CHƯƠNG 6
Nghi lễ của Cơ Đốc giáo Sơ khởi
Buổi sáng hôm sau, lúc ánh bình minh
đầu tiên xuất hiện, chúng tôi đã đứng lên, tắm rửa trong hoàn cảnh cho phép,
nói chung đã sẵn sàng để bắt đầu. Tôi buộc phải nói rằng khi đủ ánh sáng cho
phép chúng tôi nhìn thấy mặt nhau, vì một người, tôi đã cười rú lên. Vẻ mặt béo
tròn thoải mái của Job đã sưng gần gấp đôi tự nhiên vì muỗi cắn, hoàn cảnh của
Leo cũng không khá hơn. Quả thực, trong ba người, tôi khá nhất, có lẽ do sự dẻo
dai của làn da đen và gương mặt được tóc phủ, vì từ lúc bắt đầu ở Anh, tôi đã
cho phép râu ria um tùm tự nhiên phát triển theo ý chí tự do của chúng. Nhưng
hai người kia, nói chung, đã cạo sạch, điều đó cho kẻ thù bài học rộng hơn về loại
người tới từ quốc gia cởi mở này để chúng biết cách hành động, hãy nghĩ về
trường hợp của Mahomed, muỗi nhận ra hương vị của đức tin thực sự nên không thể
chạm vào anh ta bằng bất cứ giá nào. Tôi thường xuyên băn khoăn, trong tuần kế
tiếp như thế, chúng tôi mong muốn có hương vị giống người Ả Rập biết bao!
Lúc đó chúng tôi cười chân thành trong
phạm vi đôi môi sưng vù cho phép, đó là ban ngày, gió buổi sáng đi từ biển vào,
cắt thành đường xuyên qua màn sương đầm lầy dày đặc, đây đó lăn ra những quả
bóng tuyệt vời bằng hơi xốp. Chúng tôi dựng buồm, nhìn qua hai con sư tử đã
chết và con cá sấu, mà tất nhiên chúng tôi không thể lột da vì thiếu các phương
tiện làm da, chúng tôi bắt đầu đi thuyền xuyên qua đầm phá, theo ra dòng sông
phía xa. Giữa trưa, khi gió giảm, chúng tôi may mắn tìm thấy một mẩu đất khô để
cắm trại và đốt lửa, chúng tôi nấu hai con vịt hoang và ít thịt linh dương ở đó
– không phải rất ngon miệng, đó là sự thật, nhưng vẫn đầy đủ. Phần thịt linh
dương còn lại, chúng tôi cắt thành dải và treo ngoài nắng làm khô thành “thịt khô”,
vì tôi tin người Hà Lan Nam Phi gọi thịt như thế nên đã chuẩn bị. Trên miếng
đất khô được hoan nghênh này, chúng tôi dừng lại tới tận bình minh hôm sau, và
như trước đó, qua đêm trong chiến tranh với muỗi, nhưng không có rắc rối nào
khác. Một rồi hai ngày kế tiếp trải qua theo cách tương tự, không có cuộc phiêu
lưu nào đáng chú ý, ngoại trừ việc chúng tôi đã bắn một mẫu vật - con linh
dương không sừng duyên dáng khác thường, và nhìn thấy nhiều loài hoa súng nước
nở rộ, một số có màu xanh lam và vẻ đẹp tinh tế, chỉ còn vài bông hoa hoàn hảo,
vì sự tràn lan của một loại sâu nước màu trắng đầu xanh đã ăn sạch hoa.
Vào ngày thứ năm của hành trình, khi
chúng tôi đang du lịch, tất nhiên chúng tôi có thể nghĩ như vậy, khoảng 135 tới
140 dặm về phía tây từ bờ biển, sự kiện đầu tiên của một việc thực sự quan
trọng đã xảy ra. Vào buổi sáng, gió thông thường không còn trợ giúp chúng tôi
từ lúc mười một giờ, sau khi kéo được một đoạn nhỏ, chúng tôi buộc phải dừng
lại, ít nhiều kiệt sức, tại một chỗ như ngã ba của con suối chúng tôi đang đi
và một con suối khác rộng khoảng năm mươi feet. Vài cái cây gần tầm tay – cây cối
duy nhất ở quốc gia nay tất cả đều ở dọc theo các bờ sông, chúng tôi nghỉ ngơi,
chỉ ở đây đất khá khô, rồi đi bộ một đoạn dọc theo bờ sông tìm khoáng chất, bắn
một ít chim nước làm thức ăn. Trước khi đi năm mươi thước chúng tôi nhận ra
toàn bộ hy vọng đi xa hơn theo dòng suối bằng thuyền cá voi đã kết thúc, vì
không quá hai trăm thước bên trên chỗ chúng tôi đang dừng, là một chuỗi các
vùng nước nông và sình lầy mà nước bên trên không quá sáu inch. Đó là một ngõ
cụt đường thủy.
