà tôi thật vô dụng nếu cố phân tích hay mô tả nó, rồi mở phong thư thứ hai, tôi cũng sẽ in nội dung của nó ra đây, chỉ bỏ qua một số phần không liên quan, như tên của người viết, với lưu ý rằng ông ấy yêu cầu tôi làm vậy.
Bức thư này đề tên một nơi xa xôi trên bờ biển Cumberland như sau:
“Kính thưa ngài – là bác sĩ chăm sóc ngài Holly trong cơn bạo bệnh cuối cùng, tôi có nghĩa vụ tuân thủ lời hứa của tôi với ngài ấy, làm trung gian trong một vụ kinh doanh kì lạ, dù sự thật tôi biết rất ít về nó, nhưng nó rất lôi cuốn tôi. Với hiểu biết nghiêm túc của mình, tôi cũng vẫn chỉ yêu cầu duy nhất rằng không được đề cập tên tôi trong chuyện này, hay địa phương tôi đang thực tập làm việc.
Khoảng mười ngày trước tôi được gọi tới gặp ngài Holly trong một căn nhà cổ vùng Vách Đá vốn để không nhiều năm, ngoại trừ những người chăm sóc, căn nhà là tài sản của ngài ấy và họ đã ở trong gia đình ngài qua nhiều thế hệ. Người quản gia đi gọi tôi đã nói với tôi, chủ nhân của bà vừa trở về từ nước ngoài, một nơi nào đó ở Châu Á, bà ta bảo ngài ấy bị đau tim – sắp chết, bà ấy tin là như vậy; cả hai giả thuyết đều được chứng minh là chính xác.
Tôi thấy bệnh nhân đang ngồi trên giường (để tim dễ chịu hơn), là một ông già trông kỳ dị. Ngài ấy có đôi mắt đen, nhỏ nhưng đầy lửa và rất thông minh, bộ râu trắng như tuyết tuyệt đẹp che phủ lồng ngực rộng phi thường, mái tóc cũng trắng, liếm lên trán và mặt nhiều tới mức có thể thấy râu trên hai má. Đôi tay đặc biệt dài và khỏe, dù một tay dường như bị động vật xé nát. Ngài ấy nói với tôi rằng một con chó đã gây ra chuyện này, nhưng nếu vậy, hẳn phải là một con chó có sức mạnh khác thường. Ngài ấy rất xấu xí, hãy tha thứ nếu tôi bịa đặt. Tôi không thể miêu tả những gì tôi muốn nói tốt hơn nên đành viết thế này, gương mặt ngài ấy không giống bất kỳ xác chết bình thường nào tôi từng thấy trong kinh nghiệm hữu hạn của mình. Nếu tôi là một nghệ sĩ khao khát khắc họa một linh hồn thông thái sáng suốt và nhân từ, nhưng kì dị, tôi sẽ lấy ngay gương mặt đó làm mẫu.
Ngài Holly hơi phật lòng khi tôi được gọi tới, có lẽ việc này ngài ấy không biết. Ngay sau đó chúng tôi trở nên khá thân thiện, nhưng ngài ấy bày tỏ lòng biết ơn với sự giúp đỡ mà tôi có thể mang tới, dù tôi không hy vọng làm được gì nhiều hơn. Mỗi lần gặp, ngài ấy lại nói về những điều tốt đẹp ở những đất nước ngài ấy từng đi qua, rõ ràng trong rất nhiều năm, một cuộc phiêu lưu kỳ lạ mà ngài ấy chưa bao giờ nói rõ ràng với tôi. Hai lần trong lúc mê sảng, ngài ấy nói bằng những ngôn ngữ tôi cho rằng giống như tiếng Hy Lạp và Ả Rập; đôi khi cả tiếng Anh nữa, ngài ấy dường như tự nói với một con người là đối tượng ngài ấy kính trọng, tôi cho rằng có lẽ gần như là tôn thờ. Tuy nhiên những gì ngài ấy nói tôi không thích nhắc lại, vì tôi chỉ nghe được trong khả năng chuyên môn.
Một ngày, ngài ấy chỉ vào một cái hộp thô làm bằng loại gỗ ngoại (chính là thứ giờ tôi chuyển tới cho ngài bằng xe lửa theo bổn phận), đưa cho tôi tên và địa chỉ của ngài, rồi nói rằng, nếu không có gì sai sót, hãy chuyển cho ngài sau khi ngài ấy chết. Ngài ấy cũng yêu cầu tôi cầm một tập bản thảo, giống với cái hộp, cũng gửi cho ngài.
Ngài ấy thấy tôi đang nhìn những tờ giấy cuối cùng bị đốt gần xong, thì nói (Tôi ghi lại chính xác từng từ):
‘Phải, phải, giờ điều đó chả thể giúp gì được, nó phải ra đi thôi như nó vốn dĩ phải thế. Ngài thấy đấy cuối cùng tôi đã quyết tâm phá hủy nó, nó đã nằm trong đống lửa khi mệnh lệnh tới – mệnh lệnh rõ ràng, không thể phạm sai lầm – và tôi chộp lấy nó lần nữa.’
‘Mệnh lệnh’ ngài Holly muốn nói là gì, tôi không biết, vì ngài ấy không muốn nói về chuyện này nữa.
Tôi kể lại cảnh cuối. Một đêm khoảng mười một giờ, biết rằng giờ phút kết thúc của bệnh nhân sắp tới, tôi đi lên xem ngài ấy, cho rằng tiêm thêm một chút strychnine có thể giữ tim đập lâu hơn chút nữa. Trước khi tới căn nhà, tôi gặp người chăm sóc chạy tới tìm tôi trong kinh hoàng tột độ, tôi hỏi chủ nhân của bà đã qua đời hay chưa. Bà ấy trả lời Không; nhưng ngài ấy đã ra đi – rời khỏi giường và có lẽ đi chân đất, ngài ấy rời khỏi ngôi nhà, lần cuối cùng được trông thấy bởi cháu trai bà ấy trong đám thông Scotland nơi chúng tôi đang nói chuyện. Cậu bé phát hoảng vì sự dí dỏm của ngài ấy vì cho rằng mình đang thấy một con ma, đã kể lại với bà ấy như vậy.
Đêm đó ánh trăng rất sáng, đặc biệt tuyết vừa rơi xuống, phản xạ ánh sáng của trăng. Tôi đi bộ và bắt đầu tìm kiếm trong rừng thông, tận tới khi ra khỏi đám thông, tôi mới thấy vết chân trần trên tuyết. Tất nhiên tôi đi theo, gọi cả người quản gia tới và đánh thức chồng bà ấy, vì không còn ai sống gần đó. Dấu vết rất dễ lần theo trên tuyết sạch. Nó chạy tới sườn ngọn đồi sau nhà.
Giờ trên đỉnh đồi này là một di tích cổ xưa bằng tảng đá nguyên khối thẳng đứng người nguyên thủy đặt ở đó, dân địa phương gọi là Chiếc Nhẫn của Quỉ - một dạng Stonehenge thu nhỏ trong thực tế. Tôi từng thấy nó vài lần, tôi từng hiện diện ở đó không lâu trước đây trong buổi họp của một nhóm các nhà khảo cổ học tranh luận về nguồn gốc và mục đích của nó. Tôi nhớ có một quí ông uyên bác nhưng hơi lập dị đã đọc một bài viết ngắn nói về ngực bị che lại thô sơ, đầu bị cắt thành căn buồng bằng đá cromlech cao và đỉnh bằng phẳng, hay một ngôi mộ đá đứng một mình giữa tâm chiếc nhẫn.
Ông ta nói nó biểu trưng cho nữ thần Ai Cập Isis, nơi này từng là nơi thiêng liêng vài nghi lễ thờ phụng nữ thần diễn ra, hoặc một nữ thần Tự Nhiên nào đó có những tính chất tương tự, giả thuyết đó các quí ngài uyên bác khác đều coi là phi lý. Họ cho rằng thần Isis không bao giờ đặt chân tới nước Anh, dù theo quan điểm của tôi, tôi không biết tại sao người Phoenicia hay thậm chí người La Mã – những người ít nhiều đã chấp nhận cúng bái nữ thần này – lại không thể mang nó tới đây chứ. Nhưng tôi không biết gì về những chuyện thế này và không tranh luận với họ.
Tôi cũng nhớ rằng ngài Holly đã quen với nơi này, vì ngài ấy từng đề cập về nó với tôi hôm trước, khi hỏi liệu các tảng đá vẫn không thay đổi gì giống thời ngài ấy còn trẻ chứ. Ngài ấy cũng nói thêm, câu nói đó đập vào làm tôi thức tỉnh, đó là nơi ngài ấy muốn chết. Khi đó tôi đã trả lời rằng, tôi e ngài ấy không bao giờ có thể đi bộ lại một đoạn xa như thế nữa, tôi thấy ngài ấy hơi mỉm cười.
Phải, đoạn đối thoại đó cho tôi một manh mối, không bị bối rối với những dấu chân nữa, tôi nhanh chóng tới Chiếc Nhẫn, cách khoảng nửa dặm. Rồi tôi cũng tới được nơi đó, và ở đó – phải, ở đó – đứng bên ngôi mộ, đầu trần, chỉ mặc đồ ngủ, ngài Holly đứng trong tuyết, thân hình kỳ dị nhất mà tôi từng thấy.
Quả thực tôi sẽ không bao giờ quên được khung cảnh hoang dại ấy. Chiếc vòng của những tảng đá đơn thô kệch chỉ thẳng lên trời đầy sao, một vẻ cô độc và long trọng mãnh liệt: kiến trúc đá tảng hai khối trilithon cao lớn vượt hẳn trên chúng ở tâm chiếc vòng, bóng của nó bị ánh trăng sáng ném ra phía sau, nằm trải dài và đen ngòm trên tràng tuyết rực rỡ, cái bóng rõ ràng tới mức tôi có thể phân biệt được từng chuyển động của ngài ấy, thậm chí cả cái nhìn say mê trên gương mặt như sắp chết của ngài ấy, thân hình khoác bộ đồ trắng của ngài Holly. Ngài ấy dường như thốt ra lời gọi – bằng tiếng Ả Rập, tôi nghĩ vậy – một lúc lâu sau tôi tới được chỗ ngài ấy, lúc đó mới có thể bắt được đủ âm tiết của tiếng gọi vang vọng kia, rồi thấy ngài ấy giang tay vẫy vẫy. Tay phải ngài ấy giữ thanh vương trượng xoay vòng, biểu đạt mong muốn tôi gửi cho ngài những bản vẽ. Tôi có thể thấy ánh sáng đồ trang sức lóe lên căng ra trên những sợi dây, trong im lặng vô cùng, có thể nghe thấy tiếng leng keng của những chiếc chuông vàng.
Tôi dường như cũng nhận ra một sự hiện diện khác, ngài sẽ hiểu tại sao tôi mong muốn và đòi hỏi danh tính bản thân phải bị che dấu. Đương nhiên tôi không muốn bị trộn lẫn vào một câu chuyện mê tín, mà bề ngoài của nó có vẻ không thể xảy ra và rất phi lý. Dưới hoàn cảnh đó, tôi nghĩ tốt nhất nên kể cho ngài những gì tôi đã thấy, hay nghĩ rằng tôi đã thấy, có thứ gì đó tụ lại trong bóng tối ngôi mộ trung tâm, hay hiện ra từ căn buồng thô sơ kia – tôi không chắc chắn – một thứ gì đó tươi sáng và lộng lẫy từ từ hình thành thân ảnh một phụ nữ trên trán bùng lên ngọn lửa như vì sao.
Do tầm nhìn hay phản xạ, hay bất kì cách gì, nó làm tôi giật mình đến độ tôi đi tới chỗ nghỉ chân tránh gió của một trong những tảng đá nguyên khối, tự thấy bản thân không thể cất tiếng gọi được cho người đàn ông quẫn trí tôi đang đuổi theo.
Trong khi tôi đứng đó, rõ ràng ngài Holly cũng đã nhìn thấy thứ gì đó. Cuối cùng ngài ấy quay người hướng về vầng hào quang sáng chói trong bóng tối, thốt ra tiếng kêu; một tiếng kêu vui vẻ điên dại, và bước về phía trước; rồi dường như nó rơi trên mặt ngài ấy.
Khi tôi tới chỗ ánh sáng vừa biến mất, tất cả những gì tôi thấy là ngài Holly, cánh tay vẫn giang rộng, cây vương trượng vẫn bị nắm chặt trong tay, nằm chết trong bóng tối của khối kiến trúc đá trilithon.”
Phần còn lại trong bức thư của vị bác sĩ không cần được trích dẫn vì chỉ liên quan tới vài giải thích chắc chắn không thể tin được về nguồn gốc thân ảnh tạo ra từ ánh sáng đó, các chi tiết về cơ thể của Holly, và ông ta làm thế nào đáp ứng thỏa mãn nhân viên pháp lý để không cần thêm cuộc điều tra nào nữa.
Chiếc hộp ông ấy nói tới đã đến nơi an toàn. Những bản vẽ bản thân chúng, tôi không cần nói gì, chiếc trống hay cây vương trượng thì tôi có vài lời. Nó được tạo dáng tinh thể với hình dạng nổi tiếng của Crux-ansata (cây thập giá chìa khóa), hay biểu tượng sự sống của người Ai Cập; cây gậy, chữ thập và vòng dây kết hợp làm một. Xuyên từ bên này qua bên kia vòng dây là những sợi dây vàng, trên dây xâu các hạt ba màu, kim cương lấp lánh, sapphire xanh nước biển và ruby đỏ như máu, sợi thứ tư trên đỉnh treo bốn cái chuông vàng nhỏ.
Khi lần đầu tiên nắm lấy nó, bàn tay tôi lắc nhẹ phấn kích, những chiếc chuông phát ra âm thanh như tiếng nhạc êm đềm ngọt ngào nghe như hợp âm vang xa trong đêm yên lặng trên biển cả. Tôi cũng nghĩ có lẽ do ưa thích, như cảm giác run rẩy truyền từ một thứ thiêng liêng đẹp đẽ vào cơ thể tôi.
Về phép màu được ghi trong bản thảo, tôi không bình luận. Mỗi độc giả có thể tự phán xét về nó và ý nghĩa bên trong của nó. Điều duy nhất rõ ràng với tôi – giả sử ngài Holly nói thật về những gì ngài ấy và Leo Vincey thấy và trải nghiệm, ít ra tôi tin vậy – dù mọi cách hiểu về phép màu nhiệm này đã được Ayesha và những người khác đưa ra, nhưng không có cách nào hoàn toàn thỏa mãn đầy đủ.
Quả thực giống như ngài Holly, tôi nghiêng về giả thuyết Bà ấy – nếu tôi vẫn có thể gọi nàng bằng tên đó dù những trang tiếp theo hiếm khi đưa cho nàng tên gọi đó – đưa ra, chẳng hạn như huyền thoại về nữ thần Isis mơ hồ, câu chuyện bằng tranh kỳ diệu về vụ cháy rừng, giống như tấm mạng che mặt dấu đi sự thật về mục đích của nàng cuối cùng cũng hé lộ trong bài hát nàng chưa bao giờ cất lên.
Biên Tập Viên

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - bản dịch tiếng Việt của SHE (H.R. Haggard)



Dịch từ tác phẩm gốc:
SHE: A HISTORY OF ADVENTURE
Người dịch: Cheryl Pham
Việt Nam, tháng 5 - 2015

H. Rider Haggard

Henry Rider Haggard (1856-1925) – Tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng với các tác phẩm phiêu lưu lãng mạn liên quan đến Nam Phi. She (1897) – là tác phẩm thành công nhất của Haggard, kể về cuộc hành trình đầy ấn tượng của Horace Holly và người ông bảo trợ Leo Vincey khi họ đi tìm kiếm nữ hoàng da trắng và Ngọn Lửa của Sự Sống. Những thứ đó liên quan đến họ qua những bản văn tự Hy Lạp cổ kể về lịch sử gia đình Vincey, đồng thời cũng mang theo lời kêu gọi con cháu của Kallikrates trả thù kẻ đã giết ông ta.

Free download tại đây:

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 28



CHƯƠNG 28

Vượt qua Dãy Núi
Việc tôi hồi tưởng lại kế tiếp là cảm giác đông cứng kinh khủng nhất, một loại ý tưởng mơ hồ trôi qua bộ não đang nửa thức nửa tỉnh khi cho mình là một tấm thảm vừa bị đánh đập. Tôi mở mắt, thứ đầu tiên rơi xuống là gương mặt đáng kính của người bạn già Billali, đang ngồi bên cạnh chiếc giường mới được tạo ra tôi đang nằm trên đó, trầm ngâm vuốt bộ râu dài. Hình ảnh của ông ta ngay lập tức khiến đầu óc tôi hồi tưởng lại tất cả những gì chúng tôi vừa trải qua, đặc biệt dáng vẻ Leo khốn khổ nằm đối diện tôi, gương mặt đông lại như thạch, những lọn tóc đẹp đẽ từ vàng biến thành trắng xóa, [*] tôi lại nhắm mắt lại và rên rỉ.
[*] Thật tò mò, mái tóc của Leo gần đây đã lấy lại được màu sắc ban đầu ở mức độ nào đó – phải nói là, giờ nó có màu xám vàng, và tôi không phải không hy vọng tới lúc nó sẽ hoàn toàn quay về màu gốc. – L.H.H.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, Khỉ Đầu Chó của ta,” ông già Billali nói.
“Bao lâu rồi, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Một vòng mặt trời và một vòng mặt trăng, ngươi đã ngủ một ngày một đêm, con Sư Tử cũng vậy. Nhìn kìa, hắn vẫn còn ngủ.”
“Ngủ là phước lành,” Tôi trả lời, “vì nó sẽ nuốt hết mọi hồi ức.”
“Hãy nói cho ta,” ông ấy nói, “chuyện gì đã xảy ra với các ngươi, chuyện kỳ lạ về cái chết của Bà ấy - người không thể chết, là thế nào. Ngươi hãy nghĩ mà xem, con trai của ta: nếu chuyện này là thật, thì nguy hiểm của ngươi và nguy hiểm của con Sư Tử là rất lớn – không, gần như các ngươi sẽ phải đội chậu nung nóng, dạ dày các ngươi sẽ bị những kẻ đói khát kia ăn như thú vật. Ngươi không biết người Amahagger, các con của ta, những cư dân của hang động, rất căm ghét các ngươi ư? Chúng ghét các ngươi vì các ngươi là người lạ, chúng ghét các ngươi hơn nữa vì đám anh em chúng bị Bà ấy tra tấn vì quyền lợi của các ngươi. Chắc chắn nếu một khi chúng biết được không có gì phải sợ Hiya, người kinh khủng mà chúng ta phải tuân lệnh, chúng sẽ giết các ngươi bằng cái chậu. Nhưng hãy kể ta nghe câu chuyện của ngươi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta.”
Được khích lệ, tôi bắt đầu kể cho ông ấy – không phải tất cả, quả thực, vì tôi không nghĩ nó đáng để làm vậy, như đủ cho mục đích của tôi, đó là khiến ông ta hiểu Bà ấy thực sự không còn nữa, đã rơi vào ngọn lửa, và bị thiêu cháy - vì sự thật có thể khiến ông ấy khó hiểu. Tôi cũng kể vài cảnh rùng rợn chúng tôi đã vượt qua khi trốn thoát, để tăng ấn tượng tốt với ông ấy. Nhưng rõ ràng tôi thấy ông ấy không tin khi nghe nói về cái chết của Ayesha. Thực ra ông ta tin rằng chúng tôi nghĩ bà ấy đã chết, nhưng ông ấy cho là sẽ phù hợp hơn khi nói, bà ấy sẽ biến mất một thời gian. Ông ta bảo, trong thời của cha ông ta, có một lần bà ấy cũng làm vậy khi biến mất suốt mười hai năm, còn có một truyền thuyết ở đất nước này kể rằng, nhiều thế kỷ trước không ai từng nhìn thấy bà ấy suốt một thế hệ, sau đó bà ấy đột ngột xuất hiện lại, tiêu diệt người phụ nữ đang đảm nhiệm vị trí Nữ Hoàng. Tôi không nói gì về điều này, mà chỉ gật đầu buồn bã. Than ôi! Tôi biết quá rõ rằng Ayesha sẽ không thể xuất hiện nữa, hay Billali có thể không bao giờ gặp lại bà ấy.
“Còn bây giờ,” Billali kết luận, “ngươi muốn làm gì, Khỉ Đầu Chó của ta?”
“Không,” Tôi nói, “Tôi không biết, thưa cha. Chúng tôi có thể trốn thoát khỏi đất nước này sao?”
Ông ấy gật đầu.
“Rất khó. Vì ngươi không thể vượt qua Kôr, như ngươi đã thấy đấy, ngay khi những kẻ tàn bạo kia thấy các ngươi một mình, thế là xong,” ông ta cười và làm hành động như thể ông ta đang bị đặt chậu nung nóng trên đầu. “Nhưng có một con đường trên vách núi ta từng nói với ngươi, nơi họ lùa gia súc ra ngoài đồng cỏ. Ra khỏi đồng cỏ là hành trình ba ngày xuyên qua đầm lầy, sau đó ta không biết, nhưng ta nghe nói hành trình bẩy ngày từ đó sẽ tới một con sông hùng vĩ chảy ra vùng nước đen. Nếu các ngươi có thể tới đó, không chừng có thể trốn thoát, nhưng ngươi có thể tới đó bằng cách nào đây?”
“Billali,” Tôi nói, “ngài biết đấy, tôi từng cứu mạng ngài một lần. Giờ hãy trả lại món nợ này, thưa cha, xin hãy cứu tôi và bạn tôi, con Sư Tử. Đó sẽ là một việc khiến ngài hài lòng nghĩ tới khi giờ khắc của ngài đến, một việc có qui mô chống lại cái ác trong những năm tháng của ngài, nếu ngài đã từng làm điều ác. Nếu ngài đúng, nếu Bà ấy chỉ tự dấu mình đi thôi, chắc chắn khi bà ấy quay lại sẽ thưởng cho ngài.”
“Con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông già trả lời, “đừng nghĩ ta có trái tim vô ơn. Ta vẫn nhớ ngươi đã cứu ta khi lũ chó kia đứng đó nhìn ta chết đuối. Đo đi đo lại ta sẽ cho ngươi, nếu các ngươi có thể cứu được, chắc chắn ta sẽ cứu các ngươi. Nghe đây: bình minh ngày mai hãy chuẩn bị, vì các cái ổ sẽ ở đây để mang các ngươi qua rặng núi, qua đầm lầy. Ta sẽ làm điều này, sẽ nói rằng theo lời của Bà ấy, các ngươi không tuân lệnh Bà ấy, nên các ngươi sẽ làm thức ăn cho linh cẩu. Sau đó khi đã vượt qua đầm lầy, các ngươi phải tự chiến đấu, không chừng, nếu vận số tốt, các ngươi sẽ sống sót đi tới vùng nước đen ta đã nói cho ngươi. Còn bây giờ, nhìn xem, con Sư Tử đã tỉnh dậy rồi, các ngươi phải ăn thức ăn ta đã làm sẵn cho các ngươi.”
Tình trạng của Leo khi tỉnh dậy cho thấy không quá tệ như dự đoán từ vẻ bề ngoài của cậu, cả hai chúng tôi cố ăn hết bữa ăn thịnh soạn, thực ra chúng tôi nên buồn bã. Sau khi xuống suối tắm rửa, chúng tôi trở lại và ngủ tiếp tới tận sáng, lúc đó chúng tôi ăn một lần nữa đủ cho năm người. Billali hôm đó hoàn toàn biến mất, không nghi ngờ, ông ấy đang thu xếp ổ và người khiêng, vì chúng tôi bị đánh thức giữa đêm khi có một số đáng kể đàn ông tới cái trại nhỏ này.
Lúc bình minh ông già xuất hiện, nói với chúng tôi ông ấy đã dùng danh nghĩa đáng sợ của Bà ấy, khó khăn một chút, nhưng thành công mang những người cần thiết và hai người dẫn đường đưa chúng tôi qua đầm lầy, ông ấy nhấn mạnh chúng tôi phải khởi hành ngay, đồng thời thông báo dự định đi cùng chúng tôi để bảo vệ chúng tôi trước sự phản bội. Tôi vô cùng cảm động trước hành động tốt bụng của ông già man rợ ranh mãnh với hai người hoàn toàn xa lạ không có khả năng tự vệ. Hành trình ba ngày – đối với ông ấy mất sáu ngày vì còn phải quay lại – xuyên qua khu đầm lầy chết chóc không hề hứa hẹn chút ánh sáng nào với người ở tuổi của ông ấy, nhưng ông ấy đồng ý làm điều đó một cách vui vẻ để tăng an toàn cho chúng tôi. Điều đó cho thấy trong đám người Amahagger đáng sợ kia – những kẻ chắc chắn rất tăm tối cùng những nghi thức quỉ quái kinh khủng vượt xa đám người hoang dã gớm ghiếc nhất tôi từng nghe nói – vẫn có những người có lòng tốt. Tất nhiên, lợi ích cá nhân có lẽ cũng là thứ đi kèm. Ông ta có thể cho rằng Bà ấy đột nhiên tái xuất hiện và yêu cầu tin tức về chúng tôi từ tay ông ấy, nhưng cho dù có đủ loại khấu trừ, cũng quá thuận lợi hơn nhiều lần chúng tôi dự tính trong hoàn cảnh này, tôi chỉ có thể nói, chừng nào còn sống, tôi sẽ vẫn trân trọng ghi nhớ bằng tình cảm trìu mến nhất dành cho người cha danh nghĩa của tôi, ông già Billali.
Sau khi ăn xong chút thức ăn, chúng tôi khởi hành trên những chiếc ổ, cảm thấy thể xác đã đi một đoạn xa đến vậy, kỳ lạ như bản thể già nua của chính mình sau một lần nghỉ ngơi và một giấc ngủ dài. Tôi phải bỏ tình trạng đầu óc hiện tại lại cho trí tưởng tượng.
Rồi tới hành trình leo lên vách đá khủng khiếp. Thi thoảng việc đi lên tự nhiên hơn, nó thường là đường cắt hình zig-zag, chắc chắn được làm ra đầu tiên bởi các cư dân xa xưa của Kôr. Người Amahagger nói họ chăn đàn gia súc qua đây một lần mỗi năm ngoài đồng cỏ; những gì tôi biết thì đám gia súc đó phải hoạt động bằng chân không thường xuyên lắm. Tất nhiên lúc này những cái ổ đều vô dụng, chúng tôi phải đi bộ.
Nhưng đến trưa, chúng tôi đã tới đỉnh bằng phẳng hùng vĩ của bức tường đá sừng sững, đủ lớn để nhìn toàn cảnh với đồng bằng Kôr từ đó, giữa trung tâm chúng tôi có thể thấy rõ đám phế tích đầy cột trụ của Đền Thờ Sự Thật một bên, còn đầm lầy u sầu vô biên bên kia. Bức tường đá này chắc chắn từng tạo thành miệng núi lửa, dày khoảng một dặm rưỡi, vẫn phủ đầy xỉ clinker. Không gì mọc nổi nơi này, thứ duy nhất làm dịu mắt chúng tôi là các hồ nước mưa thường xuyên (vì sau đó mưa rơi xuống) được đào sâu vào một chút. Chúng tôi đi trên đỉnh bằng phẳng của thành lũy hùng vĩ này, rồi tới đoạn đi xuống, không quá khó khăn như đi lên, nhưng vẫn dễ gẫy cổ, tới khi hoàng hôn. Tuy vậy đêm đó chúng tôi cắm trại an toàn trên sườn núi hùng vĩ cuộn ra chỗ các đầm lầy bên dưới.
Sáng hôm sau, khoảng mười một giờ, hành trình đáng sợ của chúng tôi lại bắt đầu, đi qua biển đầm lầy ghê sợ mà tôi đã mô tả.
Suốt ba ngày, hôi thối và bùn đất, hương vị sợ hãi thường trực, khiến đám người khiêng chúng tôi phải đấu tranh cùng, tới khi chúng tôi tới một mảnh đất khá hoang hóa, hầu hết không có cây cối, nhưng địa hạt này đầy các loài nằm ngoài ranh giới loài hiếm nhất, không hướng dẫn thì hoàn toàn không thể giao lưu được. Sáng hôm sau chúng tôi chào tạm biệt ông già Billali ở đó, không phải không có chút tiếc nuối, ông vuốt bộ râu trắng và long trọng ban phước cho chúng tôi.
“Tạm biệt, con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông ấy nói, “tạm biệt ngươi nữa, ôi con Sư Tử. Ta không thể làm gì hơn nữa để giúp các ngươi. Nhưng nếu các ngươi trở về tới đất nước mình, ta khuyên, đừng mạo hiểm tới những vùng đất các ngươi không biết nữa, các ngươi sẽ không trở về được nữa đâu, ngoài bỏ đống xương trắng của các ngươi lại đánh dấu giới hạn hành trình của các ngươi. Tạm biệt một lần nữa; ta sẽ thường xuyên nghĩ về ngươi, ngươi đừng quên ta, Khỉ Đầu Chó của ta, dù gương mặt ngươi xấu xí nhưng trái tim ngươi chân thật.” Rồi ông ấy quay đi và trở về, đi cùng với ông ấy là những người khiêng ổ cao lớn ủ rũ, đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy người Amahagger. Chúng tôi nhìn họ đi mất như gió cuốn với những cái ổ trống trơn như một đám rước khiêng người chết khỏi cuộc chiến, tới khi sương mù của đầm lầy bao quanh và che mất họ, bỏ lại hoang vu tuyệt đối nơi hoang dã mênh mông này, chúng tôi quay lại nhìn quanh, rồi nhìn nhau.
Ba tuần trước, bốn người đàn ông bước vào khu đầm lầy Kôr, giờ hai người đã chết, còn hai người trải qua những phiêu lưu và kinh nghiệm kỳ lạ kinh khủng tới mức cái chết của họ cũng không đáng sợ hơn thế. Ba tuần – chỉ ba tuần! Thời gian thực sự đo bằng sự kiện, chứ không phải từng quãng đồng hồ. Như đã ba mươi năm rồi kể từ khi chúng tôi nhìn thấy lần cuối chiếc thuyền cá voi.
“Chúng ta phải tìm cách tới Zambesi, Leo,” Tôi nói, “nhưng Chúa mới biết chúng ta có thể tới đó được không.”
Leo gật đầu. Sau đó cậu trở nên rất yên lặng, chúng tôi bắt đầu với không gì ngoài quần áo đang mặc, một chiếc la bàn, súng lục và súng trường, khoảng hai trăm viên đạn, và thế là kết thúc câu chuyện về chuyến viếng thăm của chúng tôi tới khu tàn tích cổ đại của đế chế Kôr hùng mạnh.
Với những cuộc phiêu lưu xảy ra sau này của chúng tôi, chúng rất kỳ lạ và phong phú, sau khi bàn luận, tôi đã quyết định không ghi lại chúng ở đây. Trong những trang này, tôi chỉ cố đưa ra thông tin ngắn gọn và rõ ràng về một sự xuất hiện mà tôi tin rằng chưa từng có, và tôi làm thế không phải để xuất bản ngay lập tức, mà chỉ đưa lên giấy khi chúng còn tươi mới trong kí ức của chúng tôi tới từng chi tiết và kết quả, tôi tin có thể chứng minh thế giới thật thú vị nếu chúng tôi quyết định công khai chúng. Hiện tại, theo tư vấn, chuyện này chúng tôi không định làm khi vẫn còn chung sống.
Phần còn lại, không hề có lợi ích với cộng đồng, giống như trải nghiệm của nhiều khách du lịch tới Trung Phi thôi. Chỉ muốn nói, sau những khó khăn và thiếu thốn đáng kinh ngạc, chúng tôi đã tới Zambesi, cách nơi Billali để chúng tôi lại khoảng 170 dặm về phía nam. Chúng tôi bị giam ở đó khoảng sáu tháng bởi một bộ lạc hoang dã, họ tin rằng chúng tôi là các sinh vật siêu nhiên, chính vì gương mặt trẻ trung và mái tóc trắng như tuyết của Leo. Chúng tôi cuối cùng cũng trốn thoát khỏi tộc người đó, tới Zambesi, lang thang xuống phía nam đúng vào thời điểm nạn đói, chúng tôi đủ may mắn khi rơi vào tay một kẻ săn voi người Bồ Đào Nha cùng một đội quân voi đi theo sau trên địa bàn xa hơn nơi anh ta từng đi trước đây. Người này đối xử với chúng tôi vô cùng mến khách, cuối cùng với sự trợ giúp của anh ta, chúng tôi – sau vô số những đau đớn và phiêu lưu, đã tới Vịnh Delagoa, hơn mười tám tháng kể từ lúc chúng tôi xuất hiện ở đầm lầy Kôr, ngày tiếp theo, chúng tôi thành công bắt một chuyến tàu hơi nước vòng quanh Mũi Hảo Vọng về nước Anh. Hành trình về nhà của chúng tôi rất thuận lợi, chúng tôi đặt chân lên cảng Southampton chính xác hai năm sau kể từ ngày khởi hành chuyến săn lùng hoang dã và dường như rất vô lý đó, bây giờ tôi viết những dòng cuối này khi Leo đang ngả trên vai tôi trong căn phòng cũ tại trường đại học, giống như hai mươi hai năm trước, ông bạn Vincey khốn khổ của tôi loạng choạng tới vào buổi tối đáng nhớ mà anh ấy đã qua đời, mang cái hộp sắt theo cùng anh ấy.
Thế là câu chuyện đã kết thúc, nó liên quan tới khoa học và thế giới bên ngoài nhiều hơn. Kết cục liên quan đến Leo và tôi nhiều hơn tôi đoán. Nhưng chúng tôi cảm thấy chuyện này chưa dừng lại. Một câu chuyện bắt đầu từ hơn hai nghìn năm trước có thể sẽ kéo dài trong tương lai xa xôi mờ mịt.
Leo thực sự là hóa thân của Kallikrates cổ xưa mà bản văn tự nói tới ư? Hay Ayesha đã bị đánh lừa do sự giống nhau kì lạ về mặt di truyền? Độc giả nên có quan điểm của riêng mình về vấn đề như thế này. Tôi có quan điểm của tôi, rằng bà ấy không nhầm lẫn như vậy.
Tôi thường ngồi một mình trong đêm, đôi mắt suy tư nhìn chằm chằm vào bóng đen của thời khắc chưa được sinh ra, tự hỏi vở kịch lớn này cuối cùng sẽ được phát triển dưới hình dạng và cách thức nào, phân cảnh cho hành động tiếp theo sẽ nằm ở đâu. Và khi đoạn cuối cùng diễn ra, tôi chắc chắn nó phải diễn ra, tuân theo định mệnh chưa bao giờ chệch hướng và mục đích không thể thay đổi, khi đó Amenartas xinh đẹp người Ai Cập - Công Chúa mang dòng máu hoàng gia của các Pharaoh, vì yêu bà ấy Linh mục Kallikrates đã phá vỡ lời thề với thần Isis, và bị sự trả thù không lay chuyển được của Nữ Thần phẫn nộ theo đuổi, chạy trốn xuống bờ biển Libya để gặp ngày tận số của ông ấy ở Kôr – bà ấy sẽ đóng vai gì?
-          Kết thúc –

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham