CHƯƠNG 7
Ustane hát
Khi
hành động ôm hôn đã kết thúc – tất nhiên không có phụ nữ trẻ nào trao tặng cơ
hội cho tôi theo cách này, dù tôi đã thấy một người lượn lờ quanh Job, dấu hiệu
cảnh báo rõ rệt một cá nhân đang được ái mộ - ông già Billali tiến lên, ân cần
vẫy chúng tôi vào trong hang, chúng tôi đi đến đâu, Ustane đều theo đến đó, cô
ấy dường như không để ý đến những gì tôi ám chỉ cho cô ấy rằng chúng tôi thích
được riêng tư.
Trước
khi đi năm bước, tôi nhận ra cái hang chúng tôi đang đi vào không phải là công
trình tự nhiên, ngược lại, đã được bàn tay con người đào rỗng. Nhưng theo chúng
tôi đánh giá, nó ước chừng dài một trăm feet và rộng năm mươi feet, rất cao,
giống một lối vào nhà thờ hơn bất kỳ cái gì khác. Từ lối đi chính mở ra những
hành lang nhỏ khoảng mười hai tới mười lăm feet, dẫn tới các phòng nhỏ hơn, tôi
cho là vậy. Khoảng năm mươi feet từ miệng hang, ngay ở nơi ánh sáng bắt đầu mờ
dần, một ngọn lửa được đốt lên, ném vào bóng tối rộng lớn trên những bức tường
ảm đạm xung quanh. Billali dừng lại ở đó, yêu cầu chúng tôi ngồi xuống, nói
rằng người ta có thể mang cho chúng tôi thức ăn, do đó chúng tôi tự ngồi xuống
những tấm thảm da đã được trải ra cho chúng tôi, và chờ đợi. Hiện giờ thức ăn,
gồm thịt dê luộc, sữa dê tươi trong nồi đất nung và ngô Ấn Độ luộc, được các cô
gái trẻ mang vào. Chúng tôi đều rất đói, tôi nghĩ tôi chưa từng ăn thỏa mãn đến
vậy trong đời. Quả thật, chúng tôi đã ăn sạch mọi thứ đưa đến.
Khi
chúng tôi ăn xong, chủ nhân hơi trầm mặc - Billali, đã hoàn toàn im lặng quan
sát trước đó - đứng dậy và nói chuyện. Ông ấy bảo chuyện này thật tuyệt vời.
Không ai từng biết hay nghe về những người lạ da trắng đến đất nước của Người
Dân của Vùng Đá này. Thi thoảng, dù rất hiếm hoi, người da đen cũng tới đây,
qua họ, người ở đây nghe về sự tồn tại của người da trắng hơn cả chính họ,
những người vượt biển trên những con tàu, nhưng các lần xuất hiện như vậy đều
không có tiền lệ. Tuy nhiên chúng tôi bị nhìn thấy khi đang kéo con thuyền trên
kênh đào, nên ông ấy thẳng thắn nói với chúng tôi rằng, lúc đó ông ấy đã ra
lệnh tiêu diệt chúng tôi, vì người lạ xâm nhập vào nơi này là bất hợp pháp,
thông điệp từ “Bà ấy – người chúng ta
phải tuân lệnh”, bảo rằng chúng tôi được tha mạng, và chúng tôi đã được
mang đến đây.
“Xin
lỗi thưa cha,” lúc này tôi ngắt lời; “nhưng nếu, theo tôi hiểu, ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’
không có mặt ở đó, làm sao bà ấy biết chúng tôi sắp tới?”
Billali
quay lại, thấy chỉ còn chúng tôi – vì cô gái trẻ Ustane đã rút lui khi ông ấy
bắt đầu nói – ông nói trong nụ cười có chút tò mò.
“Có
ai trên đất của ngươi mà ngươi không thể nhìn thấy bằng mắt và nghe thấy bằng
tai không? Đừng hỏi; Bà ấy biết.”