Trở lại, chúng tôi đi bộ đường khác
theo bờ một con sông khác, và nhanh chóng đi đến kết luận, từ vô số chỉ dẫn,
không hoàn toàn có một con sông, mà là một kênh đào cổ xưa, giống như cái thấy
ở Mombasa, trên bờ biển Zanziba, nối sông Tana với Ozy theo cách cho phép tàu
thuyền vận chuyển xuống Tana phải đi qua Ozy, và ra biển nhờ nó, đồng thời để
tránh chướng ngại nguy hiểm chặn ở cửa sông Tana. Con kênh đào trước chúng tôi
rõ ràng được đào bởi con người từ rất xa xưa trong lịch sử nhân loại, kết quả
của việc đào xới đó vẫn còn lưu lại dưới dạng các bờ nhô lên tạo thành những
lối đi dạng như đường tàu. Ngoại trừ đây đó, nơi chúng bị xói mòn bởi nước hoặc
đã bị sụp, những bờ của thứ đã mất vẫn gắn với đất sét ở khoảng cách đều nhau,
độ sâu của suối cũng có vẻ đều nhau. Hệ quả là, hiện có rất ít hoặc không còn
gì, bề mặt kênh đào bị thực vật sinh trưởng làm tắc lại, giao nhau bởi những
đường dẫn nước sạch nhỏ, tôi cho rằng nó đã trở thành nơi qua lại liên tục của
đám chim nước, cự đà, và sâu bọ khác. Giờ, rõ ràng chúng tôi không thể tiếp tục
đi lên theo dòng sông, hiển nhiên không kém, chúng tôi phải thử qua kênh đào
hoặc trở lại biển. Chúng tôi không thể dừng lại đây, bị mặt trời nướng, muỗi ăn
thịt, cho đến khi chết vì sốt rét trong cái đầm lầy thê lương này.
“Nào, bác cho rằng chúng ta phải thử
thôi,” Tôi nói; và những người kia bằng lòng theo cách khác nhau – Leo, như thể
đó là điều khôi hài nhất thế gian; Job, trong sự ghê tởm một cách tôn trọng; và
Mahomed, với một lời khấn nguyện tiên tri và một câu chửi rủa có hiểu biết đến
những kẻ không có đức tin cùng với cách họ suy nghĩ và chơi bời.
Tiếp theo, ngay khi mặt trời xuống
thấp, còn chút ít hoặc chẳng còn gì để hy vọng nữa, chúng tôi bắt đầu khởi hành
nhờ cơn gió thân thiết. Những giờ đầu, chúng tôi chèo thuyền mất nhiều sức lực,
nhưng sau đó cỏ dại quá dày để có thể làm điều đó, chúng tôi buộc phải sử dụng
những tài nguyên nguyên thủy và suy kiệt nhất để kéo thuyền. Sau hai giờ lao
động, Mahomed, Job và tôi - người được cho là đủ khỏe để kéo hai người, đã lên
bờ, trong khi Leo ngồi ở mũi thuyền, rửa sạch cỏ dại tụ tập quanh cần rẽ nước
bằng thanh kiếm của Mahomed. Buổi tối chúng tôi tạm dừng trong vài giờ để nghỉ
ngơi và tận hưởng cùng lũ muỗi, nhưng khoảng nửa đêm chúng tôi lại tiếp tục kéo,
lợi dụng sự mát mẻ tương đối về đêm. Lúc bình minh, chúng tôi nghỉ trong ba
giờ, rồi lại bắt đầu một lần nữa, lao động tới tận mười giờ, khi một cơn dông
kèm theo mưa lớn, vượt qua chúng tôi, chúng tôi đã dành sáu tiếng đồng hồ tiếp
theo dưới nước.
Tôi không biết có cần thiết mô tả bốn
ngày kế tiếp trong hành trình của chúng tôi hay không, nói xa hơn, đó là những
ngày khốn khổ nhất mà tôi từng trải qua trong đời, tạo ra một kỷ lục không thay
đổi được về lao động nặng nhọc, nóng nực, khổ cực và muỗi đốt. Chúng tôi đã dùng
cách thê lương đó vượt qua vùng đầm lầy hầu như bất tận, còn tôi chỉ cho là
chúng tôi đang đào thoát khỏi sốt rét và cái chết bằng hàng tá ký ninh liên tục,
thuốc xổ và công việc cực nhọc không ngừng nghỉ mà chúng tôi buộc phải chịu
đựng. Vào ngày thứ ba trong hành trình, trên kênh đào chúng tôi nhìn thấy một
ngọn đồi tròn trịa hiện ra lờ mờ qua hơi thở của đầm lầy, buổi tối ngày thứ tư,
khi cắm trại, ngọn đồi đó dường như nằm trong vòng năm đến hai mươi hay ba mươi
dặm so với chỗ chúng tôi. Giờ chúng tôi hoàn toàn kiệt sức, cảm thấy như thể
bàn tay phồng rộp không thể nào kéo con thuyền thêm một thước nào nữa, điều tốt
nhất chúng tôi có thể làm là nằm xuống và chết trên vùng đầm lầy hoang dã thê
lương này. Đó là một nơi khủng khiếp, tôi tin rằng chưa có một người da trắng
nào từng đặt chân đến; rồi khi tôi ném bản thân xuống thuyền để ngủ một giấc mệt
mỏi tột độ, tôi cay đắng nguyền rủa sự điên rồ chưa từng có, mà vì nó tôi chỉ
còn cách kết thúc trong cái chết ở mảnh đất rùng rợn này. Tôi nhớ khi chầm chậm
chìm vào giấc ngủ, tôi đã nghĩ về sự hiện diện của con tàu lớn và thủy thủ đoàn
bất hạnh của nó trước đây hai đến ba tháng, kể từ đêm đó. Con tàu đã nằm đó,
với những vết sẹo rộng ngoác và một nửa đầy nước ối, khi gió với sương mù nặng
nề khuấy đảo nó, có thể gột rửa sạch trước và sau những bộ xương điêu tàn của
chúng tôi, có thể là kết cục của con tàu, kết cục của những người theo đuổi những
câu chuyện thần thoại và tìm kiếm bí mật của Tự Nhiên.
Tôi dường như đã nghe thấy nước chảy
cuồn cuộn qua những cốt khô và kéo chúng lại với nhau, lăn hộp sọ của tôi vào
của Mahomed, rồi của anh ta đập vào của tôi, cho đến lúc cái sọ Mahomed đứng
thẳng lên trên cột sống, nhìn chằm chằm vào tôi qua hố mắt trống rỗng, nguyền
rủa tôi với quai hàm đang cười toe toét, vì tôi, một con chó của người Cơ Đốc,
đã quấy rầy giấc ngủ cuối cùng của một đức tin thực sự. Tôi mở mắt, rùng mình
trước giấc mơ khủng khiếp, rồi rùng mình một lần nữa trước cái gì đó không phải
mơ, vì hai con mắt to tướng đang lấp lánh nhìn xuống tôi xuyên qua bóng tối mù
sương. Tôi đấu tranh trong nỗi kinh hoàng và thất bại, rồi rít lên, và rít lên
một lần nữa, khiến những người khác cũng bật dậy, quay cuồng khi vẫn còn say
sưa với giấc ngủ cùng nỗi sợ hãi. Rồi đột ngột một ánh sáng của thép lạnh, một
cây giáo lớn hướng vào cổ họng của tôi, phía sau nó, những cây giáo khác ánh
lên tàn nhẫn.
“Im lặng,” một giọng nói bằng tiếng Ả
Rập cất lên, hay đúng hơn là thổ ngữ đã bị tiếng Ả Rập xâm nhập vào rất nhiều; “Các
ngươi là ai mà lại đến đây bơi lội trên mặt nước? Nói hoặc là chết,” cây thép
ép mạnh vào cổ họng tôi, truyền cái lạnh rùng mình sang cho tôi.
“Chúng tôi là người đi du lịch, đến
đây do ngẫu nhiên,” Tôi trả lời bằng tiếng Ả Rập tốt nhất của mình, có vẻ đã
hiểu, người đàn ông quay đầu, nói với thân thể cao lớn nhô lên phía sau, “Cha,
chúng ta sẽ giết chứ?”
“Màu sắc những người này thế nào?” Một
giọng trầm đáp lại.
“Trắng là màu của bọn họ.”
“Không giết,” người đó trả lời. “Bốn
mặt trời, vì lời này được truyền đến cho ta từ ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’, ‘người da trắng đến; nếu
người da trắng đến, không được giết họ’. Hãy mang họ tới ngôi nhà của ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’.
Hãy mang những người đàn ông đi trước, và để thứ họ có cũng mang theo đi.”
“Đi,” người đàn ông nói, nửa dẫn nửa
kéo tôi khỏi con thuyền, khi anh ta làm vậy tôi nhận ra những người đàn ông khác
nữa đang làm tương tự với các bạn đồng hành của tôi.
Trên bờ tập hợp một đoàn khoảng năm
mươi người. Trong ánh sáng đó, tôi có thể nhận ra họ được vũ trang bằng giáo
lớn, họ đều rất cao, mạnh mẽ, da tương đối sáng, và ở trần, tiết kiệm bằng một
tấm da báo quấn quanh chỗ thắt lưng.
Hiện tại Leo và Job đã được gói lại và
đặt cạnh tôi.
“Chuyện gì xảy đến trái đất thế?” Leo
nói và dụi mắt.
“Ôi lạy Chúa! Thưa ngài, đây là một
việc kỳ lạ,” Job thốt lên; đúng lúc đó xảy ra rối loạn, Mahomed té nhào xuống
giữa chúng tôi, theo sau là bóng dáng mờ ám với một cây giáo được nâng lên.
“Allah! Allah!” Mahomed tru lên, cảm
thấy anh ta có chút hy vọng với người này, “hãy bảo vệ tôi! Hãy bảo vệ tôi!”
“Cha, đó là tên da đen,” giọng nói cất
lên. “’Bà ấy – người chúng ta phải tuân
lệnh’ nói gì về người da đen?”
“Bà ấy nói vô ích; nhưng đừng giết.
Đến đây, con trai.”
Người đàn ông tiến đến, còn bóng dáng
cao lớn mờ ám cong người về phía trước thì thầm điều gì đó.
“Vâng, vâng,” người kia nói, cười khúc
khích trong âm điệu như bị đông máu.
“Có ba người da trắng?” Bóng dáng đó
hỏi.
“Vâng, họ có ba người.”
“Thế thì đưa những gì đã sẵn sàng cho
họ, và để mọi người lấy đi tất cả những gì có thể mang được từ thứ đang nổi
kia.”
Ông ta hầu như không nói khi đám người
chạy đến, mang trên vai những chiếc cáng – bốn chiếc và hai người một cáng – điều
đó nhanh chóng cho thấy chúng tôi cũng được dự định sắp vào đó.
“Vâng, quả thật có phước khi tìm được ai
đó khênh chúng ta đi sau khi đã phải tự đi quá lâu như vậy.”
Leo luôn có cái nhìn vui vẻ về mọi
chuyện.
Không có trợ giúp nào hết, sau khi
nhìn những người khác làm việc của họ, tôi té nhào xuống cái ổ của chính mình,
và thấy nó thật thoải mái. Nó trông như được sản xuất từ vải dệt bằng sợi cỏ,
trải dài và sinh ra theo mỗi chuyển động của cơ thể, bọc đầu và đáy thành một
cái gậy ôm, cho đầu và cổ sự hỗ trợ dễ chịu.
Hiếm khi tôi tự yên ổn, khi cùng với
bước chân của họ là một bài hát đơn điệu, những người khiêng bắt đầu chạy nước
kiệu đong đưa. Chừng nửa giờ sau tôi vẫn nằm, nghĩ đến những trải nghiệm rất
đáng chú ý đã qua, và tự hỏi liệu ai trong số đám bạn bè hóa thạch xuất sắc
đáng kính của tôi ở Cambridge có thể tin tôi đang sắp ngồi vào bàn ăn tối quen
thuộc một cách kỳ diệu vì mục đích liên quan đến họ. Tôi không muốn truyền tải
bất kỳ ý niệm thiếu tôn trọng hay khinh bỉ nào khi tôi gọi những người tốt đẹp
và bác học đó là hóa thạch, nhưng kinh nghiệm của tôi là, mọi người có khuynh
hướng hóa đá thậm chí ngay tại trường đại học nếu họ theo đuổi cùng con đường
một cách quá kiên trì. Tôi đã đang hóa đá, nhưng sau đó mớ tư tưởng của tôi đã
được mở rộng ra rất nhiều. Vâng, tôi đang nằm, nghĩ, và tự hỏi điều gì trên đời
có thể kết thúc tất cả chuyện này, cuối cùng tôi dừng việc ngạc nhiên và đi
ngủ.
Tôi cho là mình đã phải ngủ bẩy hoặc
tám tiếng rồi, lần nghỉ ngơi thực sự đầu tiên tôi có được từ đêm trước khi con
tàu lớn biến mất, vì khi tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao. Chúng tôi vẫn trên hành
trình với tốc độ khoảng bốn dặm một giờ. Hé nhìn qua màn như sương mù của ổ rác
được khéo léo gắn chặt vào cây gậy ôm, tôi cảm nhận được lòng tin vô hạn của
bản thân, thứ giúp chúng tôi vượt qua đầm lầy vĩnh cửu và giờ đang chu du trên
những đồng cỏ đẹp đẽ hướng về ngọn đồi hình cái bát. Có phải chính là ngọn đồi
chúng tôi thấy từ kênh đào hay không tôi không biết, cũng không bao giờ có thể
khám phá, vì sau đó chúng tôi nhận ra, những người này đưa rất ít thông tin về
những điểm như vậy. Tiếp theo tôi liếc nhìn những người đang khênh tôi. Họ là
một kiến trúc tuyệt vời, vài người trong số họ cao dưới sáu feet, da hơi vàng. Nói
chung vẻ bề ngoài của họ khá tốt giống với của người Somali Đông Phi, chỉ có
mái tóc không xoăn mà treo trong những ổ khóa đen dày trên vai. Đặc điểm của họ
là khoằm, nhiều trường hợp cực kỳ đẹp trai, hàm răng đặc biệt đều và đẹp. Nhưng
bất chấp vẻ đẹp đó, nó bảo với tôi rằng, nói chung tôi chưa từng bao giờ nhìn
thấy một loạt những gương mặt như ác quỉ đến thế. Có một khía cạnh lạnh lùng và
đáng buồn bị đóng dấu tàn nhẫn lên bọn họ đã làm tôi rối loạn, đôi khi sức mạnh
của họ khá kỳ bí.
Điều khác nữa đập vào mắt tôi là họ
dường như không bao giờ cười. Thi thoảng họ hát một bài đơn điệu mà tôi đã nói,
nhưng khi không hát họ duy trì im lặng gần như hoàn hảo, ánh sáng của nụ cười
không bao giờ đến soi rọi những gương mặt buồn rầu và như quỉ dữ đó. Những
người này có thể thuộc về chủng tộc nào đây? Ngôn ngữ của họ là tiếng Ả Rập bị
pha tạp, nhưng vẫn không phải dân Ả Rập; tôi hoàn toàn chắc chắn điều đó. Một
điều nữa là họ quá tối hơn là vàng. Tôi không thể nói tại sao, nhưng tôi biết
vẻ bề ngoài của họ khiến tôi sợ phát ốm, điều mà tôi cảm thấy thật đáng xấu hổ.
Trong khi tôi vẫn đang tự hỏi, cái ổ khác đã chạy dọc theo cái ổ của tôi. Trong
đó, vì rèm kéo ra – một ông già ngồi đó, mặc chiếc áo choàng màu trắng, rõ ràng
làm từ vải lanh thô, lỏng lẻo khoác trên người ông ta, tôi ngay lập tức kết
luận, là bóng người mờ ám đã đứng trên bờ sông và được gọi bằng “Cha”. Ông ta
là một người già đẹp lão, bộ râu như tuyết, dài đến mức điểm cuối chạm vào cạnh
cái ổ, ông ấy có cái mũi cong như cái móc, phía trên đôi mắt lóe sáng sắc bén
như mắt rắn, trong khi toàn bộ diện mạo ông ấy khéo léo với cái nhìn khôn ngoan
và hài hước đến mỉa mai không thể diễn tả bằng lời.
“Có phải ngươi đã tỉnh lại, người lạ?”
Ông nói bằng một giọng trầm thấp.
“Chắn chắn rồi, thưa cha,” Tôi trả lời
một cách lịch sự, cảm thấy chắc rằng tôi nên hành động tốt đẹp để hòa giải với
vị Phú Quí Phù Vân cổ xưa này.
Ông ấy vuốt bộ râu trắng đẹp và mỉm cười yếu
ớt.
“Ngươi đến từ bất kỳ quốc gia nào,“
ông ta nói, “bằng cách nào đó, chính từ nơi ấy, một số thứ trong ngôn ngữ của
chúng ta đã được biết đến, họ đã dạy bọn trẻ về sự lịch thiệp ở nơi đó, con
trai xa lạ của ta. Và giờ tại sao ngươi đến mảnh đất này, nơi mà hiếm khi bàn
chân người ngoài hành tinh dẫm lên từ thời loài người hiểu biết? Có phải ngươi
và ba người kia đã mệt mỏi vì cuộc sống?
“Chúng tôi đến để tìm những thứ mới
lạ,” Tôi táo bạo trả lời. “Chúng tôi đã mệt mỏi với những thứ cũ kĩ; chúng tôi
tiến ra biển để biết những gì chưa biết. Chúng tôi từ một chủng tộc can đảm
không sợ chết, thưa cha rất đáng kính của tôi – có nghĩa là, liệu chúng tôi có
thể thu được một ít thông tin trước khi chết không.”
“Hừm!” Quí ông già nua nói, “Có thể
đúng thế thật; thật là liều lĩnh đính chính, nếu không ta nên nói rằng ngươi
đang nói dối, con trai ạ. Tuy nhiên, ta dám nói rằng ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’ sẽ đáp ứng mong muốn của
ngươi về chuyện này.”
“Ai là ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’?” Tôi tò mò hỏi.
Ông già liếc những người đang khiêng,
rồi trả lời với nụ cười nhỏ mà không biết làm sao máu đã dồn tới tim tôi.
“Chắc chắn rồi, con trai xa lạ ạ,
ngươi sẽ lĩnh hội sớm thôi, nếu bà ta vui vẻ nhìn thấy ba người các ngươi bằng
xương thịt.”
“Bằng xương thịt sao?” Tôi trả lời. “Cha
muốn truyền đạt điều gì?”
Nhưng ông già chỉ nở một nụ cười đáng
sợ mà không đáp lại.
“Tên tộc người của cha là gì?” Tôi
hỏi.
“Tên tộc người của ta là Amahagger”
(Người Dân của Vùng Đá).
“Và liệu con trai có thể hỏi, tên của
cha là gì?”
“Ta tên là Billali.”
“Và chúng ta đi đâu, thưa cha?”
“Ngươi sẽ thấy thôi,” theo dấu hiệu từ
ông ấy, những người khiêng ông bắt đầu chạy lên phía trước cho tới khi họ tới
cái ổ mà Job đang nghỉ ngơi (với một chân treo bên cạnh). Tuy nhiên rõ ràng ông
ta không thể làm gì nhiều với Job, vì hiện tại tôi thấy những người khiêng ông
ấy chạy nước kiệu tới chỗ của Leo.
Sau đó, vì chả có gì mới mẻ xảy ra, tôi
nằm trong chuyển động lắc lư dễ chịu của cái ổ và ngủ lại. Tôi đã mệt mỏi khủng
khiếp. Khi thức giấc, tôi thấy chúng tôi đang đi qua một hẻm núi đá cấu thành
từ dung nham với bề mặt dốc, trên đó sinh trưởng nhiều cây đẹp và bụi hoa.
Hiện tại hẻm núi này có chỗ rẽ, và một
cảnh đáng yêu mở ra trước mắt tôi. Phía trước chúng tôi là một cái bát lớn màu
xanh lá trong phạm vi khoảng sáu dặm, có hình một giảng đường La Mã. Các mặt
chiếc bát lớn này là đá, khoác cả những bụi cây, nhưng trung tâm là đồng cỏ phì
nhiêu, gắn với loài cây duy nhất sinh trưởng tuyệt vời, được tưới nước bằng
những con suối uốn khúc. Trên đồng bằng màu mỡ này, chăn thả hàng đàn dê và gia
súc, nhưng tôi không thấy cừu. Thoạt tiên tôi không thể tưởng tượng nổi chỗ kỳ
quái này có thể có gì, nhưng hiện tại lóe lên trong tôi ý tưởng, nó hẳn phải
đại diện cho miệng của ngọn núi lửa nào đó đã tuyệt chủng từ lâu, sau đó trở
thành hồ nước, cuối cùng được tháo nước bằng cách nào đó chưa giải thích được.
