Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 4


CHƯƠNG 4

Cuồng Phong
Khung cảnh tôi phải nói bây giờ so với chỉ nghe kể thật khác xa biết bao! Những căn phòng đại học yên lặng đã trôi xa, những cây du nước Anh đu đưa trong gió đã trôi xa, bầy quạ kêu la, từng rặng đá ngầm tương tự nhau, và ở đó nảy sinh ảo ảnh một đại dương vĩ đại thanh bình đang lấp lánh trong ánh sáng bàng bạc của vầng trăng tròn Phi Châu. Làn gió dịu dàng đong đầy cánh buồm to lớn của con tàu, kéo chúng tôi xuyên qua sóng nước như nhạc vỗ về hai bên mạn. Hầu hết mọi người đều đang ngủ phía trước, vì đã gần nửa đêm, nhưng một người Ả Rập to lớn đen sẫm tên là Mahomed đang đứng bên bánh lái, lười biếng đánh lái theo những vì sao. Cách mạn tàu ba dặm hoặc hơn là một đường mờ thấp. Đó là bờ Đông của Trung Phi. Chúng tôi đang chạy đến phía nam, trước khi gió mùa đông bắc về, giữa đất liền và những rặng san hô trải hàng trăm dặm viền quanh bờ biển nguy hiểm này. Đêm yên lặng, yên lặng đến mức lời thì thầm có thể nghe thấy từ trước lẫn sau con thuyền; yên lặng đến mức một âm thanh vang lên mờ nhạt từ vùng đất xa xôi cũng lăn dọc theo dòng nước tới chỗ chúng tôi.
Người Ả Rập trên khoang lái giơ tay lên và nói một từ: “Simba (Sư tử)!”
Tất cả chúng tôi ngồi dậy và lắng nghe. Lại một âm thanh oai phong lẫm liệt chậm rãi truyền đến khiến chúng tôi rùng mình tới tận xương tủy.
“Ngày mai lúc mười giờ,” Tôi nói, “nếu thuyền trưởng không tính toán được, mà bác nghĩ rất có thể thế, chúng ta phải tìm một tảng đá kỳ bí hình đầu người, và bắt đầu cuộc săn bắn.”
“Và bắt đầu cuộc tìm kiếm thành phố bị phá hủy và Ngọn Lửa của Sự Sống,” Leo sửa lại, đưa cái tẩu khỏi miệng cậu ấy và mỉm cười.
“Vớ vẩn!” Tôi trả lời. “Cháu đã phô trương tiếng Ả Rập với anh chàng ở khoang lái kia chiều nay rồi. Anh ta nói gì với cháu thế? Anh ta đã buôn bán (có lẽ buôn bán nô lệ) trên và dưới những vĩ độ này suốt một nửa cuộc đời tội lỗi của mình rồi, và đã từng đến tảng đá giống “con người” này. Anh ta có từng nghe gì về thành phố bị phá hủy hay các hang động không?”
“Không,” Leo trả lời. “Anh ấy nói đất nước này tất cả đều trong bùn lầy, đầy rắn, đặc biệt là trăn lớn, và chỉ để chơi giải trí, không ai sống ở đó. Nhưng có một vành đai của vùng đầm lầy dọc theo bờ biển Đông Phi, nhưng không đi nhiều.”
“Được,” Tôi nói, “Tới đó – tới đó với sốt rét đi. Cháu xem đúng là loại quan điểm mà mọi quý tộc của đất nước đều có đấy. Chẳng ai trong số họ đi với chúng ta cả. Họ nghĩ chúng ta bị điên, theo bác họ đúng đấy. Nếu chúng ta còn có thể nhìn thấy nước Anh già nua một lần nữa, bác sẽ rất ngạc nhiên đấy. Nhưng đó cũng không phải là vấn đề lớn với bác ở tuổi này, nhưng bác lo cho cháu, Leo, và cho Job. Đây là công việc của Tom Fool, chàng trai ạ.”
“Được rồi, bác Horace. Cháu đã được quan tâm đủ nhiều rồi, cháu sẽ nắm lấy cơ hội của mình. Nhìn kìa! Đám mây kia là gì thế?” cậu chỉ lên một đốm đen trên bầu trời đầy sao, sau tàu chúng tôi vài dặm.
“Hãy đi mà hỏi anh chàng trong khoang lái ấy”, tôi nói.
Cậu ấy đứng dậy, vươn dài cánh tay, và đi. Hiện tại cậu đã trở lại.
“Anh ấy nói đó là một trận cuồng phong, nhưng nó sẽ đi qua khá xa bên mạn chúng ta.”
Ngay sau đó Job đi lên, trông rất mạnh mẽ và đúng kiểu Anh trong bộ đồ săn bắn bằng nỉ màu nâu, và xuất hiện một nét bối rối trên khuôn mặt tròn lương thiện đã trở thành rất quen thuộc kể từ lúc anh ta vào vùng biển lạ.
“Thưa ngài,” anh ấy nói, chạm vào cái mũ có hình mặt trời được dính sau đầu mang vẻ khôi hài, “vì chúng ta đã có đủ súng ống và mọi thứ trong thuyền cá voi phía sau rồi, không nói gì đến đồ tiếp tế trong các tủ nhỏ, tôi nghĩ tốt nhất tôi nên xuống và ngủ ở đó. Tôi không thích dáng vẻ (đến đây anh ta hạ giọng như một lời thì thầm lạ lùng) của những quý tộc đen này; họ có nhiều cách ăn cắp chúng rất tài tình. Giả sử giờ ai đó trong số họ lẻn vào trong thuyền ban đêm và cắt đứt dây cáp, rồi ra đi với con thuyền đó thì sao? Chuyện đó sẽ rất rắc rối đấy.”
Tôi có thể giải thích, thuyền cá voi là một cái thuyền đặc biệt đóng cho chúng tôi ở Dundee, Scotland. Chúng tôi đã mang nó theo khi biết bờ biển này là một mạng chằng chịt kênh rạch, chúng tôi có lẽ đã yêu cầu một cái gì đó để điều hướng. Cái thuyền đó rất đẹp, dài ba mươi feet, với một khoang trung tâm để căng buồm, đáy bằng đồng để giữ phần đai ốc gắn với nó, và đầy đủ các ngăn chống thấm. Thuyền trưởng của con tàu lớn đã nói với chúng tôi rằng, khi chúng tôi đến được tảng đá mà anh ta biết - tảng đá dường như giống hệt lời mô tả trên mảnh gốm và của bố Leo – anh ta chắc không có khả năng chạy đến tận nơi vì vùng đó nước nông và sóng mạnh. Do đó chúng tôi đã làm việc ba tiếng sáng sớm hôm đó, hoàn toàn không gây tiếng động, gió giảm dần lúc bình minh, để chuyển hầu hết hàng hóa và các vật sở hữu của chúng tôi sang thuyền cá voi, rồi đặt súng, đạn dược, và đồ tiếp tế được bảo quản trong các tủ chống thấm được đặc biệt chuẩn bị, cứ thế khi chúng tôi nhìn thấy tảng đá trong truyền thuyết, chúng tôi không còn gì để làm ngoài việc đặt chân lên thuyền và cho nó chạy vào bờ. Lý do khác khiến chúng tôi có bước phòng ngừa này là các thuyền trưởng Ả Rập thường rất giỏi cho tàu chạy qua điểm đã đánh dấu, có lẽ do bất cẩn hoặc một sai lầm trong bản sắc của họ. Bây giờ khi các thủy thủ đã biết, con tàu đó hoàn toàn không thể làm gì để gian lận trước khi gió mùa tới đập ngược lại nó. Còn chúng tôi đã có một con thuyền sẵn sàng băng qua đá bất kỳ lúc nào.
“Tốt lắm, Job,” Tôi nói, “có lẽ điều đó cũng có thể xảy ra. Có nhiều chăn ở đó, chỉ cần cẩn thận tránh ánh trăng, hay bọn chúng có thể xoay đầu cậu hoặc làm cậu không thấy gì đó.”
“Lạy Chúa, thưa ngài! Tôi không nghĩ có nhiều vấn đề thế; tưởng đã tránh khỏi tầm nhìn của bọn da đen và những trò trộm cắp bẩn thỉu của chúng rồi. Bọn chúng chỉ hợp với rác rưởi thôi; chúng đủ tồi tệ rồi.”
Job, theo cảm nhận, là người không ngưỡng mộ phong tục tập quán của những người anh em da đen của chúng ta.
Tiếp theo chúng tôi kéo con thuyền lên bằng sợi dây cho đến khi nó nằm đúng ngay dưới đuôi của chiếc tàu lớn, và Job đóng gói theo một bao tải khoai tây vào trong đó. Rồi chúng tôi trở lại, ngồi xuống boong tàu, hút thuốc và nói chuyện trong những cơn gió giật. Màn đêm thật đáng yêu, bộ não chúng tôi đầy phấn khích bị đè nén dưới dạng này hay dạng khác, mà chúng tôi không cảm thấy cần thu lại. Gần một tiếng đồng hồ ngồi như vậy, tôi nghĩ cả hai đã ngủ gật. Ít ra tôi đang trong hồi tưởng mờ nhạt về Leo ngái ngủ giải thích cái đầu không phải chỗ tệ lắm để đâm vào một con bò rừng, nếu anh có thể tóm được nó chính xác giữa hai cái sừng, hay bắn đạn vào cổ nó, hay là làm hành động nào đó vô nghĩa kiểu thế.
Sau đó tôi không nhớ nữa; cho đến khi đột ngột – một tiếng gào ghê sợ của gió, và tiếng thét kinh hoàng từ thủy thủ đoàn đã thức giấc, một cái vòi nước như cái roi ngay trên mặt chúng tôi. Vài người chạy tới đống dây leo để hạ buồm, nhưng thùng kẹt và trục căng buồm không thể đi xuống. Tôi nhảy mạnh lên và treo trên một sợi dây thừng. Bầu trời phía sau đen như hắc ín, nhưng mặt trăng vẫn chiếu sáng lấp lánh trước mặt chúng tôi và soi rọi không gian tối đen. Dưới ánh trăng, một con sóng bạc đầu hùng vĩ, cao hai mươi feet hoặc hơn thế, đang xô về phía chúng tôi. Đó là vào khoảng nghỉ - mặt trăng tỏa sáng trên đỉnh sóng, bọt nước nghiêng nghiêng dưới ánh trăng. Phía trên nó, xô đẩy dưới bầu trời đen như mực, cuồng phong khủng khiếp đang vần vũ. Đột nhiên, trong một nháy mắt, tôi thấy hình dạng màu đen của chiếc thuyền cá voi bị ném lên cao vào không khí, ngay trên đỉnh ngọn sóng đang vỡ ra. Sau đó – một cú sốc nước, đống bọt sôi sục cuốn xô một cách điên dại, tôi đang giữ lấy mạng sống cho tấm vải niệm, được rồi, thế là đã bị quét thẳng ra khỏi đó như lá cờ trong cơn gió mạnh.
Chúng tôi bị đánh dạt xuống đuôi tàu.
Con sóng đã đi qua. Với tôi, dường như mới ở dưới nước vài phút – thực tế là vài giây. Tôi nhìn về phía trước. Luồng gió đã xé tan cánh buồm lớn, trên cao giữa không trung, nó bị gió rung và thổi tung như một con chim lớn bị thương. Một khoảnh khắc sau tương đối yên tĩnh, tôi nghe tiếng Job la hét dữ dội, “Tới chỗ con thuyền ngay.”
Hoang mang và như sắp chết đuối, tôi có cảm giác vội vã phía sau. Tôi cảm thấy con tàu lớn đang nhấn chìm tôi – nó đầy nước. Dưới đuôi tàu, chiếc thuyền cá voi đang tung lên giận dữ, và tôi nhìn thấy anh chàng Ả Rập Mahomed, người đang chỉ đạo, nhảy vào nó. Tôi kéo chiếc dây thừng một cách tuyệt vọng để đưa thuyền về bên cạnh. Tôi cũng điên cuồng nhảy lên, Job dùng tay bắt lấy tôi, rồi tôi lăn vào đáy thuyền. Con tàu lớn dần chìm xuống toàn bộ, còn Mahomed lấy cái dao quắm của anh ta ra cắt đứt sợi dây thừng, nhờ đó con thuyền đi nhanh hơn, trong một giây thôi, chúng tôi đã đi kịp trước khi cơn bão tràn qua nơi con thuyền đang đứng.
“Lạy Chúa!” Tôi rít lên, “Leo đâu rồi? Leo! Leo!”
“Cậu ấy đã đi rồi, thưa ngài, Chúa phù hộ cậu ấy!” Job gào lên bên tai tôi; trận cuồng phong giận dữ như thế mà giọng anh ta chỉ như một lời thì thầm.
Tôi siết chặt đôi tay trong đau đớn. Leo bị chết đuối, còn tôi lại sống để tang cậu ấy.
“Coi chừng,” Job hét lên; “Cái nữa đang đến đây”.
Tôi quay lại; con sóng hùng vĩ thứ hai đang vượt qua chúng tôi. Tôi nửa hy vọng nó có thể làm tôi chết đuối. Với đam mê tò mò tôi muốn xem cuộc đời khủng khiếp của nó. Mặt trăng giờ gần như đã bị che khuất bởi những đám mây cuồn cuộn của cơn bão vội vã, nhưng một chút ánh sáng vẫn bắt được đỉnh của con sóng đang ngấu nghiến. Có cái gì đó tối đen trên nó – một mảnh đổ nát. Giờ đây chỗ chúng tôi, con thuyền gần như đầy nước. Nhưng nó được tạo bằng chất chống thấm – Thượng Đế hãy ban phước cho người đã phát minh ra nó! – và nổi lên như một con thiên nga. Qua đám bọt bẩn tôi thấy thứ đen ngòm trên con sóng lao ngay vào tôi. Tôi đưa cánh tay phải ra để tránh nó, tay tôi đập vào một cái tay khác, cổ tay của nó bị những ngón tay tôi nắm chặt như trêu cợt. Tôi là một người rất khỏe, đã giữ được cái đó lại, nhưng cánh tay tôi gần như bị rách khỏi cơ thể vì căng và trọng lượng của cơ thể nổi. Nếu kéo dài thêm hai giây nữa thôi, có lẽ tôi đã đi đời hay bị cuốn theo nó. Nhưng nó đã đi qua rồi, bỏ lại chúng tôi với đầu gối ngập trong nước.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job hét lên, hành động lập tức theo lời nói.
Nhưng tôi không thể tát nổi nữa, đến khi mặt trăng đi mất và hoàn toàn bỏ lại chúng tôi trong bóng tối, một dải sáng bay bổng mờ nhạt chiếu trên gương mặt người đàn ông tôi đang nắm chặt, giờ người đó đang nửa nằm, nửa nổi trong đáy thuyền.
Đó là Leo. Leo được sóng mang trở lại – trở lại, chết hay sống, từ quai hàm Thần Chết.
“Tát nước ra! Tát nước ra!” Job gào hét, “hoặc là chúng ta sẽ chìm đấy.”
Tôi nắm lấy một bát thiếc lớn với quai móc đã được gắn cứng dưới một trong những cái ghế. Và cả ba chúng tôi hì hục tát nước ra vì sự sống thân yêu. Cơn bão điên cuồng đi tới và quay vòng chúng tôi, ve vuốt chiếc thuyền cách này hay cách khác, gió và những đám mây bão cuồn cuộn cùng với cả đám bụi nước châm đốt làm chúng tôi không nhìn thấy gì và hoang mang, nhưng chính vì thế chúng tôi làm việc như ma quỷ bằng cả lòng hăng hái như điên dại của nỗi tuyệt vọng, vì thậm chí tuyệt vọng vẫn có thể hăng hái. Một phút! Ba phút! Sáu phút! Con thuyền trở nên nhẹ dần, không còn con sóng nào tràn vào trong khoang. Thêm năm phút nữa, nó đã khá sạch sẽ. Rồi bỗng nhiên, bên trên những tiếng thét khủng khiếp của cơn bão, một tiếng gầm sâu hơn, nhẹ hơn truyền đến. Lạy Chúa! Đó là tiếng sóng!
Vào lúc mặt trăng bắt đầu chiếu sáng trở lại – lần này phía sau đường đi của trận cuồng phong. Ngoài xa trên ngực rách nát của đại dương bắn lên những vòng sáng rách rưới, và ở đó, nửa dặm phía trước chúng tôi, là một dòng bọt trắng, rồi một không gian đen ngòm đang mở miệng, rồi lại một dòng bọt trắng nữa. Đó là sóng, và tiếng gầm của chúng tăng lên càng lúc càng rõ như thể chúng tôi đang lao xuống chúng như một con én. Chúng ở đó, sôi sục trong đống vòi phun như tuyết trắng, đánh và nghiền nhau như hàm răng bóng loáng của địa ngục.
“Cầm lái đi, Mahomed!” Tôi gào lên bằng tiếng Ả Rập. “Chúng ta phải cố lên và hạ chúng.”  Cùng lúc đó, tôi nắm lấy một mái chèo, đưa nó ra, rồi ra hiệu cho Job làm như vậy.
Mahomed chèo phía sau và giữ bánh lái, còn Job – thi thoảng kéo đẩy cái thùng trên trục cam – chật vật đưa mái chèo ra. Một phút sau đầu con thuyền đã lao thẳng vào đống bọt đó, liều mạng và xé gió với tốc độ của một con ngựa đua. Ngay phía trước chúng tôi lớp sóng đầu tiên có vẻ mỏng hơn so với lớp bên phải hay bên trái – có một bao nước khá sâu. Tôi xoay người và chỉ vào nó.
“Hãy lái vì mạng sống của cậu, Mahomed!” Tôi hét lên. Anh ta là một lái tàu khéo léo, và rất quen thuộc với những nguy hiểm của bờ biển khủng khiếp này, tôi thấy anh ta bám chặt tay lái, uốn thân hình nặng nề của anh ta về phía trước, nhìn chằm chằm vào đám khủng bố sôi bọt tới khi đôi mắt tròn to của anh ta như thể sắp rời khỏi đầu. Đầu thuyền bị lái vòng sang phải. Nếu chúng tôi lao vào lớp sóng năm mươi mét về mạn phải của lỗ hổng, chúng tôi sẽ chìm. Đây là một cánh đồng hùng vĩ của những con sóng phun trào xoắn cuộn chằng chịt. Mahomed chống chân vào cái ghế phía trước, và liếc nhìn anh ta, tôi thấy những ngón chân màu nâu xòe ra như bàn tay do khối lượng đặt trên đó khi anh ta giữ căng bánh lái. Con thuyền đi vòng một chút, nhưng không đủ. Tôi hét lên với Job vì nước trở lại, trong khi vẫn đang kéo mái chèo cật lực. Con thuyền phản ứng lại ngay, không gì quá sớm.
Trời, chúng tôi đang ở giữa chúng! Sau đó là vài phút phấn khích đến vỡ tim mà tôi không hy vọng mô tả. Tất cả những gì tôi nhớ là biển bọt gầm lên, bên ngoài nó sóng to dâng lên ở đây, ở kia, và ở khắp mọi nơi như đám ma quỉ từ nấm mồ đại dương đang trả thù. Khi chúng tôi xoay sang vòng phải, nhưng cũng có thể do may mắn hoặc do cú bẻ lái điêu luyện của Mahomed, đầu con thuyền thẳng trở lại trước khi con sóng xô tới chúng tôi. Một lần nữa – một con quái vật. Chúng tôi đi xuyên qua nó hay đi trên nó – xuyên qua hơn là trên nó – rồi với một tiếng thét hoang dại hân hoan của anh chàng Ả Rập, chúng tôi bắn vào vùng nước tương đối êm đềm ở cửa biển giữa tầng tầng lớp lớp sóng như hàm răng.
Con thuyền gần như đầy ngập nước trở lại, và hơn một dặm phía trước là lớp sóng to thứ hai. Chúng tôi đặt lại và tát nước điên cuồng. May thay cơn bão giờ đã hoàn toàn biến mất, mặt trăng chiếu sáng rực rỡ, để lộ một mũi đất bằng đá chạy dài hơn nửa dặm hướng xuống biển, nơi đó lớp sóng thứ hai đang tiếp tục xuất hiện. Bất cứ giá nào quan chân sóng cũng sôi sục. Có lẽ sườn núi hình thành nên mũi đất chạy ra phía đại dương, chỉ ở mức thấp hơn, cũng tạo thành rặng san hô. Mũi đất này kết thúc bởi một đỉnh cao kỳ lạ không giống như chỉ cách chúng tôi một dặm. Ngay khi chúng tôi làm sạch con thuyền lần thứ hai, Leo, cứu trợ to lớn của tôi, mở mắt và nhận ra quần áo tả tơi bị cuốn khỏi giường, cậu ấy cho là đã đến lúc chuẩn bị vào nhà nguyện. Tôi bảo cậu ấy nhắm mắt lại và im lặng, trong khi cậu ấy không nhận ra vị trí dù nhỏ nhất. Đối với bản thân mình, ý tưởng nhà nguyện của cậu ấy làm tôi nhớ đến căn phòng thoải mái của tôi ở Cambridge bằng loại khao khát bệnh tật. Tại sao tôi lại ngu ngốc đến mức rời bỏ nó? Loại suy nghĩ này từ đó lặp lại nhiều lần và không ngừng tăng lên mạnh mẽ.
Nhưng giờ chúng tôi lại đang trôi dần tới những con sóng to, dù tốc độ đã giảm đi vì gió đã giảm, chỉ dòng hải lưu hay thủy triều (sau đó hóa ra đó là thủy triều) đang đẩy chúng tôi đi.
Phút nữa trôi qua, bằng tiếng tru gửi tới Allah của anh chàng Ả Rập, lời cầu nguyện ngoan đạo của bản thân tôi, và lời nào đó không thành kính từ Job, chúng tôi bắt đầu đối mặt với chúng. Toàn cảnh sau đó lặp lại, cuối cùng chúng tôi cũng thoát ra được, chỉ là không quá dữ dội. Kỹ năng lái thuyền tài ba của Mahomed và vật liệu chống thấm đã cứu mạng chúng tôi. Trong vòng năm phút chúng tôi đã đi xuyên qua đó, rồi trôi dạt – vì tất cả đã kiệt sức, không thể làm bất kỳ việc gì để giúp chính mình trừ cố giữ đầu con thuyền thẳng lên – vòng qua mũi đất mà tôi đã mô tả nhanh một cách đáng ngạc nhiên.
Chúng tôi đi vòng qua nhờ thủy triều, cho đến khi ổn dưới mạn khuất gió, đột nhiên tốc độ chùng xuống, chúng tôi dừng đi và cuối cùng có vẻ như đang ở vùng nước bất động. Cơn bão hoàn toàn kết thúc, để lại bầu trời được gột rửa sạch sẽ phía sau; mũi đất chặn vùng biển nặng nề vì thường xuyên xuất hiện cuồng phong này, thủy triều nơi dòng sông hung tợn đang chảy (vì giờ chúng tôi đang ở cửa sông) đang lờ đờ trước khi nó quay trở lại, vì thế thuyền chúng tôi trôi lặng lẽ, trước khi mặt trăng lặn phải tát hết nước ra để nó giống một con tàu nhỏ. Leo đang ngủ say, nói chung tôi nghĩ khôn ngoan nhất là đừng đánh thức cậu ấy. Thực ra cậu ấy đang ngủ trong quần áo ướt nhẹp, nhưng ban đêm đang ấm áp đến mức tôi (và cả Job) nghĩ không nên làm tổn thương con người vốn dĩ thể chất tráng kiện phi thường của cậu ấy. Hơn thế, chúng tôi không có ai khô ráo cả.
Hiện tại mặt trăng đã lặn, để lại chúng tôi nổi trên mặt nước, nặng nề như ngực phụ nữ, giải trí bằng cách nghĩ lại tất cả những gì chúng tôi đã đi qua và thoát khỏi. Job ngồi ở mũi tàu, Mahomed giữ chốt ở tay lái, còn tôi ngồi trên chiếc ghế giữa thuyền gần chỗ Leo nằm.
Mặt trăng chậm rãi đi xuống trong vẻ đẹp bị kiềm chế; con thuyền trôi đi như cô dâu ngọt ngào vào phòng ngủ, bóng tối như bức màn dài treo trên bầu trời, xuyên qua nó các vì sao bẽn lẽn nhìn trộm. Tuy nhiên ngay sau đó, chúng bắt đầu mờ nhạt trước vẻ huy hoàng từ phương đông, rồi bước chân run rẩy của bình minh ùa ra trong màu xanh lam mơn mởn, giũ các vì sao trên cao ra khỏi chỗ. Biển trở nên càng lúc càng yên tĩnh, yên tĩnh như hạt sương mềm mại nghiền ngẫm trên ngực con thuyền, bao phủ lên nỗi phiền muộn của nó, như những vòng ảo ảnh mơ màng sinh ra trong tâm trí đầy đau thương, khiến nó quên đi nỗi buồn. Từ đông sang tây các thiên sứ của Bình Minh lao nhanh đến, từ biển tới biển, từ đỉnh núi tới đỉnh núi, rải đầy ánh sáng bằng hai bàn tay. Các thiên sứ vụt ra khỏi bóng tối, hoàn hảo, vinh quang, như những linh hồn vừa thoát khỏi nấm mồ; vượt qua biển yên tĩnh, qua đường bờ biển thấp, qua đầm lầy, và núi non phía trước chúng; vượt qua những ai đang ngủ trong hòa bình và những ai thức dậy trong muộn phiền; vượt qua xấu xa và tốt đẹp; vượt qua sự sống và cái chết; vượt qua thế giới rộng lớn và tất cả những gì đang thở hay đã thở.
Đó là một cảnh tuyệt đẹp, nhưng buồn, có lẽ, vì là tột cùng của cái đẹp. Mặt trời mọc; mặt trời lặn! Ở đó chúng ta có biểu tượng, giống loài, và tất cả những thứ nhân loại phải làm với nó. Biểu tượng và loài, phải, khởi đầu thuộc về trái đất, kết thúc cũng thế. Buổi sáng hôm đó nó về nhà cùng tôi với sức mạnh đặc biệt. Mặt trời mọc hôm đó vì chúng tôi giờ đã lặn đêm qua vì mười tám người đồng thám hiểm của chúng tôi! – đã lặn vĩnh viễn vì mười tám người mà chúng tôi biết!
Con tàu lớn đã đi xuống với họ, họ đang lăn lộn giữa những tảng đá và rong biển, quá nhiều người đã trôi dạt trên đại dương mênh mông của Thần Chết này! Bốn người chúng tôi được cứu thoát. Nhưng một ngày nào đó bình minh sẽ đến khi chúng tôi nằm giữa những người đã mất, còn người khác nhìn những vinh quang đó, sẽ thấy buồn bã giữa cái đẹp, mơ về Thần Chết trong ánh sáng tràn đầy của Sự Sống đang trỗi dậy!
Vì đó là vận mệnh của con người.

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 3


CHƯƠNG 3

Mảnh gốm cổ của Amenartas
Vào ngày trước ngày sinh nhật thứ hai mươi lăm của Leo, cả hai chúng tôi cùng tới London, lấy cái hộp bí ẩn từ ngân hàng mà tôi đã gửi vào hai mươi năm trước. Tôi nhớ nó được một nhân viên mang lên, đó chính là nhân viên đã từng mang nó xuống trước đây. Ông nhớ đã che dấu nó đi thật hoàn hảo. Ông bảo nếu không làm thế, ông sẽ khó mà tìm thấy nó, nó được phủ đầy màng nhện.
Chúng tôi trở về Cambridge với gánh nặng này vào buổi tối, và tôi nghĩ có lẽ cả hai chúng tôi đều mất ngủ. Lúc rạng đông Leo đã tới phòng tôi trong bộ áo choàng ngủ, và đề nghị chúng tôi nên tiến hành việc này luôn. Tôi từ chối vì nó thể hiện một sự tò mò không đáng. Cái hộp đã chờ hai mươi năm, tôi nói, vì thế tốt hơn là tiếp tục đợi đến sau bữa sáng. Lúc chín giờ - chín giờ đúng chính xác một cách không bình thường – chúng tôi ăn sáng; và chiếm giữ toàn bộ suy nghĩ của tôi là sự hối tiếc đã đặt miếng thịt hun khói vào trà của Leo thay vì một cục đường. Tất nhiên sự phấn khích có tính lây lan đã trải rộng, Job cũng vậy, hoàn toàn phá vỡ tách trà Trung Hoa Sèvres của tôi, cái tách giống hệt tôi tin là Marat đã uống chỉ trước khi ông ta bị đâm trong phòng tắm.
Tuy nhiên cuối cùng bữa sáng đã kết thúc, và Job, theo yêu cầu của tôi, lấy cái hộp ra, thật trọng đặt nó lên bàn như thể anh ta không tin tưởng nó. Sau đó anh ta chuẩn bị rời khỏi phòng.
“Dừng lại một chút, Job,” Tôi nói. “Nếu ngài Leo không phản đối, tôi muốn có một nhân chứng độc lập cho việc này, người này cần giữ mồm giữ miệng, trừ khi bị buộc phải nói.”
“Tất nhiên rồi, bác Horace,” Leo trả lời; vì tôi đã buộc cậu gọi tôi là bác – dù cậu thường thay đổi gọi tôi hơi vô lễ là “nhà nghiên cứu sinh già nua”, hay thậm chí “ông bác hờ của tôi”.
Job khẽ chạm vào đầu, không có mũ trên đó.
“Hãy khóa cửa, Job,” Tôi nói, “và mang cho tôi hòm thư từ.”
Anh ta vâng theo, và từ trong hòm thư tôi lấy chùm chìa khóa mà Vincey khốn khổ, cha của Leo, đã đưa cho tôi vào buổi tối anh ấy mất. Có ba chìa trong đó; cái lớn nhất khá giống với chiếc chìa khóa hiện đại, cái thứ hai rất cổ, cái thứ ba hoàn toàn không giống bất kỳ thứ gì chúng tôi từng thấy trước đây, được tạo thành rõ ràng từ một thanh bạc rắn, với một chốt đặt dọc để làm tay cầm, có vài khía được cắt trên cạnh của chốt. Nó giống một mô hình đường sắt cổ xưa hơn bất kỳ thứ gì khác.
“Giờ cả hai đã sẵn sàng chưa?” Tôi nói, vì người ta làm thế khi họ sắp ném mìn. Không có câu trả lời, nên tôi lấy chiếc chìa khóa lớn, chà ít dầu xà lách vào các khe, sau một hay hai cú đẩy vào, tay tôi run lên, điều chỉnh cho phù hợp, và mở cái khóa ra. Leo cúi xuống, bắt lấy cái nắp to bằng cả hai tay, và dùng sức đẩy nó ra, vì bản lề đã bị han gỉ. Lớp vỏ bên ngoài lộ ra một cái lồng khác được phủ đầy bụi. Vật này chúng tôi lôi ra khỏi cái hộp sắt không chút khó khăn, lau vết bẩn tích lũy bao năm qua bằng bàn chải quần áo.
Nó trông có vẻ như là gỗ mun, hoặc một loại gỗ màu đen gần như hồ tiêu, và được bao xung quanh bằng những tấm sắt phẳng. Tuổi đời của nó phải cực lâu rồi, vì các thớ gỗ dày đặc thực ra một phần để suy đoán tuổi.
“Bây giờ hãy dùng nó,” Tôi nói, cắm chiếc khóa thứ hai vào.
Job và Leo cúi người về phía trước trong sự im lặng khó thở. Chiếc chìa xoay lại, và tôi lật tung cái nắp ra, rồi thốt ra một câu cảm thán, không có gì lạ, vì bên trong cái lồng gỗ mun là một quan tài bằng bạc tuyệt đẹp, khoảng mười hai inch vuông, cao tám thước. Nó dường như là đồ thủ công của người Ai Cập, bốn chân tạo bởi các Nhân sư, và nắp hình vòm cũng phủ bởi một con Nhân sư. Tất nhiên chiếc quan tài đã bị hoen ố và sứt mẻ nhiều bởi tuổi tác, nhưng nói cách khác, vẫn ở trong tình trạng khá tốt.
Tôi kéo nó ra và đặt nó lên bàn, rồi, giữa bầu không khí im lặng gần như tuyệt đối, tôi đưa cái khóa bạc lạ mắt vào, và ấn các kiểu cho đến cuối cùng cái khóa mở ra, chiếc quan tài đã ở trước mặt chúng tôi. Nó bị một chất liệu cắt nhỏ màu nâu lấp đầy đến miệng, giống sợi thực vật hơn là giấy, chất liệu này tôi có thể không bao giờ khám phá ra được. Tôi cẩn thận lấy nó ra đến độ sâu khoảng ba inch, khi đó tôi lấy được một lá thư đi kèm trong chiếc phong bì trông khá hiện đại thông thường, nó có đề chữ viết tay của người bạn đã mất của tôi Vincey.
“Gửi con trai tôi Leo, nếu con còn sống để mở chiếc quan tài này.”
Tôi đưa bức thư cho Leo, giờ đang liếc nhìn chiếc phong bì, rồi cậu đặt nó xuống bàn, đi về phía tôi và tiếp tục lục tung cái quan tài.
Thứ tiếp theo tôi tìm thấy là một tấm giấy da cuộn lại cẩn thận. Tôi trải nó ra, và thấy đó cũng là chữ viết tay của Vincey, tiêu đề là, “Bản dịch của Văn Tự Chữ Hoa Hy Lạp trên Mảnh Gốm”, lại đặt nó xuống bên cạnh bức thư. Rồi tiếp đến là một cuộn giấy da cổ khác, đã trở nên vàng ố và nhăn lại theo năm tháng. Tôi cũng trải nó ra. Nó cũng giống như bản dịch của cùng một bản gốc tiếng Hy Lạp, nhưng ở dạng chữ Latin màu đen, thoạt nhìn kiểu dáng và chữ viết, theo tôi nó nằm đâu đó khoảng đầu thế kỷ thứ mười sáu. Ngay bên dưới cuộn này là thứ gì đó cứng và nặng, được bọc trong vải lanh vàng, đặt trên một lớp bằng vật liệu sợi. Thật từ từ và cẩn thận, chúng tôi trải tấm vải lanh ra, hiện ra một mảnh gốm lớn, không nghi ngờ gì nữa, phải rất cổ xưa, có màu vàng bẩn thỉu! Mảnh gốm này theo phán đoán của tôi, từng là một phần của một chiếc vò hai quai thông thường có kích thước trung bình. Phần còn lại này, có kích thước mười inch rưỡi chiều dài, bảy inch chiều rộng, dày khoảng một phần tư inch, trên bề mặt lồi từ trên xuống đáy phủ dày đặc văn tự dạng ký tự hoa Hy Lạp sau này, nhạt dần đây đó, nhưng hầu hết hoàn toàn dễ đọc, văn tự rõ ràng được thực hiện cực kỳ cẩn thận, bằng cách dùng một cây bút sậy, như người xưa thường dùng. Tôi không quên đề cập rằng tại một tuổi đời xa xôi nào đó, mảnh gốm tuyệt vời này đã bị vỡ làm đôi, rồi được ghép lại bằng xi măng và tám chiếc đinh tán dài. Cũng có nhiều chữ khác ở mặt bên trong, nhưng rất không đều, và rõ ràng được thực hiện bởi những bàn tay khác nhau và ở nhiều lứa tuổi khác nhau, những chữ này cùng với các văn tự trên những tấm giấy da, tôi sẽ phải đọc chúng.
     [mảnh 1]

     MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS

     Kích cỡ 1/2

     Độ dài lớn nhất của vật gốc           10½ inches
     Độ rộng lớn nhất                7 inches
     Khối lượng                      1 pound 5½ ounces

     [mảnh 2]

     MÔ PHỎNG MẢNH GỐM CỦA AMENARTAS

     Kích cỡ 1/2

“Còn gì nữa không?” Leo hỏi bằng một câu thì thầm phần khích.
Tôi dò dẫm, và trình ra một cái gì đó cứng, để trong một túi bằng vải lanh nhỏ. Ngoài chiếc túi, chúng tôi thoạt tiên thấy một hình vẽ nghệ thuật nhỏ rất đẹp làm bằng ngà voi, và thứ hai, một hợp chất màu sô cô la nhỏ nhắn scarabæus, đánh dấu thế này:
[phác họa bị bỏ qua]
Những biểu tượng này chúng tôi chắc chắn, có nghĩa là “Suten se Ra”, dịch ra là “Con Trai của Ra (hay Thần Mặt Trời)”. Hình vẽ nghệ thuật nhỏ là bức tranh của người mẹ Hy Lạp của Leo – một tạo vật mắt đen rất dễ thương. Trên mặt sau của nó là nét chữ viết tay của Vincey khốn khổ, “Vợ yêu của tôi”.
“Đó là tất cả.” Tôi nói.
“Rất tốt,” Leo trả lời, đặt cái hình vẽ nghệ thuật nhỏ xuống, thứ đó cậu đã nhìn rất trìu mến; “nào bây giờ chúng ta hãy đọc lá thư,” và không khó khăn chút nào, cậu phá niêm phong, và đọc to nội dung:
“Con trai của ta Leo, - Khi con mở thư này, nếu con còn sống để làm điều đó, thì con đã đến lúc trưởng thành, và cha cũng đã chết đủ lâu để gần như tất cả những người quen biết hoàn toàn quên lãng. Nhưng khi đọc thư này, hãy nhớ rằng cha đã, đang và sẽ vẫn tồn tại, vì như con thấy trong này, thông qua bút và giấy, cha vẫn giang tay về phía con qua hố ngăn cách của cái chết, giọng cha vẫn nói với con từ trong yên lặng nơi lăng mộ. Dù cha đã chết, không có ký ức nào của cha còn sót lại trong tâm trí con, nhưng cha vẫn ở bên con giờ phút con đang đọc thư này. Từ khi con ra đời đến nay hầu như cha chưa từng thấy mặt. Hãy tha thứ cho cha vì điều đó. Sự sống của con đã thay thế cho sự sống của một người mà cha yêu hơn bất kỳ phụ nữ nào, và nỗi cay đắng này vẫn kéo dài. Nếu cha sống cha sẽ phải chống đỡ lại cảm giác ngu ngốc này, nhưng cha đã không lựa chọn sống tiếp. Nỗi đau khổ của cha, cả thể chất lẫn tinh thần, nhiều hơn cha có thể chịu đựng, sau khi những thu xếp nhỏ cha làm vì tương lai hạnh phúc của con đã hoàn thành, chủ ý của cha là muốn dành một khoảng thời gian cho mọi chuyện này. Có lẽ Chúa sẽ tha thứ cho cha nếu cha làm sai. Cuối cùng cha cũng không thể sống thêm một năm nữa.”
“Vì thế ông ấy đã tự sát,” Tôi tuyên bố. “Bác nghĩ vậy đấy.”
“Giờ,” Leo tiếp tục mà không đáp lại lời tôi,” thế là đủ cho bản thân cha. Những gì phải nói phụ thuộc vào con, người đang sống, chứ không phải cha, người đã chết, và hầu như đã bị lãng quên như thể cha chưa từng bao giờ tồn tại. Holly, bạn của cha (gửi tới người, mà nếu cậu ấy chấp nhận lời giao phó, dự định của cha đặt niềm tin nơi cậu ấy), sẽ nói cho con một chút về nguồn gốc xa xưa kỳ lạ trong dòng máu của con. Những gì trong quan tài này đủ để chứng minh điều đó. Truyền thuyết kỳ lạ mà con sẽ tìm thấy được tổ mẫu xa xôi của con ghi lại trên mảnh gốm vỡ được cha của cha truyền lại khi ông ấy lâm chung, nó giữ một động lực mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của cha. Khi cha mới mười chín tuổi, cha đã quyết định điều tra ra sự thật, giống như một trong các tổ tiên của chúng ta thời Elizabeth đã làm, dù số phận ông ấy thật không may. Vì tất cả những gì đã xảy ra với cha, giờ cha không thể tiếp tục đi sâu hơn nữa. Nhưng điều này cha đã chứng kiến tận mắt. Trên bờ biển Châu Phi, trong một vùng đất đến nay vẫn chưa được khai phá, cách phía bắc nơi đó một khoảng, nơi Zambesi đã rơi xuống biển, có một mũi đất, cuối mũi đất có một đỉnh tháp hướng lên trên, có hình dạng như cái đầu một người da đen, tương tự như văn tự nói đến. Cha đã đặt chân đến đó, và tìm hiểu được từ một người bản địa lang thang, kẻ đã bị đuổi khỏi tộc người của anh ta vì tội lỗi anh ta mắc phải; xa đất liền là dãy núi lớn có hình như những chiếc bát, các hang động bao quanh bằng những đầm lầy không thể đo được. Cha cũng biết rằng tộc người ở đó nói thổ ngữ Ả Rập, và bị cai trị bởi một phụ nữ da trắng xinh đẹp – người mà hiếm khi họ được nhìn thấy, nhưng được cho là có quyền lực đối với tất cả các sinh vật sống và chết. Hai ngày sau đó cha xác định chắc chắn người đàn ông này bị chết vì sốt rét khi lội qua đầm lầy, còn cha bị những thiếu thốn lương thực và triệu chứng bệnh mà sau này làm cha suy nhược buộc phải trở lại thuyền.
Trong cuộc phiêu lưu này, sau lần đó, giờ cha không cần nói. Cha đã bị đắm tàu ở bờ biển Madagascar, được một con tàu Anh cứu sống sau vài tháng và đưa cha đến Aden, khi đó cha bắt đầu phục vụ nước Anh, dự định sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm ngay sau khi đã chuẩn bị đầy đủ. Trên đường đi cha dừng chân ở Hy Lạp, và ở đó, vì ‘Omnia vincit amor’, cha gặp mẹ yêu của con, kết hôn, rồi khi con ra đời, cô ấy mất. Đó là căn bệnh cuối cùng hành hạ cha, và cha trở về đây để chết. Nhưng cha vẫn không ngừng hi vọng, tự thân làm việc để học tiếng Ả Rập, ý định tốt đẹp mà cha chưa bao giờ muốn có được hơn thế, là trở lại bờ biển Châu Phi, giải đáp điều kỳ bí có trong truyền thống gia tộc chúng ta bao thế kỷ qua. Nhưng cha đã không thể khỏe hơn, và cha chỉ liên quan đến đây thôi, câu chuyện đã đến lúc kết thúc.
Tuy nhiên, đối với con, con trai của cha, nó chưa kết thúc, và cha trao lại những thành quả lao động của cha cho con, cùng với những bằng chứng về nguồn gốc của chúng. Ý định của cha là chúng sẽ không thể đưa đến tay con cho đến khi con đến tuổi có thể tự đánh giá được nên lựa chọn tìm kiếm hay không những thứ này, những thứ mà nếu là sự thật, nó sẽ là bí ẩn lớn nhất trên đời, còn không, nó chỉ là một câu chuyện bịa đặt nhàn rỗi, xuất phát đầu tiên từ bộ não rối loạn của một phụ nữ.
Cha không tin vào câu chuyện hoang đường này; cha tin rằng nếu nó được khám phá lại, có một điểm mà các sức mạnh sống còn của thế giới tồn tại hiển hiện. Sự sống tồn tại; thế thì tại sao những cách thức duy trì nó vĩnh viễn lại không tồn tại? Nhưng cha không có mong muốn làm ảnh hưởng đến tâm trí con vì chuyện này. Hãy tự đọc và tự phán xét. Nếu con nghiêng về thực hiện cuộc tìm kiếm, cha đã cung cấp để con không thiếu phương tiện. Nhưng trái lại, nếu con thấy hài lòng khi cho rằng toàn bộ chỉ là thứ hão huyền, thì cha van xin con, hãy phá hủy mảnh gốm và các bản văn tự, hãy để nguyên nhân gây rắc rối bị xóa bỏ khỏi dòng tộc chúng ta vĩnh viễn. Có lẽ đó là khôn ngoan nhất. Cái không biết thường gây ra hậu quả khủng khiếp, không phải từ ngạn ngữ suy ra đâu, đó là từ sự mê tín vốn có của nhân loại, nhưng cũng bởi vì nó thường rất khủng khiếp. Người gây xáo trộn những sức mạnh to lớn và bí ẩn đang hoạt động trên đời có thể trở thành nạn nhân của chính những sức mạnh này. Và nếu cuối cùng thắng lợi, nếu cuối cùng sau thử nghiệm này con hiện ra mãi mãi xinh đẹp và mãi mãi trẻ trung, bất chấp thời gian và quỉ dữ, diệt trừ được sự phân rã tự nhiên về thể xác và trí tuệ, ai nói rằng sự biến đổi tuyệt vời đó chứng minh người đó hạnh phúc? Hãy lựa chọn, con trai của ta, có lẽ thần Sức mạnh cai trị mọi thứ nói rằng 'đi một ngày đàng học một sàng khôn’, điều khiển sự lựa chọn cho hạnh phúc của chính con và hạnh phúc của thế giới, nơi đó, trong mỗi sự kiện thành công của con, một ngày nào đó chắc chắn con có thể thống trị nguồn sức mạnh tinh khiết từ những trải nghiệm tích lũy lại. – Tạm biệt!”
Lá thư không chữ ký, không ngày tháng, đột ngột kết thúc.
“Bác nghĩ gì, bác Holly,” Leo nói, thở hổn hển khi cậu đặt nó lên bàn. “Chúng ta đã đang tìm kiếm một bí ẩn, và dường như người ta chắc chắn đã tìm ra nó.”
“Bác nghĩ gì à? Sao chứ, tất nhiên là ông bố yêu quý khốn khổ của cháu phát điên rồi,” Tôi cáu kỉnh trả lời.”Bác đoán ngay ra tối đó, hai mươi năm trước, khi ông ấy đến phòng bác. Cháu thấy đấy, ông ấy đã vội vã kết thúc chính mình, anh chàng khốn khổ. Bậy bạ hết sức.”
“Đúng đó, thưa ngài!” Job long trọng nói. Job là điển hình thực tế nhất trong các loại thực tế.
“Được rồi, chúng ta hãy xem mảnh gốm nói gì,” Leo nói, lấy bản dịch viết tay của cha cậu ấy lên và bắt đầu đọc:
“Tôi, Amenartas, thuộc Gia Tộc Hoàng Gia của các Pharaoh Ai Cập, vợ của Kallikrates (Vẻ Đẹp trong Sức Mạnh), một linh mục của Isis – người mà các thần linh yêu mến và quỷ dữ phải vâng lời, đang sắp chết, gửi tới con trai bé nhỏ của tôi Tisisthenes (Sự Báo Thù Vĩ Đại). Ta đã chạy trốn với cha ngươi khỏi Ai Cập trong những ngày Nectanebes, [*] khiến ông ấy vì tình yêu phá vỡ lời thề. Chúng ta đã trốn xuống phía nam, dọc theo dòng nước, và chúng ta đã lang thang suốt hai lần mười hai tuần trăng bên bờ biển Libya (Châu Phi) nhìn về hướng mặt trời mọc, nơi đó bên con sông là một con thuyền bằng đá cực kỳ to lớn như cái đầu của một người Ethiopia. Bốn ngày trên mặt nước từ miệng của một con sông hùng vĩ chúng ta đã thoát được, một số bị chết đuối và một số chết vì bệnh tật. Nhưng những con người hoang dã chúng ta đã xuyên qua nước thải và đầm lầy, nơi chim biển che cả bầu trời, mang chúng ta trong cuộc hành trình mười ngày đến khi chúng ta tới một ngọn núi giả, nơi một thành phố vĩ đại đã từng tồn tại và sụp đổ, và nơi đó có những hang động mà không ai nhìn thấy điểm cuối cùng; họ mang chúng ta tới chỗ Nữ Hoàng của tộc người, người của tộc này đặt chậu trên đầu người lạ, Nữ Hoàng là một phù thủy có kiến thức về mọi thứ, sự sống và sắc đẹp mà không chết. Bà ta đã liếc mắt đưa tình với cha ngươi, Kallikrates, và muốn giết ta, lấy ông ta làm chồng, nhưng ông ấy yêu ta và sợ hãi bà ấy nên không thể. Rồi bà ta tóm lấy chúng ta, dẫn dắt chúng ta bằng những cách thức khủng khiếp, bằng phép thuật đen tối, tới nơi có cái hố lớn, trên miệng của nó một nhà triết học già nằm chết, rồi chỉ cho chúng ta Cột Trụ của Sự Sống đang cuộn chảy mà không chết, nơi đó âm thanh như tiếng sấm, bà ta đứng trong ngọn lửa, rồi đi ra không hề tổn thương gì, thậm chí còn xinh đẹp hơn. Rồi bà ta thề sẽ làm cho cha ngươi bất tử ngay cả khi bà ta chết, nếu ông ấy giết ta, và tự dâng hiến cho bà ta, đối với ta, bà ta không thể giết vì có phép thuật của dòng tộc ta mang trong người, và điều đó khiến ta chiếm ưu thế hơn bà ta. Ông ấy đã giơ tay lên mặt để che đi vẻ đẹp của bà ta, nhưng không thể. Sau đó, trong cơn giận dữ bà ta đã đánh ông ấy bằng phép thuật, và ông ấy đã chết; nhưng bà ta đã khóc lóc vì ông ấy, làm phiền ông ấy bằng những lời than: và đang sợ hãi, bà ta đã đưa ta đến miệng con sông lớn nơi những con thuyền đi lại, ta đã thoát thân trên những con tàu rồi sinh ngươi ở đó, rồi cuối cùng tới Athens sau nhiều chuyến lang thang. Giờ ta nói cho ngươi, con trai của ta, Tisisthenes, hãy tìm người đàn bà này, hãy học hỏi bí mật của Sự Sống, và nếu có thể hãy tìm cách giết bà ta, vì cha ngươi Kallikrates; nếu ngươi sợ hãi hay thất bại, ta nói điều này với toàn bộ dòng dõi sau ngươi, cho đến khi có một người dũng cảm được tìm ra trong số họ, người sẽ tắm trong lửa và ngồi vào chỗ của các Pharaoh. Ta nói những điều này, dù chúng là niềm tin từ quá khứ, nhưng ta biết, ta không nói dối.”
[*] Nekht-nebf, hay Nectanebo II., Pharaoh bản xứ cuối cùng của Ai Cập, đã trốn khỏi Ochus tới Ethiopia, năm 339 trước Công Nguyên – Biên Tập Viên
“Xin Chúa tha thứ cho bà ấy vì điều đó,” Job rên rỉ, anh ta đang nghe phần kỳ diệu này với cái miệng há to.
Về phần tôi, tôi không nói gì: ý nghĩ đầu tiên của tôi là, ông bạn khốn khổ của tôi bị điên, đã sáng tác ra toàn bộ chuyện này, dù nó khó có thể là một câu chuyện được sáng tác ra bởi bất kỳ ai. Nó quá nguyên thủy. Để giải đáp các nghi ngờ của mình, tôi lấy miếng gốm lên và bắt đầu đọc bản văn tự gần giống tiếng Hy Lạp chữ hoa trên đó; quả đúng là tiếng Hy Lạp của thời kỳ đó, tính đến cả việc nó viết ra từ loại bút của một người Ai Cập sinh thời. Đây là đoạn văn tự chính xác của nó:
ΑΜΕΝΑΡΤΑΣΤΟΥΒΑΣΙΛΙΚΟΥΓΕΝΟΥΣΤΟΥΑΙΓΥΠΤΙΟΥΗΤΟΥΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΙΣΙΔΟΣΙΕΡΕΩΣΗΝΟ ΙΜΕΝΘΕΟΙΤΡΕΦΟΥΣΙΤΑΔΕΔΑΙΜΟΝΙΑΥΠΟΤΑΣΣΕΤΑΙΗΔΗΤΕΛΕΥΤΩΣΑΤΙΣΙΣΘΕΝΕΙΤΩΠΑΙΔΙΕΠ ΙΣΤΕΛΛΕΙΤΑΔΕΣΥΝΕΦΥΓΟΝΓΑΡΠΟΤΕΕΚΤΗΣΑΙΓΥΠΤΙΑΣΕΠΙΝΕΚΤΑΝΕΒΟΥΜΕΤΑΤΟΥΣΟΥΠΑΤΡΟ ΣΔΙΑΤΟΝΕΡΩΤΑΤΟΝΕΜΟΝΕΠΙΟΡΚΗΣΑΝΤΟΣΦΥΓΟΝΤΕΣΔΕΠΡΟΣΝΟΤΟΝΔΙΑΠΟΝΤΙΟΙΚΑΙΚΔΜΗΝΑ ΣΚΑΤΑΤΑΠΑΡΑΘΑΛΑΣΣΙΑΤΗΣΛΙΒΥΗΣΤΑΠΡΟΣΗΛΙΟΥΑΝΑΤΟΛΑΣΠΛΑΝΗΘΕΝΤΕΣΕΝΘΑΠΕΡΠΕΤΡΑ ΤΙΣΜΕΓΑΛΗΓΛΥΠΤΟΝΟΜΟΙΩΜΑΑΙΘΙΟΠΟΣΚΕΦΑΛΗΣΕΙΤΑΗΜΕΡΑΣΔΑΠΟΣΤΟΜΑΤΟΣΠΟΤΑΜΟΥΜΕΓ ΑΛΟΥΕΚΠΕΣΟΝΤΕΣΟΙΜΕΝΚΑΤΕΠΟΝΤΙΣΘΗΜΕΝΟΙΔΕΝΟΣΩΙΑΠΕΘΑΝΟΜΕΝΤΕΛΟΣΔΕΥΠΑΓΡΙΩΝΑΝ ΘΡΩΠΩΝΕΦΕΡΟΜΕΘΑΔΙΑΕΛΕΩΝΤΕΚΑΙΤΕΝΑΓΕΩΝΕΝΘΑΠΕΡΠΤΗΝΩΝΠΛΗΘΟΣΑΠΟΚΡΥΠΤΕΙΤΟΝΟΥ ΡΑΝΟΝΗΜΕΡΑΣΙΕΩΣΗΛΘΟΜΕΝΕΙΣΚΟΙΛΟΝΤΙΟΡΟΣΕΝΘΑΠΟΤΕΜΕΓΑΛΗΜΕΝΠΟΛΙΣΗΝΑΝΤΡΑΔΕΑΠ ΕΙΡΟΝΑΗΓΑΓΟΝΔΕΩΣΒΑΣΙΛΕΙΑΝΤΗΝΤΩΝΞΕΝΟΥΣΧΥΤΡΑΙΣΣΤΕΦΑΝΟΥΝΤΩΝΗΤΙΣΜΑΓΕΙΑΜΕΝΕ ΧΡΗΤΟΕΠΙΣΤΗΜΗΔΕΠΑΝΤΩΝΚΑΙΔΗΚΑΙΚΑΛΛΟΣΚΑΙΡΩΜΗΝΑΓΗΡΩΣΗΝΗΔΕΚΑΛΛΙΚΡΑΤΟΥΣΤΟΥΣ ΟΥΠΑΤΡΟΣΕΡΑΣΘΕΙΣΑΤΟΜΕΝΠΡΩΤΟΝΣΥΝΟΙΚΕΙΝΕΒΟΥΛΕΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕΛΕΙΝΕΠΕΙΤΑΩΣΟΥΚΑΝ ΕΠΕΙΘΕΝΕΜΕΓΑΡΥΠΕΡΕΦΙΛΕΙΚΑΙΤΗΝΞΕΝΗΝΕΦΟΒΕΙΤΟΑΠΗΓΑΓΕΝΗΜΑΣΥΠΟΜΑΓΕΙΑΣΚΑΘΟΔΟ ΥΣΣΦΑΛΕΡΑΣΕΝΘΑΤΟΒΑΡΑΘΡΟΝΤΟΜΕΓΑΟΥΚΑΤΑΣΤΟΜΑΕΚΕΙΤΟΟΓΕΡΩΝΟΦΙΛΟΣΟΦΟΣΤΕΘΝΕΩΣ ΑΦΙΚΟΜΕΝΟΙΣΔΕΔΕΙΞΕΦΩΣΤΟΥΒΙΟΥΕΥΘΥΟΙΟΝΚΙΟΝΑΕΛΙΣΣΟΜΕΝΟΝΦΩΝΗΝΙΕΝΤΑΚΑΘΑΠΕΡΒ ΡΟΝΤΗΣΕΙΤΑΔΙΑΠΥΡΟΣΒΕΒΗΚΥΙΑΑΒΛΑΒΗΣΚΑΙΕΤΙΚΑΛΛΙΩΝΑΥΤΗΕΑΥΤΗΣΕΞΕΦΑΝΗΕΚΔΕΤΟΥ ΤΩΝΩΜΟΣΕΚΑΙΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΑΘΑΝΑΤΟΝΑΠΟΔΕΙΞΕΙΝΕΙΣΥΝΟΙΚΕΙΝΟΙΒΟΥΛΟΙΤΟΕΜΕΔΕΑΝΕ ΛΕΙΝΟΥΓΑΡΟΥΝΑΥΤΗΑΝΕΛΕΙΝΙΣΧΥΕΝΥΠΟΤΩΝΗΜΕΔΑΠΩΝΗΝΚΑΙΑΥΤΗΕΧΩΜΑΓΕΙΑΣΟΔΟΥΔΕΝΤ ΙΜΑΛΛΟΝΗΘΕΛΕΤΩΧΕΙΡΕΤΩΝΟΜΜΑΤΩΝΠΡΟΙΣΧΩΝΙΝΑΔΗΤΟΤΗΣΓΥΝΑΙΚΟΣΚΑΛΛΟΣΜΗΟΡΩΗΕΠΕ ΙΤΑΟΡΓΙΣΘΕΙΣΑΚΑΤΕΓΟΗΤΕΥΣΕΜΕΝΑΥΤΟΝΑΠΟΛΟΜΕΝΟΝΜΕΝΤΟΙΚΛΑΟΥΣΑΚΑΙΟΔΥΡΟΜΕΝΗΕΚ ΕΙΘΕΝΑΠΗΝΕΓΚΕΝΕΜΕΔΕΦΟΒΩΙΑΦΗΚΕΝΕΙΣΣΤΟΜΑΤΟΥΜΕΓΑΛΟΥΠΟΤΑΜΟΥΤΟΥΝΑΥΣΙΠΟΡΟΥΠΟ ΡΡΩΔΕΝΑΥΣΙΝΕΦΩΝΠΕΡΠΛΕΟΥΣΑΕΤΕΚΟΝΣΕΑΠΟΠΛΕΥΣΑΣΑΜΟΛΙΣΠΟΤΕΔΕΥΡΟΑΘΗΝΑΖΕΚΑΤΗΓ ΑΓΟΜΗΝΣΥΔΕΩΤΙΣΙΣΘΕΝΕΣΩΝΕΠΙΣΤΕΛΛΩΜΗΟΛΙΓΩΡΕΙΔΕΙΓΑΡΤΗΝΓΥΝΑΙΚΑΑΝΑΖΗΤΕΙΝΗΝΠ ΩΣΤΟΤΟΥΒΙΟΥΜΥΣΤΗΡΙΟΝΑΝΕΥΡΗΣΚΑΙΑΝΑΙΡΕΙΝΗΝΠΟΥΠΑΡΑΣΧΗΔΙΑΤΟΝΣΟΝΠΑΤΕΡΑΚΑΛΛΙ ΚΡΑΤΗΝΕΙΔΕΦΟΒΟΥΜΕΝΟΣΗΔΙΑΑΛΛΟΤΙΑΥΤΟΣΛΕΙΠΕΙΤΟΥΕΡΓΟΥΠΑΣΙΤΟΙΣΥΣΤΕΡΟΝΑΥΤΟΤΟ ΥΤΟΕΠΙΣΤΕΛΛΩΕΩΣΠΟΤΕΑΓΑΘΟΣΤΙΣΓΕΝΟΜΕΝΟΣΤΩΠΥΡΙΛΟΥΣΑΣΘΑΙΤΟΛΜΗΣΕΙΚΑΙΤΑΑΡΙΣΤ ΕΙΑΕΧΩΝΒΑΣΙΛΕΥΣΑΙΤΩΝΑΝΘΡΩΠΩΝΑΠΙΣΤΑΜΕΝΔΗΤΑΤΟΙΑΥΤΑΛΕΓΩΟΜΩΣΔΕΑΑΥΤΗΕΓΝΩΚΑΟ ΥΚΕΨΕΥΣΑΜΗΝ
Để thuận tiện cho việc đọc nói chung, tôi đã chuyển dịch chính xác đoạn văn tự này sang dạng chữ thảo.
Ἀμενάρτας, τοῦ βασικοῦ γένους τοῦ Αἰγυπτίου, ἡ τοῦ Καλλικράτους Ἴσιδος ἱερέως, ἣν οἱ μὲν θεοὶ τρέφουσι τὰ δὲ δαιμονια ὑποτάσσεται, ἤδη τελευτῶσα Τισισθένει τῷ παιδὶ ἐπιστέλλει τάδε· συνέφυγον γάρ ποτε ἐκ τῆς Αἰγυπτίας ἐπὶ Νεκτανέβου μετὰ τοῦ σοῦ πατρός, διὰ τὸν ἔρωτα τὸν ἐμὸν ἐπιορκήσαντος. φυγόντες δὲ πρὸς νότον διαπόντιοι καὶ κʹδʹ μῆνας κατὰ τὰ παραθαλάσσια τῆς Αιβύης τὰ πρός ἡλίου ἀνατολὰς πλανηθέντες, ἔνθαπερ πέτρα τις μελάλη, γλυπτὸν ὁμοίωμα Αἰθίοπος κεφαλῆς, εἶτα ἡμέρας δʹ ἀπὸ στόματος ποταμοῦ μεγάλου ἐκπεσόντες, οἱ μέν κατεποντίσθημεν, οἱ δὲ νόσῳ ἀπεθάνομεν· τέλος δὲ ὑπ᾽ ἀλρίων ἀνθρώπων ἐφερόμεθα διὰ ἐλέων τε καὶ τεναλέων ἔνθαπερ πτηνῶν πλῆθος ἀποκρύπτει τὸν οὐρανὸν, ἡμέρας ί, ἕως ἤλθομεν εἰς κοῖλόν τι ὄρος, ἔνθα ποτὲ μεγάλη μὲν πόλις ἦν, ἄντρα δὲ ἀπείρονα· ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν ξένους χύτραις στεφανούντων, ἥτις μαλεία μὲν ἐχρῆτο ἐπιστήμη δὲ πάντων καὶ δὴ καὶ κάλλός καὶ ῥώμην ἀλήρως ἦν· ἡ δὲ Καλλικράτους τοῦ πατρὸς ἐρασθεῖδα τὸ μὲν πρῶτον συνοικεῖν ἐβούλετο ἐμὲ δὲ ἀνελεῖν· ἔπειτα, ὡς οὐκ ἀνέπειθεν, ἐμὲ γὰρ ὑπερεφίλει καὶ τὴν ξένην ἐφοβεῖτο, ἀπήγαγεν ἡμᾶς ὑπὸ μαγείας καθʹ ὁδοὺς σφαλερὰς ἔνθα τὸ βάραθρον τὸ μέγα, οὗ κατὰ στόμα ἔκειτο ὁ γέρων ὁ φιλόσοφος τεθνεώς, ἀφικομένοις δʹ ἔδειξε φῶς τοῦ βίου εὐθύ, οἷον κίονα ἑλισσόμενον φώνην ἱέντα καθάπερ βροντῆς, εἶτα διὰ πυρὸς βεβηκυῖα ἀβλαβὴς καὶ ἔτι καλλίων αὐτὴ ἑαυτῆς ἐξεφάνη. ἐκ δὲ τούτων ὤμοσε καὶ τὸν σὸν πατέρα ἀθάνατον ἀποδείξειν, εἰ συνοικεῖν οἱ βούλοιτο ἐμὲ δε ὰνελεῖν, οὐ γὰρ οὖν αὐτὴ ἀνελεῖν ἴσχυεν ὑπὸ τῶν ἡμεδαπῶν ἣν καὶ αὐτὴ ἔχω μαγείας. ὁ δʹ οὐδέν τι μᾶλλον ἤθελε, τὼ χεῖρε τῶν ὀμμάτων προίσχων ἵνα δὴ τὸ τῆς γυναικὸς κάλλος μὴ ὁρῴη· ἔπειτα ὀργισθεῖσα κατεγοήτευσε μὲν αὐτόν, ἀπολόμενον μέντοι κλάουσα καὶ ὀδυρμένη ἐκεῖθεν ἀπήνεγκεν, ἐμὲ δὲ φόβῳ ἀφῆκεν εἰς στόμα τοῦ μεγάλου ποταμοῦ τοῦ ναυσιπόρου, πόδδω δὲ ναυσίν, ἐφʹ ὧνπερ πλέουσα ἔτεκόν σε, ἀποπλεύσασα μόλις ποτὲ δεῦρο Ἀθηνάζε κατηγαγόν. σὺ δέ, ὦ Τισίσθενες, ὧν ἐπιστέλλω μὴ ὀλιγώρει· δεῖ γὰρ τῆν γυναῖκα ἀναζητεῖν ἤν πως τῦ βίου μυστήριον ἀνεύρῃς, καὶ ἀναιρεῖν, ἤν που παρασχῇ, διὰ τὸν πατέρα Καλλικράτους. εἐ δὲ φοβούμενος ἢ διὰ ἄλλο τι αὐτὸς λείπει τοῦ ἔργου, πᾶσι τοῖς ὕστερον αὐτὸ τοῦτο ἐπιστέλλω, ἕως ποτὲ ἀγαθός τις γενόμενος τῷ πυρὶ λούσασθαι τολμήσει καὶ τὰ ἀριστεῖα ἔχων βασιλεῦσαι τῶν ἀνθρώπων· ἄπιστα μὲν δὴ τὰ τοιαῦτα λέγω, ὅμως δὲ ἃ αὐτὴ ἔγνωκα οὐκ ἐψευσάμην.
Như tôi đã phát hiện khi điều tra thêm, và độc giả có lẽ cũng dễ dàng nhìn ra qua so sánh, bản dịch tiếng Anh đã chính xác và hàm súc.
Bên cạnh văn tự chữ hoa trên bề mặt lồi của mảnh gốm, trên đỉnh, được sơn màu đỏ xỉn, trên đó từng là môi của chiếc vò hai quai, có vỏ đạn đã được nhắc đến giống ở scarabæus, mà chúng tôi cũng đã tìm thấy trong quan tài. Tuy nhiên, các chữ tượng hình và các biểu tượng đã bị đảo ngược, như thể chúng được ấn vào sáp. Liệu đó có phải là vỏ đạn của ông Kallikrates bản chính [*] không hay của vị hoàng tử hoặc Pharaoh nào đó mà vợ ông ấy Amenartas có quan hệ huyết thống, tôi không chắc, tôi cũng không thể nói liệu có đúng mảnh gốm được vẽ cùng thời gian với những chữ hoa Hy Lạp được khắc lên không, hay được một thành viên nào đó của gia tộc này sao chép lại gần đây từ con bọ hung phân Scarab. Cũng không phải. Ở cuối bản văn tự cũng được sơn màu đỏ xỉn, là những phác thảo mờ nhạt của một bản vẽ hơi thô lỗ về đầu và vai của một con Nhân sư đeo hai chiếc lông vũ, biểu tượng của uy nghiêm, mà dù theo lẽ thường phải đủ các hình nộm bò đực thiêng liêng và các vị thần, trước đó tôi chưa từng bao giờ gặp nó với Nhân sư.
[*] Vỏ đạn này, nếu nó là một vỏ đạn thật, không thể là của ông Kallikrates, như ngài Holly đoán. Kallikrates là một linh mục nên không được quyền có vỏ đạn, đó là thứ đặc quyền của hoàng gia Ai Cập, dù ông ta có thể được ghi tên hay tước hiệu lên một oval. – Biên Tập Viên.
Cũng trên bề mặt phải của mảnh gốm, được sơn chéo bằng màu đỏ trong không gian không có các ký tự chữ hoa phủ lên, được đánh dấu bằng sơn xanh, là dòng chữ kỳ lạ sau đây:
TRONG MẶT ĐẤT, BẦU TRỜI VÀ BIỂN CẢ
CÓ NHỮNG ĐIỀU KÌ LẠ.
HOC FECIT
DOROTHEA VINCEY.
Hoàn toàn lạc lối, tôi quay miếng thánh vật lại. Từ trên xuống dưới nó được phủ đầy các ghi chú và chữ ký bằng tiếng Hy Lạp, Latin, và tiếng Anh. Cái đầu tiên bằng chữ hoa Hy Lạp là của Tisisthenes, con trai của người viết bản văn tự này: “Ta không thể đi được. Tisisthenes gửi cho con trai, Kallikrates.” Đây là mô phỏng chữ thảo tương đương của nó:
ΟΥΚΑΝΔΥΝΑΙΜΗΝΠΟΡΕΥΕϹΘΑΙΤΙϹΙϹΘΕΝΗϹΚΑΛΛΙΚΡΑΤΕΙΤΩΙΠΑΙΔΙ
οὐκ ἂν δυναίμην πορεύεσθαι. Τισισθένης Καλλικράτει τῷ παιδί.
Kallikrates này (có lẽ theo truyền thống người Hy Lạp, được đặt tên theo ông nội của anh ta) rõ ràng đã nỗ lực bắt đầu cuộc thám hiểm, vì những gì ghi vào của anh ta rất mờ nhạt và hầu như là dạng chữ hoa rất khó đọc, “Tôi đã dừng chuyến đi của tôi, các vị thần đang chống lại tôi. Kallikrates gửi cho con trai.” Đây là dòng văn tự của anh ta:
ΤΩΝΘΕΩΝΑΝΤΙΣΤΑΝΤΩΝΕΠΑΥΣΑΜΗΝΤΗΣΠΟΡΕΙΑΣΑΛΛΙΚΡΑΤΗΣΤΩΙΠΑΙΔΙ
τῶν θεῶν ἀντιστάντων ἐπαυσάμην τῆς πορείας. Καλλικράτης τῷ παιδί.
Dòng văn tự thứ hai này bị khắc lộn ngược và rất mờ nhạt, đã bị mòn, nếu nó không được Vincey dịch lại thì tôi có lẽ đã hầu như không thể đọc được nó, vì những chữ đó được viết trên phần gạch mà theo thời gian chịu nhiều các thao tác cọ xát chủ yếu bằng tay nên gần như bị mòn hết. Giữa hai dòng văn tự cổ trên là một chữ ký đậm trông khá hiện đại của một vị Lionel Vincey “Ætate sua 17”, tôi nghĩ đó là của ông nội Leo. Sang phải của nó là những chữ viết tắt “J. B. V.”, đi theo bên dưới là một loạt các chữ ký Hy Lạp dạng chữ hoa và chữ thảo, và dường như lặp đi lặp lại khá vô tình câu τῷ παιδί (gửi tới con trai ta), cho thấy thánh vật này đã được truyền từ đời này sang đời kia đều đặn một cách có ý thức.
Thứ dễ đọc kế tiếp sau những chữ ký Hy Lạp là từ “Romae, A.U.C.”, cho thấy gia tộc giờ đã di cư đến Rome. Tuy nhiên thật không may, ngoại trừ phần kết thúc của nó (evi), ngày họ tới định cư ở đó đã bị mất vĩnh viễn, chỉ vì phần đó nằm trong mảnh gốm đã bị vỡ mất.
Tiếp theo là mười hai chữ ký Latin, được ghi chỗ này một chút chỗ kia một chút, bất cứ chỗ nào có không gian trống phù hợp đều sẽ được khắc chữ. Những chữ ký này, trừ ba chữ kí ngoại lệ, còn lại đều kết thúc với tên “Vindex” nghĩa là “Người Báo Thù”, dường như tên này đã được gia tộc thông qua sau khi di cư tới Rome vì nó tương đương với từ tiếng Hy Lạp “Tisisthenes”, cũng có nghĩa là người báo thù. Cuối cùng, như dự kiến, tên họ riêng tiếng Latin Vindex đã được chuyển đổi đầu tiên thành De Vincey, rồi sau đó chuyển thành Vincey hiện tại khá đơn giản. Thật tò mò khi quan sát cách thức một ý tưởng trả thù, được khơi cảm hứng từ một người Ai Cập sống trước Công Nguyên, và được bảo tồn trong một cái tên gia tộc người Anh.
Vài cái tên La Mã được khắc trên mảnh gốm mà tôi thật sự tìm thấy cũng được nói đến trong lịch sử và các tài liệu khác. Nếu tôi nhớ không nhầm, đó là:
MVSSIVS. VINDEX
SEX. VARIVS MARVLLVS
C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
LABERIA POMPEIANA. CONIVX. MACRINI. VINDICIS
Tên cuối cùng tất nhiên là tên một quý bà La Mã.
Còn danh sách sau chỉ gồm các tên Latin trên mảnh gốm:
     C. CAECILIVS VINDEX
     M. AIMILIVS VINDEX
     SEX. VARIVS. MARVLLVS
     Q. SOSIVS PRISCVS SENECIO VINDEX
     L. VALERIVS COMINIVS VINDEX
     SEX. OTACILIVS. M. F.
     L. ATTIVS. VINDEX
     MVSSIVS VINDEX
     C. FVFIDIVS. C. F. VINDEX
     LICINIVS FAVSTVS
     LABERIA POMPEIANA CONIVX MACRINI VINDICIS
     MANILIA LVCILLA CONIVX MARVLLI VINDICIS
Sau những cái tên La Mã này là một khoảng trống rõ ràng của rất nhiều thế kỷ. Giờ sẽ không ai còn biết lịch sử của thánh vật này trong suốt những kỷ nguyên tối tăm đó ra sao, hay nó đã được bảo tồn trong gia tộc như thế nào. Ông bạn Vincey khốn khổ của tôi đã từng nói với tôi, các tổ tiên người La Mã của anh ấy cuối cùng đã định cư ở Lombardy, và khi Charlemagne xâm lược nó, họ đã theo vị Hoàng Đế này đi dọc theo dãy Alps, rồi dựng nhà ở Brittany, rồi vượt biển đến nước Anh vào thời Edward – Người Xưng Tội. Tôi không hiểu anh ấy biết những điều đó bằng cách nào, vì không có gì chỉ dẫn tới Lombardy hay Charlemagne trên mảnh gốm, dù hiện tại có thể thấy chắc chắn có phần tham chiếu tới Brittany. Tiếp tục: những dòng chữ kế tiếp trên mảnh gốm, nếu tôi có thể loại được vết bẩn của máu hay một cái gì đó màu đỏ cùng loại, gồm hai chữ thập vẽ bằng thuốc màu đỏ, có lẽ đại diện cho những thanh kiếm của đội quân Thập Tự Chinh, và một chữ viết lồng nhau khá gọn gàng (“D.V.”) bằng màu đỏ tươi và xanh lam, có lẽ cũng do vị Dorothea Vincey đã viết - hay đúng ra là sơn - mấy câu thơ bền bỉ kia vẽ nên. Bên trái nó, được khắc màu xanh lam nhạt, là những chữ cái A.V., theo sau chúng là niên hiệu 1800.
Sau đó đến một thứ có lẽ cũng gây tò mò như dòng chữ hay bất kỳ cái gì trên miếng thánh vật xa xưa kỳ lạ này. Nó bằng chữ đen, viết bên trên những chữ thập hay những thanh kiếm của đoàn quân Thập Tự Chinh, và đề niên hiệu 1445. Vì kế hoạch tốt nhất là cho phép nó tự nói lên bản thân, tôi đây đã đưa ra một mô phỏng bằng chữ đen, cùng với từ gốc tiếng Latin mà không cắt bớt, từ đó chứng minh rằng người viết là một người Latin thời trung cổ. Chúng tôi cũng phát hiện ra thứ gây tò mò hơn, một bản tiếng Anh của thứ bằng tiếng Latin chữ đen kia. Thứ này cũng viết bằng chữ đen, chúng tôi thấy được khắc trên tấm da dê thứ hai trong rương, trông có vẻ hơi cũ so về niên hiệu so với thứ được khắc bản dịch Latin thời trung cổ của bản bằng chữ hoa Hy Lạp mà tôi đang nói. Tôi cũng cung cấp đầy đủ về nó như sau:
Bản sao của Chữ Khắc màu đen trên mảnh gốm của Amenartas.
"Iſta reliq̅ia eſt valde miſticu̅ et myrificu̅ op̅s q̅d maiores mei ex Armorica ſſ Brittania mi̅ore ſecu̅ co̅veheba̅t et q̅dm ſc̅s cleric̅s ſe̅per p̅ri meo in manu ferebat q̅d pe̅itus illvd deſtrueret, affirma̅s q̅d eſſet ab ipſo ſathana co̅flatu̅ preſtigioſa et dyabolica arte q̅re p̅ter mevs co̅fregit illvd i̅ dvas p̅tes q̅s q̅dm ego Johs̅ de Vi̅ceto ſalvas ſervavi et adaptavi ſicut ap̅paret die lu̅e p̅r̅ poſt feſt beate Mrie vir{g} anni gr̅e mccccxlv."
Bản mở rộng của Chữ Khắc màu đen bên trên
"Ista reliquia est valde misticum et myrificum opus, quod majores mei ex Armorica, scilicet Britannia Minore, secum convehebant; et et quidam sanctus clericus semper patri meo in manu ferebat quod penitus illud destrueret, affirmans quod esset ab ipso Sathana conflatum prestigiosa et dyabolica arte, quare pater meus confregit illud in duas partes, quas quidem ego Johannes de Vinceto salvas servavi et adaptavi sicut apparet die lune proximo post festum beate Marie Virginis anni gratie MCCCCXLV."
Bản sao của Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen cho Chữ Khắc màu đen từ mảnh gốm của Amenartas ở trên, cũng được thấy khắc trên một tấm da dê.
"Thys rellike ys a ryghte mistycall worke & a marvaylous yᵉ whyche myne aunceteres afore tyme dyd conveigh hider wᵗ yᵐ ffrom Armoryke whᵉ ys to ſeien Britaine yᵉ leſſe & a certayne holye clerke ſhoulde allweyes beare my ffadir on honde yᵗ he owghte uttirly ffor to ffruſſhe yᵉ ſame affyrmynge yᵗ yt was ffourmyd & confflatyd off ſathanas hym ſelffe by arte magike & dyvellyſſhe wherefore my ffadir dyd take yᵉ ſame & to braſt yt yn tweyne but I John de Vincey dyd ſave whool yᵉ tweye p̄tes therof & topeecyd yᵐ togydder agayne ſoe as yee ſe on y{s} daye mondaye next ffolowynge after yᵉ ffeeste of ſeynte Marye yᵉ bleſſed vyrgyne yn yᵉ yeere of ſalvacioun ffowertene hundreth & ffyve & ffowrti."
Bản dịch tiếng Anh hiện đại cho Phần Dịch Tiếng Anh Cổ chữ đen bên trên.
"Thys rellike ys a ryghte mistycall worke and a marvaylous, ye whyche myne aunceteres aforetyme dyd conveigh hider with them from Armoryke which ys to seien Britaine ye Lesse and a certayne holye clerke should allweyes beare my fadir on honde that he owghte uttirly for to frusshe ye same, affyrmynge that yt was fourmed and conflatyed of Sathanas hym selfe by arte magike and dyvellysshe wherefore my fadir dyd take ye same and tobrast yt yn tweyne, but I, John de Vincey, dyd save whool ye tweye partes therof and topeecyd them togydder agayne soe as yee se, on this daye mondaye next followynge after ye feeste of Seynte Marye ye Blessed Vyrgyne yn ye yeere of Salvacioun fowertene hundreth and fyve and fowerti."
Thứ kế tiếp, còn một cái này nữa thôi là đến dòng chữ cuối cùng của thời Elizabeth, đề niên hiệu 1564. “Một câu chuyện vô cùng kỳ lạ, thứ đã làm cha tôi tiêu tốn cả cuộc đời; trong việc tìm kiếm một nơi trên bờ biển phía đông Châu Phi, chiếc thuyền dự phòng của ông bị một thuyền buồm Bồ Đào Nha Lorenzo Marquez đâm chìm, và ông đã tự sát. – John Vincey.”
Rồi đến thứ cuối cùng, rõ ràng đã điều chỉnh phong cách viết, được thực hiện bởi một đại diện gia tộc giữa thế kỷ mười tám. Đó là một trích dẫn sai câu nổi tiếng trong vở Hamlet, như thế này:”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái đất hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi, Horatio.” [*]
[*] Yếu tố khác khiến tôi ấn định niên hiệu của dòng này là giữa thế kỷ mười tám, đó là, khá tò mò, tôi có một bản sao diễn xuất của vở Hamlet, được viết khoảng năm 1740, trong đó có hai dòng này hầu như chính xác đã được trích dẫn sai, và tôi hơi nghi ngờ lẽ nào vị Vincey – người đã viết những dòng này lên mảnh gốm – đã nghe chúng bị nhầm vào thời đó. Tất nhiên, câu đúng thực tế là thế này: ”Có nhiều thứ trên Thiên Đường và trên Trái đất, Horatio, hơn mơ mộng trong triết lý của ngươi.” – L.H.H.
Và giờ chỉ còn lại một tài liệu nữa cần tìm hiểu – đó là Bản Dịch Cổ chữ đen sang tiếng Latin thời trung cổ của phần chữ hoa trên mảnh gốm. Như sẽ thấy, bản dịch này được thực hiện và ký tên vào năm 1495, bởi một “người có học thức”, tên là Edmundus de Prato (Edmund Pratt), có bằng cử nhân Luật Công Giáo, Đại Học Exeter, Oxford, người này thực sự đúng là học trò của Grocyn, học giả đầu tiên dạy tiếng Hy Lạp ở nước Anh. [*] Không nghi ngờ, chắc nhờ danh tiếng đó mới tới tai ông, vị Vincey của ngày đó, có lẽ cũng là John de Vincey – người nhiều năm trước đã cất giữ thánh vật, bảo vệ nó không bị phá hủy và viết dòng chữ màu đen trên mảnh gốm năm 1445 – đã nhanh chóng tới Oxford để xem không chừng có thể phá tan tấm màn bí ẩn của những dòng chữ kỳ bí. Ông không phải thất vọng, vì Edmundus bác học đã đáp ứng được nhiệm vụ. Quả thực bản dịch của ông ta là một ví dụ tuyệt vời cho việc học hành thời trung cổ và phong cách Latin, thậm chí có nguy cơ làm người đọc có học thức chán ngấy với quá nhiều từ cổ, tôi đã quyết tâm làm cho nó một bản sao, cùng với bản mở rộng, vì lợi ích của những người thích ngắn gọn đơn giản. Bản dịch có một số đặc thù, trong đó không có chỗ nào nhấn mạnh, nhưng tôi có thể kêu gọi sự chú ý của các học giả vào đoạn “duxerunt autem nos ad reginam advenaslasaniscoronantium”, cho tôi thấy được đây đúng là một bản dịch rất thú vị của bản gốc “ἤγαγον δὲ ὡς βασίλειαν τὴν τῶν ξένους χύτραις στεφανούντων”.
[*] Grocyn, người hướng dẫn của Erasmus, nghiên cứu tiếng Hy Lạp dưới thời Chalcondylas nhà Byzantine ở Florence, và lần đầu tiên giảng dạy tại Hội Trường Lớn của đại học Exeter, Oxford, năm 1491. – Biên Tập Viên
Bản Dịch Tiếng Latin Thời Trung Cổ chữ đen của Bản Khắc Chữ Hoa trên miếng gốm của Amenartas
Amenartas e gen. reg. Egyptii uxor Callicratis ſacerdot̅ Iſidis qua̅ dei fove̅t demonia atte̅du̅t filiol’ ſuo Tiſiſtheni ia̅ moribu̅da ita ma̅dat: Effugi quo̅da̅ ex Egypto regna̅te Nectanebo cu̅ patre tuo, p̃pter mei amore̅ pejerato. Fugie̅tes aute̅ v’ſus Notu̅ trans mare et xxiiij me̅ſes p’r litora Libye v’ſus Orie̅te̅ errant̃ ubi eſt petra queda̅ m̃gna ſculpta inſtar Ethiop̃ capit̃, deinde dies iiij ab oſt̃ flum̃ m̃gni eiecti p’tim ſubmerſi ſumus p’tim morbo mortui ſum̃: in fine aute̅ a fer̃ ho̅i̅bs portabamur p̃r palud̃ et vada. ubi aviu̅ m’titudo celu̅ obu̅brat dies x. donec advenim̃ ad cavu̅ que̅da̅ monte̅, ubi olim m̃gna urbs erat, caverne quoq̃ im̅e̅ſe: duxeru̅t aute̅ nos ad regina̅ Advenaſlaſaniſcorona̅tiu̅ que magic̃ utebat̃ et peritia omniu̅ rer̃ et ſalte̅ pulcrit̃ et vigore i̅ſe̅eſcibil’ erat. Hec m̃gno patr̃ tui amore p̃culſa p’mu̅ q’de̅ ei con̅ubiu̅ michi morte̅ parabat. poſtea v’ro recuſa̅te Callicrate amore mei et timore regine affecto nos p̃r magica̅ abduxit p’r vias horribil’ ubi eſt puteus ille p̃fu̅dus, cuius iuxta aditu̅ iacebat ſenior̃ philoſophi cadaver, et adve̅ie̅tib̃ mo̅ſtravit flam̅a̅ Vite erecta̅, i̅star columne voluta̅tis, voces emitte̅te̅ q̃ſi tonitrus: tu̅c p̃r igne̅ i̅petu nociuo expers tra̅ſiit et ia̅ ipsa ſeſe formoſior viſa eſt.
Quib̃ fact̃ iuravit ſe patre̅ tuu̅ quoq̃ im̅ortale̅ oſte̅ſura̅ eſſe, ſi me prius occiſa regine co̅tuberniu̅ mallet; neq̃ eni̅ ipſa me occidere valuit, p̃pter noſtratu̅ m̃gica̅ cuius egomet p̃tem habeo. Ille vero nichil huius geñ maluit, manib ante ocul̃ paſſis ne mulier̃ formoſitate̅ adſpiceret: poſtea eu̅ m̃gica p̃cuſſit arte, at mortuu̅ efferebat i̅de cu̅ fletib̃ et vagitib̃, me p̃r timore̅ expulit ad oſtiu̅ m̃gni flumiñ veliuoli porro in nave in qua te peperi, uix poſt dies hvc Athenas invecta ſu̅. At tu, O Tiſiſtheñ, ne q’d quoru̅ ma̅do nauci fac: neceſſe eni̅ eſt muliere̅ exquirere ſi qva Vite myſteriu̅ i̅petres et vi̅dicare, qua̅tu̅ in te eſt, patre̅ tuu̅ Callierat̃ in regine morte. Sin timore ſue aliq̃ cavſa re̅ reli̅quis i̅fecta̅, hoc ipſu̅ oi̅b̃ poſter̃ ma̅do du̅ bonvs q̃s inveniatur qvi ignis lauacru̅ no̅ p̃rhorreſcet et p̃tentia digñ do̅i̅abit̃ ho̅i̅u̅.
Talia dico incredibilia q̃de̅ at min̅e ñcta de reb̃ michi cognitis.
Hec Grece scripta Latine reddidit vir doctus Edm̅ds de Prato, in Decretis Licenciatus e Coll. Exon: Oxon: doctiſſimi Grocyni quondam e pupillis, Id. Apr. Aᵒ. Dn̅i. MCCCCLXXXXV°.
Bản mở rộng của Bản Dịch Tiếng Latin thời trung cổ ở trên
Amenartas, e genere regio Egyptii, uxor Callicratis, sacerdotis Isidis, quam dei fovent demonia attendunt, filiolo suo Tisistheni jam moribunda ita mandat: Effugi quodam ex Egypto, regnante Nectanebo, cum patre tuo, propter mei amorem pejerato. Fugientes autem versus Notum trans mare, et viginti quatuor menses per litora Libye versus Orientem errantes, ubi est petra quedam magna sculpta instar Ethiopis capitis, deinde dies quatuor ab ostio fluminis magni ejecti partim submersi sumus partim morbo mortui sumus: in fine autem a feris hominibus portabamur per paludes et vada, ubi avium multitudo celum obumbrat, dies decem, donec advenimus ad cavum quendam montem, ubi olim magna urbs erat, caverne quoque immense; duxerunt autem nos ad reginam Advenaslasaniscoronantium, que magicâ utebatur et peritiá omnium rerum, et saltem pulcritudine et vigore insenescibilis erat. Hec magno patris tui amore perculsa, primum quidem ei connubium michi mortem parabat; postea vero, recusante Callicrate, amore mei et timore regine affecto, nos per magicam abduxit per vias horribiles ubi est puteus ille profundus, cujus juxta aditum jacebat senioris philosophi cadaver, et advenientibus monstravit flammam Vite erectam, instar columne voluntantis, voces emittentem quasi tonitrus: tunc per ignem impetu nocivo expers transiit et jam ipsa sese formosior visa est.
Quibus factis juravit se patrem tuum quoque immortalem ostensuram esse, si me prius occisa regine contubernium mallet; neque enim ipsa me occidere valuit, propter nostratum magicam cujus egomet partem habeo. Ille vero nichil hujus generis malebat, manibus ante oculos passis, ne mulieris formositatem adspiceret: postea illum magica percussit arte, at mortuum efferebat inde cum fletibus et vagitibus, et me per timorem expulit ad ostium magni fluminis, velivoli, porro in nave, in qua te peperi, vix post dies huc Athenas vecta sum. At tu, O Tisisthenes, ne quid quorum mando nauci fac: necesse enim est mulierem exquirere si qua Vite mysterium impetres et vindicare, quautum in te est, patrem tuum Callieratem in regine morte. Sin timore sue aliqua causa rem reliquis infectam, hoc ipsum omnibus posteris mando, dum bonus quis inveniatur qui ignis lavacrum non perhorrescet, et potentia dignus dominabitur hominum.
Talia dico incredibilia quidem at minime ficta de rebus michi cognitis.
Hec Grece scripta Latine reddidit vir doctus Edmundus de Prato, in Descretis Licenciatus, e Collegio Exoniensi Oxoniensi doctissimi Grocyni quondam e pupillis, Idibus Aprilis Anno Domini MCCCCLXXXXV°.
Cuối cùng khi đã đọc xong và cẩn thận kiểm tra những bản văn tự và các đoạn dịch đó, ít nhất những thứ này vẫn dễ đọc, tôi nói, “Đó là kết luận cho toàn bộ câu chuyện này, Leo, giờ cháu có thể đưa ra quan điểm của chính cháu. Bác đã có quan điểm của mình rồi.”
“Đó là gì?” Cậu ấy nhanh chóng hỏi.
“Là thế này. Bác tin rằng mảnh gốm này hoàn toàn là thật, và thật tuyệt vời, dường như nó đến từ gia tộc của cháu từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Những dòng chữ viết hoàn toàn chứng minh điều đó, do đó, dù không chắc lắm, nhưng câu chuyện này cần phải được chấp nhận. Nhưng bác dừng ở đây thôi. Bà tổ xa xôi của cháu, vị công chúa Ai Cập, hay ai đó ghi chép theo sự chỉ đạo của bà, đã viết những thứ chúng ta thấy trên mảnh gốm, bác không nghi ngờ, cũng không có một chút nghi ngờ nào dù nhỏ nhất, nhưng những đau khổ và mất mát vì chồng đã làm bà ấy phát điên, bà ấy không đúng khi viết nó.”
“Bác giải thích thế nào cho những gì cha cháu đã nhìn và nghe thấy ở đó?” Leo hỏi.
“Trùng hợp ngẫu nhiên. Không nghi ngờ nữa, chắc chắn có những dốc đứng trên bờ biển Châu Phi trông giống cái đầu người, và đầy tộc người nói tiếng Ả Rập bị pha tạp. Bác cũng tin ở đó có nhiều đầm lầy. Một điều nữa, Leo, bác xin lỗi phải nói điều này, nhưng bác không tin ông bố khốn khổ của cháu đã hoàn toàn đúng khi viết lá thư này. Ông ấy đã gặp một sự cố lớn, rồi ông ấy cũng lại cho phép chuyện này trở thành con mồi cho trí tưởng tượng, ông ấy là một người rất giàu trí tượng tưởng. Dù sao đi nữa, bác tin rằng toàn bộ chuyện này là thứ vô giá trị không đáng nhất. Bác biết, có những thứ rất gây tò mò và những sức mạnh trong tự nhiên mà chúng ta hiếm khi gặp, dù chúng ta gặp chúng, cũng không thể hiểu nổi. Nhưng đến khi nào bác tận mắt thấy nó, còn không thì bác sẽ không bao giờ tin có cách nào tránh khỏi cái chết, dù là một lần, hay cả chuyện có hoặc đã có một nữ phù thủy da trắng sống giữa đầm lầy Châu Phi. Đó chỉ là chuyện bậy bạ, cậu bé của tôi, toàn chuyện bậy bạ! – Cậu định nói gì, Job?”
“Thưa ngài, tôi muốn nói, đó là chuyện dối trá, nếu là thật, tôi mong ngài Leo sẽ không can thiệp vào những thứ như thế, vì nó chả có gì hay cả.”
“Có lẽ cả hai người đã đúng,” Leo nói, rất lặng lẽ.”Cháu không có ý kiến gì. Nhưng cháu cần nói điều này. Cháu sẽ để chuyện này lại vì tất cả, và nếu bác không đi với cháu, cháu sẽ tự đi một mình.”
Tôi nhìn chàng trai trẻ, và biết cậu hiểu những gì cậu nói. Khi Leo hiểu những gì cậu ấy nói, cậu ấy thể hiện một vẻ tò mò trên miệng. Đó là tính cách của cậu từ khi còn bé. Bây giờ thực tế là tôi không có ý định cho phép Leo tự đi khắp nơi, dù vì lợi ích của riêng tôi hay của cậu ấy. Tôi đã quá gắn bó với cậu ấy rồi. Tôi không phải là người có nhiều mối quan hệ và tình cảm. Hoàn cảnh đang chống lại tôi trong mối quan hệ này, đàn ông và phụ nữ đều chùn bước trước tôi, hay ít nhất, tôi nghĩ họ như thế, điều đó dẫn đến những việc, những suy nghĩ tương tự, có lẽ thế giới bên ngoài đáng ghét là một chìa khóa nhốt con người tôi lại. Thay vì chịu đựng điều này, ở mức độ lớn hơn, tôi đã tự tách biệt bản thân khỏi thế giới, và tự mình cắt đứt những cơ hội mà với hầu hết mọi người, có thể tạo thành những mối quan hệ ít nhiều thân mật. Vì thế Leo là toàn bộ thế giới đối với tôi – là em trai, là con, và là bạn – cho đến khi cậu ấy mệt mỏi vì tôi, cậu ấy đi đâu tôi cũng theo đó. Nhưng tất nhiên, đừng để cậu ấy thấy cậu ấy là một điểm tựa vĩ đại thế nào với tôi; như thế tôi sẽ che dấu được bằng cách nào đó để có thể dễ dàng buông xuống.
“Phải, cháu sẽ đi bác ạ; nếu cháu không tìm thấy cái ‘Cột Trụ của Sự Sống đang cuộn chảy’, bất cứ giá nào cháu cũng phải thành tay súng hạng nhất.”
Cơ hội đây rồi, tôi tóm lấy ngay lập tức.
“Bắn súng ư?” Tôi nói, “À phải, bác chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Đó hẳn phải là một mảnh đất rất hoang dã và đầy đủ cho một trò chơi lớn. Bác luôn muốn giết được một con bò rừng trước khi chết. Cháu biết không, cậu bé của tôi, bác không tin vào cuộc thám hiểm, nhưng bác tin vào trò chơi lớn, cuối cùng nếu sau khi đã thực sự nghĩ xong xuôi, cháu đã quyết định đi, bác sẽ xin nghỉ phép để đi cùng cháu.”
“A”, Leo nói,” Cháu biết là bác sẽ không để mất cơ hội thế này mà. Nhưng còn tiền bạc thì sao ạ? Chúng ta sẽ cần khá nhiều đấy.”
“Cháu không cần bận tâm về chuyện đó,” Tôi trả lời. “Toàn bộ thu nhập của cháu cộng dồn nhiều năm qua, bên cạnh đó bác cũng tiết kiệm được hai phần ba những gì bố cháu để lại cho bác, vì bác quan tâm, tin tưởng cháu. Có rất nhiều tiền mặt.”
“Rất tuyệt, thế thì chúng ta sắp những thứ này vào và ra thị trấn xem súng thôi. Job, anh cũng đi cùng chứ? Đã đến lúc anh cần nhìn thấy thế giới rồi.”
“Vâng thưa ngài,” Job điềm tĩnh trả lời,”Tôi không ở nước ngoài nhiều lắm, nhưng nếu cả hai quí ngài đã dự định đi, ngài sẽ muốn ai đó chăm sóc cho ngài, và tôi không phải là người dừng lại sau khi đã phục vụ ngài hai mươi năm qua.”
“Phải đấy, Job,” Tôi nói. “Cậu sẽ không tìm thấy cái gì tuyệt vời đâu, nhưng cậu sẽ trở thành tay săn bắn khá. Nào, giờ hãy nhìn đây, cả hai người. Tôi sẽ không nói một từ nào về thứ vô nghĩa này,” và tôi chỉ vào mảnh gốm. “Nếu việc này truyền ra ngoài, và nếu chuyện gì đó xảy ra với tôi, người thân của tôi sẽ tranh chấp di chúc điên cuồng, và tôi sẽ trở thành trò cười ở Cambridge.”
Một ngày của ba tháng sau, chúng tôi đã trên đại dương, tiến tới đảo Zanzibar.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)