CHƯƠNG 11
Đồng bằng Kôr
Khoảng một giờ
trước khi mặt trời lặn, để tỏ lòng biết ơn vô bờ của tôi, cuối cùng chúng tôi
cũng tới vành đai lớn của đầm lầy, khu đất đó phồng lên theo một chuỗi lượn
sóng. Ở mặt bên này của đỉnh sóng đầu tiên, chúng tôi dừng lại nghỉ đêm. Hành động
đầu tiên của tôi là kiểm tra tình hình của Leo. Tệ hơn buổi sáng, có đặc điểm mới
và đau đớn, nôn mửa phát sinh, rồi tiếp tục như thế tới tận sáng. Tôi không chớp
mắt được cái nào đêm đó, vì tôi chuyển sang hỗ trợ Ustane, người đang làm một
trong những y tá nhẹ nhàng và không biết mệt mỏi nhất tôi từng thấy, chăm sóc
Leo và Job. Tuy nhiên không khí ở đây ấm và ôn hòa, không quá nóng, không có muỗi.
Chúng tôi cũng ở trên mực sương mù đầm lầy, thứ đang trải dài bên dưới chúng
tôi như tấm áo choàng mờ mịt khói trong thành phố, lóe sáng lên đây đó những quả
cầu lửa lang thang của đầm lầy. Tương đối mà nói, chúng tôi đang khá thoải mái.
Vào bình minh buổi
sáng hôm sau, Leo hoàn toàn choáng váng và tưởng tượng rằng đang bị chia thành
hai. Tôi đau khổ kinh hãi, rồi bắt đầu tự hỏi bệnh này sẽ kết thúc bằng loại sợ
hãi nào. Than ôi! Tôi đã từng nghe quá nhiều về kết cục nói chung của nó. Khi
tôi đang tự dằn vặt, Billali đã tới và nói chúng tôi phải xoay xở, đặc biệt hơn
theo ý kiến của ông ta, nếu Leo không tới được nơi để cậu ấy tĩnh dưỡng và điều
trị phù hợp, trong vòng mười hai giờ tới, mạng sống của cậu ấy chỉ là vấn đề
ngày một ngày hai. Tôi không thể làm gì khác ngoài đồng ý với ông ta, vì vậy
chúng tôi đưa Leo lên ổ, và bắt đầu đi tiếp, Ustane đi bộ bên cạnh cậu ấy,
không cho ruồi đậu vào, và trông chừng để cậu không rơi xuống đất.
Sau nửa giờ mặt
trời lên, chúng tôi đã tới đỉnh gò đất tôi đã kể, và khung cảnh rất đẹp phá vỡ
cái nhìn của chúng tôi. Bên dưới chúng tôi trải rộng một miền trù phú, xanh mướt
cỏ cây, đáng yêu hoa lá. Trên nền phía xa như tôi có thể thấy, khoảng mười tám
dặm từ nơi chúng tôi đứng, một ngọn núi lớn bất thường đột ngột mọc lên trên đồng
bằng. Chân của ngọn núi to lớn này như một sườn cỏ dốc, nhưng mọc trên đó, tôi
nên nói là dựa vào quan sát tiếp theo, ở độ cao khoảng năm trăm feet trên mặt đồng
bằng, là một bức tường đá trọc cực kỳ lớn và dốc, cao khoảng 1200 hay 1500
feet. Hình dáng ngọn núi có nguồn gốc núi lửa này khá tròn, tất nhiên, chỉ một
đoạn của vòng tròn nhìn thấy được, thật khó ước lượng kích thước chính xác của
nó, vì nó thật khổng lồ. Sau đó tôi phát hiện ra nó bao phủ một vùng đất ít hơn
năm mươi dặm vuông. Bất kỳ thứ gì to lớn hơn, oai nghiêm hơn khung cảnh tòa lâu
đài tự nhiên hùng vĩ này đang thể hiện, tôi đều chưa bao giờ thấy, và tôi cho
là tôi sẽ không bao giờ thấy. Vẻ cô đơn đi cùng sự uy nghi của nó, với những
vách đá cao chót vót như hôn lên bầu trời. Thực sự phải nói rằng, chúng đang
khoác áo mây, như nằm trong hàng đống xốp xếp thành hàng lũy rộng lớn tầng tầng
lớp lớp.
Tôi ngồi trong
võng và nhìn ra khắp vùng đồng bằng, trước khung cảnh li kỳ và hùng vĩ này, tôi
cho rằng Billali nhận ra điều đó, vì ông ta mang ổ tới kế bên.
“Để ý thấy
không, đó là ngôi nhà của ‘Bà ấy – người
chúng ta phải tuân lệnh’!” ông ta nói. “Có nữ hoàng nào từng có ngai vàng
như vậy trước đây không?”
“Thật tuyệt vời,
thưa cha,” Tôi trả lời. “Nhưng làm sao chúng ta đi vào được? Những vách đá kia
rất khó vượt qua.”
“Ngươi sẽ thấy
thôi, Khỉ Đầu Chó à. Giờ hãy nhìn con đường bên dưới chúng ta. Ngươi nghĩ đó là
gì? Ngươi là một người thông thái. Nào, hãy nói cho ta đi.”
Tôi nhìn, và thấy
thứ dường như là một đường chạy thẳng tới chân núi, dù nó được cỏ bao phủ. Có
những bờ cao mỗi bên, bị phá vỡ đây đó, nhưng vẫn khá liên tục, ý nghĩa của nó
tôi không hiểu. Có vẻ thật kỳ cục khi ai đó lại đi kè một con đường.
“Vâng, thưa
cha,” Tôi trả lời, “Tôi cho rằng đó là một con đường, nói cách khác tôi đang ám
chỉ rằng đó là một lòng sông, hay đúng hơn,” tôi nói thêm, quan sát hướng kỳ lạ
của đường cắt, “một kênh đào.”
Billali – người
giờ đây không còn chút tồi tệ nào vì ngâm mình hôm trước – gật đầu khôn khéo
đáp lại.
“Đúng rồi, con
trai. Đó là một kênh đào lớn bị cắt ra bởi những người sống trước thời chúng ta
ở nơi này để mang nước đi. Ta chắc chắn điều này: trong vòng tròn bằng đá của
ngọn núi mà chúng ta sẽ tới kia là một cái hồ lớn. Nhưng những người đã sống
trước chúng ta kia, bằng nghệ thuật tuyệt vời mà ta không biết gì về nó nữa, đã
đục một con đường cho nước chảy qua đá rắn của ngọn núi, xuyên tới tận lòng hồ.
Thoạt tiên họ cắt con kênh đào mà ngươi thấy trên đồng bằng. Sau đó, khi nước
cuối cùng đã vỡ ra, nó chạy hối hả xuống con kênh được làm để nhận nước, và chảy
qua đồng bằng này tới khi nó đến được vùng đất thấp phía sau sườn dốc, ở đó,
không chừng nó đã tạo ra khu đầm lầy mà chúng ta vừa vượt qua. Khi cái hồ cạn
nước, những người mà ta nói đã xây một thành phố hùng mạnh trong lòng nó, nơi
đó giờ chả còn gì ngoài tro tàn và cái tên Kôr còn lưu lại, từ đời này qua đời
khác gọt giũa những hang động và những con đường nhỏ ngươi đang thấy.”