Tôi
nhún vai, còn ông ấy tiếp tục nói rằng không còn nhận được mệnh lệnh nào nữa về
việc xử lý chúng tôi, vì vậy ông ta chuẩn bị đi hỏi ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’, nói chung, một cách ngắn
gọn, đến nói “Chào” hay đơn giản nói chuyện với Bà ấy, người chúng tôi hiểu là Nữ Hoàng của người Amahagger, và tìm
hiểu những nguyện vọng của bà ấy.
Tôi
hỏi ông ấy có thể vắng mặt bao lâu, ông ta nói, nếu đi xa, ông ấy khó trở về
trong ngày thứ năm, phải vượt qua rất nhiều dặm đầm lấy mới đến được nơi Bà ấy ở. Rồi ông bảo, mọi thu xếp đều có
thể, để chúng tôi thoải mái khi ông vắng mặt, và cá nhân ông ấy rất thích chúng
tôi, ông chân thành tin tưởng câu trả lời ông mang về từ Bà ấy có thể là một đặc ân cho phép chúng tôi tiếp tục tồn tại,
nhưng đồng thời ông cũng không muốn che dấu chúng tôi nghi ngờ này, rằng mọi
người lạ từng đến đất nước này trong đời bà ông ta, mẹ ông ta và cả đời ông ta
đều phải chết không thương tiếc, và chết theo cách ông ta không muốn mô tả làm
chúng tôi đau lòng; chuyện này đều tuân theo lệnh của Bà ấy, ít ra ông ấy cho rằng đó là theo lệnh của Bà ấy. Bà ấy không bao giờ can thiệp để cứu họ dù bất cứ giá nào.
“Tại
sao,” Tôi nói, “làm sao điều đó có thể? Cha đã là một người già, thời gian cha
nói phải trải qua ba đời người. Thế thì làm thế nào mà Bà ấy có thể ban cái chết cho ai từ đời bà của cha, khi mà Bà ấy còn chưa thể sinh ra?”
Ông
ấy lại cười – cũng lại nụ cười mờ nhạt, kỳ dị và cúi đầu trầm lặng để ra đi,
không trả lời; chúng tôi cũng không nhìn thấy ông ấy suốt năm ngày.
Khi
ông ấy đi rồi, chúng tôi cùng thảo luận tình hình mà tôi thấy đáng báo động.
Tôi không hoàn toàn thấy giống những thông tin về vị Nữ Hoàng huyền bí này, “Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh”,
hay ngắn gọn là Bà ấy, có vẻ bà ta đã
ra lệnh hành quyết bất kỳ người lạ không may mắn nào một cách không thương
tiếc. Leo cũng vậy, chán nản về điều đó, nhưng tự an ủi một cách đắc thắng
rằng, Bà ấy không nghi ngờ gì nữa,
chính là người được nói đến trong bản văn tự cổ trên mảnh gốm và trong thư của
cha cậu, được minh chứng qua lời ám chỉ của Billali về tuổi tác và sức mạnh của
bà ta. Lần này tôi quá choáng váng với hàng loạt sự kiện mà tôi chưa từng nghe
nói, nên bỏ qua tranh luận chuyện vô lý này, tôi đề nghị chúng tôi nên cố ra
ngoài đi dạo và tắm rửa, điều mà thật đáng buồn chúng tôi đã phải kháng cự lại
vì cần thiết.
Theo đó, nói mong muốn của chúng tôi cho một
người trung niên đang đeo vẻ mặt trầm lặng bất thường trong tộc người trầm mặc này
- dường như người đó được ủy thác chăm sóc chúng tôi bây giờ khi vị Cha của ngôi
làng đã lên đường đi xa, chúng tôi bắt đầu trước tiên bằng cách châm tẩu thuốc.
Ngoài hang động, chúng tôi thấy một đám người rõ ràng đang quan sát vẻ ngoài
của chúng tôi, nhưng khi thấy chúng tôi hút thuốc đi ra, họ biến mất và gọi
chúng tôi là những nhà phù thủy tuyệt vời. Thật vậy, không gì ở chúng tôi tạo cho
họ cảm giác tuyệt vời như khói thuốc – chứ không phải vũ khí. [*] Sau đó, chúng
tôi tìm được một con suối có nguồn từ một dòng chảy ngầm rất mạnh, và tắm rửa
trong thanh bình, dù vài phụ nữ, không ngoại trừ Ustane, thể hiện ý định chắc
chắn đi theo chúng tôi ra tận đó.
[*] Chúng tôi thấy việc trồng thuốc lá ở đất nước này cũng
giống như ở những nơi khác của Châu Phi, dù họ hoàn toàn bỏ qua những tính chất
khác của nó, người Amahagger dùng nó thường xuyên dưới hình thức hút và để làm
thuốc. – L.H.H.
Lúc
này chúng tôi đã tắm xong, mặt trời đang lặn; khi trở lại hang lớn, nó đã lặn.
Hang động đầy người tụ tập quanh những đống lửa – vài đống đến giờ vẫn còn sáng
– họ đang ăn tối bằng ánh sáng hoa lệ, có nhiều loại đèn được đặt hoặc treo
trên tường. Những chiếc đèn này được làm thô bằng đất nung, hình dạng khá duyên
dáng. Những cái lớn hơn được tạo ra từ chậu đất nung đỏ lớn, đổ đầy chất béo
tan chảy, có bấc sậy mắc qua một đĩa gỗ xuyên lên đến đỉnh chậu. Loại đèn này
đòi hỏi phải chú ý thường xuyên để ngăn trường hợp bấc bị thiêu rụi, do không
có cách nào xoay nó lên trên. Các loại đèn nhỏ hơn bằng bàn tay cũng làm từ đất
sét nung, trang bị bấc làm từ lõi cây cọ, hoặc đôi khi từ gốc của nhiều loại
dương xỉ rất đẹp. Loại bấc này được đưa qua một lỗ tròn dưới đáy đèn, nơi một mảnh
sắc bằng gỗ cứng gắn vào và đưa nó lên, có thể đốt ở tầm thấp bất cứ lúc nào.
Trong
khi chúng tôi ngồi xuống nhìn tộc người dữ tợn này ăn bữa tối trong bầu không
khí yên lặng đến dữ tợn như chính họ, tới khi mệt mỏi vì ngắm họ và những cái
bóng lớn chuyển động trên tường đá, tôi đề nghị với người giữ chúng tôi rằng
chúng tôi muốn đi ngủ.
Không
nói một lời, anh ta dắt tay tôi lịch sự, với một ngọn đèn, tiến vào một trong
những lối đi nhỏ tỏa ra từ giữa hang mà tôi đã chú ý trước đó. Chúng tôi đi
theo khoảng năm bước, nó đột nhiên mở rộng ra thành một buồng nhỏ, khoảng tám
feet vuông, đẽo từ một hòn đá sống động. Một mặt căn phòng bằng phiến đá vuông mỏng,
khoảng ba feet từ mặt đất, chạy theo chiều dài như một giường ngủ trong cabin,
anh ta nói tôi có thể ngủ trên phiến đá này. Không có cửa sổ hay lỗ thông khí
trong căn buồng, không đồ nội thất; và nhìn gần hơn, tôi đi tới một kết luận đáng
lo ngại (sau đó tôi phát hiện ra tôi hoàn toàn đúng), nó dành làm huyệt cho
người chết chứ không phải chỗ ngủ cho người sống, phiến đá được thiết kế để
nhận xác chết của người đã khuất. Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình; dẫu biết tôi
phải ngủ ở đâu đó, tôi cố trải qua cảm giác đó tốt nhất có thể, rồi trở lại
hang lấy chăn được mang về từ con thuyền cùng những thứ khác. Ở đó tôi gặp Job,
đang được đưa đến một căn phòng tương tự, đã thẳng thừng từ chối nghỉ trong đó,
anh ta nói nhìn nơi đó làm anh ta thấy sợ hãi, anh ta cảm thấy bị chết và chôn
trong ngôi mộ gạch của ông nội anh ta, anh ta quyết định ngủ với tôi nếu tôi
cho phép. Tất nhiên tôi quá vui sướng vì điều đó.
Buổi
tối trôi qua nói chung rất thoải mái. Tôi bảo là ‘nói chung’, vì cá nhân tôi đã
trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp bị chôn sống, không nghi ngờ gì, do tính
chất tự nhiên tang tóc của môi trường xung quanh gây ra. Lúc bình minh, chúng
tôi bị đánh thức bởi một âm thanh rống to, như chúng tôi biết sau đó, từ một
người Amahagger trẻ tuổi thổi qua lỗ trám bên cạnh của chiếc ngà voi rỗng, chắc
được dùng cho mục đích này.
Được
ra dấu, chúng tôi đứng dậy và đi xuống dòng suối để gột rửa, sau đó bữa sáng
được phục vụ. Tại bữa sáng, một trong những phụ nữ, không quá trẻ, tiến lên và
hôn Job công khai. Tôi nghĩ đây là điều vui nhất tôi từng thấy (đặt trong khung
cảnh không phù hợp lúc này). Không bao giờ tôi quên được nỗi sợ hãi và sự ghê
tởm khổ sở của Job đáng yêu. Job, giống như tôi, hơi ghét phụ nữ - tôi ưa thích
anh ta chủ yếu vì anh ta sống trong gia đình có mười bảy người – cảm xúc biểu
hiện trên mặt anh ta khi nhận ra mình không chỉ bị ôm công khai khi chưa được
phép của anh ta, mà lại còn trước mặt các chủ nhân của mình, là rất phức tạp
trộn với đau khổ thừa nhận sự thật chính xác. Anh ta nhảy dựng lên, đẩy phụ nữ
đó, một người khoảng ba mươi, khỏi anh ta.
“Không
bao giờ!” anh ta hổn hển, có lẽ lúc đó nghĩ anh ta rụt rè, cô ấy lại ôm anh ta
lần nữa.
“Cút
đi! Cút đi, đồ xảo quyệt!” anh ta hét lên, vẫy cái muỗng gỗ anh ta dùng để ăn
sáng lên xuống trước mặt người phụ nữ. “Xin ngài tha thứ, thưa ngài, tôi chắc
chắn không khích lệ cô ta. Ôi lạy Chúa! Cô ta lại đi về phía tôi kìa. Hãy giữ
lấy cô ta, Ngài Holly! Làm ơn giữ lấy cô ta! Tôi không thể chịu nổi; Tôi không
thể, thật đấy. Chuyện này trước đây chưa bao giờ xảy ra với tôi, thưa ngài,
không bao giơ. Không có vấn đề gì với nhân cách của tôi đâu,” rồi anh ta dừng
lại đó, chạy thục mạng như có thể được vào trong động, cô ấy không cười. Ngược
lại, dường như cô ta hơi giận dữ, sự nhạo báng của những phụ nữ khác chỉ làm
tăng cơn giận. Cô ta đứng đó gầm gừ phẫn nộ, nhìn cô ta, tôi ước sự ngại ngùng
của Job đáng ra nên ở Jericho, nơi có thể tạo nên phỏng đoán, rằng hành vi đáng
ngưỡng mộ của anh ta sẽ đe dọa cổ họng của chúng tôi. Không, tôi đã đoán sai
hậu quả sau đó.
Người
phụ nữ rút lui, Job trở lại trong trạng thái rất căng thẳng, giữ đôi mắt bão
gió của mình gắn chặt vào bất kỳ phụ nữ nào đến gần anh ta. Tôi lấy cơ hội giải
thích với các chủ nhân ở đây rằng Job đã kết hôn, và đã trải qua mối quan hệ
khá bất hạnh trong nước, khiến anh ta ở đây hiện ra vẻ mặt và sự sợ hãi với phụ
nữ, nhưng lời giải thích của tôi được đón nhận trong im lặng ảm đạm, hiển nhiên
hành vi của người tùy tùng này bị coi là không tôn trọng “hộ gia đình” ở phạm
vi rộng hơn, dù người phụ nữ đó, theo cách văn minh nhất của các chị em, đã tỏ
ra vui vẻ với sự cự tuyệt này.
Sau
bữa sáng, chúng tôi đi dạo và tìm hiểu về việc chăn nuôi của người Amahagger,
cũng như những mảnh đất trồng trọt của họ. Họ có hai loại gia súc, một loại lớn
và góc cạnh, không sừng, nhưng năng suất sữa rất tốt; và loại kia, màu đỏ, rất
nhỏ và béo, thịt rất tuyệt, nhưng sữa không có giá trị. Nó giống loài tương tự
ở Norfolk, cực đỏ, chỉ có điều sừng cong về phía trước đầu, đôi khi phải cắt
bớt đi để tránh phát triển vào xương sọ. Dê có râu dài và chỉ dùng để lấy thịt,
ít ra tôi không thấy họ lấy sữa. Đối với việc trồng trọt của người Amahagger,
cực kỳ nguyên thủy, tất cả đều được làm bằng cái xuổng sắt, vì tộc người này
biết nấu chảy và cán sắt. Cái xuổng giống đầu ngọn giáo lớn, không có vai, chỉ
có chân xuống được gắn vào. Hậu quả là, phải bỏ sức rất lớn để đào xới. Tuy
nhiên, tất cả đều do đàn ông làm, ngược lại với tập quán của hầu hết cả chủng
tộc hoang dã, phụ nữ hoàn toàn được miễn việc tay chân mệt nhọc. Như tôi đã nói
ở nơi nào đó, trong tộc người Amahagger phái yếu hơn đã thiết lập quyền của họ.
Ban
đầu chúng tôi bị bối rối trước nguồn gốc và sự hình thành nên chủng tộc kỳ lạ
này, những điểm mà họ khá kín đáo. Thời gian trôi qua – bốn ngày kế tiếp không
có sự kiện đáng kể nào – chúng tôi tìm hiểu được một chút từ cô bạn Ustane của
Leo, người lúc nào cũng dính lấy quí ngài trẻ tuổi như một cái bóng của cậu ấy.
Thực chất, họ chả có gì, ít ra như cô ta nhận ra. Tuy nhiên cô ấy đã kể với
chúng tôi về những gò đất được xây và nhiều cột trụ, gần nơi Bà ấy sống, gọi là Kôr, nơi người thông
thái nói đã từng là nhà để con người sống, và cho rằng họ là hậu duệ của những con
người này. Tuy nhiên không ai dám đến gần những tàn tích đổ nát vĩ đại đó, vì
họ bị ám ảnh: họ chỉ thấy chúng từ xa. Những tàn tích tương tự được trông thấy,
theo cô ấy nghe nói, ở nhiều nơi trên đất nước này, nó ở đâu đó trên một trong
những ngọn núi mọc lên trên đầm lầy. Những hang động họ đang sống cũng từng
được con người đào rỗng từ đá, có lẽ chính là những người đã xây dựng nên các
thành phố. Bản thân họ không có luật lệ bằng văn bản, chỉ có phong tục tập quán
cũng trói buộc chặt chẽ như luật lệ. Nếu ai đó chống lại phong tục, người đó sẽ
bị chết theo lệnh từ Cha của “Hộ gia đình”. Tôi hỏi người ta bị buộc phải chết
như thế nào, cô ấy chỉ mỉm cười nói rằng, có lẽ tôi sẽ thấy vào một ngày nào đó
sớm thôi.
Tuy
nhiên, họ có một Nữ Hoàng. Bà ấy là
Nữ Hoàng của họ, nhưng rất hiếm khi nhìn thấy bà ấy, có lẽ chỉ một lần trong
hai hay ba năm, khi bà ấy đi đến tuyên án cho vài người phạm tội, bà ấy được
khoác trong chiếc ào choàng lớn, đến mức không ai có thể trông thấy mặt bà.
Những ai hầu hạ bà ấy đều câm điếc, do đó không thể kể bất cứ chuyện gì, nhưng
nghe nói rằng bà ấy đáng yêu đến mức không ai đáng yêu bằng, hay chưa từng ai
như vậy. Cũng có tin đồn rằng bà ấy bất tử, có sức mạnh vượt tất cả mọi thứ,
như Ustane không thể nói gì về tất cả mọi chuyện. Điều cô ấy tin là Nữ Hoàng đã
chọn một người chồng từ rất xa xưa, khi một bé gái ra đời, chồng của bà ấy –
người chưa ai từng gặp lại bao giờ - đã bị ban cho cái chết. Rồi bé gái lớn
lên, trở thành Nữ Hoàng khi mẹ nó chết và bị chôn trong những hang động lớn. Nhưng
những chuyện này đều không chắc chắn. Toàn bộ chiều dài và rộng của mảnh đất
này đều chỉ vâng lệnh Bà ấy, nghi ngờ
lệnh của bà đều phải chết ngay lập tức. Bà ấy có một người bảo vệ, nhưng không
có quân đội thường trực, và không tuân lệnh bà ấy chỉ là chết.
Tôi
hỏi kích thước mảnh đất này, bao nhiêu người sống trên đó. Cô ấy trả lời có
mười “Hộ gia đình”, theo những gì cô ấy biết, gồm “Hộ gia đình” lớn là nơi Nữ
Hoàng ở đó, tất cả các “Hộ gia đình” đều sống trong các hang động, dường như
trải rộng khắp đất nước này, rải rác giữa những đầm lầy rộng lớn mênh mông, chỉ
nối thông bằng những con đường bí mật. Các “Hộ gia đình” thường gây chiến với
nhau cho tới khi Bà ấy gửi lời yêu
cầu dừng lại, họ sẽ dừng lại ngay lập tức. Điều đó cùng với bệnh sốt rét họ mắc
phải khi qua đầm lầy ngăn số lượng người của họ tăng lên quá nhanh. Họ không có
liên hệ với các chủng tộc khác, thực tế không ai sống gần họ, hoặc có khả năng
vượt qua những đầm lầy mênh mông này. Một lần, một đội quân từ hướng dòng sông
lớn (có lẽ là người Zambesi) đã cố tấn công họ, nhưng chúng bị lạc lối trong
các đầm lầy, ban đêm nhìn những quả bóng lửa khổng lồ di chuyển ở đó, cố đi về
phía đó, cho rằng đó là dấu hiệu trại của kẻ thù, thế là một nửa trong số chúng
bị chết đuối. Số còn lại cũng chết ngay sau đó vì sốt rét và đói khát, khi chưa
có nổi một đòn tấn công vào họ. Cô ấy nói với chúng tôi, đầm lầy hoàn toàn
không thể vượt qua được trừ những ai biết đường, hơn nữa, điều tôi rất tin
tưởng, là chúng tôi sẽ không bao giờ đến được nơi này nếu chúng tôi đã không
được chính họ đưa đến đây.
Điều
này và nhiều thứ khác chúng tôi tìm hiểu được từ Ustane trong suốt bốn ngày
trước khi cuộc phiêu lưu thực sự của chúng tôi bắt đầu, có thể tưởng tượng
rằng, những chuyện này đã cho chúng tôi nguyên nhân tương đối để suy nghĩ. Toàn
bộ câu chuyện cực kỳ rõ ràng, hầu như thật khó tin, thực vậy, phần kỳ lạ nhất
ít nhiều liên quan đến bản văn tự cổ xưa trên mảnh gốm vỡ. Bây giờ dường như có
một Nữ Hoàng huyền bí khoác theo tin đồn với sự uy nghiêm và những tính cách
tuyệt vời, nổi tiếng vô cảm, nhưng theo suy nghĩ của tôi, còn hơn danh hiệu khiếp
sợ của Bà ấy. Tóm lại, tôi không thể
dựng nên chuyện này, Leo cũng không thể, dù tất nhiên cậu ấy cực kỳ hiếu thắng
trước tôi, vì tôi đã từng liên tục chế giễu toàn bộ chuyện này. Đối với Job, từ
lâu anh ta đã từ bỏ nỗ lực nói lên lý do của chính mình, khiến nó trôi dạt trên
biển. Mahomed, anh chàng Ả Rập, người đã cư xử quả thật rất văn minh, nhưng bị
những người Amahagger kinh miệt lạnh lùng, tôi phát hiện ra anh ta đang rất sợ
hãi, dù tôi không thể dựng lên những gì anh ta e sợ. Anh ta ngồi thu mình trong
một góc hang động suốt ngày dài, kêu gọi Allah và Đấng tiên tri tới bảo vệ anh
ta. Khi tôi ép hỏi anh ta về điều đó, anh ta bảo đang sợ hãi, vì những người
này không phải đàn ông hay đàn bà, mà là quỉ dữ, và đây là vùng đất bị bỏ bùa;
theo quan điểm của tôi, sau một hai lần, tôi đồng ý với anh ta. Và thời gian cứ
như vậy trôi, tới đên ngày thứ tư sau khi Billali đi, có điều gì đó xảy ra.
Ba
người chúng tôi và Ustane đang ngồi quanh đống lửa trong hang trước giờ đi ngủ,
bỗng nhiên người phụ nữ đó – người đã từng ấp ủ trong im lặng – mỉm cười và đưa
tay lên những lọn tóc vàng của Leo, và nói chuyện với cậu ấy. Ngay tới tận bây
giờ, khi tôi nhắm mắt lại, tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ tự hào, vương giả của cô
ấy, luân phiên khoác tấm áo của bóng tối dày đặc và lửa đỏ lấp lánh, cô ấy đứng
đó, giữa tâm điểm hoang dã kỳ lạ như một cảnh tôi từng chứng kiến, cô ấy tự gửi
gắm một loại ngôn từ đầy âm điệu mang theo gánh nặng của suy tư và những lời
tiên đoán, cất lên như sau:
Ngươi là người ta đã lựa chọn – ta đã
chờ đợi ngươi từ đầu!
Ngươi rất đẹp. Ai có mái tóc như
ngươi, hay làn da trắng đến thế?
Ai có cánh tay mạnh mẽ đến thế, ai
là người đàn ông như thế?
Mắt ngươi là bầu trời, ánh sáng
trong đó là những vì sao.
Ngươi hoàn hảo với gương mặt hạnh
phúc, và trái tim ta đã hướng về ngươi.
Ôi, khi đôi mắt ta rơi trên ngươi,
ta đã khát khao ngươi,
Rồi ta giữ cho ngươi bên ta, ôi,
người yêu dấu của ta,
Và giữ ngươi thật nhanh, không thể
cho đau đớn tới ngươi.
Ôi, ta đã che đầu ngươi bằng mái tóc
của ta, ánh mặt trời không thể tấn công nó;
Và cùng nhau ta bên ngươi, và ngươi
cũng bên ta.
Và cứ thế khoảng cách đã nhỏ lại,
đến khi thời gian lao lực, một ngày của quỉ dữ đến;
Và rồi chuyện gì xảy đến ngày đó
thế? A, người yêu dấu của ta, ta không biết nữa!
Nhưng ta, ta không còn nhìn thấy
ngươi nữa – Ta, ta đã lạc trong bóng tối.
Và cô ta mạnh mẽ hơn, đã chiếm mất
ngươi; ôi, cô ta xinh đẹp hơn Ustane.
Nhưng ngươi đã quay lại và gọi ta,
và khiến đôi mắt ta băn khoăn trong bóng tối.
Nhưng cuối cùng cô ta đã chiến thắng
bằng nhan sắc, và dẫn ngươi xuống những nơi kinh hoàng,
Và rồi, ôi! Người yêu dấu của ta.
Người
phụ nữ kỳ lạ ấy đã dừng bài nói, hay bài hát của cô ấy ở đó, đối với chúng tôi nó
có nhiều lỗi ngữ pháp âm nhạc, nhưng chúng tôi hiểu những gì cô ấy định nói, cô
ấy dường như gắn chặt đôi mắt lấp lánh vào bóng tối thăm thẳm phía trước. Rồi
ánh mắt ấy có lúc trống rỗng, sợ hãi, như thể nó đang cố gắng nhận ra nỗi khủng
khiếp nào đó. Cô ấy bỏ tay xuống khỏi đầu Leo, chỉ vào bóng tối. Tất cả chúng
tôi cùng nhìn, không thể thấy gì; nhưng cô ấy lại thấy gì đó, hoặc cho rằng cô
ấy đã thấy, và cái đó rõ ràng ảnh hưởng tới thần kinh sắt đá của cô ấy, không
có tiếng động, cô ấy ngã bất tỉnh xuống giữa chúng tôi.
Leo,
người đã thực sự gắn bó với con người trẻ trung xinh đẹp này, đang trong tâm
trạng cực kỳ hoảng hốt và mệt mỏi, còn tôi, trung thực mà nói, trong trạng thái
không xóa nổi nỗi sợ hãi mê tín. Khung cảnh thật kỳ lạ.
Tuy
nhiên hiện giờ, cô ấy đã tỉnh, ngồi dậy sau cơn co giật rùng mình bất thường.
“Cô
có ý gì, Ustane?” Leo hỏi, cảm ơn những năm tháng dạy dỗ, cậu ấy đã nói tiếng Ả
Rập rất tuyệt.
“Không,
sự lựa chọn của ta,” cô ấy trả lời với nụ cười nhỏ gượng gạo. “Ta đã hát về
ngươi theo cách của dân tộc ta. Chắc chắn rằng ta không có ý gì hết. Ta có thể
nói về nó thế nào đây?”
“Thế
cô đã thấy gì, Ustane?” Tôi hỏi, sắc bén nhìn vào gương mặt cô ấy.
“Không,”
cô ấy trả lời, “Ta không thấy gì cả. Đừng hỏi ta những gì ta đã thấy. Tại sao
ta sợ hãi các ngươi?” Rồi, quay về phía Leo với cái nhìn dịu dàng nhất mà tôi
từng thấy trên gương mặt một phụ nữ, văn minh hay hoang dã, cô ấy nâng đầu Leo
bằng hai tay, rồi hôn lên trán cậu như một người mẹ.
“Khi
ta rời xa ngươi, sự lựa chọn của ta,” cô ấy nói; “khi đêm tối ngươi giang vòng
tay ra thì đã không thể tìm thấy ta, rồi ngươi nghĩ về thời gian bên ta, vì sự
thật ta rất yêu ngươi, dù ta không phù hợp để rửa chân cho ngươi. Còn bây giờ
hãy để chúng ta yêu đương và làm những gì được ban cho chúng ta, và cùng vui
vẻ; vì trong nấm mồ sẽ không còn tình yêu, không còn sự ấm áp, cũng không còn
sự va chạm của đôi môi. Có lẽ không có gì, hay có lẽ còn chút ký ức cay đắng về
những gì có lẽ đã từng có được. Đêm nay giờ phút này là của chúng ta, làm sao
chúng ta biết được họ sẽ thuộc về ai ngày mai?”
(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)