Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 8



CHƯƠNG 8

Yến tiệc, và Sau đó!
Vào ngày hôm sau, một cảnh đáng nhớ xảy ra – cảnh được tính toán để tạo ra ấn tượng sâu sắc với bất kỳ ai tham gia, vì những gì được tiên đoán hơn là vì những gì nó tiết lộ - chúng tôi được báo rằng một bữa yến tiệc sẽ diễn ra buổi tối đó để tỏ lòng kính trọng chúng tôi. Tôi cố hết sức từ chối, nói rằng chúng tôi là người hiện đại nên ít quan tâm đến yến tiệc, nhưng lời giải thích của tôi chỉ nhận được sự im lặng không hài lòng, tôi nghĩ khôn ngoan nhất là giữ lấy cái lưỡi của mình.
Theo đó, ngay khi mặt trời vừa xuống núi, tôi đã được thông báo rằng mọi thứ đã sẵn sàng, và cùng với Job tới hang động, nơi tôi gặp Leo, như bình thường, được Ustane bám theo. Hai người họ đã đi dạo đâu đó, nên không biết gì về lễ hội dự định tổ chức đến tận lúc này. Khi Ustane nghe thấy, tôi thấy biểu cảm khiếp sợ hiện nhanh trên gương mặt đẹp đẽ của cô ấy. Cô ấy quay lại dùng tay tóm được một người đàn ông đang đi ngang qua hang động, rồi hỏi anh ta điều gì đó bằng giọng cưỡng chế. Câu trả lời của anh ta dường như trấn an cô ấy một chút, vì cô ấy trông nhẹ nhõm hơn, dù cách xa nữa mới tới hài lòng. Tiếp theo, cô ấy tỏ vẻ cố phàn nàn với người đàn ông có quyền lực, nhưng ông ta nói với cô ấy đầy giận dữ, đuổi cô ấy ra, sau đó lại thay đổi suy nghĩ, dùng tay kéo cô ấy, để cô ấy ngồi xuống giữa ông ta và một người đàn ông khác trong vòng tròn xung quanh đống lửa, tôi cảm nhận chắc phải có lý do gì đó khiến cô ấy nghĩ, tốt nhất nên qui phục.
Ngọn lửa trong hang động lớn bất thường tối đó, trong vòng lớn xung quanh nó, tụ tập khoảng ba mươi lăm người đàn ông và hai phụ nữ, Ustane và người phụ nữ khiến Job đóng vai một nhân vật trong Kinh Thánh. Những người đàn ông ngồi im lặng hoàn toàn, theo phong tục của họ, mỗi người với cây giáo lớn giữ ngay phía sau, trong một cái đôn làm khe cắm bằng đá. Chỉ một hay hai người mặc đồ bằng vải lanh vàng, như tôi đã nói, còn lại không mặc gì ngoài da báo ở hạ thân.
“Có chuyện gì vậy, thưa ngài,” Job nghi ngờ nói. “Cầu chúa phù hộ và cứu vớt chúng con. Lại là người phụ nữ đó. Giờ chắc là cô ta không thể theo đuổi tôi đâu, vì những gì tôi dành cho cô ta không hề khích lệ. Bọn họ khiến tôi sởn tóc gáy, tất cả bọn họ, thật đấy. Tại sao à, bọn họ cũng đã bảo Mahomed ăn tối. Đó, người phụ nữ của tôi đang nói chuyện với anh ta một cách duyên dáng và văn minh nhất có thể. Phải rồi, tôi rất vui vì đó không phải là tôi, thế là xong.”
Chúng tôi nhìn lên, và chắn chắn người phụ nữ khả nghi đang đứng dậy, tán tỉnh Mahomed khốn khổ trong góc, trải qua tiên đoán sâu sắc về điều khủng khiếp, anh ta đã ngồi đó, run rẩy và cầu nguyện Allah. Anh ta không đủ ý chí để đi, nếu không có lý do nào khác, có lẽ vì đó là một vinh dự hiếm có, đến giờ thức ăn đều được đưa đến riêng cho anh ta. Dù sao tôi có thể thấy anh ta đang trong tâm trạng khủng hoảng nghiêm trọng, vì đôi chân đang run lên không ăn nhập với vẻ to lớn, kềnh càng của anh ta, tôi nghĩ đó là vì những thứ man rợ phía sau, trong bộ dạng một người Amahagger cao lớn với cây giáo cũng rất lớn tương xứng, chứ không phải những cám dỗ của người phụ nữ đang dắt tay anh ta, cuối cùng anh ta đã bằng lòng đi đến.
“Phải rồi,” Tôi nói với những người kia, “Tôi không hẳn thích dáng vẻ của mấy thứ này, nhưng tôi cho rằng chúng ta phải đối mặt với nó. Các bạn đồng hành của tôi đã mang súng theo chưa? Vì tốt hơn là các bạn nên biết bọn họ đã lên đạn với chúng ta.”
“Tôi đã xong, thưa ngài,” Job nói, vỗ nhẹ khẩu Colt của anh ta, “nhưng ngài Leo chỉ có con dao đi săn, dù thế cũng là đủ rồi, chắc chắn đấy ạ.”
Cảm thấy không thể chờ đợi khi thiếu vũ khí, chúng tôi đã mạnh dạn tiến đến, tự ngồi vào hàng, quay lưng lại bên cạnh hang.
Ngay khi chúng tôi ngồi xuống, một lọ đất nung đang được truyền quanh chứa một loại chất lỏng lên men, có mùi khó chịu, dù đã thích nghi với dạ dày, nó được làm từ hạt nghiền nát – không phải ngô Ấn Độ, mà là loại hạt ngũ cốc nhỏ màu nâu sinh trưởng từ gốc mọc thành chùm, không giống loại ngũ cốc ở phía nam Châu Phi còn gọi là ngô Kafir. Cái bình chứa chất lỏng này rất gây tò mò, vì nó ít nhiều giống hàng trăm cái khác được dùng trong tộc người Amahagger mà tôi có lẽ đã mô tả. Những cái bình đó đều được sản xuất từ rất lâu đời, có nhiều kích cỡ. Không có cái gì có thể được làm từ cách đây hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm ở đất nước này như vậy. Chúng được tìm thấy trong các ngôi mộ bằng đá, mà tôi sẽ mô tả khi thích hợp, và tôi tin rằng, theo cách của người Ai Cập, những cư dân trước đây của đất nước này có lẽ có mối liên hệ nào đó, họ từng nhận nội tạng người chết. Tuy nhiên, Leo có quan điểm thế này, giống như trong chiếc bình Etruscan có quai, chúng được đặt ở đó dành cho người đã chết mang tính tâm linh. Chúng hầu như có hai quai cầm, mọi kích cỡ, một số cao gần ba feet, chạy xuống nhiều inch. Hình dạng của chúng rất khác nhau, nhưng tất cả đều cực kỳ đẹp và duyên dáng, làm bằng một loại sành màu đen rất tốt, không bóng, nhưng hơi thô. Trên nền dát những con số duyên dáng và sống động hơn những gì tôi từng thấy trên những chiếc lọ cổ. Vài hình vẽ khảm đại diện đó biểu diễn cảnh yêu đương đơn giản như trẻ con và sự tự do theo cách không thể so sánh với hương vị ngày nay. Những hình khác là hình các cô gái đang nhảy múa, hay cảnh săn bắn. Ví dụ, cái bình mà chúng tôi đang uống có một cạnh vẽ người đàn ông rất hăng hái, da trắng, tấn công con voi lớn bằng giáo, trong khi cạnh ngược lại là một bức tranh, không hoàn toàn đẹp lắm, về một thợ săn đang giương cung vào một con vật giống sơn dương đang chạy, nhìn hình dạng tôi nghĩ có lẽ đó là linh dương châu Phi hay con koodoo – một giống sơn dương Nam Phi.
Thật lạc đề tại thời điểm quan trọng, nhưng không quá dài, vì khoảng khắc lúc này cũng rất dài. Ngoại trừ việc truyền qua lại định kỳ chiếc bình, hành động cần thiết là ném nhiên liệu vào đống lửa, không có gì xảy ra đáng thú vị suốt cả giờ đồng hồ. Không ai nói một từ. Tất cả chúng tôi ngồi im lặng hoàn toàn, nhìn chằm chằm vào ánh sáng chói của ngọn lửa lớn, bóng tối bị ném ra ngoài bởi những cái đèn bằng đất nung nhấp nháy (những vật này tất nhiên không hề cổ xưa). Trong không gian thông thoáng giữa chúng tôi và ngọn lửa đặt một khay gỗ lớn, có bốn tay cầm ngắn, giống hệt khay của người bán thịt, chỉ có điều không bị rỗng. Bên cạnh khay là một chiếc kìm sắt lớn có tay cầm dài, và bên kia của đống lửa cũng có một cái tương tự. Dù sao tôi cũng không hoàn toàn thích sự hiện diện của cái khay và những chiếc kìm. Tôi ngồi đó nhìn chằm chằm chúng và gương mặt dữ tợn im lặng của những người đàn ông trong vòng tròn, tôi nghĩ thật kinh khủng, chúng tôi hoàn toàn nằm trong quyền hạn của đám người đáng sợ này, những kẻ mà với tôi, dù sao đi nữa cũng có chút e dè, vì tính cách thực sự của họ vẫn đầy bí ẩn với chúng tôi. Họ có thể tốt hơn chúng tôi nghĩ, hoặc cũng có thể tệ hơn. Tôi sợ là họ tệ hơn, và tôi không sai. Thật là một loại yến tiệc gây tò mò, tôi nghĩ, thực sự bề ngoài như một trò giải trí của con tem Barmecide, vì không có chút gì để ăn.
Cuối cùng, ngay khi tôi bắt đầu cảm thấy như thể tôi đang bị thôi miên, một hành động đã xảy ra. Không có cảnh báo nào dù nhỏ nhất, một người đàn ông bên kia vòng tròn nói vọng ra rất lớn:
“Thịt chúng ta sẽ ăn đâu?”
Thế là mọi người trong vòng tròn trả lời bằng giọng trầm thấp, và giang tay phải về phía đống lửa và nói,
Thịt sẽ đến.”
“Đó là thịt dê à?” vẫn người đó hỏi.
“Đó là dê không sừng, và hơn cả một con dê, chúng ta sẽ giết nó.” Họ trả lời và xoay nửa vòng, tất cả dùng tay phải nắm bên tay cầm cây giáo của họ, rồi đồng thời phóng đi.
“Đó là một con bò à?” người đàn ông lại nói.
“Đó là một con bò không sừng, và hơn cả một con bò, chúng ta sẽ giết nó.” Đó là câu trả lời, và những thanh giáo lại đươc cầm lên, và lại bị ném đi.
Rồi dừng một chút, tôi kinh hoàng và dựng tóc gáy nhận ra, người phụ nữ bên cạnh Mahomed bắt đầu âu yếm anh ta, vỗ nhẹ má anh ta và gọi anh ta bằng tên thân mật trong khi đôi mắt hung tợn của cô ta trêu đùa lên xuống bóng dáng run rẩy của anh ấy. Tôi không biết tại sao cái nhìn đó khiến tôi kinh sợ như vậy, nhưng nó đã làm chúng tôi sợ chết khiếp, đặc biệt Leo. Hành động âu yếm như một con rắn, rõ ràng là một phần trong công thức hãi hùng nào đó cần phải được trải qua. [*] Tôi thấy Mahomed trở nên trắng bệch dưới lớp da nâu của anh ta, trắng bệch bệnh hoạn vì sợ hãi.
[*] Sau đó chúng tôi học được rằng, mục đích của hành động đó là giả vờ với nạn nhân khiến cho anh ta thành đối tượng được yêu thương và ngưỡng mộ, mà thật ra là những cảm xúc làm tổn thương anh ấy, khiến anh ta tiêu tan trong suy nghĩ hạnh phúc và mãn nguyện. – L.H.H.
“Thịt đã sẵn sàng được nấu chưa?” giọng nói hỏi gấp gáp hơn.
“Đã sẵn sàng; đã sẵn sàng.”
“Nồi đã nóng lên để nấu chưa?” nó lại tiếp tục, như thét lên, dội lại từ các vách hang động một cách đau đớn.
“Nóng rồi; nóng rồi.”
“Lạy Chúa!” Leo gào lên, “hãy nhớ bản văn tự đã viết, ‘tộc người đặt chậu lên đầu người lạ’.”
Khi cậu ấy nói những câu đó, trước khi chúng tôi nhúc nhích, hay thậm chí tùy ý hành động, hai tên lưu manh to lớn nhảy lên, và thu những chiếc kéo dài lại, xô chúng vào tâm ngọn lửa, còn người phụ nữ đang âu yếm Mahomed đột ngột lấy ra một cái thòng lọng bằng sợi từ bên dưới thắt lưng cô ta, móc nó qua vai anh ta, kéo thật chặt, trong khi những người đàn ông cạnh anh ta dùng chân ghìm giữ anh ta lại. Hai người đàn ông cầm kéo lên, tản đống lửa ra trên sàn đá, nâng lên một nồi đất nung lớn, đun nóng tới khi có hơi trắng. Trong khoảnh khắc, hầu như bằng một chuyển động đơn giản, họ đi đến nơi Mahomed đang giẫy dụa. Anh ta chiến đấu như một con quái vật dữ tợn, gào thét trong tuyệt vọng, dù thòng lọng quấn quanh cổ và nỗ lực của đám đàn ông cố giữ chân anh ta, những kẻ khổ sở đang tiến đến đó lúc này không có khả năng hoàn thành mục đích dường như kinh khủng và không thể tin được của họ, là đặt cái nồi nóng đỏ lên đầu anh ta.
Tôi nhảy ra với một tiếng thét kinh hãi, giơ súng bắn theo bản năng thẳng vào người phụ nữ độc ác đã ve vuốt Mahomed, giờ đang nắm chặt anh ta trong vòng tay cô ta. Viên đạn bắn thẳng vào lưng và giết chết cô ta, và hôm nay tôi rất vui vì điều đó, kết quả là, cô ta tự tư lợi cho phong tục ăn thịt người của tộc người Amahagger bằng cách tổ chức ra trò này để báo thù sự khinh thường Job dành cho cô ta. Cô ta lún xuống chết, như thể làm vậy để khủng bố và làm mất tinh thần tôi. Mahomed, với nỗ lực phi thường, xô khỏi những kẻ dày vò anh ấy, nhảy cao lên không trung, rơi chết trên xác cô ta. Viên đạn nặng nề từ khẩu súng lục của tôi đã đi xuyên qua cơ thể cả hai, cùng lúc giết chết kẻ giết người, và cứu nạn nhân của cô ta khỏi cái chết còn kinh khủng hơn nghìn lần. Đó là một tai nạn kinh khủng và đau xót nhất.
Có một sự im lặng ngạc nhiên trong khoảnh khắc. Người Amahagger chưa bao giờ nghe tin tức nào về vũ khí này trước đó và tác động của nó làm họ chấn kinh. Nhưng một người đàn ông gần chúng tôi đã phục hồi lại, thu giáo lại chuẩn bị đâm thẳng vào Leo, người gần anh ta nhất.
“Chạy đi!” Tôi gào lên, lấy ví dụ bằng cách chạy ngay lên trên hang động nhanh hết mức chân tôi có thể. Tôi phải mở đường nếu có thể, nhưng bọn người này đã ở đó, bên cạnh, tôi bắt gặp dấu hiệu hình thành đám đông người rõ ràng đang nổi bật lên nơi đường chân trời trước lối vào hang. Tôi đi phía trên hang, theo sau tôi là những người khác, và theo sau họ ầm ầm cả đám đông những kẻ ăn thịt người, đang điên cuồng giận dữ vì cái chết của người phụ nữ. Trong phạm vi tôi thấy vẻ mệt mỏi của Mahomed. Khi tôi bay qua anh ta, tôi cảm thấy hơi nóng từ cái chậu nung nóng đỏ đang nằm gần đó, ngáng chân tôi, và qua ánh sáng của nó, nhìn thấy tay anh ta vẫn yếu ớt di chuyển – vì anh ta chưa hoàn toàn chết. Trên đỉnh hang động là một khối đá nhỏ khoảng ba feet chiều cao và tám feet chiều sâu, có hai cây đèn lớn trên đó đặt vào đêm. Tảng đá này đã bị bỏ lại làm chỗ ngồi hay nơi đưa lên cần bị cắt bỏ khi nó dùng làm chỗ thực hiện các cuộc khai quật, tôi không biết – ít ra tôi không làm thế. Bằng mọi giá cả ba người chúng tôi đều tới đó, nhảy vào, chuẩn bị bán mạng với giá đắt nhất có thể. Sau vài giây, đám đông theo gót chúng tôi mắc lại khi họ thấy chúng tôi phải đối mặt với vòng trên họ. Job ở bên cạnh tảng đá mé trái, Leo ở giữa, tôi bên phải. Sau chúng tôi là những cây đèn. Leo cúi người phía trước, nhìn xuống con đường dài của bóng tối kết thúc nơi đống lửa và những ngọn đèn sáng, xuyên qua nó là cơ thể im lặng của chúng tôi - những kẻ có thể bị coi là sát nhân, lướt qua lướt lại ánh sáng mờ nhạt lấp lánh của những cây giáo, sự phẫn nộ giờ im lặng như con chó bull. Thứ duy nhất nhìn thấy là cái chậu nóng đỏ vẫn sáng trong bóng tối. Có một ánh tò mò trong mắt Leo, gương mặt đẹp trai của cậu ấy đanh lại như đá. Bên tay phải của cậu là con dao đi săn nặng nề. Cậu chuyển cái dây da của nó lên trên cổ tay một chút rồi đưa tay lên vòng qua tôi, cho tôi một cái ôm tốt lành.
“Tạm biệt, nhà nghiên cứu sinh già nua,” cậu ấy nói, “bạn thân mến của cháu – còn hơn cả cha cháu. Chúng ta không có cơ hội chống lại đám côn đồ này; bọn chúng sẽ kết liễu chúng ta trong vài phút nữa, sau đó ăn thịt chúng ta, cháu đoán vậy. Tạm biệt bác. Cháu dẫn bác đến đây thôi. Cháu mong bác sẽ tha thứ cho cháu. Tạm biệt, Job.”
“Ý Chúa sẽ được thực hiện,” Tôi nói qua kẽ răng, như thể chuẩn bị cho dấu chấm hết. Lúc đó, Job hét lên, nâng súng và bắn, trúng một người – không phải người anh ta ngắm tới, nói cách khác: bất kỳ thứ gì Job nhắm bắn đều hoàn toàn an toàn.
Bọn họ chạy ào tới, tôi bắn nhanh hết mức có thể, và đối chiếu với bọn chúng – giữa chúng tôi, Job và tôi, bên cạnh người phụ nữ, năm tên bị giết hay bị trọng thương bằng khẩu súng lục của chúng tôi trước khi hết đạn. Nhưng chúng tôi không có thời gian lên đạn, mà bọn chúng vẫn liều lĩnh tiến lên một cách rất đẹp, dù chúng không biết chúng tôi còn có thể bắn bao lâu.
Một người to lớn nhảy lên phiến đá, Leo đánh chết hắn bằng một cú vung tay mạnh mẽ, đưa con dao sang phải xuyên qua hắn ta. Tôi làm tương tự với tên khác, nhưng Job lỡ mất cú đánh, và tôi thấy một tên Amahagger rắn chắc nắm lấy thắt lưng anh ta rồi tung anh ta ra khỏi tảng đá. Con dao không được buộc dây rơi khỏi tay Job, quay ngang tay cầm lên phía tảng đá trên cao, một tai nạn hạnh phúc nhất với anh ta, ngay khi cơ thể của tên Amahagger đang ở dưới thấp nhất, con dao đó đi xuống và xuyên qua người hắn. Điều gì xảy ra với Job sau đó tôi chắc chắn không biết, nhưng ấn tượng của tôi là anh ta vẫn nằm trên cái xác của kẻ tấn công đã quá cố đó, “làm bộ chết” như người Mỹ nói. Đối với tôi, tôi sớm tham gia vào cuộc gặp gỡ tuyệt vọng với hai tên lưu manh, thật may cho tôi, hai tên này đều đã bỏ giáo lại phía sau; lần đầu tiên trong đời sức mạnh thể chất tuyệt vời Tạo Hóa ban cho tôi đã giúp tôi ở vị trí tốt. Tôi chặt vào đầu một tên bằng con dao đi săn khá to và nặng như một thanh gương ngắn, với sức mạnh đó, thanh thép sắc bén đó đã chẻ đôi sọ hắn tới tận mắt, và rất nhanh chóng hắn rơi ngang xuống, con dao bị xoắn rơi ngay khỏi tay tôi.
Sau đó hai tên khác nhảy vào tôi. Tôi thấy chúng tới, vòng tay qua eo từng tên, và tất cả chúng tôi cùng rơi xuống nền hang, lăn qua lăn lại. Bọn chúng đều rất khỏe, nhưng tôi đã giận đến điên lên, ham muốn tàn sát khủng khiếp bò vào trái tim những người văn minh nhất như chúng tôi cũng thổi bay mọi thứ, sự sống chết run rẩy chờ lượt. Đôi tay tôi vòng qua hai con quỉ ngăm đen, tôi ôm chúng tới khi nghe thấy xương sườn của chúng nứt gãy dưới cái kẹp của tôi. Chúng xoắn lại quằn quại như rắn, đập lại tôi bằng nắm đấm, nhưng tôi giữ được. Nằm trên lưng tôi, hai cơ thể có thể bảo vệ tôi khỏi giáo đâm phía trên, tôi từ từ nghiền nát sinh mạng bọn chúng, thật lạ, tôi đã nghĩ về những gì Người Đứng Đầu hảo tâm của trường Đại Học của tôi tại Cambridge (người là thành viên của Hiệp Hội Hòa Bình) và các nghiên cứu sinh đàn anh của tôi có thể nói nếu họ có thể thấy tôi hay toàn bộ loài người một cách sáng suốt, thông qua chơi trò chơi đẫm máu như thế này. Ngay khi những kẻ tấn công tôi trở nên yếu ớt, hầu hết đều dừng đánh, hơi thở của chúng đã hết, chúng đang chết, nhưng tôi vẫn không dám rời chúng, vì chúng chết rất chậm. Tôi biết rằng, nếu tôi thả lỏng cái kẹp tay của mình, chúng sẽ sống lại. Những tên lưu manh khác có thể nghĩ – vì cả ba chúng tôi đều đang trong bóng tối của phần mỏm đá nhô ra – chúng tôi đã chết cùng nhau, bọn chúng sẽ không can thiệp vào bi kịch nhỏ của tôi ở một mức độ nào đó.
Tôi quay đầu lại, khi tôi còn đang nằm thở hổn hển trong đau đớn của cuộc chiến khủng khiếp, tôi có thể thấy Leo giờ đã ra khỏi tảng đá, vì ánh đèn phủ đầy người cậu ấy. Cậu ấy vẫn đứng vững trên đôi chân, nhưng lại ở giữa đám người đang trào lên với số lượng lớn, những kẻ đang cố kéo cậu ấy xuống như đám sói kéo một con hươu. Phía trên cao hơn chúng là gương mặt nhợt nhạt đẹp đẽ đang đội vương miện của những lọn tóc vàng sáng (vì Leo cao sáu feet hai), tôi biết cậu ấy đang chiến đấu để từ bỏ tuyệt vọng với thứ năng lượng bỗng nhiên trở nên mạnh mẽ và khủng khiếp. Cậu đâm dao xuyên qua một người – bọn chúng rất gần và trộn lẫn với cậu nên không thể dùng giáo giết cậu được, chúng không có dao hay gậy. Tên đó ngã xuống, con dao rơi khỏi tay cậu, khiến cậu không còn khả năng tự vệ, tôi nghĩ kết thúc đã đến. Nhưng không; cậu ấy đã phá vỡ sự nơi lỏng của họ bằng nỗ lực tuyệt vọng, ôm lấy cơ thể người vừa bị giết, nâng nó lên cao trong không trung và ném ngay về phía đám đông những kẻ tấn công mình, cú sốc cùng trọng lượng quét năm hay sáu người bọn họ ngã xuống đất. Nhưng trong phút chốc bọn chúng lại tiến lên, trừ tên đã vỡ sọ, và một lần nữa bị cột lại cùng cậu. Từ từ, với sức lực chiến đấu vô hạn, những con sói đã làm con sư tử gục ngã. Thậm chí cậu đã trấn tĩnh lại, đốn ngã một tên Amahagger bằng nắm đấm, nhưng thế là quá nhiều với một người chiến đấu một mình rất lâu chống lại quá đông, cuối cùng cậu rơi xuống sàn đá, ngã như một cây sồi đổ, đưa cậu về đất cùng cả những kẻ đang bám lấy cậu. Bọn chúng túm chặt tay chân cậu ấy, rồi rời khỏi cơ thể cậu.
“Giáo”, một tiếng kêu khóc vang lên – “giáo để cắt cổ hắn, và thùng để lấy máu hắn.”
Tôi nhắm mắt, vì tôi thấy một tên cầm giáo đi tới, bản thân tôi không thể cựa quậy nổi để giúp Leo, tôi đang trở nên yếu dần, hai tên trên người tôi vẫn chưa chết, và một căn bệnh hiểm nghèo đánh bại tôi.
Bỗng nhiên có tiếng huyên náo, tôi vô tình mở mắt một lần nữa, nhìn về khung cảnh giết người. Cô gái Ustane đang tự lao mình vào hình dáng nằm phủ phục của Leo, bao cơ thể của cậu bằng cơ thể của cô ấy, bám chặt tay vào cổ cậu. Bọn họ cố kéo cô ấy ra khỏi cậu, nhưng cô ấy xoắn chân quanh cậu, treo như một chú chó bull, hay giống một cây leo bám vào một cây lớn hơn, bọn chúng không kéo nổi. Rồi bọn chúng lại cố đâm cậu ấy từ bên cạnh mà không làm tổn thương cô, nhưng cô vẫn che chắn được cho cậu ấy, cậu chỉ bị thương.
Cuối cùng họ mất kiên nhẫn.
“Đâm giáo xuyên qua cả tên này và người phụ nữ,” một giọng nói cất lên, chính là giọng nói đã hỏi các câu hỏi trong bữa yến tiệc rùng rợn đó, “như thế họ sẽ thực sự cưới nhau.”
Rồi tôi thấy một tên có vũ khí thẳng mình đứng dậy. Tôi thấy ánh thép lạnh trên cao, và một lần nữa tôi nhắm mắt.
Khi đó tôi nghe thấy một giọng sấm sét vang lên như rung chuông và vang vọng xuống những con đường đá,
“Dừng lại!”
Rồi tôi ngất đi, một ánh sáng lóe lên xuyên qua trí óc đang tối dần đi của tôi khiến tôi đi dần vào những quên lãng cuối cùng của cái chết.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 7



CHƯƠNG 7

Ustane hát
Khi hành động ôm hôn đã kết thúc – tất nhiên không có phụ nữ trẻ nào trao tặng cơ hội cho tôi theo cách này, dù tôi đã thấy một người lượn lờ quanh Job, dấu hiệu cảnh báo rõ rệt một cá nhân đang được ái mộ - ông già Billali tiến lên, ân cần vẫy chúng tôi vào trong hang, chúng tôi đi đến đâu, Ustane đều theo đến đó, cô ấy dường như không để ý đến những gì tôi ám chỉ cho cô ấy rằng chúng tôi thích được riêng tư.
Trước khi đi năm bước, tôi nhận ra cái hang chúng tôi đang đi vào không phải là công trình tự nhiên, ngược lại, đã được bàn tay con người đào rỗng. Nhưng theo chúng tôi đánh giá, nó ước chừng dài một trăm feet và rộng năm mươi feet, rất cao, giống một lối vào nhà thờ hơn bất kỳ cái gì khác. Từ lối đi chính mở ra những hành lang nhỏ khoảng mười hai tới mười lăm feet, dẫn tới các phòng nhỏ hơn, tôi cho là vậy. Khoảng năm mươi feet từ miệng hang, ngay ở nơi ánh sáng bắt đầu mờ dần, một ngọn lửa được đốt lên, ném vào bóng tối rộng lớn trên những bức tường ảm đạm xung quanh. Billali dừng lại ở đó, yêu cầu chúng tôi ngồi xuống, nói rằng người ta có thể mang cho chúng tôi thức ăn, do đó chúng tôi tự ngồi xuống những tấm thảm da đã được trải ra cho chúng tôi, và chờ đợi. Hiện giờ thức ăn, gồm thịt dê luộc, sữa dê tươi trong nồi đất nung và ngô Ấn Độ luộc, được các cô gái trẻ mang vào. Chúng tôi đều rất đói, tôi nghĩ tôi chưa từng ăn thỏa mãn đến vậy trong đời. Quả thật, chúng tôi đã ăn sạch mọi thứ đưa đến.
Khi chúng tôi ăn xong, chủ nhân hơi trầm mặc - Billali, đã hoàn toàn im lặng quan sát trước đó - đứng dậy và nói chuyện. Ông ấy bảo chuyện này thật tuyệt vời. Không ai từng biết hay nghe về những người lạ da trắng đến đất nước của Người Dân của Vùng Đá này. Thi thoảng, dù rất hiếm hoi, người da đen cũng tới đây, qua họ, người ở đây nghe về sự tồn tại của người da trắng hơn cả chính họ, những người vượt biển trên những con tàu, nhưng các lần xuất hiện như vậy đều không có tiền lệ. Tuy nhiên chúng tôi bị nhìn thấy khi đang kéo con thuyền trên kênh đào, nên ông ấy thẳng thắn nói với chúng tôi rằng, lúc đó ông ấy đã ra lệnh tiêu diệt chúng tôi, vì người lạ xâm nhập vào nơi này là bất hợp pháp, thông điệp từ “Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh”, bảo rằng chúng tôi được tha mạng, và chúng tôi đã được mang đến đây.  
“Xin lỗi thưa cha,” lúc này tôi ngắt lời; “nhưng nếu, theo tôi hiểu, ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’ không có mặt ở đó, làm sao bà ấy biết chúng tôi sắp tới?”
Billali quay lại, thấy chỉ còn chúng tôi – vì cô gái trẻ Ustane đã rút lui khi ông ấy bắt đầu nói – ông nói trong nụ cười có chút tò mò.
“Có ai trên đất của ngươi mà ngươi không thể nhìn thấy bằng mắt và nghe thấy bằng tai không? Đừng hỏi; Bà ấy biết.”
Tôi nhún vai, còn ông ấy tiếp tục nói rằng không còn nhận được mệnh lệnh nào nữa về việc xử lý chúng tôi, vì vậy ông ta chuẩn bị đi hỏi ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’, nói chung, một cách ngắn gọn, đến nói “Chào” hay đơn giản nói chuyện với Bà ấy, người chúng tôi hiểu là Nữ Hoàng của người Amahagger, và tìm hiểu những nguyện vọng của bà ấy.
Tôi hỏi ông ấy có thể vắng mặt bao lâu, ông ta nói, nếu đi xa, ông ấy khó trở về trong ngày thứ năm, phải vượt qua rất nhiều dặm đầm lấy mới đến được nơi Bà ấy ở. Rồi ông bảo, mọi thu xếp đều có thể, để chúng tôi thoải mái khi ông vắng mặt, và cá nhân ông ấy rất thích chúng tôi, ông chân thành tin tưởng câu trả lời ông mang về từ Bà ấy có thể là một đặc ân cho phép chúng tôi tiếp tục tồn tại, nhưng đồng thời ông cũng không muốn che dấu chúng tôi nghi ngờ này, rằng mọi người lạ từng đến đất nước này trong đời bà ông ta, mẹ ông ta và cả đời ông ta đều phải chết không thương tiếc, và chết theo cách ông ta không muốn mô tả làm chúng tôi đau lòng; chuyện này đều tuân theo lệnh của Bà ấy, ít ra ông ấy cho rằng đó là theo lệnh của Bà ấy. Bà ấy không bao giờ can thiệp để cứu họ dù bất cứ giá nào.
“Tại sao,” Tôi nói, “làm sao điều đó có thể? Cha đã là một người già, thời gian cha nói phải trải qua ba đời người. Thế thì làm thế nào mà Bà ấy có thể ban cái chết cho ai từ đời bà của cha, khi mà Bà ấy còn chưa thể sinh ra?”
Ông ấy lại cười – cũng lại nụ cười mờ nhạt, kỳ dị và cúi đầu trầm lặng để ra đi, không trả lời; chúng tôi cũng không nhìn thấy ông ấy suốt năm ngày.
Khi ông ấy đi rồi, chúng tôi cùng thảo luận tình hình mà tôi thấy đáng báo động. Tôi không hoàn toàn thấy giống những thông tin về vị Nữ Hoàng huyền bí này, “Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh”, hay ngắn gọn là Bà ấy, có vẻ bà ta đã ra lệnh hành quyết bất kỳ người lạ không may mắn nào một cách không thương tiếc. Leo cũng vậy, chán nản về điều đó, nhưng tự an ủi một cách đắc thắng rằng, Bà ấy không nghi ngờ gì nữa, chính là người được nói đến trong bản văn tự cổ trên mảnh gốm và trong thư của cha cậu, được minh chứng qua lời ám chỉ của Billali về tuổi tác và sức mạnh của bà ta. Lần này tôi quá choáng váng với hàng loạt sự kiện mà tôi chưa từng nghe nói, nên bỏ qua tranh luận chuyện vô lý này, tôi đề nghị chúng tôi nên cố ra ngoài đi dạo và tắm rửa, điều mà thật đáng buồn chúng tôi đã phải kháng cự lại vì cần thiết.
 Theo đó, nói mong muốn của chúng tôi cho một người trung niên đang đeo vẻ mặt trầm lặng bất thường trong tộc người trầm mặc này - dường như người đó được ủy thác chăm sóc chúng tôi bây giờ khi vị Cha của ngôi làng đã lên đường đi xa, chúng tôi bắt đầu trước tiên bằng cách châm tẩu thuốc. Ngoài hang động, chúng tôi thấy một đám người rõ ràng đang quan sát vẻ ngoài của chúng tôi, nhưng khi thấy chúng tôi hút thuốc đi ra, họ biến mất và gọi chúng tôi là những nhà phù thủy tuyệt vời. Thật vậy, không gì ở chúng tôi tạo cho họ cảm giác tuyệt vời như khói thuốc – chứ không phải vũ khí. [*] Sau đó, chúng tôi tìm được một con suối có nguồn từ một dòng chảy ngầm rất mạnh, và tắm rửa trong thanh bình, dù vài phụ nữ, không ngoại trừ Ustane, thể hiện ý định chắc chắn đi theo chúng tôi ra tận đó.
[*] Chúng tôi thấy việc trồng thuốc lá ở đất nước này cũng giống như ở những nơi khác của Châu Phi, dù họ hoàn toàn bỏ qua những tính chất khác của nó, người Amahagger dùng nó thường xuyên dưới hình thức hút và để làm thuốc. – L.H.H.
Lúc này chúng tôi đã tắm xong, mặt trời đang lặn; khi trở lại hang lớn, nó đã lặn. Hang động đầy người tụ tập quanh những đống lửa – vài đống đến giờ vẫn còn sáng – họ đang ăn tối bằng ánh sáng hoa lệ, có nhiều loại đèn được đặt hoặc treo trên tường. Những chiếc đèn này được làm thô bằng đất nung, hình dạng khá duyên dáng. Những cái lớn hơn được tạo ra từ chậu đất nung đỏ lớn, đổ đầy chất béo tan chảy, có bấc sậy mắc qua một đĩa gỗ xuyên lên đến đỉnh chậu. Loại đèn này đòi hỏi phải chú ý thường xuyên để ngăn trường hợp bấc bị thiêu rụi, do không có cách nào xoay nó lên trên. Các loại đèn nhỏ hơn bằng bàn tay cũng làm từ đất sét nung, trang bị bấc làm từ lõi cây cọ, hoặc đôi khi từ gốc của nhiều loại dương xỉ rất đẹp. Loại bấc này được đưa qua một lỗ tròn dưới đáy đèn, nơi một mảnh sắc bằng gỗ cứng gắn vào và đưa nó lên, có thể đốt ở tầm thấp bất cứ lúc nào.
Trong khi chúng tôi ngồi xuống nhìn tộc người dữ tợn này ăn bữa tối trong bầu không khí yên lặng đến dữ tợn như chính họ, tới khi mệt mỏi vì ngắm họ và những cái bóng lớn chuyển động trên tường đá, tôi đề nghị với người giữ chúng tôi rằng chúng tôi muốn đi ngủ.
Không nói một lời, anh ta dắt tay tôi lịch sự, với một ngọn đèn, tiến vào một trong những lối đi nhỏ tỏa ra từ giữa hang mà tôi đã chú ý trước đó. Chúng tôi đi theo khoảng năm bước, nó đột nhiên mở rộng ra thành một buồng nhỏ, khoảng tám feet vuông, đẽo từ một hòn đá sống động. Một mặt căn phòng bằng phiến đá vuông mỏng, khoảng ba feet từ mặt đất, chạy theo chiều dài như một giường ngủ trong cabin, anh ta nói tôi có thể ngủ trên phiến đá này. Không có cửa sổ hay lỗ thông khí trong căn buồng, không đồ nội thất; và nhìn gần hơn, tôi đi tới một kết luận đáng lo ngại (sau đó tôi phát hiện ra tôi hoàn toàn đúng), nó dành làm huyệt cho người chết chứ không phải chỗ ngủ cho người sống, phiến đá được thiết kế để nhận xác chết của người đã khuất. Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình; dẫu biết tôi phải ngủ ở đâu đó, tôi cố trải qua cảm giác đó tốt nhất có thể, rồi trở lại hang lấy chăn được mang về từ con thuyền cùng những thứ khác. Ở đó tôi gặp Job, đang được đưa đến một căn phòng tương tự, đã thẳng thừng từ chối nghỉ trong đó, anh ta nói nhìn nơi đó làm anh ta thấy sợ hãi, anh ta cảm thấy bị chết và chôn trong ngôi mộ gạch của ông nội anh ta, anh ta quyết định ngủ với tôi nếu tôi cho phép. Tất nhiên tôi quá vui sướng vì điều đó.
Buổi tối trôi qua nói chung rất thoải mái. Tôi bảo là ‘nói chung’, vì cá nhân tôi đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp bị chôn sống, không nghi ngờ gì, do tính chất tự nhiên tang tóc của môi trường xung quanh gây ra. Lúc bình minh, chúng tôi bị đánh thức bởi một âm thanh rống to, như chúng tôi biết sau đó, từ một người Amahagger trẻ tuổi thổi qua lỗ trám bên cạnh của chiếc ngà voi rỗng, chắc được dùng cho mục đích này.
Được ra dấu, chúng tôi đứng dậy và đi xuống dòng suối để gột rửa, sau đó bữa sáng được phục vụ. Tại bữa sáng, một trong những phụ nữ, không quá trẻ, tiến lên và hôn Job công khai. Tôi nghĩ đây là điều vui nhất tôi từng thấy (đặt trong khung cảnh không phù hợp lúc này). Không bao giờ tôi quên được nỗi sợ hãi và sự ghê tởm khổ sở của Job đáng yêu. Job, giống như tôi, hơi ghét phụ nữ - tôi ưa thích anh ta chủ yếu vì anh ta sống trong gia đình có mười bảy người – cảm xúc biểu hiện trên mặt anh ta khi nhận ra mình không chỉ bị ôm công khai khi chưa được phép của anh ta, mà lại còn trước mặt các chủ nhân của mình, là rất phức tạp trộn với đau khổ thừa nhận sự thật chính xác. Anh ta nhảy dựng lên, đẩy phụ nữ đó, một người khoảng ba mươi, khỏi anh ta.
“Không bao giờ!” anh ta hổn hển, có lẽ lúc đó nghĩ anh ta rụt rè, cô ấy lại ôm anh ta lần nữa.
“Cút đi! Cút đi, đồ xảo quyệt!” anh ta hét lên, vẫy cái muỗng gỗ anh ta dùng để ăn sáng lên xuống trước mặt người phụ nữ. “Xin ngài tha thứ, thưa ngài, tôi chắc chắn không khích lệ cô ta. Ôi lạy Chúa! Cô ta lại đi về phía tôi kìa. Hãy giữ lấy cô ta, Ngài Holly! Làm ơn giữ lấy cô ta! Tôi không thể chịu nổi; Tôi không thể, thật đấy. Chuyện này trước đây chưa bao giờ xảy ra với tôi, thưa ngài, không bao giơ. Không có vấn đề gì với nhân cách của tôi đâu,” rồi anh ta dừng lại đó, chạy thục mạng như có thể được vào trong động, cô ấy không cười. Ngược lại, dường như cô ta hơi giận dữ, sự nhạo báng của những phụ nữ khác chỉ làm tăng cơn giận. Cô ta đứng đó gầm gừ phẫn nộ, nhìn cô ta, tôi ước sự ngại ngùng của Job đáng ra nên ở Jericho, nơi có thể tạo nên phỏng đoán, rằng hành vi đáng ngưỡng mộ của anh ta sẽ đe dọa cổ họng của chúng tôi. Không, tôi đã đoán sai hậu quả sau đó.
Người phụ nữ rút lui, Job trở lại trong trạng thái rất căng thẳng, giữ đôi mắt bão gió của mình gắn chặt vào bất kỳ phụ nữ nào đến gần anh ta. Tôi lấy cơ hội giải thích với các chủ nhân ở đây rằng Job đã kết hôn, và đã trải qua mối quan hệ khá bất hạnh trong nước, khiến anh ta ở đây hiện ra vẻ mặt và sự sợ hãi với phụ nữ, nhưng lời giải thích của tôi được đón nhận trong im lặng ảm đạm, hiển nhiên hành vi của người tùy tùng này bị coi là không tôn trọng “hộ gia đình” ở phạm vi rộng hơn, dù người phụ nữ đó, theo cách văn minh nhất của các chị em, đã tỏ ra vui vẻ với sự cự tuyệt này.
Sau bữa sáng, chúng tôi đi dạo và tìm hiểu về việc chăn nuôi của người Amahagger, cũng như những mảnh đất trồng trọt của họ. Họ có hai loại gia súc, một loại lớn và góc cạnh, không sừng, nhưng năng suất sữa rất tốt; và loại kia, màu đỏ, rất nhỏ và béo, thịt rất tuyệt, nhưng sữa không có giá trị. Nó giống loài tương tự ở Norfolk, cực đỏ, chỉ có điều sừng cong về phía trước đầu, đôi khi phải cắt bớt đi để tránh phát triển vào xương sọ. Dê có râu dài và chỉ dùng để lấy thịt, ít ra tôi không thấy họ lấy sữa. Đối với việc trồng trọt của người Amahagger, cực kỳ nguyên thủy, tất cả đều được làm bằng cái xuổng sắt, vì tộc người này biết nấu chảy và cán sắt. Cái xuổng giống đầu ngọn giáo lớn, không có vai, chỉ có chân xuống được gắn vào. Hậu quả là, phải bỏ sức rất lớn để đào xới. Tuy nhiên, tất cả đều do đàn ông làm, ngược lại với tập quán của hầu hết cả chủng tộc hoang dã, phụ nữ hoàn toàn được miễn việc tay chân mệt nhọc. Như tôi đã nói ở nơi nào đó, trong tộc người Amahagger phái yếu hơn đã thiết lập quyền của họ.
Ban đầu chúng tôi bị bối rối trước nguồn gốc và sự hình thành nên chủng tộc kỳ lạ này, những điểm mà họ khá kín đáo. Thời gian trôi qua – bốn ngày kế tiếp không có sự kiện đáng kể nào – chúng tôi tìm hiểu được một chút từ cô bạn Ustane của Leo, người lúc nào cũng dính lấy quí ngài trẻ tuổi như một cái bóng của cậu ấy. Thực chất, họ chả có gì, ít ra như cô ta nhận ra. Tuy nhiên cô ấy đã kể với chúng tôi về những gò đất được xây và nhiều cột trụ, gần nơi Bà ấy sống, gọi là Kôr, nơi người thông thái nói đã từng là nhà để con người sống, và cho rằng họ là hậu duệ của những con người này. Tuy nhiên không ai dám đến gần những tàn tích đổ nát vĩ đại đó, vì họ bị ám ảnh: họ chỉ thấy chúng từ xa. Những tàn tích tương tự được trông thấy, theo cô ấy nghe nói, ở nhiều nơi trên đất nước này, nó ở đâu đó trên một trong những ngọn núi mọc lên trên đầm lầy. Những hang động họ đang sống cũng từng được con người đào rỗng từ đá, có lẽ chính là những người đã xây dựng nên các thành phố. Bản thân họ không có luật lệ bằng văn bản, chỉ có phong tục tập quán cũng trói buộc chặt chẽ như luật lệ. Nếu ai đó chống lại phong tục, người đó sẽ bị chết theo lệnh từ Cha của “Hộ gia đình”. Tôi hỏi người ta bị buộc phải chết như thế nào, cô ấy chỉ mỉm cười nói rằng, có lẽ tôi sẽ thấy vào một ngày nào đó sớm thôi.
Tuy nhiên, họ có một Nữ Hoàng. Bà ấy là Nữ Hoàng của họ, nhưng rất hiếm khi nhìn thấy bà ấy, có lẽ chỉ một lần trong hai hay ba năm, khi bà ấy đi đến tuyên án cho vài người phạm tội, bà ấy được khoác trong chiếc ào choàng lớn, đến mức không ai có thể trông thấy mặt bà. Những ai hầu hạ bà ấy đều câm điếc, do đó không thể kể bất cứ chuyện gì, nhưng nghe nói rằng bà ấy đáng yêu đến mức không ai đáng yêu bằng, hay chưa từng ai như vậy. Cũng có tin đồn rằng bà ấy bất tử, có sức mạnh vượt tất cả mọi thứ, như Ustane không thể nói gì về tất cả mọi chuyện. Điều cô ấy tin là Nữ Hoàng đã chọn một người chồng từ rất xa xưa, khi một bé gái ra đời, chồng của bà ấy – người chưa ai từng gặp lại bao giờ - đã bị ban cho cái chết. Rồi bé gái lớn lên, trở thành Nữ Hoàng khi mẹ nó chết và bị chôn trong những hang động lớn. Nhưng những chuyện này đều không chắc chắn. Toàn bộ chiều dài và rộng của mảnh đất này đều chỉ vâng lệnh Bà ấy, nghi ngờ lệnh của bà đều phải chết ngay lập tức. Bà ấy có một người bảo vệ, nhưng không có quân đội thường trực, và không tuân lệnh bà ấy chỉ là chết.
Tôi hỏi kích thước mảnh đất này, bao nhiêu người sống trên đó. Cô ấy trả lời có mười “Hộ gia đình”, theo những gì cô ấy biết, gồm “Hộ gia đình” lớn là nơi Nữ Hoàng ở đó, tất cả các “Hộ gia đình” đều sống trong các hang động, dường như trải rộng khắp đất nước này, rải rác giữa những đầm lầy rộng lớn mênh mông, chỉ nối thông bằng những con đường bí mật. Các “Hộ gia đình” thường gây chiến với nhau cho tới khi Bà ấy gửi lời yêu cầu dừng lại, họ sẽ dừng lại ngay lập tức. Điều đó cùng với bệnh sốt rét họ mắc phải khi qua đầm lầy ngăn số lượng người của họ tăng lên quá nhanh. Họ không có liên hệ với các chủng tộc khác, thực tế không ai sống gần họ, hoặc có khả năng vượt qua những đầm lầy mênh mông này. Một lần, một đội quân từ hướng dòng sông lớn (có lẽ là người Zambesi) đã cố tấn công họ, nhưng chúng bị lạc lối trong các đầm lầy, ban đêm nhìn những quả bóng lửa khổng lồ di chuyển ở đó, cố đi về phía đó, cho rằng đó là dấu hiệu trại của kẻ thù, thế là một nửa trong số chúng bị chết đuối. Số còn lại cũng chết ngay sau đó vì sốt rét và đói khát, khi chưa có nổi một đòn tấn công vào họ. Cô ấy nói với chúng tôi, đầm lầy hoàn toàn không thể vượt qua được trừ những ai biết đường, hơn nữa, điều tôi rất tin tưởng, là chúng tôi sẽ không bao giờ đến được nơi này nếu chúng tôi đã không được chính họ đưa đến đây.
Điều này và nhiều thứ khác chúng tôi tìm hiểu được từ Ustane trong suốt bốn ngày trước khi cuộc phiêu lưu thực sự của chúng tôi bắt đầu, có thể tưởng tượng rằng, những chuyện này đã cho chúng tôi nguyên nhân tương đối để suy nghĩ. Toàn bộ câu chuyện cực kỳ rõ ràng, hầu như thật khó tin, thực vậy, phần kỳ lạ nhất ít nhiều liên quan đến bản văn tự cổ xưa trên mảnh gốm vỡ. Bây giờ dường như có một Nữ Hoàng huyền bí khoác theo tin đồn với sự uy nghiêm và những tính cách tuyệt vời, nổi tiếng vô cảm, nhưng theo suy nghĩ của tôi, còn hơn danh hiệu khiếp sợ của Bà ấy. Tóm lại, tôi không thể dựng nên chuyện này, Leo cũng không thể, dù tất nhiên cậu ấy cực kỳ hiếu thắng trước tôi, vì tôi đã từng liên tục chế giễu toàn bộ chuyện này. Đối với Job, từ lâu anh ta đã từ bỏ nỗ lực nói lên lý do của chính mình, khiến nó trôi dạt trên biển. Mahomed, anh chàng Ả Rập, người đã cư xử quả thật rất văn minh, nhưng bị những người Amahagger kinh miệt lạnh lùng, tôi phát hiện ra anh ta đang rất sợ hãi, dù tôi không thể dựng lên những gì anh ta e sợ. Anh ta ngồi thu mình trong một góc hang động suốt ngày dài, kêu gọi Allah và Đấng tiên tri tới bảo vệ anh ta. Khi tôi ép hỏi anh ta về điều đó, anh ta bảo đang sợ hãi, vì những người này không phải đàn ông hay đàn bà, mà là quỉ dữ, và đây là vùng đất bị bỏ bùa; theo quan điểm của tôi, sau một hai lần, tôi đồng ý với anh ta. Và thời gian cứ như vậy trôi, tới đên ngày thứ tư sau khi Billali đi, có điều gì đó xảy ra.
Ba người chúng tôi và Ustane đang ngồi quanh đống lửa trong hang trước giờ đi ngủ, bỗng nhiên người phụ nữ đó – người đã từng ấp ủ trong im lặng – mỉm cười và đưa tay lên những lọn tóc vàng của Leo, và nói chuyện với cậu ấy. Ngay tới tận bây giờ, khi tôi nhắm mắt lại, tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ tự hào, vương giả của cô ấy, luân phiên khoác tấm áo của bóng tối dày đặc và lửa đỏ lấp lánh, cô ấy đứng đó, giữa tâm điểm hoang dã kỳ lạ như một cảnh tôi từng chứng kiến, cô ấy tự gửi gắm một loại ngôn từ đầy âm điệu mang theo gánh nặng của suy tư và những lời tiên đoán, cất lên như sau:
Ngươi là người ta đã lựa chọn – ta đã chờ đợi ngươi từ đầu!
Ngươi rất đẹp. Ai có mái tóc như ngươi, hay làn da trắng đến thế?
Ai có cánh tay mạnh mẽ đến thế, ai là người đàn ông như thế?
Mắt ngươi là bầu trời, ánh sáng trong đó là những vì sao.
Ngươi hoàn hảo với gương mặt hạnh phúc, và trái tim ta đã hướng về ngươi.
Ôi, khi đôi mắt ta rơi trên ngươi, ta đã khát khao ngươi,
Rồi ta giữ cho ngươi bên ta, ôi, người yêu dấu của ta,
Và giữ ngươi thật nhanh, không thể cho đau đớn tới ngươi.
Ôi, ta đã che đầu ngươi bằng mái tóc của ta, ánh mặt trời không thể tấn công nó;
Và cùng nhau ta bên ngươi, và ngươi cũng bên ta.
Và cứ thế khoảng cách đã nhỏ lại, đến khi thời gian lao lực, một ngày của quỉ dữ đến;
Và rồi chuyện gì xảy đến ngày đó thế? A, người yêu dấu của ta, ta không biết nữa!
Nhưng ta, ta không còn nhìn thấy ngươi nữa – Ta, ta đã lạc trong bóng tối.
Và cô ta mạnh mẽ hơn, đã chiếm mất ngươi; ôi, cô ta xinh đẹp hơn Ustane.
Nhưng ngươi đã quay lại và gọi ta, và khiến đôi mắt ta băn khoăn trong bóng tối.
Nhưng cuối cùng cô ta đã chiến thắng bằng nhan sắc, và dẫn ngươi xuống những nơi kinh hoàng,
Và rồi, ôi! Người yêu dấu của ta.
Người phụ nữ kỳ lạ ấy đã dừng bài nói, hay bài hát của cô ấy ở đó, đối với chúng tôi nó có nhiều lỗi ngữ pháp âm nhạc, nhưng chúng tôi hiểu những gì cô ấy định nói, cô ấy dường như gắn chặt đôi mắt lấp lánh vào bóng tối thăm thẳm phía trước. Rồi ánh mắt ấy có lúc trống rỗng, sợ hãi, như thể nó đang cố gắng nhận ra nỗi khủng khiếp nào đó. Cô ấy bỏ tay xuống khỏi đầu Leo, chỉ vào bóng tối. Tất cả chúng tôi cùng nhìn, không thể thấy gì; nhưng cô ấy lại thấy gì đó, hoặc cho rằng cô ấy đã thấy, và cái đó rõ ràng ảnh hưởng tới thần kinh sắt đá của cô ấy, không có tiếng động, cô ấy ngã bất tỉnh xuống giữa chúng tôi.
Leo, người đã thực sự gắn bó với con người trẻ trung xinh đẹp này, đang trong tâm trạng cực kỳ hoảng hốt và mệt mỏi, còn tôi, trung thực mà nói, trong trạng thái không xóa nổi nỗi sợ hãi mê tín. Khung cảnh thật kỳ lạ.
Tuy nhiên hiện giờ, cô ấy đã tỉnh, ngồi dậy sau cơn co giật rùng mình bất thường.
“Cô có ý gì, Ustane?” Leo hỏi, cảm ơn những năm tháng dạy dỗ, cậu ấy đã nói tiếng Ả Rập rất tuyệt.
“Không, sự lựa chọn của ta,” cô ấy trả lời với nụ cười nhỏ gượng gạo. “Ta đã hát về ngươi theo cách của dân tộc ta. Chắc chắn rằng ta không có ý gì hết. Ta có thể nói về nó thế nào đây?”
“Thế cô đã thấy gì, Ustane?” Tôi hỏi, sắc bén nhìn vào gương mặt cô ấy.
“Không,” cô ấy trả lời, “Ta không thấy gì cả. Đừng hỏi ta những gì ta đã thấy. Tại sao ta sợ hãi các ngươi?” Rồi, quay về phía Leo với cái nhìn dịu dàng nhất mà tôi từng thấy trên gương mặt một phụ nữ, văn minh hay hoang dã, cô ấy nâng đầu Leo bằng hai tay, rồi hôn lên trán cậu như một người mẹ.
“Khi ta rời xa ngươi, sự lựa chọn của ta,” cô ấy nói; “khi đêm tối ngươi giang vòng tay ra thì đã không thể tìm thấy ta, rồi ngươi nghĩ về thời gian bên ta, vì sự thật ta rất yêu ngươi, dù ta không phù hợp để rửa chân cho ngươi. Còn bây giờ hãy để chúng ta yêu đương và làm những gì được ban cho chúng ta, và cùng vui vẻ; vì trong nấm mồ sẽ không còn tình yêu, không còn sự ấm áp, cũng không còn sự va chạm của đôi môi. Có lẽ không có gì, hay có lẽ còn chút ký ức cay đắng về những gì có lẽ đã từng có được. Đêm nay giờ phút này là của chúng ta, làm sao chúng ta biết được họ sẽ thuộc về ai ngày mai?”

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)