“Có thể,” Tôi trả
lời; “nhưng nếu vậy, làm sao cái hồ lại không đầy nước trở lại khi mưa và nước
suối đổ xuống?”
“Không, con
trai, tộc người đó rất thông thái, họ để một cái cống để giữ nó sạch. Ngươi có
nhìn thấy con sông bên phải không?” và ông ấy chỉ về phía dòng suối có kích thước
vừa phải uốn như vết thương trên đồng bằng này, cách chúng tôi chừng bốn dặm.
“Đó là cái cống, nó đi ra từ vách núi cắt qua. Có lẽ thoạt tiên nước chảy xuống
kênh đào này, nhưng sau đó, tộc người đó đã xoay dòng chảy của nó, dùng để cắt
thành một con đường.”
“Thế không còn
chỗ nào người ta có thể đi vào ngọn núi lớn kia,” tôi hỏi, “ngoại trừ đi qua
cái cống đó ư?”
“Có một chỗ,” ông
ta trả lời, “nơi gia súc và người đi bộ có thể đi qua mất nhiều sức hơn, nhưng
bí mật. Ngươi có tìm cả năm cũng không bao giờ thấy nó. Nó chỉ sử dụng một lần
mỗi năm, khi những đàn gia súc đã được vỗ béo trên các sườn núi và trên đồng bằng
này, được điều khiển để quay lại không gian bên trong đó.”
“Bà ấy luôn luôn sống trong đó ư?” Tôi hỏi,
“hay bà ấy tới đây khi chưa có ngọn núi?”
“Không, con
trai, nơi bà ấy ở, chính là nơi đây.”
Giờ chúng tôi
đang ở trên vùng đồng bằng hùng vĩ, tôi thỏa thích khảo sát vẻ đẹp đa dạng của
các loài hoa và cây cối bán nhiệt đới, loài sau sinh trưởng đơn lẻ, hoặc hầu hết
đều thành cụm ba hay bốn cây, nhiều cây gỗ có kích thước lớn, thuộc họ sồi luôn
tươi xanh. Cũng có rất nhiều cọ, một số cao hơn một trăm feet, những cây dương
xỉ lớn nhất và đẹp nhất tôi từng thấy, treo lơ lửng trên mây những con chim hút
mật nạm ngọc và bướm cánh lớn. Lang thang giữa cây cối hay thu mình trên thảm cỏ
dài như nệm lông là vô số trò chơi của đám tê giác. Tôi nhìn thấy tê giác, bò
(một đàn lớn), linh dương châu Phi, lừa vằn, sơn dương đen, loài đẹp nhất trong
tất cả các loại sơn dương, không bàn đến nhiều loài giải trí nhỏ hơn, ba con đà
điểu tiếp cận phía chúng tôi như vật thể màu trắng trôi dạt trước cơn gió mạnh.
Trò chơi phong phú đến mức tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Tôi có một khẩu
Martini nòng đơn thể thao để trong cái ổ - con “Tàu tốc hành” quá cồng kềnh đó -
và thoáng thấy một con linh dương châu Phi béo đẹp đang cọ mình dưới một cây
như cây sồi, tôi nhảy ra khỏi cái ổ, bò tới gần nó như tôi có thể. Nó cách tôi
khoảng tám mươi thước, quay đầu nhìn tôi, chuẩn bị chạy trốn. Tôi nâng khẩu
súng trường, đưa xuống giữa vai, vì con linh dương ở một bên của tôi, rồi bắn. Trong
toàn bộ những trải nghiệm nhỏ của mình, tôi chưa bao giờ làm một phát gọn gàng
hơn thế hay một cú giết thú đẹp hơn thế, vì con linh dương to lớn nhảy ngay lên
không trung và rơi chết. Những người khiêng ổ đang dừng lại xem màn trình diễn,
thì thầm kinh ngạc, một lời khen bất thường từ đám người đang ủ rũ, những kẻ dường
như không bao giờ ngạc nhiên vì bất kỳ thứ gì, một đám hộ tống ngay sau đó chạy
tới xẻ thịt con vật. Với tôi, dù mong muốn nhìn thấy nó, tôi vẫn ung dung bước
lại cái ổ như thể tôi đã quen giết linh dương trong đời vậy, cảm thấy bản thân
nâng lên vài cấp độ trong ước đoán của người Amahagger, những kẻ nhìn toàn bộ sự
việc như một biểu hiện cấp cao của phù thủy. Tuy nhiên thực tế, tôi chưa bao giờ
thấy một con linh dương châu Phi trong trạng thái hoang dã trước đây. Billali
nhiệt tình đón nhận tôi.
“Tuyệt vời, con
trai, Khỉ Đầu Chó à,” ông ta kêu lên; “Thật tuyệt vời! Ngươi là một người rất
vĩ đại, dù thật xấu xí. Nếu ta chưa bao giờ thấy, chắc chắn ta không bao giờ có
thể tin nổi. Mà ngươi đã nói ngươi sẽ dạy ta cách giết kiểu này đúng không?”
“Chắc chắn rồi,
thưa cha,” Tôi nhẹ nhàng nói; “không có gì cả.”
Nhưng cùng lúc
đó tôi chắc chắn rằng khi “cha tôi” Billali bắt đầu bắn, tôi sẽ không phải nằm
xuống hay trốn sau một cái cây.
Sau chuyện nhỏ
đó, không có gì xảy ra cho tới khoảng một giờ rưỡi trước khi mặt trời lặn, khi
chúng tôi tới dưới bóng của khối núi lửa cao chót vót mà tôi đã mô tả. Thật khó
với tôi để mô tả lại vẻ hùng vĩ nghiệt ngã của nó, trong khi những người kiên
nhẫn khiêng tôi đang làm việc vất vả dưới lòng sông cổ, đi về phía chỗ vách đá
mang sắc nâu phong phú phi lên từ vực thẳm cho tới khi vương miện của nó mất
hút trong mây. Tôi có thể nói nó hầu như làm tôi kinh ngạc vì sức mạnh đơn độc
và sự vĩ đại trang trọng của nó. Khi chúng tôi tới bên sườn núi sáng và đầy nắng,
rồi bóng tối bò lan dần nuốt chửng vùng tươi sáng từ trên xuống dưới, giờ chúng
tôi bắt đầu đi xuyên qua một mảnh cắt đã được đẽo gọt của khối đá sống. Tác phẩm
tuyệt vời này càng được đẽo sâu hơn, thì nó phải sử dụng hàng nghìn người làm
trong nhiều năm. Quả thật ngày nay tôi không thể tưởng tượng được việc đó từng
được làm thế nào khi không có trợ giúp của mìn hay thuốc nổ. Phải có điều gì
huyền bí lưu lại trên vùng đất hoang dã này. Tôi chỉ có thể giả định rằng những
đường cắt và các hang động to lớn này đã được làm rỗng từ đá là quyết định quốc
gia của dân tộc Kôr, những người từng sống ở đây trong thời đại đã biến mất
không rõ, giống như các di tích Ai Cập, được thực hiện bởi công sức lao động cưỡng
bức từ hàng chục nghìn tù nhân trải qua vô số thế kỷ. Nhưng dân tộc đó là ai?
Cuối cùng chúng
tôi đã lên đến bề mặt của vách đá dựng đứng, thấy bản thân đang nhìn vào cửa hầm
tối đen, nó nhắc nhở tôi mạnh mẽ về công việc xây dựng đường sắt của các kỹ sư
thế kỷ mười chín. Ra khỏi đường hầm là một dòng suối đáng kể đang tuôn chảy. Thực
ra, dù tôi không nghĩ tôi đã đề cập đến nó, chúng tôi vẫn đi theo dòng suối
này, nó cuối cùng trở thành con sông mà tôi đã mô tả là uốn quanh co phía bên
phải, khởi đầu từ nơi đường cắt trong khối đá cứng. Một nửa đường cắt này tạo
thành kênh đào cho con suối, và một nửa ở trên cao hơn một chút – có lẽ khoảng
tám feet – dành để làm đường. Tuy nhiên cuối đường cắt, dòng suối biến mất trên
đồng bằng và đi theo con kênh của chính nó. Tại cửa hang, đoàn người đã dừng lại,
trong khi đám đàn ông làm việc trong ánh đèn đất nung họ mang theo, Billali, đi
xuống từ cái ổ, lịch sự nhưng kiên quyết thông báo với tôi mệnh lệnh của Bà ấy rằng, bây giờ chúng tôi sẽ bị bịp
mắt, để chúng tôi không thể biết được bí mật những con đường xuyên qua lòng
núi. Tất nhiên điều đó tôi vui vẻ bằng lòng, nhưng Job giờ đã khá lên nhiều, dù
suốt cuộc hành trình không hoàn toàn thích thú, đang tưởng tượng đây là bước đầu
tiên để bị đặt chậu nung nóng, tôi nghĩ thế. Tuy nhiên anh ta đã được an ủi một
chút khi tôi chỉ ra cho anh ta rằng, không có cái chậu nung nóng nào ở đây, hơn
nữa theo tôi biết, không có đống lửa nào để nung nóng chúng. Đối với Leo khốn
khổ, sau khi di chuyển không ngừng trong nhiều giờ, với lòng biết ơn sâu sắc của
tôi, cậu ấy đã rơi vào giấc ngủ hay đã mê man, tôi cũng không biết nữa, nên
không cần phải bịp mắt cậu ấy. Việc bịp mắt được thực hiện bằng cách che một miếng
vải lanh vàng mà vài người Amahagger hạ mình mặc đặc biệt trên trang phục của họ,
buộc chặt vòng quanh mắt. Sau đó tôi phát hiện ra loại vải lanh này được lấy từ
các ngôi mộ, chứ không phải như tôi nghĩ ban đầu, được sản xuất tự nhiên. Chiếc
băng sau đó được thắt nút sau đầu, cuối cùng kéo xuống một lần nữa và kết thúc
buộc dưới cằm để chống trơn. Ustane cũng bị bịp mắt, tôi không biết tại sao, trừ
khi lo sợ cô ấy sẽ truyền những bí mật các con đường cho chúng tôi
Hành động đó đã
làm xong, chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, ngay sau đó, theo âm thanh vọng lại của
bước chân những người khiêng ổ và tiếng ồn lớn dần của nước dội lại trong không
gian kín, tôi biết chúng tôi đang đi trong lòng ngọn núi lớn. Đó là một cảm
giác kỳ lạ, sinh ra từ trái tim chết chóc của đá, chúng tôi không biết đi đâu
nhưng tôi đã từng có cảm giác kỳ lạ kiểu này, nên giờ cũng chuẩn bị thật tốt
cho một điều gì đó. Tôi vẫn nằm im như vậy, lắng nghe tiếng bước chân, bước
chân của những người khiêng và mang vác, cùng sự hối hả của nước, cố tin tôi
đang giải trí. Hiện giờ đám người đang hát một điệu ca nhỏ u sầu mà tôi từng
nghe đêm đầu tiên bị bắt ở thuyền cá voi, hiệu ứng sinh ra từ chất giọng của họ
rất gây tò mò và khó tả. Một lúc sau, không khí bắt đầu trở nên cực kỳ dày và nặng,
thực vậy, tôi cảm thấy như thể tôi sắp nghẹt thở, tới khi cái ổ quay đột ngột,
rồi lại rẽ một lần nữa và một lần nữa, âm thanh nước chảy đã ngừng lại. Sau đó không
khí tươi mới trở lại, nhưng các ngã rẽ vẫn tiếp tục, với tôi, bị bịp mắt nhưng
lại thật ngạc nhiên. Tôi cố giữ bản đồ về chúng trong đầu để khi cần thiết
chúng tôi có thể thử trốn thoát bằng con đường này, nhưng không cần nói, đã
hoàn toàn thất bại. Sau nửa giờ nữa trôi qua như vậy, bỗng nhiên tôi nhận ra
chúng tôi lại ở trong không khí thông thoáng một lần nữa. Tôi có thể thấy ánh
sáng xuyên qua dải băng và cảm nhận được sự tươi mát của nó trên mặt. Vài phút
sau, đoàn người dừng lại, tôi nghe thấy Billali ra lệnh Ustane gỡ bỏ băng của
cô ấy và tới làm thế cho chúng tôi. Không đợi cô ấy, tôi tháo lỏng nút thắt của
mình và nhìn ra ngoài.
Như tôi dự đoán,
chúng tôi đã đi xuyên qua vách núi, giờ đang ở sườn núi xa hơn, ngay dưới mặt
xiên đứng của nó. Thứ đầu tiên tôi nhận ra là vách núi gần như không quá cao ở
đây, không quá cao mà tôi nói là khoảng năm trăm feet, cho thấy đó là lòng hồ,
hay đúng hơn là miệng núi lửa cổ xưa rộng lớn mà chúng tôi đang đứng, được nhiều
lớp đồng bằng bao quanh. Phần còn lại, chúng tôi tự thấy đang trong cái bát cực
lớn bao bằng đá, không giống nơi đầu tiên chúng tôi lưu trú, kích thước lớn hơn
khoảng mười lần. Thực vậy, tôi chỉ có thể cau mày trước những vách đá đối diện.
Phần lớn của mảnh đồng bằng này được thiên nhiên bao bọc lại để canh tác, có
hàng rào với những bức tường đá để giữ hàng đàn lớn gia súc và dê không đột nhập
phá vườn cây. Đây đó những gò cỏ lớn nhô lên, vài dặm về phía trung tâm, tôi
nghĩ tôi có thể thấy đại cương tình trạng các phế tích khổng lồ. Tôi không có
thời gian quan sát thêm nữa lúc này, vì chúng tôi ngay lập tức bị những đám
đông người Amahagger bao quanh, tương tự như những gì đặc biệt với họ mà chúng
tôi đã quen thuộc, dù họ nói một chút, ép quanh chúng tôi để vào gần hơn như
che đi tầm nhìn một người đang nằm trên võng. Rồi đột ngột một số người có vũ
trang bố trí trong đám người, do các quan chức cầm đôi đũa ngà trong tay sắp đặt,
chạy nhanh về phía chúng tôi, thật khó có thể tưởng tượng ra, trên bề mặt vách
núi, như kiến chui ra khỏi hang. Những người đàn ông này cũng như các quan chức
kia, đều mặc áo choàng da báo như thường lệ, theo tôi thấy, tạo thành đội vệ sĩ
của Bà ấy.
Thủ lĩnh của họ
đi tới chỗ Billali, chào ông ta bằng cách đặt cây đũa ngà ngang trên trán ông ấy,
rồi hỏi câu gì đó tôi không nghe thấy, Billali trả lời anh ta, toàn bộ đội quân
quay lại và đi dọc theo vách đá, đoàn người của chúng tôi cùng những chiếc ổ đi
theo họ. Sau khi đi cùng khoảng nửa dặm, chúng tôi dừng trước cửa một hang động
cực lớn, cao khoảng sáu mươi feet rộng tám mươi, ở đó Billali cuối cùng cũng đi
xuống, yêu cầu Job và tôi làm theo. Leo tất nhiên quá ốm yếu để có thể làm bất
kỳ việc gì. Tôi làm vậy, rồi chúng tôi đi vào trong cái hang to lớn này, nơi
ánh sáng mặt trời thâm nhập được vào một đoạn dài, khi vượt ra ngoài tầm của
ánh sáng ban ngày, nó được chiếu sáng yếu ớt bằng đèn, với tôi điều đó có vẻ nhằm
trải ra khoảng cách gần như vô hạn, giống những chiếc đèn khí trên đường phố
London trống trải. Thứ đầu tiên tôi thấy là những bức tường phủ đầy trạm trổ bức
phù điêu, một dạng kể chuyện bằng tranh, tương tự như những gì tôi đã mô tả
trên những chiếc bình và lọ; chủ yếu là cảnh yêu đương, rồi tranh săn bắn,
tranh các vụ hành quyết, và tra tấn tội phạm có lẽ bằng cách đặt cái chậu nóng
đỏ lên đầu, cho thấy chủ nhân của chúng tôi đã trích dẫn từ thực tiễn thú vị.
Có rất ít cảnh chiến đấu, dù nhiều người trong cuộc đấu, đàn ông chạy và đấu vật,
từ đó dẫn đến việc tôi tin rằng dân tộc này không chịu nhiều tấn công từ kẻ thù
bên ngoài, có lẽ do sự cô lập về vị trí của họ hoặc vì sức khỏe phi thường của
họ. Giữa những bức tranh là các cột ký tự bằng đá theo tạo hình hoàn toàn mới mẻ
với tôi; chúng không phải là tiếng Hy Lạp cũng không phải tiếng Ai Cập, không
phải Do Thái, không phải Assyria – tôi chắc chắn vậy. Chúng trông giống văn tự
Trung Hoa hơn bất kỳ ngôn ngữ nào tôi quen biết. Gần lối vào hang, cả tranh vẽ
và văn tự đều đã mòn đi nhưng nhiều trường hợp vẫn hoàn toàn tươi mới và hoàn hảo
như ngày nhà điêu khắc dừng làm việc đó.
Đội lính canh
không đi xa quá lối vào hang, nơi họ tạo hình để chúng tôi đi qua. Tuy nhiên
lúc vào trong nơi đó, chúng tôi gặp một người đàn ông mặc áo choàng trắng, cúi
đầu khiêm tốn, nhưng không nói gì, vì có lẽ anh ta là người câm điếc, không phải
chuyện quá thú vị.
Chạy vuông góc với
hang động lớn, ở khoảng cách chừng hai mươi feet từ lối vào, là một cái hang nhỏ
hơn hay một phòng trưng bày rộng rãi, khoét vào hai bên khối đá, cả trái và phải
của hang chính. Trước phòng trưng bày bên trái chúng tôi có hai người canh gác
đang đứng, với hoàn cảnh này tôi cho rằng đó là lối vào các phòng của chính Bà ấy. Cửa phòng trưng bày bên tay phải
không ai canh giữ, dọc theo nó người câm ra hiệu chúng tôi đi. Đi bộ chừng vài
thước theo lối này, với những ngọn đèn chiếu sáng, chúng tôi tới lối vào của một
căn phòng có màn cỏ, bề ngoài không khác cái chiếu Zanzibar, đang treo lơ lửng
trên cửa ra vào. Lúc này người câm đi giật lùi với sự tôn kính sâu sắc, dẫn ra
con đường vào một căn phòng cỡ vừa, tất nhiên được đục sâu vào đá vững chắc,
nhưng theo quan điểm của tôi, đó là một trục đào sâu vào mặt vách đá. Trong
phòng là một chiếc giường đá, các chậu đầy nước để gội rửa, và những tấm da báo
rám nắng đẹp đẽ làm chăn.
Chúng tôi đã để
lại Leo ở đó, cậu vẫn đang ngủ nặng nhọc, Ustane dừng ở đó với cậu ấy. Tôi thấy
người câm nhìn cô ấy sắc bén, như thể đang nói, “Cô là ai, cô tới đây theo lệnh
của ai?” Rồi anh ta dẫn chúng tôi tới căn phòng khác tương tự nơi Job ở, rồi tới
hai phòng nữa tương đương dành cho Billali và tôi.
CHƯƠNG 12
“Bà ấy”
Mối quan tâm đầu tiên của Job và tôi,
sau khi đi thăm Leo, là tắm rửa và làm sạch quần áo, vì những gì chúng tôi đang
mặc không đổi kể từ khi mất con tàu lớn. Thật may mắn, như tôi đã nói, phần lớn
hành lý cá nhân của chúng tôi đã được đóng gói lên thuyền cá voi, do đó đều
được cứu vớt – được những người khiêng ổ mang theo - dù toàn bộ đồ dự trữ đặt
tại chỗ chúng tôi để trao đổi và làm quà tặng cho người bản xứ đã mất hết. Gần
như tất cả quần áo của chúng tôi đều làm từ chất liệu nỉ mỏng xám đậm, co dãn
tốt và tôi thấy thật tuyệt hảo khi dùng để du hành tới những nơi thế này, vì dù
là chiếc jacket Norfolk, áo sơ mi hay quần dài chỉ nặng khoảng bốn pound, một
điều vô cùng đáng cân nhắc ở đất nước nhiệt đới nơi mỗi ounce phát sinh thêm
đều tiết lộ với người mặc, chất liệu này ấm áp và cung cấp sức đề kháng chống
lại tia mặt trời rất tốt, tính năng tốt nhất là khi trời lạnh, nó có xu hướng
điều chỉnh để thích nghi với thay đổi nhiệt độ đột ngột.
Tôi sẽ không bao giờ quên được sự
thoải mái của chiếc bàn chải “cọ và rửa” cùng những đồ bằng nỉ sạch sẽ. Thứ duy
nhất tôi muốn để hoàn thành trọn vẹn niềm vui của mình là một bánh xà phòng,
nhưng chúng tôi đã không có cái nào.
Sau đó tôi phát hiện ra rằng người
Amahagger, những người không tin có bụi bẩn – một trong nhiều phẩm chất khó
chịu của họ - sử dụng một loại đất nung cháy để tắm rửa, dù không vui vẻ để có
thể quen thuộc với nó, nhưng nó đã thành công thay thế xà phòng.
Lúc tôi đã mặc quần áo, chải đầu, tỉa
bớt bộ lông đen, hoàn cảnh trước đây chắn chắn đủ bù xù khiến Billali gọi tôi
là “Khỉ Đầu Chó”, tôi bắt đầu cảm thấy đói bất thường. Thế là không có cách nào,
tôi hối hận khi không cất lời cảnh báo hay âm thanh chuẩn bị dù nhỏ nhất, tấm
màn trước cửa ra vào hang của tôi đã bị vén lên một bên, một người câm khác,
lúc này là một cô gái trẻ, thông báo cho tôi bằng những dấu ra hiệu mà tôi
không thể hiểu sai được – bằng cách mở miệng và chỉ xuống đó, rằng – có thứ để
ăn. Theo đó tôi đi cùng cô ấy tới căn phòng kế tiếp mà chúng tôi chưa được đi
vào, nơi đó tôi thấy Job, người cũng đang rất xấu hổ, được một người câm xinh
đẹp dẫn đường. Job không bao giờ vượt qua được những hành vi tiến bộ mà người
phụ nữ trước đã làm với anh ta, nên nghi ngờ mọi cô gái đến gần mình với kiểu
cách tương tự.
“Những đương sự trẻ tuổi này có cách
nhìn người, thưa ngài,” anh ta nói với vẻ xin lỗi, “mà tôi không thể gọi là
đáng kính.”
Phòng này gấp đôi kích thước những
hang để ngủ, tôi thấy ngay rằng nó vốn ban đầu là một phòng ăn, cũng có thể là
một phòng ướp xác cho Các Linh Mục của Thần Chết; vì tôi có thể nói ngay rằng
những cái hang rỗng ruột này không có gì hơn kém các hầm mộ rộng lớn, nơi này
hàng chục thế kỉ qua hài cốt còn lưu lại dấu vết chủng tộc vĩ đại bị tuyệt
chủng, di tích của họ còn bao quanh chúng tôi thoạt tiên đã được giữ gìn bằng
nghệ thuật và sự trọn vẹn không bao giờ so sánh được, rồi bị che dấu đi theo
năm tháng. Mỗi bên của căn phòng đá đặc biệt này là một bàn đá dài vững chắc,
rộng khoảng ba feet cao ba feet sáu, đục sâu vào khối đá sống – thứ đã hình
thành nên một phần và vẫn gắn vào kiến trúc chung. Những cái bàn này hơi rỗng
và cong vào trong, khiến cho đầu gối của bất kỳ ai ngồi trên phiến đá cắt thành
băng ghế dọc theo cạnh hang đều ở cách khoảng hai feet so với bàn. Mỗi chiếc
bàn cũng được sắp xếp để nằm ngay dưới trục đâm vào vách đá để hứng ánh sáng và
không khí. Tuy nhiên khi quan sát chúng tỷ mỉ, tôi thấy có sự khác biệt giữa
chúng – điều thoạt tiên đã thoát được khỏi sự chú ý của tôi – tức là, một trong
những cái bàn phía bên trái khi chúng tôi đi vào động, rõ ràng đã từng được sử
dụng, không phải để ăn, mà để ướp xác. Câu hỏi cho trường hợp này đến từ năm
vết lõm không sâu lắm trên mặt đá của chiếc bàn, giống hình người, có nơi riêng
để đầu nằm vào, một cầu nhỏ trợ lực cho cổ, mỗi vết lõm có kích thước khác
nhau, đều phù hợp với những cơ quan khác nhau mang tầm vóc từ một người trưởng
thành tới một trẻ nhỏ, có những hố nhỏ được khoan thành nhịp để lấy dịch. Thực
vậy, nếu cần thêm những xác nhận khác nữa, chúng tôi sẽ phải nhìn lên tường
hang động để tìm kiếm. Nơi đó, được trạm trổ quanh căn phòng, trông tươi mới
như lúc nó vừa làm xong, là cách diễn tả bằng tranh về cái chết, ướp xác, chôn
cất của một ông già với bộ râu dài, có lẽ là một vị vua cổ xưa hoặc một quí tộc
của đất nước này.
Bức tranh đầu tiên mô tả cái chết của
ông ta. Ông ta nằm trên một chiếc giường có bốn cột ngắn cong ở góc dẫn tới một
gò ở cuối, hiện ra thứ giống như ghi chú văn tự âm nhạc, rõ ràng đang lúc tắt
thở. Tập trung xung quanh giường là phụ nữ và trẻ em đang khóc lóc, những người
già hơn có mái tóc treo xuống lưng. Cảnh tiếp theo mô tả việc ướp xác cơ thể
kia, nó nằm ngay đơ trên một cái bàn có những vết lõm, tương tự như cái trước
mặt chúng tôi; quả thực có lẽ đó là bức tranh về cùng một cái bàn. Ba người đàn
ông làm việc này – một người giám thị, một người cầm cái phễu giống như bộ lọc
rượu porto mà phần cuối hẹp được cố định vào vết mổ ở ngực, không nghi ngờ gì
đó chính là động mạnh lớn ở ngực; còn người thứ ba, được miêu tả như đang đứng
dang hai chân trên cái xác, cầm một loại bình lớn giơ cao trong tay, và rót ra
từ đó một chất lỏng bốc khói chính xác vào cái phễu. Phần tò mò nhất của tác
phẩm điêu khắc này là cả hai người đàn ông – người cầm phễu và người rót chất
lỏng – đều bịp mũi họ, tôi cũng cho là vì mùi hôi thối sinh ra từ cái xác, hoặc
chắc chắn hơn cả là để tránh hương thơm của chất lỏng nóng đang bị cưỡng chế
đưa vào tĩnh mạch người chết. Thứ gây tò mò khác mà tôi không thể giải thích là
cả ba người đàn ông đều có một băng vải lanh buộc chặt quanh khuôn mặt với hai
cái lỗ cho đôi mắt.
Bức điêu khắc thứ ba là hình vẽ lễ
chôn cất của người chết. Ông ta ở đó, cứng và lạnh, mặc áo choàng bằng vải
lanh, nằm trên một phiến đá như tôi ngủ ở chỗ lưu trú đầu tiên. Tại đầu và chân
ông ta những cây đèn được thắp sáng, bên cạnh ông ta đặt vài bình vẽ rất đẹp
như tôi đã mô tả, có lẽ đó là qui định đầy đủ. Căn phòng nhỏ đông đúc người đưa
tang, các nghệ sĩ chơi nhạc cụ giống như đàn lyre, trong khi đó gần chân xác
chết một người đàn ông đang đứng cầm tờ giấy và đang chuẩn bị nhìn vào nó.
Những tác phẩm điêu khắc này, nhìn chỉ
như những tác phẩm nghệ thuật, đáng chú ý tôi cảm thấy tiếc là mô tả không đầy
đủ. Chúng thu hút tôi nhờ sự quan tâm quá mức việc miêu tả, có lẽ với độ chính
xác đáng học hỏi, những nghi lễ cuối cùng của người chết thực tế từ một dân tộc
đã hoàn toàn biến mất, thậm chí sau đó tôi đã nghĩ vài người bạn sưu tầm đồ cổ
ở Cambridge có lẽ sẽ ghen tị biết bao nếu tôi có cơ hội mô tả những di tích
tuyệt vời này cho họ. Có lẽ họ sẽ nói rằng tôi phóng đại, dù cho mỗi trang sử
này phải chịu làm chứng nội bộ quá nhiều cho sự thật của nó, đó là những thứ mà
tôi hoàn toàn không thể sáng tạo ra.
Quay trở lại. Ngay khi tôi vội vã khảo
sát những tác phẩm điêu khắc - mà tôi cho là đã quên đề cập đến, chúng đều được
chạm nổi - chúng tôi cũng ngồi xuống với một bữa ăn rất tuyệt gồm thịt dê luộc,
sữa tươi, bánh từ bột xay thô, toàn bộ được phục vụ bằng những đĩa gỗ sạch sẽ.
Ăn xong, chúng tôi trở lại xem Leo thế
nào, Billali nói rằng ông ta giờ phải đợi Bà
ấy, để nghe lệnh của bà ấy. Tới phòng Leo, chúng tôi thấy chàng trai khốn
khổ trong tình trạng rất tệ. Cậu ấy đã tỉnh dậy sau khi hôn mê, đang phát điên,
lảm nhảm về cuộc đua thuyền trên khu Cam, và có xu hướng bạo lực. Thực tế, khi
chúng tôi đi vào phòng, Ustane đang giữ cậu ấy bình tĩnh. Tôi nói chuyện với cậu,
giọng của tôi dường như xoa dịu cậu; cậu trở nên yên tĩnh hơn nhiều, và bị
thuyết phục nuốt một liều ký ninh.
Tôi ngồi với cậu ấy có lẽ khoảng một
giờ - tôi biết mọi chuyện đang trở nên tăm tối tới mức tôi chỉ có thể nhận ra
cái đầu của cậu ấy đang nằm như tia sáng vàng lóe lên trên gối, chúng tôi đã
nói chuyện với một cái túi phủ chăn – đột nhiên Billali đến với khí thế rất
quan trọng, thông báo với tôi rằng Bà ấy
đã chiếu cố tới và bày tỏ mong muốn gặp tôi – một vinh dự, ông ta nói thêm,
dành cho rất ít người. Tôi nghĩ ông ấy hơi kinh hoảng với cách lấy danh dự điềm
tĩnh của tôi, nhưng thực tế tôi không cảm thấy choáng ngợp cùng biết ơn trước
viễn cảnh sẽ gặp một nữ hoàng man rợ, tối tăm nào đó, dù bà ta có lẽ là người
chuyên chế và bí ẩn, đặc biệt khi tâm trí tôi đầy hình ảnh của Leo thân yêu, vì
tôi bắt đầu cực kỳ sợ hãi lo lắng cho sinh mệnh cậu ấy. Tuy vậy, tôi vẫn đứng lên
đi theo ông ấy, khi đi tôi bắt gặp vật gì đó sáng lên trên sàn, tôi nhặt lấy.
Có lẽ độc giả sẽ nhớ ra, cùng với mảnh gốm trong quan tài là một hợp chất từ
con bọ hung phân scarab được đánh dấu bằng một chữ O tròn, con ngỗng cái, và chữ
tượng hình gây tò mò khác có nghĩa là “Suten se Ra” hay “Con Trai Thần Mặt Trời”.
Con bọ hung phân scarab là một vật rất nhỏ, Leo đã nài nỉ bỏ nó vào trong một
chiếc nhẫn vàng lớn, nói chung dùng để đóng dấu, thực ra đó là chiếc nhẫn tôi
vừa nhặt lên. Cậu ấy mang theo nó trong thời gian bộc phát bệnh sốt rét, tôi
cho là thế, rồi ném nó xuống sàn đá. Nghĩ là nếu tôi bỏ lại có thể nó sẽ bị
mất, tôi nhét nó vào ngón tay nhỏ của tôi, rồi đi theo Billali, để Job và
Ustane lại với Leo.
Chúng tôi đi theo con đường nhỏ, băng
qua hang động lớn như lối đi, rồi tới đoạn đường tương ứng bên kia, ở cửa người
gác đứng như hai pho tượng. Khi chúng tôi đến, họ cúi đầu chào, rồi nâng cây
giáo dài lên ngang trán, giống các thủ lĩnh đội quân gặp chúng tôi trước đó đã
làm vậy bằng những cây đũa ngà. Chúng tôi bước theo họ, và thấy chính mình trong
căn phòng trưng bày tương tự dẫn tới các phòng của chúng tôi, chỉ có đoạn này
là sáng rực rỡ, tương đối mà nói là vậy. Vài bước đi xuống chúng tôi gặp bốn
người câm – hai đàn ông và hai phụ nữ - đang cúi thấp đầu và rồi sắp xếp trật
tự, phụ nữ đi trước còn đàn ông đi sau chúng tôi, theo thứ tự này chúng tôi
tiếp tục đi qua vài cửa treo rèm giống như đang tới chỗ của chính chúng tôi,
sau đó tôi thấy mở ra những căn phòng người câm chăm sóc Bà ấy đang chiếm giữ. Thêm vài bước nữa, chúng tôi đi đến một cái
cửa khác đối diện, không để chúng tôi lại như những người khác, nó dường như
đánh dấu đoạn đường đã kết thúc. Ở đây có hai người canh gác mặc áo choàng
trắng hơn, hay đúng ra là vàng, đang đứng, họ cũng cúi đầu, rồi để chúng tôi đi
qua những tấm rèm nặng nề vào trong một tiền sảnh rất lớn, dài khoảng bốn mươi
feet và rất rộng, trong đó khoảng tám đến mười phụ nữ, hầu hết đều trẻ trung
xinh đẹp với mái tóc vàng, ngồi trên đệm làm việc với kim ngà voi trên một thứ
có vẻ bề ngoài như những khung thêu. Những phụ nữ này cũng câm điếc. Phía cuối
xa hơn của căn phòng thắp đèn sáng rực rỡ này là một cái cửa khác đóng kín bằng
những tấm rèm phương Đông nặng nề, hoàn toàn không giống những tấm rèm treo cửa
của những căn phòng chúng tôi ở, ở đó hai cô gái câm đặc biệt xinh đẹp đang
đứng, đầu cúi xuống tới ngực và tay đưa ra với thái độ khiêm tốn. Khi chúng tôi
tiến đến, mỗi người họ đều dang tay vén rèm. Liền sau đó Billali làm một việc rất
gây tò mò. Ông ta cúi xuống, quí ông đáng kính đó – vì Billali cuối cùng cũng là
một quí ông – đi xuống bằng tay và đầu gối, trong tư thế không đàng hoàng này,
bộ râu trắng dài của ông kéo lết trên mặt đất, ông ta bắt đầu bò vào trong căn
phòng. Tôi đi theo ông ta, vẫn đứng trên đôi chân mình trong bộ dáng bình
thường. Nhìn qua vai, ông ta cảm nhận ra điều đó.
“Quì xuống, con trai; quì xuống, Khỉ
Đầu Chó; hãy đi bằng tay và đầu gối ngươi. Chúng ta đang đi vào nơi hiện diện
của Bà ấy, và nếu ngươi không khiêm
tốn, chắc chắn bà ta sẽ làm tan nát cái ngươi dùng để đứng.”
Tôi dừng lại và thấy sợ hãi. Thực vậy,
đầu gối tôi bắt đầu đưa ra cách chuyển động của riêng chúng; nhưng lời khiển
trách lại tới giúp tôi. Tôi là một người Anh, tôi tự hỏi, tại sao tôi lại phải
bò vào nơi hiện diện của một phụ nữ hoang dã nào đó như thể tôi là một con khỉ trong
thực tế cũng như trong cái tên? Tôi không muốn và cũng không thể làm vậy, trừ
khi tôi hoàn toàn chắc chắn mạng sống của tôi hay tiện nghi của tôi đang phụ
thuộc vào điều đó. Nếu một khi tôi đã bò bằng đầu gối, tôi sẽ luôn luôn phải
làm vậy, đó là thừa nhận công khai sự thấp kém. Vì thế, kiên định với thành
kiến hẹp hòi chống lại “khúm núm quì lạy”, cách thức đối xử nói chung chúng tôi
cho là thành kiến, tôi mạnh dạn bước theo sau Billali. Tôi thấy trong một căn
phòng khác, tương đối nhỏ hơn đại sảnh, trên tường treo những tấm rèm rất phong
phú cùng kiểu với rèm trên cửa ra vào, như tôi sau đó phát hiện ra, là tác phẩm
của những người câm ngồi ở đại sảnh thêu trên các tấm vải, sau đó được khâu lại
với nhau. Đây đó trong phòng, là những chiếc trường kỷ bằng gỗ đen đẹp đẽ thuộc
họ gỗ mun, khảm ngà voi, khắp nơi trên sàn là những tấm thảm trang trí, hay tấm
mền. Ở góc cuối căn phòng dường như là một chỗ lõm, cũng được phủ rèm, ánh sáng
xuyên qua đó. Không có ai chỗ này ngoài chúng tôi.
Ông già Billali bò lên theo chiều dài
hang một cách khổ sở và chậm chạp, cùng với sải chân nghiêm trang nhất mà tôi
có thể ra lệnh đi theo sau ông ấy. Nhưng tôi cảm thấy ít nhiều thất bại. Ban
đầu, không thể trang nghiêm khi bạn đang đi theo sau nghi lễ tiến cung của một
ông già đang quằn quại cái bụng như con rắn, rồi để đi đủ chậm rãi, tôi cũng
phải giữ chân vài giây trên không trung mỗi bước, hoặc nếu không, phải đi lên
bằng cách dừng lại một chút giữa mỗi sải bước, giống Nữ Hoàng Mary của Scotland
trong vở kịch. Billali không bò giỏi lắm. Tôi cho rằng tuổi tác của ông chỉ
chịu được như vậy, và việc đi tới căn phòng kia là một chuyện rất dài. Tôi ngay
lập tức ở phía sau ông ấy, vài lần tôi kích động muốn giúp ông ấy bằng cách đá
cho một cú. Thật không hợp lệ khi tiến vào nơi hiện diện của hoàng gia hoang dã
theo kiểu một người Ailen kéo con lợn ra chợ, vì chúng tôi trông giống như vậy,
ý tưởng này gần như làm tôi bật cười sau đó. Tôi phải tránh đi nguy hiểm từ
kiểu vui vẻ khó coi cho mình bằng cách thổi cái mũi, hành động đó khiến Billali
già nua kinh sợ, ông ấy nhìn qua vai và giương gương mặt như ma quỉ nhìn tôi,
tôi nghe ông ta lẩm bẩm, “Ôi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta!”
Cuối cùng chúng tôi đã đến chỗ tấm
rèm, ở đó Billali sụp xuống thẳng bụng, hai tay giang rộng phía trước như thể
đã chết, còn tôi, không biết phải làm gì, bắt đầu nhìn chằm chằm vào nơi đó.
Nhưng hiện tai tôi rõ ràng cảm thấy ai đó đang nhìn tôi từ sau rèm. Tôi không
thể nhìn thấy người, nhưng có thể cảm nhận rõ rệt cái nhìn của ông ta hay bà
ta, và hơn thế, nó sinh ra một tác động kỳ lạ lên thần kinh của tôi. Tôi sợ
hãi, tôi không biết tại sao. Nơi này thật kỳ lạ, thực thế, trông đơn độc, dù
màn treo phong phú và ánh đèn mềm mại – quả thật, những phụ kiện thêm vào chỉ
càng làm xấu thêm sự cô độc của nó, giống con phố sáng đèn trong đêm tối luôn
có vẻ cô đơn hơn con phố tối om. Thật im lặng, Billali nằm đó như người chết
trước tấm rèm nặng nề, dù mùi nước hoa dường như đang tỏa vào bóng tối mái vòm
phía trên. Từng phút lại từng phút trôi qua, vẫn không có dấu hiệu nào của sự
sống, rèm cũng không động; nhưng tôi cảm thấy cái nhìn vô danh kia vẫn thấm
xuyên qua tôi, làm tôi tràn ngập nỗi sợ hãi không tên, cho tới khi mồ hôi thành
hạt trên trán tôi.
Cuối cùng rèm bắt đầu chuyển động. Ai
phía sau đó? – Một nữ hoàng hoang dã ở trần, một vẻ đẹp phương Đông đang héo
mòn, hay một phụ nữ trẻ của thế kỷ mười chín, đang uống trà chiều? Tôi không có
ý tưởng nhỏ nhất nào, không ngạc nhiên nếu thấy một trong ba kiểu đó. Tôi đã
ngạc nhiên nhiều rồi. Tấm rèm đu đưa một chút, rồi bỗng nhiên giữa những nếp
gấp của nó xuất hiện bàn tay trắng tuyệt đẹp (trắng như tuyết), với những ngón
thon dài, kết thúc trong những móng hồng hào. Bàn tay nắm lấy rèm, kéo nó sang
một bên, và tôi nghe thấy một giọng nói, tôi nghĩ đó là giọng nói mềm mại nhất
và lóng lánh như bạc mà tôi từng nghe. Nó gợi tôi nghĩ về lời thì thầm của dòng
suối nhỏ.
“Người lạ,” giọng nói bằng tiếng Ả Rập
cất lên, nhưng đó là thứ tiếng Ả Rập trong hơn và cổ xưa hơn rất nhiều so với
người Amahagger nói – “người lạ, sao ngươi sợ hãi vậy?”
Giờ tôi phải tự nịnh hót bản thân bất
chấp nỗi sợ hãi bên trong, tôi ra lệnh rất hài hòa cho vẻ mặt mình, thế nên,
hơi ngạc nhiên trước câu hỏi này. Trước khi tôi quyết định phải trả lời thế
nào, tấm rèm đã vén hẳn lên, một bóng dáng cao cao đứng trước mặt chúng tôi.
Tôi nói một bóng dáng, vì không chỉ cơ thể, mà cả gương mặt cũng được bọc trong
vật chất màu trắng mỏng mềm mại theo cách này, lần đầu tiên nhìn thấy gợi tôi
buộc phải liên tưởng tới một xác chết trong tấm vải liệm. Tôi không biết tại
sao tôi có ý tưởng này, khi thấy những tấm vải bọc mỏng tới mức ai cũng có thể nhìn
rõ màu thịt hồng hào bên dưới chúng. Tôi cho rằng đó là cách chúng được sắp
xếp, thật ngẫu nhiên, hay đúng hơn là được thiết kế. Dù sao đi nữa, tôi cảm
thấy sợ hãi kiểu xuất hiện như ma này hơn bao giờ hết, tóc tôi bắt đầu dựng
ngược trên da đầu, khi một cảm giác len lỏi trong tôi, rằng thật không khôn
ngoan khi tôi đang hiện diện ở đây, trước một thứ gì đó. Tuy nhiên, tôi rõ ràng
có thể phân biệt hình dáng như xác ướp quấn đầy khăn trước mắt tôi là của một
phụ nữ cao ráo đáng yêu, bản năng với vẻ đẹp tới từng phân tấc, duyên dáng yểu
điệu như rắn, mà tôi trước đây chưa bao giờ thấy thứ gì có thể sánh được. Khi
bà ấy đưa tay chân, toàn bộ khung người bà ấy như uốn lượn, cổ không bị gập, nó
cong cong.
“Tại sao ngươi sợ hãi đến vậy, người
lạ?” giọng nói ngọt ngào lại hỏi lại – giọng nói như chạm vào tận tim gan,
giống như suối nhạc êm đềm nhất. “Có phải chính ta làm ngươi sợ hãi? Thế thì
chắc chắn con người đều đã thay đổi so với những gì họ từng tồn tại!” Với hành
động làm dáng một chút, bà ấy quay đi, giơ một tay lên, như cho thấy toàn bộ vẻ
đẹp của bà và mái tóc dày đen nhánh tuôn xuống thành gợn sóng mềm mại trên áo
choàng trắng như tuyết, gần tới bàn chân đi dép của bà.
“Chính vẻ đẹp của người khiến tôi sợ
hãi, thưa Nữ Hoàng,” tôi khiêm tốn trả lời, hầu như không biết nói gì, tôi nghĩ
tôi cũng từng thế khi nghe ông già Billali, người vẫn đang nằm phủ phục trên
sàn nhà lẩm bẩm, “Tốt, Khỉ Đầu Chó à, tốt.”
“Ta thấy đàn ông vẫn biết cách lừa gạt
phụ nữ chúng ta bằng cách dùng từ sai. Ôi, người lạ,” bà ta trả lời, với một nụ
cười như chuông bạc xa xăm, “ngươi sợ hãi vì mắt ta đã nhìn ra lòng ngươi, vì
thế ngươi sợ hãi. Tuy nhiên là một phụ nữ, ta tha thứ cho lời nói dối đó, vì nó
được nói một cách lịch thiệp. Giờ hãy nói cho ta, làm thế nào các ngươi đến
được mảnh đất của cư dân trong hang động này – mảnh đất toàn đầm lầy, những thứ
ma quỉ và bóng dáng già cỗi chết chóc của tử thần? Ngươi đến để thấy điều gì?
Làm sao ngươi giữ được mạng sống rẻ mạt như khi đặt nó vào bàn tay trống rỗng
của Hiya, trong tay của ‘Bà ấy – người các ngươi phải tuân lệnh’?
Cũng nói cả cho ta làm sao ngươi biết ngôn ngữ ta đang nói. Đó là một ngôn ngữ
cổ xưa, đứa con ngọt ngào của tiếng Syria cổ. Nó vẫn còn tồn tại trên đời này
sao? Ngươi thấy đấy ta sống giữa các hang động và người chết, ta không biết gì
về việc của con người cả, ta cũng không quan tâm đến việc phải biết thứ gì. Ta
vẫn sống, người lạ ạ, bằng ký ức của ta, ký ức của ta đang trong nấm mồ chính
tay ta đào xới, vì sự thật người ta nói rằng đứa con của loài người đã tự biến
mình thành ác quỉ;” giọng nói đẹp đẽ của bà ấy run rẩy, phá vỡ chú ý nhẹ nhàng
như một chú chim rừng. Đột nhiên mắt bà ấy rơi trên khung người rực rỡ của
Billali, và bà dường như hồi tưởng lại chính mình.
“À! Ngươi lại đây, người già. Hãy nói
cho ta chuyện xảy ra thế nào trong hộ gia đình của ngươi. Đúng ra, dường như
các vị khách của ta đã tạo ra những chuyện đó. Ôi, một đêm bị giết bằng chậu
nung nóng và bị đám súc vật ăn thịt, các con của ngươi, không chiến đấu anh
dũng họ cũng bị giết, ta không thể gọi sự sống trở lại khi nó đã thoát ra khỏi
cơ thể. Điều đó có ý nghĩa gì, người già? Những gì ngươi phải nói là ta không nên
trao cho ngươi những kẻ ta muốn báo thù ư?”
Giọng bà ta vút lên giận dữ, nó vang
lên rõ ràng và lạnh lùng trước những bức tường đá. Tôi nghĩ tôi có thể thấy đôi
mắt bà lóe sáng xuyên qua đống băng gạc che dấu chúng. Tôi nhìn Billali khốn
khổ, người tôi đã tin là một người không biết sợ hãi, giờ đang run rẩy kinh
hoảng trước những lời của bà ấy.
“Ôi ‘Hiya’! Ôi Bà ấy!” ông ta nói, không ngẩng cái đầu bạc trắng khỏi mặt sàn. “Ôi
Bà ấy, xin người vĩ đại xót thương, vì
ta giờ đây như người đầy tớ tuân lệnh người. Đó không phải là kế hoạch hay lỗi
của ta, ôi Bà ấy, đó là những kẻ xấu
xa, đám con của ta. Cầm đầu bởi một phụ nữ bị vị khách Con Lợn khinh miệt, họ
theo phong tục cổ xưa của vùng đất, ăn thịt người lạ da đen to béo đi cùng
những vị khách này, Khỉ Đầu Chó và Sư Tử đang bị ốm, cho rằng không có lời nào
từ người về tên Da Đen. Nhưng khi Khỉ Đầu Chó và Sư Tử nhìn thấy những gì họ
muốn làm, họ đã giết người phụ nữ, và cũng giết người đầy tớ của họ để cứu anh
ta khỏi sự kinh hoàng từ cái chậu. Sau đó những kẻ xấu xa đó, ôi, những đứa con
của kẻ Hung Ác sống trong Cái Hố, chúng phát điên vì thèm khát máu, bay về phía
cổ họng của Sư Tử, Khỉ Đầu Chó và Lợn. Nhưng họ đã chiến đấu dũng cảm. Ôi, Hiya! Họ đã chiến đấu như những
người đàn ông thực sự, giết chết nhiều người, và bảo vệ chính họ, rồi ta trở về
và cứu họ, những kẻ làm điều xấu xa kia ta đã gửi tới Kôr để người vĩ đại phán
xử, ôi Bà ấy! giờ chúng đang ở đây
rồi.”
“Ôi, người già, ta biết, ngày mai ta
sẽ ngồi trong khán phòng lớn để xử tội chúng, đừng sợ. Còn với ngươi, ta tha
thứ cho ngươi, dù lẽ ra không thể. Hãy trông nom hộ gia đình của ngươi tốt hơn
vào. Đi đi.”
Billali nhô đầu gối dậy với vẻ vui mừng ngạc
nhiên, cúi đầu ba lần, chòm râu trắng quét đất, và bò xuống căn phòng như khi
ông ấy bò lên, cho đến khi ông ta cuối cùng biến mất qua tấm rèm, bỏ lại tôi,
không một lời cảnh báo, đơn độc với người khủng khiếp nhưng cực kỳ hấp dẫn này.
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét