Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 10



CHƯƠNG 10

Suy đoán
Trong vòng một giờ đưa ra quyết định cuối cùng, năm chiếc ổ vải đã được mang tới cửa hang, mỗi cái kèm theo bốn người khiêng và hai người thay thế, cùng một đội vũ trang khoảng năm mươi người Amahagger tạo thành đoàn hộ tống và vác hành lý. Ba trong số những cái ổ tất nhiên là dành cho chúng tôi, một cái cho Billali, người tôi vô cùng dễ chịu khi lắng nghe ông ấy, bạn đồng hành của chúng tôi, còn cái thứ năm tôi đoán là dành cho Ustane.
“Người phụ nữ kia sẽ đi cùng chúng ta phải không, thưa cha?” Tôi hỏi Billali khi ông ta đang đứng trông nom các thứ.
Ông ấy nhún vai và trả lời,
“Nếu cô ta muốn. Ở đất nước này phụ nữ làm những gì họ muốn. Chúng tôi sùng kính họ và để họ làm theo ý họ, vì không có họ thế giới sẽ không thể tiếp diễn; họ là nguồn gốc của sự sống.”
“À ra vậy,” Tôi nói, vấn đề này trước đây chưa bao giờ lôi cuốn tôi theo cách sáng lạn thế này.
“Chúng tôi sùng kính họ,” ông ta tiếp tục, “tới mức cuối cùng họ trở nên không thể chịu nổi, điều đó thường xảy ra ở mỗi thế hệ sau.”
“Thế khi đó cha làm gì?” Tôi tò mò hỏi.
Ông ta trả lời cùng nụ cười nhạt, “Thì chúng ta nổi dậy, giết những người già làm gương cho những người trẻ, để cho họ thấy chúng ta mới là kẻ mạnh nhất. Bà vợ khốn khổ của ta đã bị giết như vậy ba năm trước. Rất đáng buồn, nhưng điều đó nói với ta sự thật, con trai, cuộc sống đã hạnh phúc hơn kể từ đó, vì tuổi tác đã bảo vệ ta khỏi những người phụ nữ trẻ.”
“Nói ngắn gọn,” Tôi đáp, trích dẫn câu nói của một người vĩ đại mà trí tuệ khôn ngoan của người đó vẫn chưa thắp sáng được bóng tối ở Amahagger, “ngài thấy vị trí của ngài tự do hơn và ít trách nhiệm hơn.”
Câu này thoạt tiên làm ông ấy bối rối một chút vì không rõ ràng, dù tôi nghĩ tôi đã dịch rất trúng ý nghĩa gốc, nhưng cuối cùng ông ta cũng hiểu và đánh giá cao.
“Phải, phải đấy, Khỉ Đầu Chó à,” ông nói, “giờ ta đã hiểu câu đó, nhưng mọi trách nhiệm đều đã bị triệt tiêu, hầu như đa phần là vậy, đó là tại sao giờ đây có ít phụ nữ cao tuổi như vậy. Họ tự làm cho họ thành như thế. Như với cô gái này,” ông ta tiếp tục bằng giọng uy nghiêm, “Tôi không biết phải nói gì. Cô ta là một cô gái dũng cảm, cô ta yêu con Sư Tử kia (Leo); ngươi đã thấy cô ta đi theo hắn thế nào, cứu mạng hắn thế nào. Theo phong tục của chúng ta, cô ta đã phải cưới hắn, và có quyền đi tới nơi nào hắn đi, trừ khi,” ông ta rõ ràng nói thêm, “Bà ấy nói không, vì lời của bà ấy vượt trên tất cả mọi quyền lợi.”
“Nếu Bà ấy ra lệnh cô ấy phải rời bỏ cậu ấy, nhưng cô ấy từ chối thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra?”
Ông ta nhún vai, “Nếu cơn bão ra lệnh cái cây phải cong, nó không chịu; chuyện gì xảy ra?”
Rồi không đợi câu trả lời, ông ta quay lại, đi về phía cái ổ của ông ấy, mười phút sau đó tất cả chúng tôi đã ở trên đường.
Mất một giờ hay hơn thế để vượt qua vùng lòng chảo đồng bằng từ tro núi lửa này, và khoảng nửa giờ để trèo lên rìa phía xa hơn. Tuy nhiên ở đó cảnh thật đẹp. Phía trước chúng tôi là một sườn dốc dài đồng bằng cây cỏ, xen lẫn đây đó những bụi cây có gai. Dưới sườn dốc hiu hiu gió này, cách khoảng chín hay mười dặm, chúng tôi có thể thấy một biển đầm lầy mờ nhạt, trên đó hơi nước hôi thối treo lơ lửng như khói trong một thành phố. Người khiêng rất dễ đi xuống sườn dốc, giữa trưa chúng tôi đã tới bìa đầm lầy ảm đạm. Chúng tôi dừng ở đó ăn trưa, rồi đi theo con đường đầy gió và quanh co, lao xuống bãi lầy. Hiện giờ qua đôi mắt không quen của chúng tôi, con đường trở nên không rõ ràng đến mức hầu như không thể phân biệt được quái vật thủy sinh và chim chóc, một ngày vây lấy tôi là bí ẩn làm cách nào những người khiêng này đã tìm ra cách vượt qua đầm lầy. Đứng đầu đoàn người là hai người đàn ông đi bộ với hai cây sào dài, giờ một lần nữa đang được cắm xuyên qua đất phía trước, lý do của hành động này là vì đặc tính tự nhiên của đất bùn lầy thường xuyên thay đổi – khiến tôi không quen – vì thế nơi có lẽ đủ an toàn để đi qua tháng trước có thể nuốt mất người đi bộ vào tháng tới. Tôi chưa bao giờ thấy một khung cảnh ảm đảm và phiền muộn hơn thế. Hàng dặm hàng dặm đầm lầy, chỉ biến đổi trên mỗi dải đất khá rắn màu xanh lá tươi sáng, ao hồ sâu và nhợt nhạt cỏ lác cao lêu nghêu viền quanh, vạc vỗ ầm ầm còn ếch không ngừng kêu oàm oạp: hàng dặm nối nhau không ngừng nghỉ, trừ khi sương mù mang theo sốt rét có thể gọi là nghỉ. Sự sống duy nhất trong vùng đầm lầy vĩ đại này là các loại chim sống dưới nước và các động vật ăn thịt chúng, cả hai đều có số lượng khổng lồ. Ngỗng, cò, vịt, le le, cuốc, chim dẽ giun, chim choi choi đều tụ tập quanh chúng tôi, nhiều loài hoàn toàn mới mẻ với tôi, tất cả bị thuần hóa đến mức ai cũng có thể dùng gậy gõ lên đầu chúng vậy. Giữa đám chim chóc tôi đặc biệt chú ý tới loài chim rẽ giun rất đẹp, hầu hết đều có kích thước của gà săn, bay giống chim hơn loài chim rẽ giun ở Anh. Trong các ao hồ cũng vậy, rất nhiều loại cá sấu nhỏ hoặc cự đà khổng lồ, tôi không biết, Billali đã nói cho tôi, chúng ăn thịt các loài chim nước, còn cả một lượng lớn các loài rắn nước đen gớm ghiếc nếu bị cắn rất nguy hiểm, tôi nghĩ nó có thể làm chết người như hổ mang hay rắn lục. Đám ếch đực cũng rất to lớn, giọng tương đương với kích cỡ; còn muỗi – Job gọi chúng là “đội quân súng hỏa mai” – chúng có thể còn tệ hơn trên sông, dày vò chúng tôi khủng khiếp. Tuy nhiên không nghi ngờ gì, điểm tệ nhất của đầm lầy là mùi khủng khiếp của thảm thực vật mục nát đeo bám, luôn tích cực áp đảo mọi lúc, hơi bốc lên chứa khuẩn sốt rét đi kèm, mà chúng tôi tất nhiên cũng phải hít thở.
Lúc chúng tôi đi qua, cuối cùng mặt trời cũng chìm xuống trong vẻ huy hoàng ủ rũ khi chúng tôi đến vùng đất nhú lên khoảng hai mẫu – một ốc đảo nhỏ khô cằn giữa vùng đất hoang – nơi Billali thông báo chúng tôi có thể cắm trại. Tuy nhiên việc cắm trại rất đơn giản, thực tế chỉ là ngồi xuống đất quanh một đống lửa ít ỏi nhóm từ vải khô và gỗ mang theo. Nhưng chúng tôi vẫn làm tốt nhất có thể, rồi hút thuốc và ăn ngon miệng như thể mùi ẩm ướt và cái nóng ngột ngạt cho phép, vì khu đất thấp này rất nóng, kỳ lạ hơn, cũng rất lạnh lẽo. Nhưng dù nóng thế nào đi chăng nữa, chúng tôi vẫn vui vẻ gần đống lửa, vì chúng tôi thấy đám muỗi không thích khói. Hiện giờ chúng tôi đang tự cuốn mình trong chăn và cố ngủ, cố không quan tâm tới đám ếch đực cùng âm thanh cảnh báo gầm rú kì quái từ hàng trăm con chim rẽ giun lơ lửng giữa không trung khiến ngủ là việc bất khả thi, đừng nói đến những bất tiện khác. Tôi quay lại nhìn Leo bên cạnh; cậu ấy đang ngủ, nhưng gương mặt đã nóng đỏ khiến tôi không thích, bên ánh lửa lập lòe tôi nhìn thấy Ustane đang nằm bên kia của cậu, hết lần này đến lần khác đè lên khuỷu tay và nhìn cậu đầy lo lắng.
Tuy nhiên tôi không thể làm gì cho cậu ấy, vì chúng tôi đã uống cả tá ký ninh phòng sốt rét – thứ phòng vệ duy nhất chúng tôi có – vì vậy tôi nằm ngắm sao đang đi ra hàng ngàn, cho đến khi tất cả kiến trúc bao la của bầu trời đã trải đầy những điểm lấp lánh, mỗi điểm một thế giới! Thật là một cảnh tượng kỳ diệu để con người đo sự tầm thường của chính mình! Chẳng bao lâu tôi từ bỏ ý nghĩ về nó, vì tâm trí dễ mệt mỏi khi cố vật lộn với Đấng Vô Hạn, theo dấu chân của Đấng Toàn Năng khi ngài tiến bước từ tinh cầu này sang tinh cầu kia, hay suy diễn mục đích của Ngài từ công việc Ngài làm. Những điều đó không phải để chúng ta biết. Tri thức quá mạnh, mà chúng ta lại yếu ớt. Quá khôn ngoan có thể che khuất tầm nhìn không hoàn hảo của chúng ta, quá mạnh mẽ khiến chúng ta say sưa, quá nặng nề là lý do yếu ớt rơi xuống làm chúng ta chết đuối trong sâu thẳm hư ảo của chính mình. Kết quả đầu tiên khi tri thức nhân loại tăng lên nhờ thông dịch cuốn sách Tự Nhiên bằng nỗ lực quan sát bền bỉ là vì cái gì? Phải chăng không đặt câu hỏi cho ngài thường xuyên về sự tồn tại của Tạo Hóa, hay bản chất mỗi mục đích thông minh của chính ngài? Sự thật bị che giấu, vì chúng ta không còn thấy vinh quang hơn so với khi thấy vinh quang từ mặt trời. Điều đó có thể hủy hoại chúng ta. Toàn bộ tri thức không phải vì con người khi con người đang ở đây, đó là vì năng lực của họ, thứ họ nghĩ rất vĩ đại nhưng thực ra lại rất nhỏ bé. Tàu đã sớm chất đầy, là một phần ngàn trí khôn lặng lẽ không tả nổi đang điều khiển các tinh cầu phát sáng quay vòng, còn Thần Sức Mạnh khiến chúng quay vòng đang ấn vào đó, nó tan thành từng mảnh. Có lẽ ở một không gian và thời gian khác nào đó, mọi thứ lại đảo ngược lại, ai biết được? Nơi đây nhiều người sinh ra từ xác thịt nhưng phải chịu đựng vất vả và khổ hạn để giữ những bọt bong bóng của Thần Mệnh - thứ mà họ gọi là niềm vui – họ cảm kích nếu trước khi vỡ, chúng dừng lại một chút trên tay họ, rồi khi bi kịch diễn ra, thời giờ của họ tới lúc diệt vong, tới lúc hèn mọn ra đi mà họ không biết.
Bên trên tôi đang nằm, những vì sao tỏa sáng vĩnh hằng, dưới chân tôi những quả bóng lửa tinh quái sinh ra từ đầm lầy lăn đi lăn lại, hơi nén lại và khao khát đất mẹ; dường như trong cả hai tôi đều thấy bóng dáng con người, tưởng chừng như con người một ngày nào đó có thể thế, nếu Thần Sức Mạnh của sự sống trao tặng cho con người, chúng cũng có thể trao tặng điều đó. Ôi, có lẽ chính chúng ta từng năm từng tháng ngủ trên trái tim xa vời vợi mà ta chỉ đạt được một chút mỗi lần! Ôi, chúng ta đã có thể làm rụng rời những bánh răng cầm tù tâm hồn và bay tới điểm cao, như người lữ hành nhìn xuyên không gian từ đỉnh cao choáng váng của Darien, chúng ta có lẽ đã có thể dùng đôi mắt tâm linh nhìn thấu vào sâu thẳm của Đấng Vô Hạn!
Thứ có thể cởi bỏ lớp áo khoác trần tục này để vĩnh viễn dành cho những suy nghĩ nhân thế và những khát vọng khốn khổ; không còn lâu nữa, như ngọn nến bên xác chết, bị ném đi theo cách này hay cách khác bằng sức mạnh chúng ta điều khiển; hoặc nếu ta có thể kiểm soát chúng trên lý thuyết, chúng ta cũng vẫn bị những nhu cầu bản năng thúc đẩy phải tuân theo mà thôi! Phải, cởi bỏ chúng, thất bại hoàn toàn ở mọi nơi hôi hám và gai góc; giống như những điểm sáng lấp lánh phía trên tôi kia, ngủ trên cao, được bao bọc vĩnh viễn trong ánh sáng cao thượng hơn của chính chúng ta, giờ vẫn đang soi sáng chúng ta như ngọn lửa yếu ớt thắp trong những quả bóng khủng khiếp kia, kéo sự bé nhỏ của chúng ta xuống trong vinh quang rộng lớn của những ước mơ, vô hình nhưng vẫn quẩn quanh điều mong muốn, từ đó, mọi sự thật và vẻ đẹp đều hiện ra!
Những suy nghĩ như vậy trôi qua tâm trí tôi đêm đó. Chúng đến để hành hạ ta. Tôi nói để hành hạ, than ôi! Suy nghĩ chỉ có thể dùng để đo được sự bất lực của tư duy. Mục đích chúng ta yếu ớt khóc than trong im lặng khủng khiếp là gì? Trí tuệ mờ nhạt của chúng ta có thể đọc ra bí mật của bầu trời sao rải rác kia không? Câu trả lời nào đã hiện ra? Không bao giờ, không gì ngoài tiếng dội lại và những khung hình tuyệt vời! Chúng ta tin có câu trả lời, theo thời gian một Bình Minh mới sẽ đến trải sắc hồng xuống những con đường của đêm dài. Ta tin điều đó, vì vẻ đẹp của nó chiếu lên giờ tỏa sáng trong tim ta tới tận chân trời nơi tử huyệt, và ta gọi nó là Hi Vọng. Không có Hi Vọng chúng ta sẽ khổ đến chết về tâm linh, với sự trợ giúp của Hi Vọng chúng ta có thể leo tới Thiên Đường, hay ít ra có thể chứng minh điều nhạo báng có diễm phúc giữ chúng ta thoát khỏi tuyệt vọng, được nhẹ nhàng hạ xuống vực sâu của giấc ngủ vĩnh hằng.
Rồi tôi rơi vào nghĩ ngợi về cam kết chúng tôi đã bẻ cong, thật hoang dại, và thật lạ lùng câu chuyện dường như phù hợp với những gì đã được ghi lại hàng thế kỷ trước trên mảnh gốm. Ai là người phụ nữ kỳ lạ đó - Nữ Hoàng của tộc người kỳ lạ như chính bà ta, đang thống trị giữa những tàn tích của một nền văn minh đã mất? Ý nghĩa của câu chuyện về Ngọn Lửa tạo nên sự sống vĩnh hằng là gì? Liệu có tồn tại chất lỏng hay bản thể nào có thể củng cố xác thịt theo thời gian, bảo tồn bồi đắp sự tàn úa? Có thể, dù không khả thi. Sự tiếp diễn vô hạn của sự sống không phải là thứ kỳ diệu, như Vincey khốn khổ đã nói, giống sự sống phát sinh và kéo dài tạm thời. Nếu chuyện này là thật thì sao? Người tìm ra nó không nghi ngờ gì, sẽ thống trị thế giới. Người đó có thể tích lũy mọi của cải, sức mạnh và sự thông thái trên đời. Người đó có thể trao lại cho đời những nghiên cứu nghệ thuật hay khoa học. Phải, nếu vậy, Bà ấy này thực sự bất tử, điều tôi từng không tin, làm sao có thể thế được khi mọi thứ đều dưới chân bà ấy, bà ta lại thích ở trong hang động giữa một xã hội của những kẻ ăn thịt người ư? Điều này chắc chắn là một câu hỏi. Toàn bộ câu chuyện thật quái dị, chỉ xứng đáng với thời mê tín dị đoan mà nó được ghi lại. Dù sao tôi cũng chắc chắn tôi không muốn cố đạt được sự bất tử. Tôi đã có quá nhiều lo lắng, thất vọng và những cay đắng sâu kín trong suốt bốn mươi năm có lẻ tồn tại của bản thân, chỉ mong tình trạng này tiếp tục vô thời hạn. Tôi cũng cho rằng cuộc đời tôi thật hạnh phúc, nói một cách tương đối.
Và sau đó nghĩ rằng hiện tại rất có khả năng sự nghiệp trần thế của chúng tôi sẽ bị cắt ngắn lại hơn nhiều so với thực tế lẽ ra phải kéo dài, tôi cuối cùng đã thành công đi vào giấc ngủ, một thực tế mà bất kỳ ai đọc câu chuyện này, bất kỳ ai từng đọc, có lẽ chắc chắn sẽ rất biết ơn.
Khi tôi tỉnh lại một lần nữa trời vừa sáng, người bảo vệ và những người khiêng đang di chuyển như những bóng ma xuyên qua màn sương mù dày đặc buổi sáng, sẵn sàng khởi hành. Đống lửa hoàn toàn dập tắt, tôi đứng dậy vươn người, run rẩy tứ chi từ cái lạnh ẩm ướt của bình minh. Rồi tôi nhìn Leo. Cậu ấy đã ngồi dậy, tay giữ đầu, tôi thấy gương mặt cậu ửng đỏ và mắt ngời sáng với ánh vàng quanh đồng tử.
“Thế nào, Leo,” Tôi nói, “Cháu cảm thấy thế nào rồi?”
“Cháu cảm thấy như thể cháu sắp chết,” cậu ấy trả lời bằng giọng khàn khàn. “Đầu cháu đang bị bổ ra, khắp người run rẩy, cháu ốm yếu như mèo hen.”
Tôi huýt sáo, hay nếu tôi không huýt sáo tôi sẽ cho rằng – Leo đang bị sốt rét tấn công. Tôi tới chỗ Job, hỏi cậu ta về ký ninh sốt rét, may chúng tôi vẫn có để dùng, chỉ thấy Job không tốt hơn nhiều lắm. Anh ta phàn nàn về đau nhức dọc sống lưng và chóng mặt, hầu như không có khả năng tự giúp bản thân. Thế là tôi làm điều duy nhất có thể trong hoàn cảnh ấy – cho cả hai bọn họ uống mười viên ký ninh chống sốt rét, còn bản thân dùng một liều ít hơn để phòng ngừa. Sau đó tôi thấy Billali, giải thích cho ông ta mọi chuyện đang diễn ra thế nào, đồng thời hỏi ông ấy điều gì tốt nhất cần làm. Ông ta đi cùng tôi, xem Leo và Job (người mà giờ ông ấy gọi là Con Lợn vì gương mặt tròn trịa, béo lẳn và đôi mắt nhỏ của anh ta).
“À,” ông ta nói khi chúng tôi đã đi khá xa, “sốt rét! Ta nghĩ vậy. Con Sư Tử khá tệ, nhưng hắn ta còn trẻ nên có lẽ sẽ sống sót. Còn với Con Lợn, không quá tệ; chỉ là hơi chớm sốt rét; vì bệnh này luôn bắt đầu bằng sống lưng đau nhức, sẽ xài bớt chút béo tốt của hắn ta.”
“Họ có thể tiếp tục không, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Không, con trai, bọn chúng phải tiếp tục. Nếu bọn chúng dừng ở đây, chúng chắc chắn sẽ chết; chúng ở trên ổ sẽ khỏe hơn trên mặt đất. Đến tối, nếu mọi chuyện tốt hơn, chúng ta sẽ vượt qua đầm lầy và có không khí tốt hơn. Đi nào, hãy nhấc chúng vào ổ và khởi hành, vì đứng trong sương mù buổi sáng sẽ rất tệ. Chúng ta có thể ăn khi đang đi.”
Chúng tôi làm theo, trái tim nặng nề một lần nữa được tôi mang theo trên cuộc hành trình kỳ lạ. Ba giờ đầu tất cả đều ổn như mong đợi, sau đó một tai nạn xảy ra khiến chúng tôi mất vui từ đoàn người của ông bạn Billali đáng kính, cái ổ của ông ấy đang dẫn đầu đoàn người. Chúng tôi đi qua một đoạn đặc biệt nguy hiểm của bãi lầy, người khiêng ổ đôi khi bị ngập tới tận đầu gối. Quả thật, cách họ tính toán để mang những cái ổ nặng vượt qua vùng đất này thật bí ẩn với tôi, như thể chúng tôi đang đi du lịch, dù hai tay rảnh rỗi, giống như bốn người thường trực khiêng ổ kia, tất nhiên phải để cáng trên hai vai.
Hiện giờ chúng tôi đang mắc sai lầm và loạng choạng, có một tiếng kêu khóc kịch liệt, rồi một cơn bão la hét, cuối cùng, một tiếng thét giật gân to nhất, cả đoàn người dừng lại.
Tôi nhảy khỏi cái ổ và chạy về phía trước. Khoảng hai mươi thước trước mặt là bờ của một trong những ao bùn tẻ nhạt mà tôi đã nói, con đường chúng tôi đang đi chạy dọc tới đầu bờ ao, như một con dốc. Nhìn về phía cái ao này, thật khiếp sợ, tôi thấy cái ổ của Billali đang nổi trên đó, còn bản thân Billali không thấy đâu cả. Để tường tận mọi việc, tôi có lẽ nên giải thích chuyện đã xảy ra. Một trong những người khiêng ổ của Billali không may đạp lên một con rắn đang phơi nắng, nó cắn vào chân anh ta, theo tự nhiên, anh ta không đi được, rồi người ta thấy anh ta té nhào xuống bờ ao, chụp lấy cái ổ để tự cứu mình. Kết quả giống như dự đoán. Cái ổ bị kéo xuống bờ ao, những người khiêng cáng bị ngăn không đi được, còn thứ đó, gồm Billali và người đàn ông bị rắn cắn, đang lăn lộn trong cái ao đầy bùn. Khi tôi tới rìa mặt nước, không thấy ai trong hai người họ; thực vậy, người khiêng ổ bất hạnh không bao giờ gặp lại nữa. Anh ta đã đập đầu vào thứ gì đó, hoặc bị kẹt trong bùn, hoặc có thể rắn cắn khiến anh ta bị liệt. Dù sao thì anh ta đã biến mất. Nhưng dù không thấy Billali, chỗ ông ấy đủ trông rõ từ cái ổ nổi đang lúc lắc, trong đám vải và rèm cửa ông ta đang bị vướng vào.
“Cha kia rồi! Cha của chúng ta kia kìa!” Một người trong số đàn ông nói, nhưng anh ta không động một ngón tay để giúp ông ấy, những người khác cũng không làm gì. Họ chỉ đơn giản đứng nhìn chằm chằm mặt nước.
“Tránh đường, lũ súc vật các người!” Tôi hét lên bằng tiếng Anh, ném chiếc mũ đi, chạy tới và nhảy thẳng vào cái ao nhầy nhụa trông thật khủng khiếp đó. Vài cú sải tay đã đưa tôi tới chỗ Billali đang vật lộn dưới đám vải.
Bằng cách nào đó, tôi hoàn toàn không biết, tôi đã thành công đẩy nó giải thoát cho ông ta, cái đầu đáng kính của ông ta bị phủ chất nhờn xanh lá, như thần Bacchus với những chiếc lá thường xuân vàng vàng, nổi trên bề mặt nước. Phần còn lại thật dễ dàng, vì Billali là một nhân vật thực sự xuất sắc, nói chung không giữ chặt lấy tôi như người chết đuối thường hay làm, vì thế tôi dùng tay lôi ông ta ra, kéo ông ta lên bờ ao, dù bùn làm chúng tôi rất khó khăn kéo lên. Cảnh tượng bẩn thỉu như chúng tôi chứng kiến đó tôi chưa bao giờ thấy trước đây, có lẽ nó mang ý nghĩa nào đó về phẩm giá gần như siêu nhân của con người Billali khi tôi nói điều này, ho, nửa chết đuối, phủ đầy bùn và chất nhờn màu xanh lá cây, chòm râu tuyệt đẹp trở thành điểm nhỏ giọt giống cái đuôi heo tưới dầu tươi của người Trung Hoa, ông ta trông vẫn đáng kính và oai nghiêm.
“Lũ chó các ngươi,” ông ta nói, giải quyết đám người khiêng ổ ngay khi ông ta hồi phục đủ để nói, “Các ngươi đã bỏ lại ta, cha của các ngươi, để ta chết đuối. Nếu không có người lạ này, con trai ta, Khỉ Đầu Chó, chắc chắn ta đã bị chết đuối. Được, ta sẽ ghi nhớ điều này,” ông ta dán lên họ cái nhìn lấp lánh đầy nước, dù sao tôi thấy bọn họ không thích, dù họ cố tỏ ra lạnh lùng ảm đạm.
“Ngươi, con trai,” ông già tiếp tục, quay về phía tôi và giữ tay tôi, “chắc chắn ta sẽ là bạn của ngươi dù tốt hay xấu. Ngươi đã cứu mạng ta: không chừng một ngày nào đó ta sẽ cứu ngươi.”
Sau khi lau sạch tốt nhất có thể, chúng tôi vớt cái ổ lên và tiếp tục đi, trừ người đàn ông đã bị chết đuối. Tôi không biết có phải anh ta là một nhân vật không nổi tiếng, hay do sự thờ ơ và ích kỷ trong bản tính, nhưng tôi buộc phải nói rằng không ai có vẻ đau buồn lắm về sự biến mất đột ngột cuối cùng của anh ta, có lẽ trừ những người phải chia sẻ phần việc của anh ta.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 9



CHƯƠNG 9

Bàn chân nhỏ
Khi tôi mở mắt lại, tôi thấy mình đang nằm trên một cái chiếu da không xa đống lửa mà chúng tôi đã tụ tập xung quanh nó trong bữa tiệc hãi hùng đó. Gần tôi nằm là Leo, rõ ràng vẫn còn ngất, bên trên cậu ấy là dáng hình cao lớn khom khom của cô gái Ustane, người đang lau vết thương bị giáo đâm sâu bên sườn cậu ấy bằng nước lạnh và chuẩn bị buộc lại bằng vải lanh. Dựa lưng vào vách tường hang động phía sau cô ấy là Job, có vẻ không bị thương, nhưng bầm dập và đang run rẩy. Bên kia đống lửa là những cơ thể chúng tôi đã giết trong cuộc chiến rùng rợn vì mạng sống, cũng lăn lộn theo cách này hay cách khác, như thể bọn chúng đã ném mình vào giấc ngủ được một lúc sau khi hoàn toàn kiệt sức. Tôi đếm: có mười hai tên cạnh người phụ nữ, và xác của Mahomed khốn khổ, người đã chết bởi tay tôi, cái chậu nhuốm lửa bên cạnh, đặt ở cuối hàng không đều. Bên trái, một cơ thể đàn ông đang buộc tay những tên ăn thịt người sống sót phía sau, rồi lại buộc chúng thành từng cặp hai tên một. Các nhân vật phản diện đang khuất phục với cái nhìn hờ hững buồn bã trên gương mặt trông bệnh hoạn, cùng sự phẫn nộ bế tắc bùng lên trong những đôi mắt tối như mực. Trước mặt bọn họ, đang chỉ đạo các hoạt động, không ai khác là người bạn Billali của chúng tôi, trông khá mệt mỏi, nhưng đặc biệt gia trưởng với bộ râu chảy xuống như thác, mát lành và vô tư lự như thể ông ta đang điều khiển việc mổ một con bò.
Giờ ông ấy đã quay lại, nhận thấy tôi đang ngồi dậy, ông tiến đến trước tôi, với phép lịch sự tối đa, nói rằng ông tin tôi đã cảm thấy tốt hơn. Tôi trả lời rằng hiện tại, tôi hầu như không biết tôi đang cảm thấy thế nào, ngoại trừ đau nhức khắp nơi.
Rồi ông ta cúi xuống và kiểm tra vết thương của Leo.
“Một cú đâm ma quỉ,” ông ta nói, “nhưng ngọn giáo đã không đâm thủng ruột. Hắn ta sẽ phục hồi thôi.”
“Cảm ơn ông đã trở về, thưa cha,” Tôi trả lời. “chúng tôi sẽ hồi phục lại lúc nào đó, vì những con quỉ kia của ngài đã giết chúng tôi như họ giết người đầy tớ của chúng tôi,” và tôi chỉ vào Mahomed.
Lão già hạ hàm răng, tôi thấy một biểu cảm kì lạ đầy ác ý sáng lên trong đôi mắt lão.
“Đừng sợ, con trai,” ông ta trả lời. “Sự trả thù sẽ dành cho chúng, như thể làm cho chúng nghe thấy thịt xoắn với xương. Vì Bà ấy, bọn chúng sẽ phải đi, sự trả thù của bà ấy sẽ xứng đáng với sự vĩ đại của bà ấy. Tên kia,” chỉ vào Mahomed, “Ta nói cho ngươi tên đó sẽ phải chết một cái chết đau xót, vì cái chết của những người đàn ông như linh cẩu kia. Hãy nói cho ta, Ta cầu xin ngươi, chuyện này đã xảy đến như thế nào.”
Trong vài từ tôi đã phác họa được những gì đã xảy ra.
“A, vậy à,” ông ta trả lời. “Ngươi thấy đó, con trai, ở đây có một phong tục, nếu người lạ đi vào đất nước này, hắn ta có thể bị giết bằng ‘cái chậu’, và bị ăn thịt.”
“Thật là lòng hiếu khách đã bị đảo lộn,” tôi yếu ớt trả lời. “Ở đất nước chúng tôi, chúng tôi khoản đãi người lạ, cho họ thức ăn để ăn. Ở đây, các người ăn thịt họ, và được khoản đãi.”
“Đó là phong tục,” ông ta trả lời với một cái nhún vai. “Bản thân ta nghĩ đó là một việc xấu xa; nhưng rồi,” ông ấy nói thêm bằng một hồi tưởng, “ta không thích mùi vị của những người lạ, đặc biệt sau khi họ đã lang thang qua các đầm lầy và sống cùng đám chim hoang. Khi Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh gửi mệnh lệnh rằng các ngươi được cứu sống, bà ấy không nói gì về người da đen, do đó, là linh cẩu, những người đàn ông này thèm khát xác thịt của hắn ta, còn người phụ nữ kia, là kẻ mà ngươi đã giết một cách đúng đắn, kẻ đã thúc đẩy trái tim quỉ dữ của họ nấu chín hắn ta. Phải, họ sẽ nhận được phần thưởng của họ. Có lẽ tốt hơn nếu họ không bao giờ thấy ánh sáng, còn hơn chịu đựng cơn giận dữ khủng khiếp của Bà ấy. Thật hạnh phúc cho những kẻ đã chết dưới tay ngươi.”
“A,” ông ta tiếp tục, “các ngươi đã chiến đấu thật can đảm. Ngươi có biết không, ngươi là con khỉ đầu chó già nua có vũ trang tốt, ngươi đã nghiền nát xương sườn hai người đang nằm kia như thể họ là vỏ trứng ư? Còn người trẻ tuổi này, một con sư tử, bộ dáng hắn thật xinh đẹp – một mình hắn chống lại rất nhiều người – hắn đã giết ngay ba người đang nằm kia” – rồi ông ta chỉ vào một cơ thể vẫn đang hơi nhúc nhích – “một trong đó sắp chết, vì đầu hắn bị nứt dọc, những người khác đều bị thương. Thật là một trận đấu dũng cảm, ngươi và hắn ta đã là bạn của ta, vì ta thích nhìn những trận đấu đẹp mắt. Nhưng hãy nói cho ta, con trai, khỉ đầu chó – giờ ta nghĩ đến nó khi thấy gương mặt ngươi, cũng đầy râu tóc, giống như của con khỉ đầu chó – làm sao ngươi giết thành một cái lỗ trên người bọn họ? – Ngươi đã gây ồn và giết họ, bọn họ bảo vậy đấy – bọn họ đã ngã xuống trước những gương mặt gây ồn ư?”
Tôi đã giải thích với ông ta hết mức có thể, nhưng rất ngắn gọn – vì tôi vô cùng mệt mỏi, và chỉ bị buộc nói chuyện do sợ mất lòng người có quyền lực nếu tôi từ chối – đó là do đặc tính của của thuốc súng, còn ông ta ngay lập tức đề nghị tôi minh họa những gì tôi nói bằng cách tham gia cùng với một người trong đám tù nhân. Chuyện này, ông ta nói, sẽ không bao giờ tính, nó không chỉ rất lôi cuốn ông ta, mà còn cho tôi cơ hội trả thù một phần. Ông ta rất ngạc nhiên khi tôi nói rằng, đó không phải là phong tục của chúng tôi khi trả thù máu lạnh như vậy, chúng tôi để sự trả thù lại cho pháp luật và người có quyền lực cao hơn, những thứ này ông ta không biết. Tuy nhiên tôi nói thêm, khi tôi hồi phục, tôi sẽ dẫn ông ta đi bắn súng với chúng tôi, ông ta có thể tự giết một con vật, điều đó khiến ông ta hài lòng như một đứa trẻ khi được hứa hẹn có đồ chơi mới.
Rồi ngay lúc đó Leo cũng mở mắt sau khi được kích thích bằng một chút brandy (chúng tôi vẫn còn một ít) mà Job rót xuống cổ họng cậu ấy, và cuộc nói chuyện của chúng tôi kết thúc.
Sau đó chúng tôi đã thành công làm cho Leo - người đang thực sự rất khốn khổ, chỉ còn nửa phần ý thức - an toàn vào giường nhờ Job và cô gái dũng cảm Ustane hỗ trợ, cô gái này tôi không e dè cô ấy sẽ bực bội vì điều đó, tôi chắc sẽ trao một nụ hôn cho hành động cao đẹp của cô ấy vì đã cứu mạng chàng trai của tôi lúc tình huống hiểm nghèo với cả chính cô ấy. Nhưng Ustane không phải loại người trẻ tuổi có thể quan tâm tự do, trừ khi chắc chắn họ không bị hiểu nhầm, vì vậy tôi kìm nén suy nghĩ đó. Rồi, thâm tím và bầm dập, nhưng cảm giác an toàn trong ngực vài ngày này khiến tôi như người xa lạ, tôi rón rén về lăng mộ nhỏ của riêng mình, không quên trước đó nằm xuống cảm ơn Thượng Đế tận đáy lòng vì nó đã thật sự không thành mộ của tôi, được cứu rỗi nhờ một loạt những sự kiện đầy thương xót mà tôi chỉ có thể gán là sự bảo vệ của Thượng Đế, chắc chắn dành cho tôi đêm đó. Vài người gần cái chết hơn chúng tôi và thoát được nó trong ngày khủng khiếp đó.
Tôi là một người ngủ khá tệ mọi lúc, giấc mơ đêm đó khi tôi đi nghỉ không hề vui vẻ. Viễn cảnh khủng khiếp của Mahomed khốn khổ đang tranh đấu để thoát khỏi cái chậu nóng đỏ có thể ám ảnh họ, trên nền đó, một bóng dáng che mặt luôn lơ lửng, hết lần này đến lần khác, nó dường như đang tháo dần những quần áo đang che chở cho cơ thể đó, giờ lộ ra hình dáng hoàn hảo của một phụ nữ chói lọi đáng yêu, và giờ lại đến hình hài trắng tinh của bộ xương đang cười toe toét, dù che hay không che, nó đều thốt ra những câu bí ẩn tưởng chừng vô nghĩa:
“Đó là cái chết sống động và nổi tiếng, đó là chết mà không bao giờ có thể chết, vì trong Vòng Tròn Tâm Linh, sự sống chẳng là gì và cái chết cũng chẳng là gì. Phải, tất cả mọi thứ đều sống vĩnh viễn, dù có thời điểm chúng ngủ và bị quên lãng.”
Cuối cùng buổi sáng đã đến, nhưng tôi lại thấy quá cứng ngắc và đau hơn. Khoảng bảy giờ, Job tới, đi cực kì khập khiễng, với sắc mặt của quả táo thối, nói với tôi rằng Leo ngủ khá tốt, nhưng rất yếu. Hai giờ sau Billali (Job gọi ông ta là “Billy Dê”, thực ra chòm râu trắng xóa của ông ta làm anh ấy liên tưởng tới “Billy”) cũng đến, mang theo một cây đèn trên tay, hình dáng cao lớn của ông ta chạm gần tới trần căn buồng nhỏ. Tôi giả vờ đang ngủ, thông qua vết nứt trên mí mắt nhìn gương mặt già nua mỉa mai nhưng đẹp đẽ của ông ta. Ông ta dán đôi mắt như diều hâu vào tôi, vuốt bộ râu trắng vinh quang, chỉ bằng cách đó có thể đáng giá quảng cáo bằng một trăm mỗi năm đối với bất kỳ thợ cắt tóc nào ở London.
“A!” Tôi nghe ông ta lẩm bẩm (Billali có thói quen tự lẩm bẩm), “Hắn ta thật xấu xí – xấu xí trong khi tên kia lại thật xinh đẹp – đúng là một con Khỉ Đầu Chó, đó là một tên hay. Nhưng ta thích người này. Thật lạ, ở tuổi này, giờ ta lại thích một tên đàn ông. Ngạn ngữ nói – ‘Hãy nghi ngờ tất cả đàn ông, hãy giết hắn khi ngươi nghi ngờ hắn quá nhiều; đối với phụ nữ, hãy chạy trốn khỏi họ, vì họ là ác quỉ, cuối cùng sẽ phá hủy chúng ta.’ Thật là câu ngạn ngữ hay, đặc biệt phần cuối của nó: Ta nghĩ nó phải được truyền lại từ người xưa. Tuy nhiên ta thích con Khỉ đầu chó này, ta tự hỏi họ dạy hắn những thủ thuật này ở đâu, ta tin Bà ấy sẽ không bỏ bùa hắn ta. Con Khỉ đầu chó khốn khổ! Hắn ta phải rất mệt mỏi sau trận đánh đó. Ta sẽ đi để không đánh thức hắn ta.”
Tôi đợi tới khi ông ta quay đi tới gần lối ra, nhón ngón chân nhẹ nhàng, rồi gọi với theo ông ấy.
“Thưa cha,” Tôi nói, “Có phải cha đó không?”
“Phải, con trai, ta đây; nhưng đừng để ta làm phiền ngươi. Ta đến xem ngươi thế nào, và nói với ngươi rằng, những kẻ giết ngươi, Khỉ Đầu Chó à, giờ đang trên đường tới chỗ Bà ấy. Bà ấy nói các ngươi cũng cùng đến đó, nhưng ta sợ các ngươi chưa thể.”
“Không,” Tôi nói, “không cho đến khi chúng tôi phục hồi lại một chút đã; nhưng tôi cần một nơi có ánh sáng ban ngày, tôi cầu xin cha, thưa cha. Tôi không thích chỗ này.”
“À, không,” ông ta trả lời, “nó có không khí buồn tẻ. Ta nhớ khi ta còn nhỏ ta đã thấy một cơ thể phụ nữ nằm nơi ngươi đang nằm bây giờ, phải, rất dài. Cô ta đẹp đến mức ta thường bò vào đây với một cây đèn và ngắm nhìn cô ta. Không để cô ta bị lạnh tay, ta hầu như chỉ nghĩ cô ta đang ngủ và một ngày nào đó sẽ tỉnh dậy, cô ấy thật xinh đẹp và yên bình trong chiếc áo choàng trắng. Cô ta cũng trắng, tóc cô ta vàng và dài tới gần bàn chân. Có rất nhiều mộ nơi Bà ấy ở, ai xây nó ở đó ta không biết, nơi đó giữ người yêu quí của họ khỏi bàn tay đổ nát của Thần Phân Hủy, thậm chí ngay cả khi Thần Chết giết họ. Ôi, ngày ngày ta tới đây, nhìn chằm chằm cô ta tới tận khi – đừng cười ta, người lạ, vì ta là một anh chàng ngớ ngẩn – Ta học cách yêu thương hình hài đã chết đó, đó là vỏ bọc từng giữ một sinh mạng không còn tồn tại nữa. Ta từng bò lên cô ta và hôn gương mặt lạnh giá của cô ta, tự hỏi bao nhiêu đàn ông đã sống và chết vì cô ta, ai đã yêu cô ta và ôm cô ta những ngày cô ta qua đời. Và Khỉ Đầu Chó à, ta nghĩ ta học được trí khôn từ người chết đó, vì thật sự nó đã dạy ta về sự nhỏ bé của sự sống, chiều dài của Cái Chết, và cách mà mọi thứ dưới ánh mặt trời đều đi xuống theo cùng một con đường rồi vĩnh viễn bị lãng quên. Ta đã trầm ngâm như thế, dường như với ta, trí khôn chảy ra từ người chết đi vào ta, tới một ngày mẹ ta, một phụ nữ rất cảnh giác nhưng suy nghĩ vội vàng, thấy ta đã thay đổi, liền đi theo ta, và nhìn thấy người da trắng xinh đẹp này, đã sợ rằng ta bị bỏ bùa, thực vậy, ta đã bị bỏ bùa. Nửa sợ hãi, nửa tức giận, bà ấy lấy cây đèn, dựng người phụ nữ đã chết lên tường này, đốt tóc cô ta, rồi cô ấy bùng cháy dữ dội, xuống tận chân, những gì được giữ lại đã cháy hết thật rồi.
Nhìn này, con trai, cái trần này vẫn còn khói khi đốt cô ta đấy.”
Tôi nghi ngờ nhìn lên, chắc chắn ở đó, trên trần ngôi lăng mộ này, có vết nhờn và muội khác thường, kéo dọc ba feet hoặc hơn. Không nghi ngờ gì, năm tháng cọ sát các cạnh của cái hang nhỏ này, nhưng trên trần vẫn lưu lại, không nhầm lẫn được bề ngoài của nó.
“Cô ta đã bị đốt cháy,” ông ta tiếp tục như thiền định, “thậm chí tới cả chân, nhưng đôi chân, ta đã quay lại và cứu được, cắt khỏi đống xương cháy, dấu nó dưới hòn đá dài kia, phủ lên một tấm vải lanh. Chắc chắn đấy, ta nhớ như thể nó ở đây hôm qua. Không chừng nó đang ở đó đấy, nếu không ai từng phát hiện ra. Sự thật là ta đã không đi vào căn phòng này từ lần đó tới ngày nay. Ở yên đó, ta sẽ tìm,” và quì xuống, ông ta mò mẫm bằng cái tay dài trong hốc dưới ghế đá dài. Giờ thì mặt ông ta đã sáng lên, ông ta cảm thán và kéo cái gì đó đã bết bụi ra; ông ta lắc nó trên sàn. Nó được bọc bằng phần còn lại của tấm giẻ mục nát, ông ta phá nó ra, hiện ra trước cái nhìn chăm chú ngạc nhiên của tôi là một bàn chân phụ nữ da trắng rất đẹp, trông khá tươi và vững chắc như thể nó bây giờ vừa được đặt ở đó.
“Ngươi xem, con trai, Con Khỉ Đầu Chó,” ông ta nói bằng giọng buồn rầu, “Ta nói sự thật cho ngươi, vì ở đây vẫn có một chân còn lại. Hãy cầm lấy nó, con trai, và nhìn vào nó.”
Tôi nhìn mảnh xác lạnh lẽo trong tay và quan sát nó trong ánh sáng ngọn đèn với cảm xúc không thể tả nổi, trộn lẫn giữa ngạc nhiên, sợ hãi và đam mê. Nó sáng, sáng hơn nhiều so với khi nó trong trạng thái còn sống, thịt vẫn còn xác thịt, dù có bám thêm một mùi thơm thoang thoảng. Phần còn lại này không bị co hay teo lại, hay đen và khó coi, giống như thịt của các xác ướp Ai Cập, nhưng đầy đặn và đẹp đẽ, trừ chỗ bị cháy nhẹ, còn lại hoàn hảo như đang lúc mới chết – một thắng lợi lớn của việc ướp xác.
Bàn chân nhỏ bé khốn khổ! Tôi để nó xuống ghế đá dài nơi nó đã nằm hàng nghìn năm qua, tự hỏi người đẹp này là ai mà được sinh ra trong rực rỡ và khung cảnh lộng lẫy của nền văn minh bị quên lãng – thoạt tiên giống như một đứa trẻ vui vẻ, rồi như một cô gái đồng trinh đang bẽn lẽn, và cuối cùng như một phụ nữ hoàn hảo. Thông qua khán phòng lớn của Sự Sống, từng bước đi mềm mại của nó vang vọng, cuối cùng, thật can đảm, nó chấp nhận dày xéo trong cát bụi của Thần Chết! Liệu có phải nó bị đánh cắp trong đêm im lặng khi người nô lệ da đen đã ngủ thiếp đi trên sàn cẩm thạch, ai nghe thấy nó bị đánh cắp? Bàn chân nhỏ thật cân đối! Có lẽ nó được dựng lên trong niềm tự hào của kẻ chinh phục cuối cùng đã khuất phục trước vẻ đẹp của người phụ nữ, có lẽ đôi môi của các quí tộc và các vì vua đã từng đặt lên thứ trắng ngọc ngà này.
Tôi quấn dấu tích của quá khứ vào trong khúc vải lanh cũ còn lại - rõ ràng mảnh vải là một phần vải niệm của chủ nhân vì bị cháy một phần – rồi đặt nó vào cái túi Gladstone của tôi – một sự kết hợp kỳ lạ, tôi nghĩ. Với sự giúp đỡ của Billali, tôi lảo đảo bước tới thăm Leo. Tôi thấy cậu ấy bầm giập khủng khiếp, nặng hơn tôi, có lẽ do sở hữu làn da quá trắng, bị ngất và yếu đi do mất máu từ vết thương da thịt bên hông, nhưng đối với tất cả lại vui vẻ như một con dế, đang đòi ăn sáng. Job và Ustane để cậu xuống, hay đúng hơn là bỏ vào cái ổ đã tháo hai đầu, cùng ông già Billali trợ giúp khiêng cậu ấy ra ngoài bóng mát ở cửa hang, dấu vết của việc chém giết đêm trước giờ đã bị xóa hết, ở đó chúng tôi tất cả cùng ăn sáng, thực ra xài trọn ngày hôm đó, và hầu như cả hai ngày sau.
Vào sáng ngày thứ ba, Job và tôi đã thực sự hồi phục. Leo cũng tốt hơn nhiều đến mức tôi đã nhượng bộ trước lời khẩn cầu bày tỏ thường xuyên của Billali, đồng ý bắt đầu hành trình đến Kôr, nơi người ta bảo rằng đó là tên khu vực huyền bí Bà ấy sống, dù tôi vẫn sợ ảnh hưởng đến Leo, đặc biệt chuyển động có thể làm vết thương của cậu ấy vốn hầu như chưa lên da non lại vỡ ra lần nữa. Thực vậy, nếu không vì sự lo lắng rõ rệt của Billali, khiến chúng tôi nghi ngờ sẽ có khó khăn hay nguy hiểm đe dọa chúng tôi nếu không tuân theo, tôi sẽ không đồng ý ra đi lúc này.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 8



CHƯƠNG 8

Yến tiệc, và Sau đó!
Vào ngày hôm sau, một cảnh đáng nhớ xảy ra – cảnh được tính toán để tạo ra ấn tượng sâu sắc với bất kỳ ai tham gia, vì những gì được tiên đoán hơn là vì những gì nó tiết lộ - chúng tôi được báo rằng một bữa yến tiệc sẽ diễn ra buổi tối đó để tỏ lòng kính trọng chúng tôi. Tôi cố hết sức từ chối, nói rằng chúng tôi là người hiện đại nên ít quan tâm đến yến tiệc, nhưng lời giải thích của tôi chỉ nhận được sự im lặng không hài lòng, tôi nghĩ khôn ngoan nhất là giữ lấy cái lưỡi của mình.
Theo đó, ngay khi mặt trời vừa xuống núi, tôi đã được thông báo rằng mọi thứ đã sẵn sàng, và cùng với Job tới hang động, nơi tôi gặp Leo, như bình thường, được Ustane bám theo. Hai người họ đã đi dạo đâu đó, nên không biết gì về lễ hội dự định tổ chức đến tận lúc này. Khi Ustane nghe thấy, tôi thấy biểu cảm khiếp sợ hiện nhanh trên gương mặt đẹp đẽ của cô ấy. Cô ấy quay lại dùng tay tóm được một người đàn ông đang đi ngang qua hang động, rồi hỏi anh ta điều gì đó bằng giọng cưỡng chế. Câu trả lời của anh ta dường như trấn an cô ấy một chút, vì cô ấy trông nhẹ nhõm hơn, dù cách xa nữa mới tới hài lòng. Tiếp theo, cô ấy tỏ vẻ cố phàn nàn với người đàn ông có quyền lực, nhưng ông ta nói với cô ấy đầy giận dữ, đuổi cô ấy ra, sau đó lại thay đổi suy nghĩ, dùng tay kéo cô ấy, để cô ấy ngồi xuống giữa ông ta và một người đàn ông khác trong vòng tròn xung quanh đống lửa, tôi cảm nhận chắc phải có lý do gì đó khiến cô ấy nghĩ, tốt nhất nên qui phục.
Ngọn lửa trong hang động lớn bất thường tối đó, trong vòng lớn xung quanh nó, tụ tập khoảng ba mươi lăm người đàn ông và hai phụ nữ, Ustane và người phụ nữ khiến Job đóng vai một nhân vật trong Kinh Thánh. Những người đàn ông ngồi im lặng hoàn toàn, theo phong tục của họ, mỗi người với cây giáo lớn giữ ngay phía sau, trong một cái đôn làm khe cắm bằng đá. Chỉ một hay hai người mặc đồ bằng vải lanh vàng, như tôi đã nói, còn lại không mặc gì ngoài da báo ở hạ thân.
“Có chuyện gì vậy, thưa ngài,” Job nghi ngờ nói. “Cầu chúa phù hộ và cứu vớt chúng con. Lại là người phụ nữ đó. Giờ chắc là cô ta không thể theo đuổi tôi đâu, vì những gì tôi dành cho cô ta không hề khích lệ. Bọn họ khiến tôi sởn tóc gáy, tất cả bọn họ, thật đấy. Tại sao à, bọn họ cũng đã bảo Mahomed ăn tối. Đó, người phụ nữ của tôi đang nói chuyện với anh ta một cách duyên dáng và văn minh nhất có thể. Phải rồi, tôi rất vui vì đó không phải là tôi, thế là xong.”
Chúng tôi nhìn lên, và chắn chắn người phụ nữ khả nghi đang đứng dậy, tán tỉnh Mahomed khốn khổ trong góc, trải qua tiên đoán sâu sắc về điều khủng khiếp, anh ta đã ngồi đó, run rẩy và cầu nguyện Allah. Anh ta không đủ ý chí để đi, nếu không có lý do nào khác, có lẽ vì đó là một vinh dự hiếm có, đến giờ thức ăn đều được đưa đến riêng cho anh ta. Dù sao tôi có thể thấy anh ta đang trong tâm trạng khủng hoảng nghiêm trọng, vì đôi chân đang run lên không ăn nhập với vẻ to lớn, kềnh càng của anh ta, tôi nghĩ đó là vì những thứ man rợ phía sau, trong bộ dạng một người Amahagger cao lớn với cây giáo cũng rất lớn tương xứng, chứ không phải những cám dỗ của người phụ nữ đang dắt tay anh ta, cuối cùng anh ta đã bằng lòng đi đến.
“Phải rồi,” Tôi nói với những người kia, “Tôi không hẳn thích dáng vẻ của mấy thứ này, nhưng tôi cho rằng chúng ta phải đối mặt với nó. Các bạn đồng hành của tôi đã mang súng theo chưa? Vì tốt hơn là các bạn nên biết bọn họ đã lên đạn với chúng ta.”
“Tôi đã xong, thưa ngài,” Job nói, vỗ nhẹ khẩu Colt của anh ta, “nhưng ngài Leo chỉ có con dao đi săn, dù thế cũng là đủ rồi, chắc chắn đấy ạ.”
Cảm thấy không thể chờ đợi khi thiếu vũ khí, chúng tôi đã mạnh dạn tiến đến, tự ngồi vào hàng, quay lưng lại bên cạnh hang.
Ngay khi chúng tôi ngồi xuống, một lọ đất nung đang được truyền quanh chứa một loại chất lỏng lên men, có mùi khó chịu, dù đã thích nghi với dạ dày, nó được làm từ hạt nghiền nát – không phải ngô Ấn Độ, mà là loại hạt ngũ cốc nhỏ màu nâu sinh trưởng từ gốc mọc thành chùm, không giống loại ngũ cốc ở phía nam Châu Phi còn gọi là ngô Kafir. Cái bình chứa chất lỏng này rất gây tò mò, vì nó ít nhiều giống hàng trăm cái khác được dùng trong tộc người Amahagger mà tôi có lẽ đã mô tả. Những cái bình đó đều được sản xuất từ rất lâu đời, có nhiều kích cỡ. Không có cái gì có thể được làm từ cách đây hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm ở đất nước này như vậy. Chúng được tìm thấy trong các ngôi mộ bằng đá, mà tôi sẽ mô tả khi thích hợp, và tôi tin rằng, theo cách của người Ai Cập, những cư dân trước đây của đất nước này có lẽ có mối liên hệ nào đó, họ từng nhận nội tạng người chết. Tuy nhiên, Leo có quan điểm thế này, giống như trong chiếc bình Etruscan có quai, chúng được đặt ở đó dành cho người đã chết mang tính tâm linh. Chúng hầu như có hai quai cầm, mọi kích cỡ, một số cao gần ba feet, chạy xuống nhiều inch. Hình dạng của chúng rất khác nhau, nhưng tất cả đều cực kỳ đẹp và duyên dáng, làm bằng một loại sành màu đen rất tốt, không bóng, nhưng hơi thô. Trên nền dát những con số duyên dáng và sống động hơn những gì tôi từng thấy trên những chiếc lọ cổ. Vài hình vẽ khảm đại diện đó biểu diễn cảnh yêu đương đơn giản như trẻ con và sự tự do theo cách không thể so sánh với hương vị ngày nay. Những hình khác là hình các cô gái đang nhảy múa, hay cảnh săn bắn. Ví dụ, cái bình mà chúng tôi đang uống có một cạnh vẽ người đàn ông rất hăng hái, da trắng, tấn công con voi lớn bằng giáo, trong khi cạnh ngược lại là một bức tranh, không hoàn toàn đẹp lắm, về một thợ săn đang giương cung vào một con vật giống sơn dương đang chạy, nhìn hình dạng tôi nghĩ có lẽ đó là linh dương châu Phi hay con koodoo – một giống sơn dương Nam Phi.
Thật lạc đề tại thời điểm quan trọng, nhưng không quá dài, vì khoảng khắc lúc này cũng rất dài. Ngoại trừ việc truyền qua lại định kỳ chiếc bình, hành động cần thiết là ném nhiên liệu vào đống lửa, không có gì xảy ra đáng thú vị suốt cả giờ đồng hồ. Không ai nói một từ. Tất cả chúng tôi ngồi im lặng hoàn toàn, nhìn chằm chằm vào ánh sáng chói của ngọn lửa lớn, bóng tối bị ném ra ngoài bởi những cái đèn bằng đất nung nhấp nháy (những vật này tất nhiên không hề cổ xưa). Trong không gian thông thoáng giữa chúng tôi và ngọn lửa đặt một khay gỗ lớn, có bốn tay cầm ngắn, giống hệt khay của người bán thịt, chỉ có điều không bị rỗng. Bên cạnh khay là một chiếc kìm sắt lớn có tay cầm dài, và bên kia của đống lửa cũng có một cái tương tự. Dù sao tôi cũng không hoàn toàn thích sự hiện diện của cái khay và những chiếc kìm. Tôi ngồi đó nhìn chằm chằm chúng và gương mặt dữ tợn im lặng của những người đàn ông trong vòng tròn, tôi nghĩ thật kinh khủng, chúng tôi hoàn toàn nằm trong quyền hạn của đám người đáng sợ này, những kẻ mà với tôi, dù sao đi nữa cũng có chút e dè, vì tính cách thực sự của họ vẫn đầy bí ẩn với chúng tôi. Họ có thể tốt hơn chúng tôi nghĩ, hoặc cũng có thể tệ hơn. Tôi sợ là họ tệ hơn, và tôi không sai. Thật là một loại yến tiệc gây tò mò, tôi nghĩ, thực sự bề ngoài như một trò giải trí của con tem Barmecide, vì không có chút gì để ăn.
Cuối cùng, ngay khi tôi bắt đầu cảm thấy như thể tôi đang bị thôi miên, một hành động đã xảy ra. Không có cảnh báo nào dù nhỏ nhất, một người đàn ông bên kia vòng tròn nói vọng ra rất lớn:
“Thịt chúng ta sẽ ăn đâu?”
Thế là mọi người trong vòng tròn trả lời bằng giọng trầm thấp, và giang tay phải về phía đống lửa và nói,
Thịt sẽ đến.”
“Đó là thịt dê à?” vẫn người đó hỏi.
“Đó là dê không sừng, và hơn cả một con dê, chúng ta sẽ giết nó.” Họ trả lời và xoay nửa vòng, tất cả dùng tay phải nắm bên tay cầm cây giáo của họ, rồi đồng thời phóng đi.
“Đó là một con bò à?” người đàn ông lại nói.
“Đó là một con bò không sừng, và hơn cả một con bò, chúng ta sẽ giết nó.” Đó là câu trả lời, và những thanh giáo lại đươc cầm lên, và lại bị ném đi.
Rồi dừng một chút, tôi kinh hoàng và dựng tóc gáy nhận ra, người phụ nữ bên cạnh Mahomed bắt đầu âu yếm anh ta, vỗ nhẹ má anh ta và gọi anh ta bằng tên thân mật trong khi đôi mắt hung tợn của cô ta trêu đùa lên xuống bóng dáng run rẩy của anh ấy. Tôi không biết tại sao cái nhìn đó khiến tôi kinh sợ như vậy, nhưng nó đã làm chúng tôi sợ chết khiếp, đặc biệt Leo. Hành động âu yếm như một con rắn, rõ ràng là một phần trong công thức hãi hùng nào đó cần phải được trải qua. [*] Tôi thấy Mahomed trở nên trắng bệch dưới lớp da nâu của anh ta, trắng bệch bệnh hoạn vì sợ hãi.
[*] Sau đó chúng tôi học được rằng, mục đích của hành động đó là giả vờ với nạn nhân khiến cho anh ta thành đối tượng được yêu thương và ngưỡng mộ, mà thật ra là những cảm xúc làm tổn thương anh ấy, khiến anh ta tiêu tan trong suy nghĩ hạnh phúc và mãn nguyện. – L.H.H.
“Thịt đã sẵn sàng được nấu chưa?” giọng nói hỏi gấp gáp hơn.
“Đã sẵn sàng; đã sẵn sàng.”
“Nồi đã nóng lên để nấu chưa?” nó lại tiếp tục, như thét lên, dội lại từ các vách hang động một cách đau đớn.
“Nóng rồi; nóng rồi.”
“Lạy Chúa!” Leo gào lên, “hãy nhớ bản văn tự đã viết, ‘tộc người đặt chậu lên đầu người lạ’.”
Khi cậu ấy nói những câu đó, trước khi chúng tôi nhúc nhích, hay thậm chí tùy ý hành động, hai tên lưu manh to lớn nhảy lên, và thu những chiếc kéo dài lại, xô chúng vào tâm ngọn lửa, còn người phụ nữ đang âu yếm Mahomed đột ngột lấy ra một cái thòng lọng bằng sợi từ bên dưới thắt lưng cô ta, móc nó qua vai anh ta, kéo thật chặt, trong khi những người đàn ông cạnh anh ta dùng chân ghìm giữ anh ta lại. Hai người đàn ông cầm kéo lên, tản đống lửa ra trên sàn đá, nâng lên một nồi đất nung lớn, đun nóng tới khi có hơi trắng. Trong khoảnh khắc, hầu như bằng một chuyển động đơn giản, họ đi đến nơi Mahomed đang giẫy dụa. Anh ta chiến đấu như một con quái vật dữ tợn, gào thét trong tuyệt vọng, dù thòng lọng quấn quanh cổ và nỗ lực của đám đàn ông cố giữ chân anh ta, những kẻ khổ sở đang tiến đến đó lúc này không có khả năng hoàn thành mục đích dường như kinh khủng và không thể tin được của họ, là đặt cái nồi nóng đỏ lên đầu anh ta.
Tôi nhảy ra với một tiếng thét kinh hãi, giơ súng bắn theo bản năng thẳng vào người phụ nữ độc ác đã ve vuốt Mahomed, giờ đang nắm chặt anh ta trong vòng tay cô ta. Viên đạn bắn thẳng vào lưng và giết chết cô ta, và hôm nay tôi rất vui vì điều đó, kết quả là, cô ta tự tư lợi cho phong tục ăn thịt người của tộc người Amahagger bằng cách tổ chức ra trò này để báo thù sự khinh thường Job dành cho cô ta. Cô ta lún xuống chết, như thể làm vậy để khủng bố và làm mất tinh thần tôi. Mahomed, với nỗ lực phi thường, xô khỏi những kẻ dày vò anh ấy, nhảy cao lên không trung, rơi chết trên xác cô ta. Viên đạn nặng nề từ khẩu súng lục của tôi đã đi xuyên qua cơ thể cả hai, cùng lúc giết chết kẻ giết người, và cứu nạn nhân của cô ta khỏi cái chết còn kinh khủng hơn nghìn lần. Đó là một tai nạn kinh khủng và đau xót nhất.
Có một sự im lặng ngạc nhiên trong khoảnh khắc. Người Amahagger chưa bao giờ nghe tin tức nào về vũ khí này trước đó và tác động của nó làm họ chấn kinh. Nhưng một người đàn ông gần chúng tôi đã phục hồi lại, thu giáo lại chuẩn bị đâm thẳng vào Leo, người gần anh ta nhất.
“Chạy đi!” Tôi gào lên, lấy ví dụ bằng cách chạy ngay lên trên hang động nhanh hết mức chân tôi có thể. Tôi phải mở đường nếu có thể, nhưng bọn người này đã ở đó, bên cạnh, tôi bắt gặp dấu hiệu hình thành đám đông người rõ ràng đang nổi bật lên nơi đường chân trời trước lối vào hang. Tôi đi phía trên hang, theo sau tôi là những người khác, và theo sau họ ầm ầm cả đám đông những kẻ ăn thịt người, đang điên cuồng giận dữ vì cái chết của người phụ nữ. Trong phạm vi tôi thấy vẻ mệt mỏi của Mahomed. Khi tôi bay qua anh ta, tôi cảm thấy hơi nóng từ cái chậu nung nóng đỏ đang nằm gần đó, ngáng chân tôi, và qua ánh sáng của nó, nhìn thấy tay anh ta vẫn yếu ớt di chuyển – vì anh ta chưa hoàn toàn chết. Trên đỉnh hang động là một khối đá nhỏ khoảng ba feet chiều cao và tám feet chiều sâu, có hai cây đèn lớn trên đó đặt vào đêm. Tảng đá này đã bị bỏ lại làm chỗ ngồi hay nơi đưa lên cần bị cắt bỏ khi nó dùng làm chỗ thực hiện các cuộc khai quật, tôi không biết – ít ra tôi không làm thế. Bằng mọi giá cả ba người chúng tôi đều tới đó, nhảy vào, chuẩn bị bán mạng với giá đắt nhất có thể. Sau vài giây, đám đông theo gót chúng tôi mắc lại khi họ thấy chúng tôi phải đối mặt với vòng trên họ. Job ở bên cạnh tảng đá mé trái, Leo ở giữa, tôi bên phải. Sau chúng tôi là những cây đèn. Leo cúi người phía trước, nhìn xuống con đường dài của bóng tối kết thúc nơi đống lửa và những ngọn đèn sáng, xuyên qua nó là cơ thể im lặng của chúng tôi - những kẻ có thể bị coi là sát nhân, lướt qua lướt lại ánh sáng mờ nhạt lấp lánh của những cây giáo, sự phẫn nộ giờ im lặng như con chó bull. Thứ duy nhất nhìn thấy là cái chậu nóng đỏ vẫn sáng trong bóng tối. Có một ánh tò mò trong mắt Leo, gương mặt đẹp trai của cậu ấy đanh lại như đá. Bên tay phải của cậu là con dao đi săn nặng nề. Cậu chuyển cái dây da của nó lên trên cổ tay một chút rồi đưa tay lên vòng qua tôi, cho tôi một cái ôm tốt lành.
“Tạm biệt, nhà nghiên cứu sinh già nua,” cậu ấy nói, “bạn thân mến của cháu – còn hơn cả cha cháu. Chúng ta không có cơ hội chống lại đám côn đồ này; bọn chúng sẽ kết liễu chúng ta trong vài phút nữa, sau đó ăn thịt chúng ta, cháu đoán vậy. Tạm biệt bác. Cháu dẫn bác đến đây thôi. Cháu mong bác sẽ tha thứ cho cháu. Tạm biệt, Job.”
“Ý Chúa sẽ được thực hiện,” Tôi nói qua kẽ răng, như thể chuẩn bị cho dấu chấm hết. Lúc đó, Job hét lên, nâng súng và bắn, trúng một người – không phải người anh ta ngắm tới, nói cách khác: bất kỳ thứ gì Job nhắm bắn đều hoàn toàn an toàn.
Bọn họ chạy ào tới, tôi bắn nhanh hết mức có thể, và đối chiếu với bọn chúng – giữa chúng tôi, Job và tôi, bên cạnh người phụ nữ, năm tên bị giết hay bị trọng thương bằng khẩu súng lục của chúng tôi trước khi hết đạn. Nhưng chúng tôi không có thời gian lên đạn, mà bọn chúng vẫn liều lĩnh tiến lên một cách rất đẹp, dù chúng không biết chúng tôi còn có thể bắn bao lâu.
Một người to lớn nhảy lên phiến đá, Leo đánh chết hắn bằng một cú vung tay mạnh mẽ, đưa con dao sang phải xuyên qua hắn ta. Tôi làm tương tự với tên khác, nhưng Job lỡ mất cú đánh, và tôi thấy một tên Amahagger rắn chắc nắm lấy thắt lưng anh ta rồi tung anh ta ra khỏi tảng đá. Con dao không được buộc dây rơi khỏi tay Job, quay ngang tay cầm lên phía tảng đá trên cao, một tai nạn hạnh phúc nhất với anh ta, ngay khi cơ thể của tên Amahagger đang ở dưới thấp nhất, con dao đó đi xuống và xuyên qua người hắn. Điều gì xảy ra với Job sau đó tôi chắc chắn không biết, nhưng ấn tượng của tôi là anh ta vẫn nằm trên cái xác của kẻ tấn công đã quá cố đó, “làm bộ chết” như người Mỹ nói. Đối với tôi, tôi sớm tham gia vào cuộc gặp gỡ tuyệt vọng với hai tên lưu manh, thật may cho tôi, hai tên này đều đã bỏ giáo lại phía sau; lần đầu tiên trong đời sức mạnh thể chất tuyệt vời Tạo Hóa ban cho tôi đã giúp tôi ở vị trí tốt. Tôi chặt vào đầu một tên bằng con dao đi săn khá to và nặng như một thanh gương ngắn, với sức mạnh đó, thanh thép sắc bén đó đã chẻ đôi sọ hắn tới tận mắt, và rất nhanh chóng hắn rơi ngang xuống, con dao bị xoắn rơi ngay khỏi tay tôi.
Sau đó hai tên khác nhảy vào tôi. Tôi thấy chúng tới, vòng tay qua eo từng tên, và tất cả chúng tôi cùng rơi xuống nền hang, lăn qua lăn lại. Bọn chúng đều rất khỏe, nhưng tôi đã giận đến điên lên, ham muốn tàn sát khủng khiếp bò vào trái tim những người văn minh nhất như chúng tôi cũng thổi bay mọi thứ, sự sống chết run rẩy chờ lượt. Đôi tay tôi vòng qua hai con quỉ ngăm đen, tôi ôm chúng tới khi nghe thấy xương sườn của chúng nứt gãy dưới cái kẹp của tôi. Chúng xoắn lại quằn quại như rắn, đập lại tôi bằng nắm đấm, nhưng tôi giữ được. Nằm trên lưng tôi, hai cơ thể có thể bảo vệ tôi khỏi giáo đâm phía trên, tôi từ từ nghiền nát sinh mạng bọn chúng, thật lạ, tôi đã nghĩ về những gì Người Đứng Đầu hảo tâm của trường Đại Học của tôi tại Cambridge (người là thành viên của Hiệp Hội Hòa Bình) và các nghiên cứu sinh đàn anh của tôi có thể nói nếu họ có thể thấy tôi hay toàn bộ loài người một cách sáng suốt, thông qua chơi trò chơi đẫm máu như thế này. Ngay khi những kẻ tấn công tôi trở nên yếu ớt, hầu hết đều dừng đánh, hơi thở của chúng đã hết, chúng đang chết, nhưng tôi vẫn không dám rời chúng, vì chúng chết rất chậm. Tôi biết rằng, nếu tôi thả lỏng cái kẹp tay của mình, chúng sẽ sống lại. Những tên lưu manh khác có thể nghĩ – vì cả ba chúng tôi đều đang trong bóng tối của phần mỏm đá nhô ra – chúng tôi đã chết cùng nhau, bọn chúng sẽ không can thiệp vào bi kịch nhỏ của tôi ở một mức độ nào đó.
Tôi quay đầu lại, khi tôi còn đang nằm thở hổn hển trong đau đớn của cuộc chiến khủng khiếp, tôi có thể thấy Leo giờ đã ra khỏi tảng đá, vì ánh đèn phủ đầy người cậu ấy. Cậu ấy vẫn đứng vững trên đôi chân, nhưng lại ở giữa đám người đang trào lên với số lượng lớn, những kẻ đang cố kéo cậu ấy xuống như đám sói kéo một con hươu. Phía trên cao hơn chúng là gương mặt nhợt nhạt đẹp đẽ đang đội vương miện của những lọn tóc vàng sáng (vì Leo cao sáu feet hai), tôi biết cậu ấy đang chiến đấu để từ bỏ tuyệt vọng với thứ năng lượng bỗng nhiên trở nên mạnh mẽ và khủng khiếp. Cậu đâm dao xuyên qua một người – bọn chúng rất gần và trộn lẫn với cậu nên không thể dùng giáo giết cậu được, chúng không có dao hay gậy. Tên đó ngã xuống, con dao rơi khỏi tay cậu, khiến cậu không còn khả năng tự vệ, tôi nghĩ kết thúc đã đến. Nhưng không; cậu ấy đã phá vỡ sự nơi lỏng của họ bằng nỗ lực tuyệt vọng, ôm lấy cơ thể người vừa bị giết, nâng nó lên cao trong không trung và ném ngay về phía đám đông những kẻ tấn công mình, cú sốc cùng trọng lượng quét năm hay sáu người bọn họ ngã xuống đất. Nhưng trong phút chốc bọn chúng lại tiến lên, trừ tên đã vỡ sọ, và một lần nữa bị cột lại cùng cậu. Từ từ, với sức lực chiến đấu vô hạn, những con sói đã làm con sư tử gục ngã. Thậm chí cậu đã trấn tĩnh lại, đốn ngã một tên Amahagger bằng nắm đấm, nhưng thế là quá nhiều với một người chiến đấu một mình rất lâu chống lại quá đông, cuối cùng cậu rơi xuống sàn đá, ngã như một cây sồi đổ, đưa cậu về đất cùng cả những kẻ đang bám lấy cậu. Bọn chúng túm chặt tay chân cậu ấy, rồi rời khỏi cơ thể cậu.
“Giáo”, một tiếng kêu khóc vang lên – “giáo để cắt cổ hắn, và thùng để lấy máu hắn.”
Tôi nhắm mắt, vì tôi thấy một tên cầm giáo đi tới, bản thân tôi không thể cựa quậy nổi để giúp Leo, tôi đang trở nên yếu dần, hai tên trên người tôi vẫn chưa chết, và một căn bệnh hiểm nghèo đánh bại tôi.
Bỗng nhiên có tiếng huyên náo, tôi vô tình mở mắt một lần nữa, nhìn về khung cảnh giết người. Cô gái Ustane đang tự lao mình vào hình dáng nằm phủ phục của Leo, bao cơ thể của cậu bằng cơ thể của cô ấy, bám chặt tay vào cổ cậu. Bọn họ cố kéo cô ấy ra khỏi cậu, nhưng cô ấy xoắn chân quanh cậu, treo như một chú chó bull, hay giống một cây leo bám vào một cây lớn hơn, bọn chúng không kéo nổi. Rồi bọn chúng lại cố đâm cậu ấy từ bên cạnh mà không làm tổn thương cô, nhưng cô vẫn che chắn được cho cậu ấy, cậu chỉ bị thương.
Cuối cùng họ mất kiên nhẫn.
“Đâm giáo xuyên qua cả tên này và người phụ nữ,” một giọng nói cất lên, chính là giọng nói đã hỏi các câu hỏi trong bữa yến tiệc rùng rợn đó, “như thế họ sẽ thực sự cưới nhau.”
Rồi tôi thấy một tên có vũ khí thẳng mình đứng dậy. Tôi thấy ánh thép lạnh trên cao, và một lần nữa tôi nhắm mắt.
Khi đó tôi nghe thấy một giọng sấm sét vang lên như rung chuông và vang vọng xuống những con đường đá,
“Dừng lại!”
Rồi tôi ngất đi, một ánh sáng lóe lên xuyên qua trí óc đang tối dần đi của tôi khiến tôi đi dần vào những quên lãng cuối cùng của cái chết.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...