Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 5



CHƯƠNG 5

Đầu người Ethiopia
Cuối cùng các sứ giả và tiền bối của thần mặt trời huy hoàng đã làm xong công việc của họ, tìm ra bóng tối, buộc nó phải trốn chạy. Sau đó mặt trời đi ra trong vinh quang từ chiếc giường đại dương, làm trái đất tràn ngập hơi ấm và ánh sáng. Tôi ngồi đó trong thuyền, lắng nghe gió nhẹ liếm lên mặt nước và xem mặt trời mọc, cho tới tận lúc con thuyền chuyển động nhẹ nhàng đến một tảng đá kỳ quặc, hay một đỉnh nhọn, ở cuối mũi đất nhô ra mà chúng tôi vừa trải qua mưa gió với quá nhiều gian nguy, giữa tôi và khung cảnh hùng vĩ, quả đã làm vẩy bẩn nó nếu nhìn từ quan điểm của tôi. Nhưng tôi vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào tảng đá, lơ đãng, cho đến khi nó hiện ra góc cạnh nhờ ánh sáng phát ra phía sau nó, và tôi bắt đầu, có lẽ thế, cảm nhận thấy chóp của đỉnh nhọn cao khoảng tám mươi feet và dày một trăm năm mươi feet này, có hình dạng giống cái đầu và gương mặt một người da đen, trên đó được đóng dấu một biểu cảm hung bạo và đáng sợ. Không nghi ngờ gì; có đôi môi dày; má béo, và chiếc mũi thấp bè bè làm nổi bật lên vẻ hoảng hốt trước phía sau sáng chói. Hộp sọ tròn được gột rửa thành hình có lẽ bởi hàng ngàn năm gió và thời tiết, đã trọn vẹn hoàn thành sự giống nhau này, nhiều cỏ dại và địa y trên đó, trước ánh mặt trời đang trải khắp thế gian, trông nó giống chiếc áo len trên đầu người da đen khổng lồ. Chắc chắn rất kỳ lạ; kỳ lạ đến độ giờ tôi tin đó không phải chỉ là con quái vật tự nhiên mà là một tượng đài khổng lồ lỗi thời, giống Tượng Nhân Sư Ai Cập nổi tiếng, vì người ta đãng trí bỏ quên đống đá đã mượn chính nó để thiết kế, có lẽ như một biển hiệu cảnh báo và thách thức kẻ thù muốn tiếp cận bến cảng. Thật không may chúng tôi không bao giờ có thể biết chắc liệu có phải trường hợp đó hay không, vì tảng đá rất khó tiếp cận từ cả hai phía đất liền và phía biển, chúng tôi phải làm cách khác. Bản thân tôi khi quan sát hiệu ứng ánh sáng của những gì chúng tôi đã nhìn thấy sau đó, tôi tin rằng nó được tạo dáng bởi con người, nhưng liệu có phải hay không, cái đó thay thế cho người buồn rầu nhìn chằm chằm dọc theo vùng biển đang biến động hết đời này qua đời khác – nó đã đứng đó hơn hai nghìn năm trước, khi Amenartas, công chúa Ai Cập, vợ của ông tổ Kallikrates xa xôi của Leo, nhìn vào gương mặt quỉ quái đó – và tôi không nghi ngờ rằng nó sẽ vẫn còn đứng đó, khi càng nhiều thế kỷ trôi qua càng được đánh số thêm vào năm tháng giữa ngày bà ấy thấy và ngày chúng tôi thấy, khiến chúng ta thêm lãng quên.
“Cậu nghĩ gì về nó, Job?” Tôi hỏi người tùy tùng, anh ta đang ngồi bên mép chiếc thuyền, cố gắng để hứng thật nhiều ánh mặt trời nếu có thể, nói chung trông tệ hại một cách bất thường, còn tôi chỉ vào cái đầu nóng như lửa và xuất quỉ nhập thần kia.
“Ôi Lạy Chúa, thưa ngài,” Job trả lời, giờ anh ta lần đầu tiên cảm nhận thấy vật này, “Tôi nghĩ quí ông có tuổi kia hẳn phải đang ngồi vì chân dung ông ta trên đá.”
Tôi bật cười, và tiếng cười đánh thức Leo.
“Xin chào,” cậu nói, “Có chuyện gì với cháu thế? Cháu hoàn toàn bị cứng lại – con tàu đâu rồi? Làm ơn cho cháu ít brandy.”
“Cháu có lẽ nên cảm ơn vì không cứng hơn, cậu bé ạ,” tôi trả lời. “Con tàu đã bị chìm, mọi người trên khoang đã chết đuối trừ bốn chúng ta, mạng cháu được cứu một cách kỳ diệu”; trong khi đó Job, giờ đã sưởi ấm đủ, đang tìm kiếm brandy trong tủ khóa theo yêu cầu của Leo, tôi đã kể lại cho cậu ấy nghe cuộc phiêu lưu của chúng tôi đêm qua.
“Lạy Chúa!” cậu ấy chết ngất; “cháu nghĩ chúng ta đã được lựa chọn để sống sót qua chuyện này!”
Lúc này brandy được mang tới, tất cả chúng tôi đã lấy lại chút sức lực nhờ nó, và cảm ơn vì chúng tôi có đủ. Trời cũng bắt đầu nóng hơn, sưởi ấm hình hài lạnh lẽo của chúng tôi, vì chúng tôi đã ướt nhẹp hơn năm tiếng đồng hồ rồi.
“Tại sao,” Leo nói hổn hển khi cậu ấy để chai brandy xuống, “đằng kia có cái đầu như bản văn tự nói, ‘con thuyền đá giống cái đầu của một người Ethiopia’.”
“Phải, nó đấy.” Tôi nói.
“À thế thì toàn bộ chuyện này là thật rồi.” Cậu trả lời.
“Bác chẳng thấy có gì cần theo đuổi cả,” Tôi trả lời. “Chúng ta biết cái đầu này ở đây: bố cháu đã nhìn thấy nó. Rất giống chứ không phải cùng một cái đầu mà bản văn tự nói đến; hay dù chính là nó, cũng chả chứng mình được gì.”
Leo cười nhạo tôi một cách kiêu ngạo. “Bác là một người Do Thái đa nghi, bác Horace,” cậu nói. “Ai còn sống đều sẽ thấy điều đó.”
“Chính xác đấy,” Tôi trả lời, “giờ có lẽ cháu nên thấy chúng ta đang trôi dọc theo bờ cát vào cửa sông. Hãy cầm lấy mái chèo đi, Job, chúng ta sẽ chèo thuyền vào xem liệu có thể tìm được chỗ nào để đặt chân lên đất liền không.”
Cửa sông mà chúng tôi đang tiến vào không có vẻ rộng lắm, dù hai bên bờ đầy sương mù chạy dài dính vào bờ biển, vẫn không nhô lên đủ để cho phép chúng tôi nhìn ra chiều dài chính xác của nó. Giống như trường hợp hầu hết các con sông Đông Phi, có một cản trở đáng kể ở cửa sông, mà chắc chắn khi gió thổi vào bờ và thủy triều rút, một con thuyền dù vài inch cũng hoàn toàn không thể qua sông. Nhưng vì mọi thứ được vận dụng đầy đủ, chúng tôi không thể làm con thuyền thành một chiếc cốc đầy nước. Trong hai mươi phút chúng tôi đã đi dọc theo nó, dùng rất ít sức, được một làn gió mạnh mang đi tới cảng. Lúc này sương mù đã bị mặt trời hút hết, trời nóng nực khó chịu, chúng tôi thấy cửa sông nhỏ ở đằng kia khoảng nửa dặm, bờ sông rất lầy lội, chen chúc cá sấu nằm trên bùn như khúc gỗ. Tuy nhiên khoảng một dặm phía trước chúng tôi, có gì đó như một dải đất kiên cố, chúng tôi lái tàu về phía đó. Khoảng một phần tư giờ sau chúng tôi đã ở đó, đưa tàu nhanh chóng vào chỗ cái cây rất đẹp có lá sáng rộng, hoa như loài mộc lan, chỉ có điều màu hồng chứ không trắng [*] đang trôi trên mặt nước, và chúng tôi lên bờ. Chúng tôi cởi quần áo, tự tắm rửa, rồi trải quần áo cùng với đồ dùng trên thuyền ra phơi dưới ánh mặt trời, nên chúng đã khô rất nhanh. Sau đó, tránh nắng dưới tán cây cối, chúng tôi làm một bữa sáng thành tâm với lưỡi “Paysandu” đóng hộp, món mà chúng tôi mang rất nhiều theo, để tự huyên náo chúc mừng vận số may mắn khi mang theo con thuyền này với đầy đồ dùng ngày đó, trước khi cơn bão phá hủy con tàu lớn. Khi ăn xong, quần áo đã khô hoàn toàn, chúng tôi vội vã mặc vào, cũng không cảm thấy khoan khoái chút nào. Thực vậy, trừ mệt mỏi và một vài vết bầm tím, không ai trong chúng tôi không trở nên tệ hơn vì chuyến phiêu lưu khủng khiếp đã làm chết tất cả bạn đồng hành đó. Leo, thực tế đã nửa chết đuối, nhưng không phải vấn đề gì to tát với một vận động viên trẻ trung mạnh mẽ hai mươi lăm tuổi.
[*] Có một loài mộc lan được biết đến có hoa màu hồng. Đó là loài bản địa ở Sikkim, còn gọi là Magnolia Campbellii. – Biên tập viên.
Sau bữa sáng chúng tôi bắt đầu nhìn nhận lại. Chúng tôi đang ở trên một dải đất khô rộng khoảng hai trăm thước, dài năm trăm, giáp một mặt là dòng sông, ba mặt kia là đầm lầy hoang vu vô tận trải dài ra xa mắt có thể thấy được. Dải đất này nhô lên khoảng hai mươi lăm feet so với đồng bằng đầm lầy xung quanh và mặt nước sông: quả thật dường như được thực hiện bằng bàn tay con người.
“Nơi này là một bến tàu,” Leo quyết đoán nói.
“Vớ vẩn,” Tôi trả lời. “Ai có thể ngu xuẩn đến mức xây một bến tàu giữa khu đầm lầy chết chóc trong một đất nước toàn người dã man cư trú thế này – liệu nó có người cư trú thật chứ?”
“Có thể nó không chỉ toàn đầm lầy, và có thể người dân không phải toàn kẻ dã man,” cậu ấy lạnh nhạt nói, nhìn xuống bờ dốc, vì chúng tôi đang đứng cạnh con sông. “Nhìn kìa,” cậu ấy tiếp tục, chỉ vào nơi cơn bão đêm trước đã làm tan tác những cây mộc lan có rễ lan tới tận rìa bờ sông và đổ dốc xuống mặt nước, làm mảnh đất được nâng lên như cái bánh lớn. “Có phải đó là công trình bằng đá không? Nếu không thì hẳn là rất giống.”
“Vớ vẩn,” Tôi nói một lần nữa, nhưng chúng tôi đã trèo xuống chỗ đó, giữa đống rễ cây nhô lên và bờ sông.
“Thế nào?” cậu ấy nói.
Nhưng lần này tôi không trả lời. Tôi chỉ huýt sáo. Nơi đó, bị bóc trần bởi sự di chuyển của trái đất, không ngờ là từng khối đá rắn nằm trong những khuôn lớn gắn với nhau bằng xi măng nâu, thật khó làm tôi không ấn tượng về nó khi nghĩ tới tờ bìa để phi dao của tôi. Đó cũng không phải tất cả; nhìn thấy cái gì đó đang chiếu xuyên qua lớp bùn ở đáy miếng dán trần của vật liệu xây tường, tôi loại bỏ lớp đất lỏng bằng tay, hiện ra một chiếc nhẫn bằng đá khổng lồ, đường kính một bàn chân hoặc hơn, dày khoảng ba inch. Nó làm tôi khá kinh ngạc.
“Trông như một bến cảng nơi những con tàu cỡ lớn được thả neo, đúng không bác Horace?” Leo vui mừng cười nói.
Tôi định nói “Vớ vẩn” lần nữa, nhưng từ đó mắc kẹt trong cổ họng – cái nhẫn đã tự nói lên điều đó. Trong quá khứ xa xôi, những con tàu lớn đã từng được neo ở đó, và bức tường đá này không nghi ngờ gì nữa, là phần còn sót lại của một bến cảng được xây dựng kiên cố. Có lẽ thành phố nó thuộc về giờ đang nằm chôn vùi dưới đầm lầy phía sau.
“Cuối cùng đã bắt đầu thấy có gì đó trong câu chuyện rồi, bác Horace,” Leo hoan hỉ nói; nghĩ đến cái đầu người da đen kỳ bí và công trình đá cũng kỳ bí không kém, tôi không trực tiếp đáp lại.
“Một đất nước như Châu Phi,” Tôi nói, “chắc chắn đầy di tích của những nền văn minh đã mất hay bị quên lãng từ lâu. Không ai biết tuổi đời của nền văn minh Ai Cập, và nó rất có thể có nhiều nhánh. Rồi còn cả nền văn minh của người Babylon, người Phoenicia, và người Ba Tư, tất cả phong tục của họ đều ít nhiều văn minh, chưa nói đến những người Do Thái mà mọi người đều “muốn” ngày nay. Có thể họ, hay ai đó trong số họ, có thuộc địa hay trạm buôn bán ở đây. Hãy nhớ có những thành phố Ba Tư bị chôn vùi mà lãnh sự đã chỉ cho chúng ta ở Kilwa.” [*]
[*] Gần Kilwa, trên bờ biển Đông Phi, cách Zanzibar khoảng 400 dặm về phía nam, là một vách đá hiện giờ đã bị sóng rửa sạch. Trên đỉnh của vách đá đó là những ngôi mộ của người Ba Tư được biết đến có tuổi đời ít nhất bảy thế kỷ theo ngày tháng đọc được trên đó. Dưới những ngôi mộ này là lớp mảnh vụn của một thành phố. Xuống sâu hơn dưới vách đá là lớp thứ hai đại diện cho một thành phố cổ xưa hơn, và xuống sâu hơn nữa, lớp thứ ba, là tàn tích sót lại của một thành phố cổ xưa rộng lớn và vô danh khác nữa. Ở thành phố dưới đáy, hiện tại đã tìm thấy một số mẫu đất nung tráng men, như thường gặp trên bờ biển ngày nay. Tôi tin rằng giờ chúng đang thuộc sở hữu của ngài John Kirk. – Biên tập viên.
“Thật yên tĩnh,” Leo nói, “nhưng không phải cái bác đã nói trước đó.”
“Nào, nên làm gì bây giờ?” Tôi hỏi, xoay ngược cuộc hội thoại lại.
Vì không có câu trả lời nào, chúng tôi đi trở về bìa đầm lầy, và quan sát nó. Hàng đàn lớn như vô tận các loại chim nước bay ra từ khe núi, cho đến khi thật khó còn nhìn được chúng trên bầu trời. Giờ mặt trời đã lên cao hút hơi độc từ bề mặt đầm lầy và từ những bể nước đọng đầy bọt lên những đám mây mỏng ốm yếu.
“Hai điều rõ ràng với bác,” Tôi nói với ba người đồng hành đang nhìn chằm chằm vào cảnh tượng này trong thất vọng: “đầu tiên, chúng ta không thể đi qua đó” (Tôi chỉ vào đầm lầy), “và, thứ hai, nếu chúng ta dừng ở đây chúng ta chắc chắn sẽ chết vì sốt rét.”
“Điều đó rõ ràng như đống cỏ khô, thưa ngài,” Job nói.
“Rất tốt, thế thì; có hai lựa chọn cho chúng ta. Một là đợi tàu, và cố chạy tới một cảng nào đó bằng thuyền cá voi, cách này khá rủi ro, còn lựa chọn kia là chèo thuyền theo dòng sông và nhìn xem nơi nào chúng ta nên đi tiếp.”
“Cháu không biết bác định làm gì,” Leo chu miệng nói, “nhưng cháu sẽ đi theo con sông.”
Job trợn trắng mắt và rên rỉ, anh chàng Ả Rập thì thầm “Allah” và cũng rên rỉ. Đối với tôi, tôi xin ngọt ngào nhận xét rằng chúng tôi dường như đang ở giữa quỉ dữ và biển sâu, không có nhiều vấn đề lắm với việc chúng tôi đi đâu. Nhưng thực tế tôi lo lắng như Leo. Đầu người da đen khổng lồ và bến cảng đá đã kích thích trí tò mò của tôi lớn đến mức tôi đã bí mật xấu hổ, và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để thỏa mãn nó bằng bất cứ giá nào. Theo đó, cẩn thận trang bị cột buồm, sắp xếp lại con thuyền, mang theo súng trường, chúng tôi bắt đầu đi. May mắn gió đang thổi từ đại dương vào bờ biển, vì thế chúng tôi có thể giương buồm. Quả thực sau đó chúng tôi phát hiện một qui luật chung, gió thổi vào bờ biển từ rạng đông trong một vài giờ, và thổi ngược lại ra ngoài khơi lúc hoàng hôn, giải thích cho điều này tôi cho rằng đó là, khi trái đất bị lạnh đi bởi sương và đêm tối, không khí nóng sẽ bốc lên, luồng gió sẽ chạy vào trong từ biển cho đến khi mặt trời xuất hiện làm nóng nó. Ít nhất đó dường như là qui luật ở nơi này.
Lợi dụng gió đang ưu ái, chúng tôi vui vẻ cho thuyền đi lên con sông suốt ba hay bốn tiếng. Khi chúng tôi đi qua một đàn trâu nước đang bơi lên, gầm rú kinh hãi cách thuyền trong vòng mười hay mười hai sải, nhờ cảnh báo của Job, tôi sẽ thú nhận, là vì chính tôi. Đó là những con trâu nước đầu tiên chúng tôi từng thấy, và do tò mò vô hạn, tôi cho rằng chúng tôi là những người da trắng đầu tiên chúng từng thấy. Theo đó, tôi cho rằng chúng sẽ đi về phía thuyền để thỏa mãn trí tò mò. Leo muốn bắn chúng, nhưng tôi thuyết phục cậu ấy vì sợ hậu quả. Chúng tôi cũng nhìn thấy hàng trăm con cá sấu phơi bụng trên hai bờ sông đầy bùn lầy, và trong số chúng là một con ngỗng hoang với những cái cựa cong sắc trên đôi cánh, có một cựa dài khoảng ba phần tư inch từ đầu đến giữa hai mắt. Chúng tôi chưa bao giờ bắn thứ nào như thế, vì vậy tôi không biết liệu đó có phải là một “môn thể thao” không hay là một loài riêng biệt. Trong trường hợp sau, sự cố này thể hiện mối quan tâm đến tự nhiên. Job gọi nó là Con Ngỗng Một Sừng.
Về trưa trời càng nóng nực, mùi hôi thối sinh ra từ đầm lầy nơi con sông chảy vào quá khủng khiếp, khiến chúng tôi ngay lập tức phải nuốt hàng tá ký ninh phòng ngừa sốt rét. Ngay sau đó gió hoàn toàn ngừng thổi, vì việc phải chèo con thuyền nặng nề trong cái nóng là không phải bàn nữa, chúng tôi cần cảm ơn được đi dưới bóng của nhóm cây – một loại liễu – mọc bên bờ sông, và nằm đó thở hổn hển đến khi cuối cùng hoàng hôn cũng tới chấm dứt giai đoạn đau khổ của chúng tôi. Thấy có gì dường như không gian nước mở ra thẳng phía trước, chúng tôi quyết định chèo thuyền ra đó trước khi nghĩ xem làm gì ban đêm. Tuy nhiên ngay khi định nới lỏng con thuyền, một con waterbuck (linh dương Nam Phi) xinh đẹp, với cặp sừng lớn cong về phía trước, và một sọc trắng trên mông, đi xuống sông uống nước, mà không nhận ra chúng tôi đã ẩn đi trong vòng năm mươi thước sau cây liễu. Leo là người đầu tiên nhìn thấy nó, là một vận động viên cuồng nhiệt, khát máu trong trò chơi lớn, thứ mà cậu ấy đã mơ ước từ nhiều tháng, ngay lập tức cậu ấy cứng đờ, như một con chó thám tử. Thấy có chuyện gì đó, tôi đưa cậu ấy khẩu súng trường, đồng thời cầm lấy súng của tôi.
“Nào giờ cháu không được bỏ lỡ đấy.” Tôi thì thầm.
“Lỡ ư!” Cậu thì thầm bất mãn ngược lại; “Cháu có thể bỏ lỡ nếu cháu cố tình.”
Cậu ấy nâng khẩu súng lên, con linh dương có lang màu đang mải mê uống nước nâng đầu lên nhìn ra bờ sông. Nó đang đứng ngay dưới bầu trời hoàng hôn trên một mỏm đất nhỏ, hay một chóp đất chạy dọc theo đầm lầy, rõ ràng là con đường yêu thích trong trò chơi, có một cái gì đó rất đẹp về nó. Quả thật, tôi không nghĩ rằng liệu sống đến trăm tuổi tôi có thể quên được khung cảnh hoang vắng và lôi cuốn đến mức này không; nó đã được in dấu vào bộ nhớ của tôi. Bên phải và trái là dải rộng đầm lầy đang hít thở đơn độc chết chóc, nguyên vẹn và bất động như thể mắt có thể tóm được, trừ đây đó ao nước đầy bùn đen, như gương, lóe lên những dải đỏ rực của hoàng hôn. Đằng sau chúng tôi, trước khi cảnh dòng sông chậm chạp được trải rộng ra, kết thúc trong một thoáng của hồ nước mặn viền đầy lau sậy, trên bề mặt nó, những tia sáng dài của màn đêm đang chơi đùa khi gió nhẹ khuấy động bóng tối. Phía tây lờ mờ hiện ra quả bóng đỏ hùng vĩ của mặt trời đang chìm xuống, giờ biến mất dưới đường chân trời đầy hơi nước, và đầy trời, trên cao dọc theo hình vòng cung, cò và chim hoang dã phất phơ thành đường thẳng, hình vuông, tam giác, chấm phá với những ánh vàng và nét đỏ ối của máu, đang bay lượn. Bản thân chúng tôi – ba người Anh hiện đại trên một con thuyền Anh hiện đại – dường như nghiến răng ken két và tìm kiếm giai điệu hoang vu không đo được ấy; trước mặt chúng tôi con linh dương cao quí tô màu lên nền trời hồng hào.  
Bang! Nó nhảy vọt lên mạnh mẽ và chạy mất. Leo đã bỏ lỡ nó. Bang! Lại một phát nữa theo ngay sau cậu ấy. Giờ là một phát. Tôi phải cho một phát, dù nó đang lao đi như mũi tên, và đã cách một trăm thước hay hơn thế. Trời ơi! Trúng rồi, trúng rồi, trúng rồi! “Vâng, tôi nghĩ tôi đã cho cậu rửa mắt rồi, cậu chủ Leo,” Tôi nói, đấu tranh chống lại sự vui sướng không khoan nhượng mà khoảnh khắc cao trào hiện hữu sẽ làm tăng nhịp trong lồng ngực người chơi thể thao vận động tốt.
“Làm bác nản lòng rồi, vâng,” Leo gầm gừ; rồi nhanh chóng mỉm cười, nụ cười duyên dáng sáng bừng gương mặt đẹp trai của cậu ấy như một tia nắng, “Cháu xin lỗi, ngài nghiên cứu sinh già ạ. Chúc mừng bác; cú bắn thật đẹp, còn của cháu thật vô dụng.”
Chúng tôi ra khỏi thuyền và chạy tới chỗ con linh dương bị bắn xuyên qua cột sống và đã chết. Chúng tôi mất một phần tư giờ hay hơn thế để làm sạch nó, xẻ thịt càng nhiều càng tốt vì chúng tôi có thể mang theo và đóng gói theo cách này, chúng tôi hầu như không đủ ánh sáng để chèo thuyền trong không gian như hồ đầm, nơi đó còn cả một cái hố trong đầm lầy, con sông mở rộng ở đó. Ngay khi ánh sáng biến mất, chúng tôi bỏ neo khoảng ba mươi sải từ bờ hồ. Chúng tôi không dám lên bờ, không biết liệu có nên tìm đất khô để cắm trại hay không, và rất lo sợ hơi độc từ đầm lầy, vì thế chúng tôi nghĩ rằng sẽ an toàn hơn khi ở dưới nước. Vậy nên chúng tôi thắp sáng đèn lồng, làm bữa tối với loại lưỡi đóng hộp khác theo cách tốt nhất có thể, rồi chuẩn bị đi ngủ, tuy nhiên chỉ biết rằng không thể ngủ được. Vì có phải bị thu hút bởi đèn lồng hay bởi mùi xa lạ của người da trắng mà chúng vẫn chờ đợi từ hàng ngàn năm qua hay không, tôi không biết; nhưng chắc chắn chúng tôi đang bị tấn công bởi hàng chục ngàn con muỗi khát máu, bướng bỉnh và lo lớn mà tôi chưa từng nhìn hay đọc về chúng. Trong hàng đám mây muỗi kéo đến, kêu và liệng vo vo, cắn đến khi chúng tôi gần như phát điên. Khói thuốc lá dường như chỉ để khích thích chúng tiến vào cuộc đời vui vẻ và tích cực hơn, cuối cùng đến khi chúng tôi tự phủ bằng chăn, một người rồi toàn bộ cùng ngồi xuống, chậm rãi ngộp thở và gãi liên tục rồi chửi thề chúng. Khi chúng tôi ngồi xuống, đột nhiên dội tới như sấm trong yên lặng tiếng gầm rú rất sâu của sư tử, rồi con sư tử thứ hai, di chuyển giữa đám sậy trong vòng sáu mươi thước so với chúng tôi.
“Cháu bảo này,” Leo nói, nhô đầu ra khỏi chăn, “thật may chúng ta không ở trên bờ nhỉ, ông bác hờ?” (Leo thi thoảng gọi tôi một cách thiếu tôn trọng như vậy.) “Nguyền rủa nó đi! Một con muỗi đã châm vào mũi cháu rồi,” cái đầu lại biến mất.
Ngay sau khi mặt trăng lên, dù mọi loại tiếng gầm rú từ lũ sư tử bên bờ sông vang vọng mặt nước, chúng tôi tự nghĩ đã hoàn toàn an toàn, nên bắt đầu dần dần ngủ thiếp đi.
Tôi hoàn toàn không biết cái gì khiến tôi đâm đầu ra khỏi cái ổ chăn thân thiết, có lẽ vì tôi thấy muỗi đang đốt xuyên qua đó. Nhưng dù sao, tôi đã làm thế, tôi nghe thấy tiếng Job thì thầm, với một giọng khiếp sợ.
“Ôi, số phận của tôi, nhìn kìa!”
Ngay lập tức tất cả chúng tôi cùng nhìn, cái này là thứ chúng tôi thấy dưới ánh trăng. Gần bờ là hai vòng tròn rộng và càng lúc càng mở rộng của những chiếc vòng đồng tâm đang lan ra trên mặt nước, giữa tâm của những vòng tròn có hai vật tối đen đang di chuyển.
“Nó là gì thế?” Tôi hỏi.
“Nó là lũ sư tử chết tiệt, thưa ngài,” Job trả lời trong âm điệu pha trộn kỳ lạ của ý thức về vết thương cá nhân, sự tôn trọng theo thói quen và nỗi sợ hãi được thừa nhận, “và chúng đang bơi tới đây để h-ăn thịt chúng ta,” anh ta nói thêm, căng thẳng kéo thêm âm “h” một cách kích động.
Tôi nhìn lại: không còn nghi ngờ nữa; tôi có thể tóm được ánh mắt hung dữ của chúng. Bị thu hút bởi mùi thịt linh dương mới bị giết hay thịt chúng tôi, lũ quái vật đói khát đang thực sự làm mưa làm gió chỗ này.
Leo đã mang súng trường trong tay. Tôi bảo cậu ấy hãy đợi tới khi chúng gần hơn, trong khi cũng nắm lấy súng của tôi. Khoảng mười lăm feet từ chỗ chúng tôi, mặt nước nông trên bờ tới độ sâu khoảng mười lăm inch, rồi con đầu tiên trong số chúng – một con sư tử cái – đã tới đó, lắc mình và gầm lên. Đúng lúc đó Leo bắn, viên đạn đi xuống đúng ngay cái miệng đang mở to của nó rồi đi ra sau cổ, nó rơi xuống, giật một cái, rồi chết. Con sư tử khác – một con đực trưởng thành – sau con đầu khoảng hai bước. Vào giây phút đó nó đưa hai chân trước lên bờ sông khi điều kỳ lạ xảy ra. Có sự vội vàng và xáo trộn trên mặt nước, chẳng hạn như ai đó nhìn thấy trong một cái ao ở Anh khi một cây lao lấy mạng một con cá nhỏ, chỉ là hung tợn hơn và lớn hơn một ngàn lần, con sư tử đột nhiên gầm lên khủng khiếp dữ dội hơn nhiều và nhảy thẳng lên bờ sông, kéo theo nó cái gì đó màu đen.
“Allah!” Mahomed hét lên, “Một con cá sấu đã cắn vào chân nó!” và anh ta khá chắc chắn. Chúng tôi có thể thấy cái mõm dài với hàm răng óng ánh và cơ thể bò sát sau nó.
Tiếp theo thực là một cảnh kỳ lạ. Con sư tử trở nên khỏe hơn trên bờ sông, con cá sấu nửa đứng, nửa bơi, vẫn cắn chân sau của nó. Sư tử gầm rú tới khi không khí run lên trong thanh âm đó, rồi, bằng một tiếng gầm man rợ như thét, xoay tròn và cào vào đầu cá sấu. Cá sấu chuyển sự thu hút, như sau đó chúng tôi nhận ra, một mắt nó bị rách, rồi nó nhẹ nhàng quay lại; sư tử đột nhiên vồ vào cổ họng nó và giữ chặt, chúng lăn lộn trên bờ sông đánh nhau điên cuồng. Không thể dõi theo chuyển động của chúng, nhưng chúng tôi thấy rõ như lòng bày tay, vì con cá sấu, đầu như đầy máu, đã ngoạm thân con sư tử trong cái hàm sắt của nó ngay trên hông, dồn ép, lắc đi lắc lại con sư tử. Về phần mình, con vật bị tra tấn, gầm rú trong đau đớn, cào và cắn như điên dại vào đầu đầy vảy của kẻ thù, cố định chân sau to lớn của nó vào cổ họng mềm của cá sấu, nói một cách tương đối, tách nó mở ra như ai đó mở một chiếc găng tay.
Rồi hoàn toàn đột ngột, kết thúc đã tới. Đầu sư tử gục trên lưng cá sấu, với một tiếng rên khủng khiếp, nó đã chết, con cá sấu sau khi đứng bất động một phút, chậm rãi lật mình, chân nó vẫn đính cố định vào da thịt con sư tử, sau đó chúng tôi mới biết, nó đã bị cắn vào gần một nửa.
Cuộc đấu tới chết này là một cảnh rất sốc và tuyệt vời, tôi cho rằng ít người từng thấy – và nó đã kết thúc.
Khi mọi thứ đã xong, bỏ lại Mahomed trông giữ, chúng tôi dùng nốt phần còn lại của đêm thật yên lặng, chỉ lũ muỗi được phép.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 4


CHƯƠNG 4

Cuồng Phong
Khung cảnh tôi phải nói bây giờ so với chỉ nghe kể thật khác xa biết bao! Những căn phòng đại học yên lặng đã trôi xa, những cây du nước Anh đu đưa trong gió đã trôi xa, bầy quạ kêu la, từng rặng đá ngầm tương tự nhau, và ở đó nảy sinh ảo ảnh một đại dương vĩ đại thanh bình đang lấp lánh trong ánh sáng bàng bạc của vầng trăng tròn Phi Châu. Làn gió dịu dàng đong đầy cánh buồm to lớn của con tàu, kéo chúng tôi xuyên qua sóng nước như nhạc vỗ về hai bên mạn. Hầu hết mọi người đều đang ngủ phía trước, vì đã gần nửa đêm, nhưng một người Ả Rập to lớn đen sẫm tên là Mahomed đang đứng bên bánh lái, lười biếng đánh lái theo những vì sao. Cách mạn tàu ba dặm hoặc hơn là một đường mờ thấp. Đó là bờ Đông của Trung Phi. Chúng tôi đang chạy đến phía nam, trước khi gió mùa đông bắc về, giữa đất liền và những rặng san hô trải hàng trăm dặm viền quanh bờ biển nguy hiểm này. Đêm yên lặng, yên lặng đến mức lời thì thầm có thể nghe thấy từ trước lẫn sau con thuyền; yên lặng đến mức một âm thanh vang lên mờ nhạt từ vùng đất xa xôi cũng lăn dọc theo dòng nước tới chỗ chúng tôi.
Người Ả Rập trên khoang lái giơ tay lên và nói một từ: “Simba (Sư tử)!”
Tất cả chúng tôi ngồi dậy và lắng nghe. Lại một âm thanh oai phong lẫm liệt chậm rãi truyền đến khiến chúng tôi rùng mình tới tận xương tủy.
“Ngày mai lúc mười giờ,” Tôi nói, “nếu thuyền trưởng không tính toán được, mà bác nghĩ rất có thể thế, chúng ta phải tìm một tảng đá kỳ bí hình đầu người, và bắt đầu cuộc săn bắn.”
“Và bắt đầu cuộc tìm kiếm thành phố bị phá hủy và Ngọn Lửa của Sự Sống,” Leo sửa lại, đưa cái tẩu khỏi miệng cậu ấy và mỉm cười.
“Vớ vẩn!” Tôi trả lời. “Cháu đã phô trương tiếng Ả Rập với anh chàng ở khoang lái kia chiều nay rồi. Anh ta nói gì với cháu thế? Anh ta đã buôn bán (có lẽ buôn bán nô lệ) trên và dưới những vĩ độ này suốt một nửa cuộc đời tội lỗi của mình rồi, và đã từng đến tảng đá giống “con người” này. Anh ta có từng nghe gì về thành phố bị phá hủy hay các hang động không?”
“Không,” Leo trả lời. “Anh ấy nói đất nước này tất cả đều trong bùn lầy, đầy rắn, đặc biệt là trăn lớn, và chỉ để chơi giải trí, không ai sống ở đó. Nhưng có một vành đai của vùng đầm lầy dọc theo bờ biển Đông Phi, nhưng không đi nhiều.”
“Được,” Tôi nói, “Tới đó – tới đó với sốt rét đi. Cháu xem đúng là loại quan điểm mà mọi quý tộc của đất nước đều có đấy. Chẳng ai trong số họ đi với chúng ta cả. Họ nghĩ chúng ta bị điên, theo bác họ đúng đấy. Nếu chúng ta còn có thể nhìn thấy nước Anh già nua một lần nữa, bác sẽ rất ngạc nhiên đấy. Nhưng đó cũng không phải là vấn đề lớn với bác ở tuổi này, nhưng bác lo cho cháu, Leo, và cho Job. Đây là công việc của Tom Fool, chàng trai ạ.”
“Được rồi, bác Horace. Cháu đã được quan tâm đủ nhiều rồi, cháu sẽ nắm lấy cơ hội của mình. Nhìn kìa! Đám mây kia là gì thế?” cậu chỉ lên một đốm đen trên bầu trời đầy sao, sau tàu chúng tôi vài dặm.
“Hãy đi mà hỏi anh chàng trong khoang lái ấy”, tôi nói.
Cậu ấy đứng dậy, vươn dài cánh tay, và đi. Hiện tại cậu đã trở lại.
“Anh ấy nói đó là một trận cuồng phong, nhưng nó sẽ đi qua khá xa bên mạn chúng ta.”
Ngay sau đó Job đi lên, trông rất mạnh mẽ và đúng kiểu Anh trong bộ đồ săn bắn bằng nỉ màu nâu, và xuất hiện một nét bối rối trên khuôn mặt tròn lương thiện đã trở thành rất quen thuộc kể từ lúc anh ta vào vùng biển lạ.
“Thưa ngài,” anh ấy nói, chạm vào cái mũ có hình mặt trời được dính sau đầu mang vẻ khôi hài, “vì chúng ta đã có đủ súng ống và mọi thứ trong thuyền cá voi phía sau rồi, không nói gì đến đồ tiếp tế trong các tủ nhỏ, tôi nghĩ tốt nhất tôi nên xuống và ngủ ở đó. Tôi không thích dáng vẻ (đến đây anh ta hạ giọng như một lời thì thầm lạ lùng) của những quý tộc đen này; họ có nhiều cách ăn cắp chúng rất tài tình. Giả sử giờ ai đó trong số họ lẻn vào trong thuyền ban đêm và cắt đứt dây cáp, rồi ra đi với con thuyền đó thì sao? Chuyện đó sẽ rất rắc rối đấy.”
Tôi có thể giải thích, thuyền cá voi là một cái thuyền đặc biệt đóng cho chúng tôi ở Dundee, Scotland. Chúng tôi đã mang nó theo khi biết bờ biển này là một mạng chằng chịt kênh rạch, chúng tôi có lẽ đã yêu cầu một cái gì đó để điều hướng. Cái thuyền đó rất đẹp, dài ba mươi feet, với một khoang trung tâm để căng buồm, đáy bằng đồng để giữ phần đai ốc gắn với nó, và đầy đủ các ngăn chống thấm. Thuyền trưởng của con tàu lớn đã nói với chúng tôi rằng, khi chúng tôi đến được tảng đá mà anh ta biết - tảng đá dường như giống hệt lời mô tả trên mảnh gốm và của bố Leo – anh ta chắc không có khả năng chạy đến tận nơi vì vùng đó nước nông và sóng mạnh. Do đó chúng tôi đã làm việc ba tiếng sáng sớm hôm đó, hoàn toàn không gây tiếng động, gió giảm dần lúc bình minh, để chuyển hầu hết hàng hóa và các vật sở hữu của chúng tôi sang thuyền cá voi, rồi đặt súng, đạn dược, và đồ tiếp tế được bảo quản trong các tủ chống thấm được đặc biệt chuẩn bị, cứ thế khi chúng tôi nhìn thấy tảng đá trong truyền thuyết, chúng tôi không còn gì để làm ngoài việc đặt chân lên thuyền và cho nó chạy vào bờ. Lý do khác khiến chúng tôi có bước phòng ngừa này là các thuyền trưởng Ả Rập thường rất giỏi cho tàu chạy qua điểm đã đánh dấu, có lẽ do bất cẩn hoặc một sai lầm trong bản sắc của họ. Bây giờ khi các thủy thủ đã biết, con tàu đó hoàn toàn không thể làm gì để gian lận trước khi gió mùa tới đập ngược lại nó. Còn chúng tôi đã có một con thuyền sẵn sàng băng qua đá bất kỳ lúc nào.
“Tốt lắm, Job,” Tôi nói, “có lẽ điều đó cũng có thể xảy ra. Có nhiều chăn ở đó, chỉ cần cẩn thận tránh ánh trăng, hay bọn chúng có thể xoay đầu cậu hoặc làm cậu không thấy gì đó.”
“Lạy Chúa, thưa ngài! Tôi không nghĩ có nhiều vấn đề thế; tưởng đã tránh khỏi tầm nhìn của bọn da đen và những trò trộm cắp bẩn thỉu của chúng rồi. Bọn chúng chỉ hợp với rác rưởi thôi; chúng đủ tồi tệ rồi.”
Job, theo cảm nhận, là người không ngưỡng mộ phong tục tập quán của những người anh em da đen của chúng ta.
Tiếp theo chúng tôi kéo con thuyền lên bằng sợi dây cho đến khi nó nằm đúng ngay dưới đuôi của chiếc tàu lớn, và Job đóng gói theo một bao tải khoai tây vào trong đó. Rồi chúng tôi trở lại, ngồi xuống boong tàu, hút thuốc và nói chuyện trong những cơn gió giật. Màn đêm thật đáng yêu, bộ não chúng tôi đầy phấn khích bị đè nén dưới dạng này hay dạng khác, mà chúng tôi không cảm thấy cần thu lại. Gần một tiếng đồng hồ ngồi như vậy, tôi nghĩ cả hai đã ngủ gật. Ít ra tôi đang trong hồi tưởng mờ nhạt về Leo ngái ngủ giải thích cái đầu không phải chỗ tệ lắm để đâm vào một con bò rừng, nếu anh có thể tóm được nó chính xác giữa hai cái sừng, hay bắn đạn vào cổ nó, hay là làm hành động nào đó vô nghĩa kiểu thế.
Sau đó tôi không nhớ nữa; cho đến khi đột ngột – một tiếng gào ghê sợ của gió, và tiếng thét kinh hoàng từ thủy thủ đoàn đã thức giấc, một cái vòi nước như cái roi ngay trên mặt chúng tôi. Vài người chạy tới đống dây leo để hạ buồm, nhưng thùng kẹt và trục căng buồm không thể đi xuống. Tôi nhảy mạnh lên và treo trên một sợi dây thừng. Bầu trời phía sau đen như hắc ín, nhưng mặt trăng vẫn chiếu sáng lấp lánh trước mặt chúng tôi và soi rọi không gian tối đen. Dưới ánh trăng, một con sóng bạc đầu hùng vĩ, cao hai mươi feet hoặc hơn thế, đang xô về phía chúng tôi. Đó là vào khoảng nghỉ - mặt trăng tỏa sáng trên đỉnh sóng, bọt nước nghiêng nghiêng dưới ánh trăng. Phía trên nó, xô đẩy dưới bầu trời đen như mực, cuồng phong khủng khiếp đang vần vũ. Đột nhiên, trong một nháy mắt, tôi thấy hình dạng màu đen của chiếc thuyền cá voi bị ném lên cao vào không khí, ngay trên đỉnh ngọn sóng đang vỡ ra. Sau đó – một cú sốc nước, đống bọt sôi sục cuốn xô một cách điên dại, tôi đang giữ lấy mạng sống cho tấm vải niệm, được rồi, thế là đã bị quét thẳng ra khỏi đó như lá cờ trong cơn gió mạnh.
Chúng tôi bị đánh dạt xuống đuôi tàu.
Con sóng đã đi qua. Với tôi, dường như mới ở dưới nước vài phút – thực tế là vài giây. Tôi nhìn về phía trước. Luồng gió đã xé tan cánh buồm lớn, trên cao giữa không trung, nó bị gió rung và thổi tung như một con chim lớn bị thương. Một khoảnh khắc sau tương đối yên tĩnh, tôi nghe tiếng Job la hét dữ dội, “Tới chỗ con thuyền ngay.”
Hoang mang và như sắp chết đuối, tôi có cảm giác vội vã phía sau. Tôi cảm thấy con tàu lớn đang nhấn chìm tôi – nó đầy nước. Dưới đuôi tàu, chiếc thuyền cá voi đang tung lên giận dữ, và tôi nhìn thấy anh chàng Ả Rập Mahomed, người đang chỉ đạo, nhảy vào nó. Tôi kéo chiếc dây thừng một cách tuyệt vọng để đưa thuyền về bên cạnh. Tôi cũng điên cuồng nhảy lên, Job dùng tay bắt lấy tôi, rồi tôi lăn vào đáy thuyền. Con tàu lớn dần chìm xuống toàn bộ, còn Mahomed lấy cái dao quắm của anh ta ra cắt đứt sợi dây thừng, nhờ đó con thuyền đi nhanh hơn, trong một giây thôi, chúng tôi đã đi kịp trước khi cơn bão tràn qua nơi con thuyền đang đứng.
“Lạy Chúa!” Tôi rít lên, “Leo đâu rồi? Leo! Leo!”
“Cậu ấy đã đi rồi, thưa ngài, Chúa phù hộ cậu ấy!” Job gào lên bên tai tôi; trận cuồng phong giận dữ như thế mà giọng anh ta chỉ như một lời thì thầm.
Tôi siết chặt đôi tay trong đau đớn. Leo bị chết đuối, còn tôi lại sống để tang cậu ấy.
“Coi chừng,” Job hét lên; “Cái nữa đang đến đây”.
Tôi quay lại; con sóng hùng vĩ thứ hai đang vượt qua chúng tôi. Tôi nửa hy vọng nó có thể làm tôi chết đuối. Với đam mê tò mò tôi muốn xem cuộc đời khủng khiếp của nó. Mặt trăng giờ gần như đã bị che khuất bởi những đám mây cuồn cuộn của cơn bão vội vã, nhưng một chút ánh sáng vẫn bắt được đỉnh của con sóng đang ngấu nghiến. Có cái gì đó tối đen trên nó – một mảnh đổ nát. Giờ đây chỗ chúng tôi, con thuyền gần như đầy nước. Nhưng nó được tạo bằng chất chống thấm – Thượng Đế hãy ban phước cho người đã phát minh ra nó! – và nổi lên như một con thiên nga. Qua đám bọt bẩn tôi thấy thứ đen ngòm trên con sóng lao ngay vào tôi. Tôi đưa cánh tay phải ra để tránh nó, tay tôi đập vào một cái tay khác, cổ tay của nó bị những ngón tay tôi nắm chặt như trêu cợt. Tôi là một người rất khỏe, đã giữ được cái đó lại, nhưng cánh tay tôi gần như bị rách khỏi cơ thể vì căng và trọng lượng của cơ thể nổi. Nếu kéo dài thêm hai giây nữa thôi, có lẽ tôi đã đi đời hay bị cuốn theo nó. Nhưng nó đã đi qua rồi, bỏ lại chúng tôi với đầu gối ngập trong nước.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job hét lên, hành động lập tức theo lời nói.
Nhưng tôi không thể tát nổi nữa, đến khi mặt trăng đi mất và hoàn toàn bỏ lại chúng tôi trong bóng tối, một dải sáng bay bổng mờ nhạt chiếu trên gương mặt người đàn ông tôi đang nắm chặt, giờ người đó đang nửa nằm, nửa nổi trong đáy thuyền.
Đó là Leo. Leo được sóng mang trở lại – trở lại, chết hay sống, từ quai hàm Thần Chết.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job gào hét, “hoặc là chúng ta sẽ chìm đấy.”
Tôi nắm lấy một bát thiếc lớn với quai móc đã được gắn cứng dưới một trong những cái ghế. Và cả ba chúng tôi hì hục tát nước ra vì sự sống thân yêu. Cơn bão điên cuồng đi tới và quay vòng chúng tôi, ve vuốt chiếc thuyền cách này hay cách khác, gió và những đám mây bão cuồn cuộn cùng với cả đám bụi nước châm đốt làm chúng tôi không nhìn thấy gì và hoang mang, nhưng chính vì thế chúng tôi làm việc như ma quỷ bằng cả lòng hăng hái như điên dại của nỗi tuyệt vọng, vì thậm chí tuyệt vọng vẫn có thể hăng hái. Một phút! Ba phút! Sáu phút! Con thuyền trở nên nhẹ dần, không còn con sóng nào tràn vào trong khoang. Thêm năm phút nữa, nó đã khá sạch sẽ. Rồi bỗng nhiên, bên trên những tiếng thét khủng khiếp của cơn bão, một tiếng gầm sâu hơn, nhẹ hơn truyền đến. Lạy Chúa! Đó là tiếng sóng!
Vào lúc mặt trăng bắt đầu chiếu sáng trở lại – lần này phía sau đường đi của trận cuồng phong. Ngoài xa trên ngực rách nát của đại dương bắn lên những vòng sáng rách rưới, và ở đó, nửa dặm phía trước chúng tôi, là một dòng bọt trắng, rồi một không gian đen ngòm đang mở miệng, rồi lại một dòng bọt trắng nữa. Đó là sóng, và tiếng gầm của chúng tăng lên càng lúc càng rõ như thể chúng tôi đang lao xuống chúng như một con én. Chúng ở đó, sôi sục trong đống vòi phun như tuyết trắng, đánh và nghiền nhau như hàm răng bóng loáng của địa ngục.
“Cầm lái đi, Mahomed!” Tôi gào lên bằng tiếng Ả Rập. “Chúng ta phải cố lên và hạ chúng.”  Cùng lúc đó, tôi nắm lấy một mái chèo, đưa nó ra, rồi ra hiệu cho Job làm như vậy.
Mahomed chèo phía sau và giữ bánh lái, còn Job – thi thoảng kéo đẩy cái thùng trên trục cam – chật vật đưa mái chèo ra. Một phút sau đầu con thuyền đã lao thẳng vào đống bọt đó, liều mạng và xé gió với tốc độ của một con ngựa đua. Ngay phía trước chúng tôi lớp sóng đầu tiên có vẻ mỏng hơn so với lớp bên phải hay bên trái – có một bao nước khá sâu. Tôi xoay người và chỉ vào nó.
“Hãy lái vì mạng sống của cậu, Mahomed!” Tôi hét lên. Anh ta là một lái tàu khéo léo, và rất quen thuộc với những nguy hiểm của bờ biển khủng khiếp này, tôi thấy anh ta bám chặt tay lái, uốn thân hình nặng nề của anh ta về phía trước, nhìn chằm chằm vào đám khủng bố sôi bọt tới khi đôi mắt tròn to của anh ta như thể sắp rời khỏi đầu. Đầu thuyền bị lái vòng sang phải. Nếu chúng tôi lao vào lớp sóng năm mươi mét về mạn phải của lỗ hổng, chúng tôi sẽ chìm. Đây là một cánh đồng hùng vĩ của những con sóng phun trào xoắn cuộn chằng chịt. Mahomed chống chân vào cái ghế phía trước, và liếc nhìn anh ta, tôi thấy những ngón chân màu nâu xòe ra như bàn tay do khối lượng đặt trên đó khi anh ta giữ căng bánh lái. Con thuyền đi vòng một chút, nhưng không đủ. Tôi hét lên với Job vì nước trở lại, trong khi vẫn đang kéo mái chèo cật lực. Con thuyền phản ứng lại ngay, không gì quá sớm.
Trời, chúng tôi đang ở giữa chúng! Sau đó là vài phút phấn khích đến vỡ tim mà tôi không hy vọng mô tả. Tất cả những gì tôi nhớ là biển bọt gầm lên, bên ngoài nó sóng to dâng lên ở đây, ở kia, và ở khắp mọi nơi như đám ma quỉ từ nấm mồ đại dương đang trả thù. Khi chúng tôi xoay sang vòng phải, nhưng cũng có thể do may mắn hoặc do cú bẻ lái điêu luyện của Mahomed, đầu con thuyền thẳng trở lại trước khi con sóng xô tới chúng tôi. Một lần nữa – một con quái vật. Chúng tôi đi xuyên qua nó hay đi trên nó – xuyên qua hơn là trên nó – rồi với một tiếng thét hoang dại hân hoan của anh chàng Ả Rập, chúng tôi bắn vào vùng nước tương đối êm đềm ở cửa biển giữa tầng tầng lớp lớp sóng như hàm răng.
Con thuyền gần như đầy ngập nước trở lại, và hơn một dặm phía trước là lớp sóng to thứ hai. Chúng tôi đặt lại và tát nước điên cuồng. May thay cơn bão giờ đã hoàn toàn biến mất, mặt trăng chiếu sáng rực rỡ, để lộ một mũi đất bằng đá chạy dài hơn nửa dặm hướng xuống biển, nơi đó lớp sóng thứ hai đang tiếp tục xuất hiện. Bất cứ giá nào quan chân sóng cũng sôi sục. Có lẽ sườn núi hình thành nên mũi đất chạy ra phía đại dương, chỉ ở mức thấp hơn, cũng tạo thành rặng san hô. Mũi đất này kết thúc bởi một đỉnh cao kỳ lạ không giống như chỉ cách chúng tôi một dặm. Ngay khi chúng tôi làm sạch con thuyền lần thứ hai, Leo, cứu trợ to lớn của tôi, mở mắt và nhận ra quần áo tả tơi bị cuốn khỏi giường, cậu ấy cho là đã đến lúc chuẩn bị vào nhà nguyện. Tôi bảo cậu ấy nhắm mắt lại và im lặng, trong khi cậu ấy không nhận ra vị trí dù nhỏ nhất. Đối với bản thân mình, ý tưởng nhà nguyện của cậu ấy làm tôi nhớ đến căn phòng thoải mái của tôi ở Cambridge bằng loại khao khát bệnh tật. Tại sao tôi lại ngu ngốc đến mức rời bỏ nó? Loại suy nghĩ này từ đó lặp lại nhiều lần và không ngừng tăng lên mạnh mẽ.
Nhưng giờ chúng tôi lại đang trôi dần tới những con sóng to, dù tốc độ đã giảm đi vì gió đã giảm, chỉ dòng hải lưu hay thủy triều (sau đó hóa ra đó là thủy triều) đang đẩy chúng tôi đi.
Phút nữa trôi qua, bằng tiếng tru gửi tới Allah của anh chàng Ả Rập, lời cầu nguyện ngoan đạo của bản thân tôi, và lời nào đó không thành kính từ Job, chúng tôi bắt đầu đối mặt với chúng. Toàn cảnh sau đó lặp lại, cuối cùng chúng tôi cũng thoát ra được, chỉ là không quá dữ dội. Kỹ năng lái thuyền tài ba của Mahomed và vật liệu chống thấm đã cứu mạng chúng tôi. Trong vòng năm phút chúng tôi đã đi xuyên qua đó, rồi trôi dạt – vì tất cả đã kiệt sức, không thể làm bất kỳ việc gì để giúp chính mình trừ cố giữ đầu con thuyền thẳng lên – vòng qua mũi đất mà tôi đã mô tả nhanh một cách đáng ngạc nhiên.
Chúng tôi đi vòng qua nhờ thủy triều, cho đến khi ổn dưới mạn khuất gió, đột nhiên tốc độ chùng xuống, chúng tôi dừng đi và cuối cùng có vẻ như đang ở vùng nước bất động. Cơn bão hoàn toàn kết thúc, để lại bầu trời được gột rửa sạch sẽ phía sau; mũi đất chặn vùng biển nặng nề vì thường xuyên xuất hiện cuồng phong này, thủy triều nơi dòng sông hung tợn đang chảy (vì giờ chúng tôi đang ở cửa sông) đang lờ đờ trước khi nó quay trở lại, vì thế thuyền chúng tôi trôi lặng lẽ, trước khi mặt trăng lặn phải tát hết nước ra để nó giống một con tàu nhỏ. Leo đang ngủ say, nói chung tôi nghĩ khôn ngoan nhất là đừng đánh thức cậu ấy. Thực ra cậu ấy đang ngủ trong quần áo ướt nhẹp, nhưng ban đêm đang ấm áp đến mức tôi (và cả Job) nghĩ không nên làm tổn thương con người vốn dĩ thể chất tráng kiện phi thường của cậu ấy. Hơn thế, chúng tôi không có ai khô ráo cả.
Hiện tại mặt trăng đã lặn, để lại chúng tôi nổi trên mặt nước, nặng nề như ngực phụ nữ, giải trí bằng cách nghĩ lại tất cả những gì chúng tôi đã đi qua và thoát khỏi. Job ngồi ở mũi tàu, Mahomed giữ chốt ở tay lái, còn tôi ngồi trên chiếc ghế giữa thuyền gần chỗ Leo nằm.
Mặt trăng chậm rãi đi xuống trong vẻ đẹp bị kiềm chế; con thuyền trôi đi như cô dâu ngọt ngào vào phòng ngủ, bóng tối như bức màn dài treo trên bầu trời, xuyên qua nó các vì sao bẽn lẽn nhìn trộm. Tuy nhiên ngay sau đó, chúng bắt đầu mờ nhạt trước vẻ huy hoàng từ phương đông, rồi bước chân run rẩy của bình minh ùa ra trong màu xanh lam mơn mởn, giũ các vì sao trên cao ra khỏi chỗ. Biển trở nên càng lúc càng yên tĩnh, yên tĩnh như hạt sương mềm mại nghiền ngẫm trên ngực con thuyền, bao phủ lên nỗi phiền muộn của nó, như những vòng ảo ảnh mơ màng sinh ra trong tâm trí đầy đau thương, khiến nó quên đi nỗi buồn. Từ đông sang tây các thiên sứ của Bình Minh lao nhanh đến, từ biển tới biển, từ đỉnh núi tới đỉnh núi, rải đầy ánh sáng bằng hai bàn tay. Các thiên sứ vụt ra khỏi bóng tối, hoàn hảo, vinh quang, như những linh hồn vừa thoát khỏi nấm mồ; vượt qua biển yên tĩnh, qua đường bờ biển thấp, qua đầm lầy, và núi non phía trước chúng; vượt qua những ai đang ngủ trong hòa bình và những ai thức dậy trong muộn phiền; vượt qua xấu xa và tốt đẹp; vượt qua sự sống và cái chết; vượt qua thế giới rộng lớn và tất cả những gì đang thở hay đã thở.
Đó là một cảnh tuyệt đẹp, nhưng buồn, có lẽ, vì là tột cùng của cái đẹp. Mặt trời mọc; mặt trời lặn! Ở đó chúng ta có biểu tượng, giống loài, và tất cả những thứ nhân loại phải làm với nó. Biểu tượng và loài, phải, khởi đầu thuộc về trái đất, kết thúc cũng thế. Buổi sáng hôm đó nó về nhà cùng tôi với sức mạnh đặc biệt. Mặt trời mọc hôm đó vì chúng tôi giờ đã lặn đêm qua vì mười tám người đồng thám hiểm của chúng tôi! – đã lặn vĩnh viễn vì mười tám người mà chúng tôi biết!
Con tàu lớn đã đi xuống với họ, họ đang lăn lộn giữa những tảng đá và rong biển, quá nhiều người đã trôi dạt trên đại dương mênh mông của Thần Chết này! Bốn người chúng tôi được cứu thoát. Nhưng một ngày nào đó bình minh sẽ đến khi chúng tôi nằm giữa những người đã mất, còn người khác nhìn những vinh quang đó, sẽ thấy buồn bã giữa cái đẹp, mơ về Thần Chết trong ánh sáng tràn đầy của Sự Sống đang trỗi dậy!
Vì đó là vận mệnh của con người.

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...