CHƯƠNG 10
Suy đoán
Trong vòng một
giờ đưa ra quyết định cuối cùng, năm chiếc ổ vải đã được mang tới cửa hang, mỗi
cái kèm theo bốn người khiêng và hai người thay thế, cùng một đội vũ trang khoảng
năm mươi người Amahagger tạo thành đoàn hộ tống và vác hành lý. Ba trong số những
cái ổ tất nhiên là dành cho chúng tôi, một cái cho Billali, người tôi vô cùng dễ
chịu khi lắng nghe ông ấy, bạn đồng hành của chúng tôi, còn cái thứ năm tôi
đoán là dành cho Ustane.
“Người phụ nữ
kia sẽ đi cùng chúng ta phải không, thưa cha?” Tôi hỏi Billali khi ông ta đang
đứng trông nom các thứ.
Ông ấy nhún vai
và trả lời,
“Nếu cô ta muốn.
Ở đất nước này phụ nữ làm những gì họ muốn. Chúng tôi sùng kính họ và để họ làm
theo ý họ, vì không có họ thế giới sẽ không thể tiếp diễn; họ là nguồn gốc của
sự sống.”
“À ra vậy,” Tôi
nói, vấn đề này trước đây chưa bao giờ lôi cuốn tôi theo cách sáng lạn thế này.
“Chúng tôi sùng
kính họ,” ông ta tiếp tục, “tới mức cuối cùng họ trở nên không thể chịu nổi, điều
đó thường xảy ra ở mỗi thế hệ sau.”
“Thế khi đó cha
làm gì?” Tôi tò mò hỏi.
Ông ta trả lời
cùng nụ cười nhạt, “Thì chúng ta nổi dậy, giết những người già làm gương cho những
người trẻ, để cho họ thấy chúng ta mới là kẻ mạnh nhất. Bà vợ khốn khổ của ta
đã bị giết như vậy ba năm trước. Rất đáng buồn, nhưng điều đó nói với ta sự thật,
con trai, cuộc sống đã hạnh phúc hơn kể từ đó, vì tuổi tác đã bảo vệ ta khỏi những
người phụ nữ trẻ.”
“Nói ngắn gọn,”
Tôi đáp, trích dẫn câu nói của một người vĩ đại mà trí tuệ khôn ngoan của người
đó vẫn chưa thắp sáng được bóng tối ở Amahagger, “ngài thấy vị trí của ngài tự
do hơn và ít trách nhiệm hơn.”
Câu này thoạt
tiên làm ông ấy bối rối một chút vì không rõ ràng, dù tôi nghĩ tôi đã dịch rất
trúng ý nghĩa gốc, nhưng cuối cùng ông ta cũng hiểu và đánh giá cao.
“Phải, phải đấy,
Khỉ Đầu Chó à,” ông nói, “giờ ta đã hiểu câu đó, nhưng mọi trách nhiệm đều đã bị
triệt tiêu, hầu như đa phần là vậy, đó là tại sao giờ đây có ít phụ nữ cao tuổi
như vậy. Họ tự làm cho họ thành như thế. Như với cô gái này,” ông ta tiếp tục bằng
giọng uy nghiêm, “Tôi không biết phải nói gì. Cô ta là một cô gái dũng cảm, cô
ta yêu con Sư Tử kia (Leo); ngươi đã thấy cô ta đi theo hắn thế nào, cứu mạng hắn
thế nào. Theo phong tục của chúng ta, cô ta đã phải cưới hắn, và có quyền đi tới
nơi nào hắn đi, trừ khi,” ông ta rõ ràng nói thêm, “Bà ấy nói không, vì lời của bà ấy vượt trên tất cả mọi quyền lợi.”
“Nếu Bà ấy ra lệnh cô ấy phải rời bỏ cậu ấy,
nhưng cô ấy từ chối thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra?”
Ông ta nhún vai,
“Nếu cơn bão ra lệnh cái cây phải cong, nó không chịu; chuyện gì xảy ra?”
Rồi không đợi
câu trả lời, ông ta quay lại, đi về phía cái ổ của ông ấy, mười phút sau đó tất
cả chúng tôi đã ở trên đường.
Mất một giờ hay
hơn thế để vượt qua vùng lòng chảo đồng bằng từ tro núi lửa này, và khoảng nửa
giờ để trèo lên rìa phía xa hơn. Tuy nhiên ở đó cảnh thật đẹp. Phía trước chúng
tôi là một sườn dốc dài đồng bằng cây cỏ, xen lẫn đây đó những bụi cây có gai.
Dưới sườn dốc hiu hiu gió này, cách khoảng chín hay mười dặm, chúng tôi có thể
thấy một biển đầm lầy mờ nhạt, trên đó hơi nước hôi thối treo lơ lửng như khói
trong một thành phố. Người khiêng rất dễ đi xuống sườn dốc, giữa trưa chúng tôi
đã tới bìa đầm lầy ảm đạm. Chúng tôi dừng ở đó ăn trưa, rồi đi theo con đường đầy
gió và quanh co, lao xuống bãi lầy. Hiện giờ qua đôi mắt không quen của chúng
tôi, con đường trở nên không rõ ràng đến mức hầu như không thể phân biệt được
quái vật thủy sinh và chim chóc, một ngày vây lấy tôi là bí ẩn làm cách nào những
người khiêng này đã tìm ra cách vượt qua đầm lầy. Đứng đầu đoàn người là hai
người đàn ông đi bộ với hai cây sào dài, giờ một lần nữa đang được cắm xuyên qua
đất phía trước, lý do của hành động này là vì đặc tính tự nhiên của đất bùn lầy
thường xuyên thay đổi – khiến tôi không quen – vì thế nơi có lẽ đủ an toàn để
đi qua tháng trước có thể nuốt mất người đi bộ vào tháng tới. Tôi chưa bao giờ
thấy một khung cảnh ảm đảm và phiền muộn hơn thế. Hàng dặm hàng dặm đầm lầy, chỉ
biến đổi trên mỗi dải đất khá rắn màu xanh lá tươi sáng, ao hồ sâu và nhợt nhạt
cỏ lác cao lêu nghêu viền quanh, vạc vỗ ầm ầm còn ếch không ngừng kêu oàm oạp:
hàng dặm nối nhau không ngừng nghỉ, trừ khi sương mù mang theo sốt rét có thể gọi
là nghỉ. Sự sống duy nhất trong vùng đầm lầy vĩ đại này là các loại chim sống
dưới nước và các động vật ăn thịt chúng, cả hai đều có số lượng khổng lồ. Ngỗng,
cò, vịt, le le, cuốc, chim dẽ giun, chim choi choi đều tụ tập quanh chúng tôi,
nhiều loài hoàn toàn mới mẻ với tôi, tất cả bị thuần hóa đến mức ai cũng có thể
dùng gậy gõ lên đầu chúng vậy. Giữa đám chim chóc tôi đặc biệt chú ý tới loài
chim rẽ giun rất đẹp, hầu hết đều có kích thước của gà săn, bay giống chim hơn
loài chim rẽ giun ở Anh. Trong các ao hồ cũng vậy, rất nhiều loại cá sấu nhỏ hoặc
cự đà khổng lồ, tôi không biết, Billali đã nói cho tôi, chúng ăn thịt các loài
chim nước, còn cả một lượng lớn các loài rắn nước đen gớm ghiếc nếu bị cắn rất
nguy hiểm, tôi nghĩ nó có thể làm chết người như hổ mang hay rắn lục. Đám ếch đực
cũng rất to lớn, giọng tương đương với kích cỡ; còn muỗi – Job gọi chúng là “đội
quân súng hỏa mai” – chúng có thể còn tệ hơn trên sông, dày vò chúng tôi khủng
khiếp. Tuy nhiên không nghi ngờ gì, điểm tệ nhất của đầm lầy là mùi khủng khiếp
của thảm thực vật mục nát đeo bám, luôn tích cực áp đảo mọi lúc, hơi bốc lên chứa
khuẩn sốt rét đi kèm, mà chúng tôi tất nhiên cũng phải hít thở.
Lúc chúng tôi đi
qua, cuối cùng mặt trời cũng chìm xuống trong vẻ huy hoàng ủ rũ khi chúng tôi đến
vùng đất nhú lên khoảng hai mẫu – một ốc đảo nhỏ khô cằn giữa vùng đất hoang –
nơi Billali thông báo chúng tôi có thể cắm trại. Tuy nhiên việc cắm trại rất
đơn giản, thực tế chỉ là ngồi xuống đất quanh một đống lửa ít ỏi nhóm từ vải
khô và gỗ mang theo. Nhưng chúng tôi vẫn làm tốt nhất có thể, rồi hút thuốc và
ăn ngon miệng như thể mùi ẩm ướt và cái nóng ngột ngạt cho phép, vì khu đất thấp
này rất nóng, kỳ lạ hơn, cũng rất lạnh lẽo. Nhưng dù nóng thế nào đi chăng nữa,
chúng tôi vẫn vui vẻ gần đống lửa, vì chúng tôi thấy đám muỗi không thích khói.
Hiện giờ chúng tôi đang tự cuốn mình trong chăn và cố ngủ, cố không quan tâm tới
đám ếch đực cùng âm thanh cảnh báo gầm rú kì quái từ hàng trăm con chim rẽ giun
lơ lửng giữa không trung khiến ngủ là việc bất khả thi, đừng nói đến những bất
tiện khác. Tôi quay lại nhìn Leo bên cạnh; cậu ấy đang ngủ, nhưng gương mặt đã
nóng đỏ khiến tôi không thích, bên ánh lửa lập lòe tôi nhìn thấy Ustane đang nằm
bên kia của cậu, hết lần này đến lần khác đè lên khuỷu tay và nhìn cậu đầy lo lắng.
Tuy nhiên tôi
không thể làm gì cho cậu ấy, vì chúng tôi đã uống cả tá ký ninh phòng sốt rét –
thứ phòng vệ duy nhất chúng tôi có – vì vậy tôi nằm ngắm sao đang đi ra hàng
ngàn, cho đến khi tất cả kiến trúc bao la của bầu trời đã trải đầy những điểm lấp
lánh, mỗi điểm một thế giới! Thật là một cảnh tượng kỳ diệu để con người đo sự
tầm thường của chính mình! Chẳng bao lâu tôi từ bỏ ý nghĩ về nó, vì tâm trí dễ mệt
mỏi khi cố vật lộn với Đấng Vô Hạn, theo dấu chân của Đấng Toàn Năng khi ngài
tiến bước từ tinh cầu này sang tinh cầu kia, hay suy diễn mục đích của Ngài từ
công việc Ngài làm. Những điều đó không phải để chúng ta biết. Tri thức quá mạnh,
mà chúng ta lại yếu ớt. Quá khôn ngoan có thể che khuất tầm nhìn không hoàn hảo
của chúng ta, quá mạnh mẽ khiến chúng ta say sưa, quá nặng nề là lý do yếu ớt
rơi xuống làm chúng ta chết đuối trong sâu thẳm hư ảo của chính mình. Kết quả đầu
tiên khi tri thức nhân loại tăng lên nhờ thông dịch cuốn sách Tự Nhiên bằng nỗ
lực quan sát bền bỉ là vì cái gì? Phải chăng không đặt câu hỏi cho ngài thường
xuyên về sự tồn tại của Tạo Hóa, hay bản chất mỗi mục đích thông minh của chính
ngài? Sự thật bị che giấu, vì chúng ta không còn thấy vinh quang hơn so với khi
thấy vinh quang từ mặt trời. Điều đó có thể hủy hoại chúng ta. Toàn bộ tri thức
không phải vì con người khi con người đang ở đây, đó là vì năng lực của họ, thứ
họ nghĩ rất vĩ đại nhưng thực ra lại rất nhỏ bé. Tàu đã sớm chất đầy, là một phần
ngàn trí khôn lặng lẽ không tả nổi đang điều khiển các tinh cầu phát sáng quay
vòng, còn Thần Sức Mạnh khiến chúng quay vòng đang ấn vào đó, nó tan thành từng
mảnh. Có lẽ ở một không gian và thời gian khác nào đó, mọi thứ lại đảo ngược lại,
ai biết được? Nơi đây nhiều người sinh ra từ xác thịt nhưng phải chịu đựng vất
vả và khổ hạn để giữ những bọt bong bóng của Thần Mệnh - thứ mà họ gọi là niềm
vui – họ cảm kích nếu trước khi vỡ, chúng dừng lại một chút trên tay họ, rồi
khi bi kịch diễn ra, thời giờ của họ tới lúc diệt vong, tới lúc hèn mọn ra đi
mà họ không biết.
Bên trên tôi
đang nằm, những vì sao tỏa sáng vĩnh hằng, dưới chân tôi những quả bóng lửa
tinh quái sinh ra từ đầm lầy lăn đi lăn lại, hơi nén lại và khao khát đất mẹ;
dường như trong cả hai tôi đều thấy bóng dáng con người, tưởng chừng như con
người một ngày nào đó có thể thế, nếu Thần Sức Mạnh của sự sống trao tặng cho
con người, chúng cũng có thể trao tặng điều đó. Ôi, có lẽ chính chúng ta từng
năm từng tháng ngủ trên trái tim xa vời vợi mà ta chỉ đạt được một chút mỗi lần!
Ôi, chúng ta đã có thể làm rụng rời những bánh răng cầm tù tâm hồn và bay tới
điểm cao, như người lữ hành nhìn xuyên không gian từ đỉnh cao choáng váng của
Darien, chúng ta có lẽ đã có thể dùng đôi mắt tâm linh nhìn thấu vào sâu thẳm của
Đấng Vô Hạn!
Thứ có thể cởi bỏ
lớp áo khoác trần tục này để vĩnh viễn dành cho những suy nghĩ nhân thế và những
khát vọng khốn khổ; không còn lâu nữa, như ngọn nến bên xác chết, bị ném đi
theo cách này hay cách khác bằng sức mạnh chúng ta điều khiển; hoặc nếu ta có
thể kiểm soát chúng trên lý thuyết, chúng ta cũng vẫn bị những nhu cầu bản năng
thúc đẩy phải tuân theo mà thôi! Phải, cởi bỏ chúng, thất bại hoàn toàn ở mọi
nơi hôi hám và gai góc; giống như những điểm sáng lấp lánh phía trên tôi kia,
ngủ trên cao, được bao bọc vĩnh viễn trong ánh sáng cao thượng hơn của chính
chúng ta, giờ vẫn đang soi sáng chúng ta như ngọn lửa yếu ớt thắp trong những
quả bóng khủng khiếp kia, kéo sự bé nhỏ của chúng ta xuống trong vinh quang rộng
lớn của những ước mơ, vô hình nhưng vẫn quẩn quanh điều mong muốn, từ đó, mọi sự
thật và vẻ đẹp đều hiện ra!
Những suy nghĩ
như vậy trôi qua tâm trí tôi đêm đó. Chúng đến để hành hạ ta. Tôi nói để hành hạ,
than ôi! Suy nghĩ chỉ có thể dùng để đo được sự bất lực của tư duy. Mục đích
chúng ta yếu ớt khóc than trong im lặng khủng khiếp là gì? Trí tuệ mờ nhạt của
chúng ta có thể đọc ra bí mật của bầu trời sao rải rác kia không? Câu trả lời
nào đã hiện ra? Không bao giờ, không gì ngoài tiếng dội lại và những khung hình
tuyệt vời! Chúng ta tin có câu trả lời, theo thời gian một Bình Minh mới sẽ đến
trải sắc hồng xuống những con đường của đêm dài. Ta tin điều đó, vì vẻ đẹp của
nó chiếu lên giờ tỏa sáng trong tim ta tới tận chân trời nơi tử huyệt, và ta gọi
nó là Hi Vọng. Không có Hi Vọng chúng ta sẽ khổ đến chết về tâm linh, với sự trợ
giúp của Hi Vọng chúng ta có thể leo tới Thiên Đường, hay ít ra có thể chứng
minh điều nhạo báng có diễm phúc giữ chúng ta thoát khỏi tuyệt vọng, được nhẹ
nhàng hạ xuống vực sâu của giấc ngủ vĩnh hằng.
Rồi tôi rơi vào
nghĩ ngợi về cam kết chúng tôi đã bẻ cong, thật hoang dại, và thật lạ lùng câu
chuyện dường như phù hợp với những gì đã được ghi lại hàng thế kỷ trước trên mảnh
gốm. Ai là người phụ nữ kỳ lạ đó - Nữ Hoàng của tộc người kỳ lạ như chính bà ta,
đang thống trị giữa những tàn tích của một nền văn minh đã mất? Ý nghĩa của câu
chuyện về Ngọn Lửa tạo nên sự sống vĩnh hằng là gì? Liệu có tồn tại chất lỏng hay
bản thể nào có thể củng cố xác thịt theo thời gian, bảo tồn bồi đắp sự tàn úa?
Có thể, dù không khả thi. Sự tiếp diễn vô hạn của sự sống không phải là thứ kỳ
diệu, như Vincey khốn khổ đã nói, giống sự sống phát sinh và kéo dài tạm thời.
Nếu chuyện này là thật thì sao? Người tìm ra nó không nghi ngờ gì, sẽ thống trị
thế giới. Người đó có thể tích lũy mọi của cải, sức mạnh và sự thông thái trên
đời. Người đó có thể trao lại cho đời những nghiên cứu nghệ thuật hay khoa học.
Phải, nếu vậy, Bà ấy này thực sự bất
tử, điều tôi từng không tin, làm sao có thể thế được khi mọi thứ đều dưới chân
bà ấy, bà ta lại thích ở trong hang động giữa một xã hội của những kẻ ăn thịt
người ư? Điều này chắc chắn là một câu hỏi. Toàn bộ câu chuyện thật quái dị, chỉ
xứng đáng với thời mê tín dị đoan mà nó được ghi lại. Dù sao tôi cũng chắc chắn
tôi không muốn cố đạt được sự bất tử. Tôi đã có quá nhiều lo lắng, thất vọng và
những cay đắng sâu kín trong suốt bốn mươi năm có lẻ tồn tại của bản thân, chỉ
mong tình trạng này tiếp tục vô thời hạn. Tôi cũng cho rằng cuộc đời tôi thật hạnh
phúc, nói một cách tương đối.
Và sau đó nghĩ rằng
hiện tại rất có khả năng sự nghiệp trần thế của chúng tôi sẽ bị cắt ngắn lại
hơn nhiều so với thực tế lẽ ra phải kéo dài, tôi cuối cùng đã thành công đi vào
giấc ngủ, một thực tế mà bất kỳ ai đọc câu chuyện này, bất kỳ ai từng đọc, có lẽ
chắc chắn sẽ rất biết ơn.
Khi tôi tỉnh lại
một lần nữa trời vừa sáng, người bảo vệ và những người khiêng đang di chuyển
như những bóng ma xuyên qua màn sương mù dày đặc buổi sáng, sẵn sàng khởi hành.
Đống lửa hoàn toàn dập tắt, tôi đứng dậy vươn người, run rẩy tứ chi từ cái lạnh
ẩm ướt của bình minh. Rồi tôi nhìn Leo. Cậu ấy đã ngồi dậy, tay giữ đầu, tôi thấy
gương mặt cậu ửng đỏ và mắt ngời sáng với ánh vàng quanh đồng tử.
“Thế nào, Leo,”
Tôi nói, “Cháu cảm thấy thế nào rồi?”
“Cháu cảm thấy
như thể cháu sắp chết,” cậu ấy trả lời bằng giọng khàn khàn. “Đầu cháu đang bị
bổ ra, khắp người run rẩy, cháu ốm yếu như mèo hen.”
Tôi huýt sáo,
hay nếu tôi không huýt sáo tôi sẽ cho rằng – Leo đang bị sốt rét tấn công. Tôi
tới chỗ Job, hỏi cậu ta về ký ninh sốt rét, may chúng tôi vẫn có để dùng, chỉ
thấy Job không tốt hơn nhiều lắm. Anh ta phàn nàn về đau nhức dọc sống lưng và
chóng mặt, hầu như không có khả năng tự giúp bản thân. Thế là tôi làm điều duy
nhất có thể trong hoàn cảnh ấy – cho cả hai bọn họ uống mười viên ký ninh chống
sốt rét, còn bản thân dùng một liều ít hơn để phòng ngừa. Sau đó tôi thấy
Billali, giải thích cho ông ta mọi chuyện đang diễn ra thế nào, đồng thời hỏi
ông ấy điều gì tốt nhất cần làm. Ông ta đi cùng tôi, xem Leo và Job (người mà
giờ ông ấy gọi là Con Lợn vì gương mặt tròn trịa, béo lẳn và đôi mắt nhỏ của
anh ta).
“À,” ông ta nói
khi chúng tôi đã đi khá xa, “sốt rét! Ta nghĩ vậy. Con Sư Tử khá tệ, nhưng hắn
ta còn trẻ nên có lẽ sẽ sống sót. Còn với Con Lợn, không quá tệ; chỉ là hơi chớm
sốt rét; vì bệnh này luôn bắt đầu bằng sống lưng đau nhức, sẽ xài bớt chút béo
tốt của hắn ta.”
“Họ có thể tiếp
tục không, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Không, con
trai, bọn chúng phải tiếp tục. Nếu bọn chúng dừng ở đây, chúng chắc chắn sẽ chết;
chúng ở trên ổ sẽ khỏe hơn trên mặt đất. Đến tối, nếu mọi chuyện tốt hơn, chúng
ta sẽ vượt qua đầm lầy và có không khí tốt hơn. Đi nào, hãy nhấc chúng vào ổ và
khởi hành, vì đứng trong sương mù buổi sáng sẽ rất tệ. Chúng ta có thể ăn khi
đang đi.”
Chúng tôi làm
theo, trái tim nặng nề một lần nữa được tôi mang theo trên cuộc hành trình kỳ lạ.
Ba giờ đầu tất cả đều ổn như mong đợi, sau đó một tai nạn xảy ra khiến chúng
tôi mất vui từ đoàn người của ông bạn Billali đáng kính, cái ổ của ông ấy đang
dẫn đầu đoàn người. Chúng tôi đi qua một đoạn đặc biệt nguy hiểm của bãi lầy,
người khiêng ổ đôi khi bị ngập tới tận đầu gối. Quả thật, cách họ tính toán để
mang những cái ổ nặng vượt qua vùng đất này thật bí ẩn với tôi, như thể chúng
tôi đang đi du lịch, dù hai tay rảnh rỗi, giống như bốn người thường trực khiêng
ổ kia, tất nhiên phải để cáng trên hai vai.
Hiện giờ chúng
tôi đang mắc sai lầm và loạng choạng, có một tiếng kêu khóc kịch liệt, rồi một
cơn bão la hét, cuối cùng, một tiếng thét giật gân to nhất, cả đoàn người dừng
lại.
Tôi nhảy khỏi
cái ổ và chạy về phía trước. Khoảng hai mươi thước trước mặt là bờ của một trong
những ao bùn tẻ nhạt mà tôi đã nói, con đường chúng tôi đang đi chạy dọc tới đầu
bờ ao, như một con dốc. Nhìn về phía cái ao này, thật khiếp sợ, tôi thấy cái ổ
của Billali đang nổi trên đó, còn bản thân Billali không thấy đâu cả. Để tường
tận mọi việc, tôi có lẽ nên giải thích chuyện đã xảy ra. Một trong những người
khiêng ổ của Billali không may đạp lên một con rắn đang phơi nắng, nó cắn vào
chân anh ta, theo tự nhiên, anh ta không đi được, rồi người ta thấy anh ta té
nhào xuống bờ ao, chụp lấy cái ổ để tự cứu mình. Kết quả giống như dự đoán. Cái
ổ bị kéo xuống bờ ao, những người khiêng cáng bị ngăn không đi được, còn thứ
đó, gồm Billali và người đàn ông bị rắn cắn, đang lăn lộn trong cái ao đầy bùn.
Khi tôi tới rìa mặt nước, không thấy ai trong hai người họ; thực vậy, người
khiêng ổ bất hạnh không bao giờ gặp lại nữa. Anh ta đã đập đầu vào thứ gì đó,
hoặc bị kẹt trong bùn, hoặc có thể rắn cắn khiến anh ta bị liệt. Dù sao thì anh
ta đã biến mất. Nhưng dù không thấy Billali, chỗ ông ấy đủ trông rõ từ cái ổ nổi
đang lúc lắc, trong đám vải và rèm cửa ông ta đang bị vướng vào.
“Cha kia rồi!
Cha của chúng ta kia kìa!” Một người trong số đàn ông nói, nhưng anh ta không động
một ngón tay để giúp ông ấy, những người khác cũng không làm gì. Họ chỉ đơn giản
đứng nhìn chằm chằm mặt nước.
“Tránh đường, lũ
súc vật các người!” Tôi hét lên bằng tiếng Anh, ném chiếc mũ đi, chạy tới và nhảy
thẳng vào cái ao nhầy nhụa trông thật khủng khiếp đó. Vài cú sải tay đã đưa tôi
tới chỗ Billali đang vật lộn dưới đám vải.
Bằng cách nào
đó, tôi hoàn toàn không biết, tôi đã thành công đẩy nó giải thoát cho ông ta,
cái đầu đáng kính của ông ta bị phủ chất nhờn xanh lá, như thần Bacchus với những
chiếc lá thường xuân vàng vàng, nổi trên bề mặt nước. Phần còn lại thật dễ
dàng, vì Billali là một nhân vật thực sự xuất sắc, nói chung không giữ chặt lấy
tôi như người chết đuối thường hay làm, vì thế tôi dùng tay lôi ông ta ra, kéo
ông ta lên bờ ao, dù bùn làm chúng tôi rất khó khăn kéo lên. Cảnh tượng bẩn thỉu
như chúng tôi chứng kiến đó tôi chưa bao giờ thấy trước đây, có lẽ nó mang ý
nghĩa nào đó về phẩm giá gần như siêu nhân của con người Billali khi tôi nói điều
này, ho, nửa chết đuối, phủ đầy bùn và chất nhờn màu xanh lá cây, chòm râu tuyệt
đẹp trở thành điểm nhỏ giọt giống cái đuôi heo tưới dầu tươi của người Trung
Hoa, ông ta trông vẫn đáng kính và oai nghiêm.
“Lũ chó các
ngươi,” ông ta nói, giải quyết đám người khiêng ổ ngay khi ông ta hồi phục đủ để
nói, “Các ngươi đã bỏ lại ta, cha của các ngươi, để ta chết đuối. Nếu không có
người lạ này, con trai ta, Khỉ Đầu Chó, chắc chắn ta đã bị chết đuối. Được, ta
sẽ ghi nhớ điều này,” ông ta dán lên họ cái nhìn lấp lánh đầy nước, dù sao tôi
thấy bọn họ không thích, dù họ cố tỏ ra lạnh lùng ảm đạm.
“Ngươi, con
trai,” ông già tiếp tục, quay về phía tôi và giữ tay tôi, “chắc chắn ta sẽ là bạn
của ngươi dù tốt hay xấu. Ngươi đã cứu mạng ta: không chừng một ngày nào đó ta
sẽ cứu ngươi.”
Sau khi lau sạch tốt nhất có thể, chúng tôi vớt
cái ổ lên và tiếp tục đi, trừ người đàn ông đã bị chết đuối. Tôi không biết có
phải anh ta là một nhân vật không nổi tiếng, hay do sự thờ ơ và ích kỷ trong bản
tính, nhưng tôi buộc phải nói rằng không ai có vẻ đau buồn lắm về sự biến mất đột
ngột cuối cùng của anh ta, có lẽ trừ những người phải chia sẻ phần việc của anh
ta.
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)