Tôi có thể phát biểu rằng từ kinh nghiệm tiếp theo của tôi về điều này, một vị
trí lớn hơn thế này nhưng trái lại tương tự, tôi sẽ có dịp để mô tả từng bước
từng bước, tôi có đủ mọi lý do để tin rằng kết luận đó là đúng. Tuy nhiên cái
đánh đố tôi là, dù có người di chuyển để chăn dê và gia súc, nhưng tôi không
thấy dấu hiệu về sự cư trú của con người. Tất cả họ sống ở đâu? Tôi tự hỏi. Trí
tò mò của tôi đã sớm được thỏa mãn. Xoay sang trái, chuỗi ổ đi theo mặt dốc của
miệng núi lửa khoảng nửa dặm, có lẽ ít hơn một chút, rồi dừng lại. Nhìn thấy
quí ông già nua, người “cha” tôi đề nghị, Billali, ló ra từ ổ của ông ấy, Tôi
cũng làm tương tự, Leo và Job cũng vậy. Thứ đầu tiên tôi thấy là người đồng
hành Ả Rập khốn khổ của chúng tôi, Mahomed, nằm kiệt sức trên mặt đất. Dường
như anh ta không được cung cấp cái ổ nào, mà bị buộc phải chạy toàn bộ đoạn
đường, và vì anh ta đã khá suy kiệt khi chúng tôi lên ổ khiêng, giờ tình trạng
của anh ta đã suy nhược quá mức.
Nhìn quanh, chúng tôi phát hiện ra nơi
đang dừng chân là một nền đằng trước miệng một hang động lớn, chất đống trên đó
là toàn bộ hàng hóa đồ dùng của thuyền cá voi, thậm chí cả mái chèo và cột
buồm. Vòng quanh hang, những nhóm người hộ tống chúng tôi đang đứng, và những
người khác với cùng dấu vết khắc tương tự. Tất cả họ đều cao lớn và đẹp trai,
dù họ có da với nhiều loại độ tối khác nhau, vài người trong đó da tối như
Mahomed, một số vàng như người Trung Quốc. Họ đều ở trần, ngoại trừ lớp da báo
quấn quanh eo, mỗi người đều mang một cây giáo lớn.
Cũng có vài phụ nữ trong số đó, thay
vì da báo, họ mặc da thú rám nắng của loài linh dương nhỏ màu đỏ, giống như oribé,
chỉ có điều màu sắc tối hơn. Những người phụ nữ này là một tầng lớp cực kỳ ưa
nhìn, mắt to đen, các đặc điểm đều rất đẹp, búi tóc dày uốn cong – không quăn
queo như tóc người da đen – sắc độ rải
từ màu đen tới màu hạt dẻ, có toàn bộ các sắc thái màu trung gian. Một số rất
ít trong đó, mặc vải lanh vàng, như tôi đã mô tả loại vải được Billali mặc, sau
này chúng tôi biết, đó là dấu hiệu của đẳng cấp, chứ không phải công sức may
mặc. Vì nghỉ ngơi, vẻ ngoài của họ không hoàn toàn đáng sợ như của đám đàn ông,
thi thoảng dù hiếm hoi, họ cũng mỉm cười. Ngay khi chúng tôi bước xuống, họ tụ
tập xung quanh chúng tôi và xem xét với vẻ tò mò, nhưng không phấn kích. Tuy
nhiên hình dáng thể thao cao lớn và gương mặt Hy Lạp rõ ràng của Leo kích thích
sự chú ý của họ, và khi cậu ấy lịch sự bỏ mũ ra trước họ, hiện ra mái tóc quăn
vàng, đã có tiếng thì thầm ngưỡng mộ nhè nhẹ. Không dừng ở đó; sau khi quan sát
cậu ấy thận trọng từ đầu đến chân, người đẹp nhất trong số phụ nữ trẻ - mặc áo
choàng, tóc có màu giữa nâu và hạt dẻ - cố tình tiến đến trước cậu ấy, và theo
kiểu dành chiến thắng khó xác định, lặng lẽ vòng cánh tay qua cổ cậu ấy, uốn
cong về phía trước, rồi hôn lên môi cậu ấy.
Tôi thở hổn hển, mong thấy Leo bỗng
nhiên bị giáo đâm; còn Job thốt lên, “Đồ mất nết – phải, tôi, không đời nào!”
Đối với Leo, cậu ấy nhìn hơi ngạc nhiên; rồi cố tình đáp lại bằng một cái ôm,
chú ý rằng chúng tôi rõ ràng đang ở một đất nước theo phong tục Cơ Đốc giáo Sơ
khởi.
Tôi lại thở hổn hển, nghĩ rằng điều gì
đó có thể xảy ra; nhưng thật ngạc nhiên, dù vài phụ nữ trẻ tỏ vẻ làm phiền,
những người lớn tuổi hơn và đám đàn ông chỉ mỉm cười nhẹ nhàng. Khi chúng tôi
hiểu được phong tục tập quán của tộc người kì lạ này, bí ẩn đã được giải thích.
Đối lập trực tiếp với thói quen của hầu hết mọi chủng tộc man rợ khác trên thế
giới, phụ nữ ở Amahagger không chỉ bình đẳng theo nghĩa hoàn hảo so với nam
giới, mà còn giữ cho họ không bị bất kỳ mối quan hệ ràng buộc nào. Dòng dõi nguồn
gốc chỉ được truy dấu theo dòng của mẹ, trong khi các cá nhân tự hào về tổ tiên
phụ nữ cao quí và dài lâu như chúng tôi tự hào về gia tộc mình ở Châu Âu, họ
không bao giờ quan tâm tới, hay thậm chí thừa nhận, bất kỳ người đàn ông nào là
cha, ngay cả khi người cha đó họ biết rõ. Có một phụ huynh nam danh nghĩa của
mỗi bộ lạc, họ coi đó như là “hộ gia đình”, và ông ta là người cai trị được bầu
ra và trực tiếp, với danh gọi “Cha”. Ví dụ, Billali là cha của “hộ gia đình”
này, gồm khoảng bảy nghìn cá nhân, và không người đàn ông nào khác được gọi
bằng tên đó. Khi một phụ nữ yêu thích một người đàn ông, cô ta sẽ biểu thị sự
ưa thích của mình bằng cách tiến lên ôm anh ta công khai, giống như cách mà
người phụ nữ trẻ cực kỳ xinh đẹp và nhanh nhẹn, tên là Ustane, đã ôm Leo. Nếu
cậu ấy hôn đáp lại cô ấy có nghĩa là dấu hiệu cậu ấy chấp nhận cô ta, việc bố
trí tiếp tục cho đến khi một trong hai người họ mệt mỏi vì điều đó. Tuy nhiên
tôi buộc phải nói rằng, việc đổi chồng không quá thường xuyên như dự kiến.
Không có cãi vã phát sinh, ít nhất giữa những người đàn ông, khi vợ họ bỏ đi để
yêu đối thủ, họ chấp nhận chuyện này như chúng ta chấp nhận thuế thu nhập hay
luật hôn nhân gia đình vậy, khi có gì đó không thể tranh chấp, nó có xu hướng
là lợi ích của cả cộng đồng, tuy nhiên họ có thể khó chịu trong trường hợp đặc
biệt, nếu nó được chứng minh là của một cá nhân.
Thật tò mò khi quan sát tập quán loài người về vấn
đề này biến đổi như thế nào giữa các quốc gia khác nhau, ngoại tình, về mặt đạo
đức, là đúng đắn và thích hợp ở nơi này, là sai trái và không phù hợp ở nơi
khác. Tuy nhiên phải hiểu rằng, vì tất cả các quốc gia văn minh có vẻ chấp nhận
nó như một định lý, rằng kết hôn là một chuẩn mực đạo đức, thậm chí theo nghị định
của giáo hội, tập quán trao đổi cái ôm trả lời cho lễ cưới của người Amahagger
này không có gì trái đạo đức, điều mà như chúng ta biết, chỉ biện minh cho hầu
hết mọi thứ.
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét