Thứ Ba, 24 tháng 1, 2017

Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Tư duy ngược


MƯỜI


TƯ DUY NGƯỢC


Nhiều thành công trong cuộc sống và thành công trong kinh doanh đến từ việc hiểu biết những gì bạn thực sự muốn tránh – như chết sớm và một cuộc hôn nhân tồi.
-          Charles Munger
Hãy tránh khỏi thứ gây ra cái đối lập với những gì bạn muốn đạt được.
“Bạn phải luôn đảo ngược lại”, nhà toán học người Đức thế kỷ 19 Karl Jacobi nói khi được hỏi về bí mật trong các phát hiện toán học của ông. Bất cứ khi nào chúng ta cố gắng để đạt mục tiêu, giải quyết vấn đề, tiên đoán những gì có khả năng xảy ra hoặc có khả năng đúng hay sai, chúng ta nên nghĩ mọi thứ theo hướng ngược lại.

Vào buổi họp hằng tuần với các quản lý, John hỏi: “Công ty chúng ta hành động thế nào để phá hủy càng nhiều giá trị càng tốt trong một thời gian càng ngắn càng tốt?”
“Hãy đối xử với các nhân viên thật tồi tệ. Trao thưởng việc làm xấu. Đừng kêu gọi tính tư lợi của nhân viên mà hãy dùng một mục tiêu không ai hiểu được. Đừng thông báo cho mọi người công ty có ý nghĩa gì, qui tắc nào được áp dụng, và hậu quả nếu phá vỡ chúng. Hãy chắc rằng mọi người không biết phạm vi trách nhiệm của họ. Hãy đặt người đúng vào sai chỗ. Đừng để cho mọi người biết liệu họ có đạt được mục tiêu hay không. Mọi thứ nên không thể đo được. Đừng bao giờ nói cho mọi người tại sao cái đó nên được làm.
Hãy bao quanh CEO bằng những công ty con rắc rối, không năng động. Hãy cho các khách hàng quan trọng lý do để tức giận. Giao hàng chậm và sai, trễ, và kiêu ngạo sẽ trợ giúp. Hãy khiến khách hàng liên kết công ty với sự khốn khổ và hãy chắc rằng cảm giác này được củng cố mỗi khi liên hệ với công ty.”
Tư duy ngược, chúng ta có thể xác định hành động nào nên tránh. Như Charles Munger nói: “Nếu bạn được Ngân hàng Thế giới thuê để giúp Ấn độ, sẽ rất hữu dụng khi xác định ra ba cách tốt nhất làm tăng lượng man-year nghèo đói (man-year: đơn vị tính công hoặc qui mô của dự án, thiết bị, … tính trên một năm) ở Ấn độ, và sau đó, quay trở lại, hãy tránh những cách đó ra.”
Thay cho việc hỏi chúng ta có thể đạt được mục tiêu bằng cách nào, chúng ta hãy hỏi câu hỏi ngược lại: Chúng ta không muốn làm gì để đạt mục tiêu (“không theo mục tiêu”)? Nguyên nhân nào gây ra “không theo mục tiêu”? Tôi có thể tránh nó thế nào? Bây giờ tôi muốn làm gì để đạt được? Tôi có thể làm điều đó thế nào? Ví dụ, thay cho tìm xem John và Mary có thể cải thiện hôn nhân của họ thế nào, họ hỏi: “Điều gì sẽ phá hủy hôn nhân của chúng ta?” Một điều trong đó là không trung thực. Giờ họ đảo câu hỏi ngược lại và hỏi: “Chúng ta có thể cái thiện hôn nhân thế nào?” Hãy trung thực. (Hãy xem bài phát biểu nổi tiếng của Charles Munger về các toa thuốc bảo đảm nghèo khổ trong Phụ Lục Một).
Charles Munger cung cấp một ví dụ nổi bật về làm thế nào các hệ thống trì độn gây ra hành vi trì độn:
Chúng ta hãy nói về việc, bạn có mong ước làm dịch vụ công ích. Như một phần tự nhiên của việc lập kế hoạch, bạn nghĩ ngược lại và hỏi: “Tôi có thể làm gì để phá hủy nền văn minh của chúng ta?” Thật dễ. Nếu những gì bạn muốn làm là phá hủy nền văn minh của bạn, chỉ cần đi đến cơ quan lập pháp và thông qua các đạo luật tạo ra những hệ thống, trong đó, con người có thể dễ dàng lừa gạt nhau. Nó sẽ hoạt động hoàn hảo. Hãy lập hệ thống bồi thường cho công nhân ở California. Stress là thật. Và nỗi khốn khổ của nó là thật. Vì vậy bạn muốn bồi thường cho mọi người bị stress tại nơi làm việc. Có vẻ là một hành động cao quí.
Nhưng rắc rối với hành động bồi thường là, xóa bỏ một lượng lớn gian lận là việc bất khả thi. Và một khi bạn trao thưởng cho việc gian lận, bạn nhận được các luật sư quanh co, các bác sỹ quanh co, các hiệp hội quanh co, …cùng tham gia vào chương trình giới thiệu. Bạn nhận được toàn khí độc từ một hành vi tai hại. Hành vi này khiến tất cả mọi người làm nó trở nên tồi tệ hơn. Vì vậy, bạn đang cố gắng giúp nền văn minh của bạn. Nhưng cái bạn làm đã tạo một thiệt hại khổng lồ. Vì vậy tốt hơn cả, hãy để mọi thứ đi theo hướng không được bồi thường – để cuộc sống khó khăn – hơn là tạo ra các hệ thống dễ gian lận.

“Đừng nghĩ về màu đỏ!”
Nếu ai đó nói với bạn đừng nghĩ về màu đỏ, bạn có lẽ sẽ tự động nghĩ về màu đó. Tại sao? Vì để biết cái gì không nên nghĩ về, não trước tiên phải nghĩ về nó đã. Khi John đang đi đánh golf và cố gắng đánh qua bẫy nước phía trước bãi cỏ xanh, anh ấy không nói với bản thân: “Tôi không muốn đánh quả bóng xuống nước,” mà thay vào đó “Tôi muốn đánh quả bóng lên bãi cỏ xanh.” Vì vậy, khi chúng ta nói với mọi người cái gì cần tránh, chúng ta nên kết thúc với cái chúng ta muốn đạt được.

Nghiên cứu sai lầm.
Marcus Porcius Cato viết: “Người khôn ngoan thu lợi từ người ngu ngốc nhiều hơn người ngu ngốc làm với người khôn ngoan; vì người khôn ngoan tránh các sai lầm của người ngu ngốc, nhưng người ngu ngốc lại không bắt chước thành công của người khôn ngoan.”
Để giảm sai lầm, chúng ta nên nghiên cứu các thất bại với những hậu quả nghiêm trọng. Cả trong kinh doanh và trong cuộc sống. Chúng ta nên nhìn vào nguyên nhân của chúng theo thời gian và xem liệu chúng có không đổi không.
Chúng ta thường học từ việc hiểu rõ tại sao cái gì đó không làm việc hơn là từ tại sao nó lại làm việc. Các nghiên cứu cũng cho thấy việc đào tạo theo các câu chuyện về sai lầm bi tráng là một phương pháp hiệu quả để học. Các lỗi đều nổi bật và dễ nhớ. Nghiên cứu lỗi khuyến khích suy nghĩ hiệu quả, và cải thiện khả năng ứng xử của chúng ta với biến đổi và những tình huống mới hoặc không bình thường. Hãy hỏi: Tại sao điều đó xảy ra? Tại sao vài doanh nghiệp lại mất tiền hay thất bại? Tại sao người thông minh lại có hành vi ngu ngốc? Tại sao những vụ tai nạn nào đó xảy ra? Sai lầm nào gây hiệu quả thấp? Hoàn cảnh nào đang hiện hữu? Bài học là gì?
Khi chúng ta biết điều này, chúng ta nên hỏi: Những người nào hay việc kinh doanh nào là những thứ mà lịch sử đã chứng minh sẽ thất bại? Cách tốt nhất chúng ta có thể tránh khỏi những gì chúng ta không muốn xảy ra? Chúng ta có thể tạo ra những điều kiện tốt nhất để tránh sai lầm như thế nào? Chúng ta có thể ngăn chặn những nguyên nhân không thể loại bỏ như thế nào? Chúng ta có thể hạn chế hậu quả của những gì chúng ta muốn tránh như thế nào? Chúng ta muốn hạn chế xác suất của những thứ chúng ta muốn tránh như thế nào?
Chúng ta có thể tổ chức nghiên cứu về các lỗi lầm, bằng cách sử dụng bảng sau:
Thứ cần tránh
Nguyên nhân
Thuốc giải
Sai lầm là gì?
Tại sao những thứ đó xảy ra?
Các yếu tố rủi ro chính là gì?
Các lỗi cụ thể tham gia vào như thế nào?
Các yếu tố nào góp phần vào?
Sự ngu ngốc/ bất hợp lý
Ý tưởng lớn giúp giải thích và tiên đoán?
Cái gì hợp lý?
Tôi có thể tạo ra các điều kiện tốt nhất để ra quyết định tốt như thế nào?
Điều gì có thể được loại bỏ hay ngăn chặn?

Hãy biến tiêu cực thành lợi thế.
Năm 1796, nhà vật lý người Anh Edward Jenner phát hiện ra vắc xin. Ông nhận thấy rằng các cô gái vắt sữa bò bị một dạng virut thủy đậu nhẹ và thường không gây chết người – bệnh đậu mùa – có vẻ như miễn dịch với dạng chết người của virut bệnh đậu mùa. Sau đó ông lấy các mẫu từ các vết thương của một cô gái vắt sữa và cấy vào một cậu bé bệnh đậu mùa. Cậu bé xây dựng những kháng thể trong hệ thống miễn dịch của mình để ngăn cậu không bị đậu mùa và sau đó sống sót trong dịch bệnh.
Hãy bắt đầu với một cái kết trong đầu.
Trong thế kỷ thứ 4, nhà toán học người Hy Lạp Pappus of Alexandria viết: “Chúng ta hãy bắt đầu với thứ đang được tìm kiếm và giả thiết rằng chúng ta đã tìm thấy nó.” Hãy giả thiết chúng ta đã đạt được mục đích, rồi hỏi: Mục đích là gì? Điều này là những gì tôi muốn? Nếu vậy, tôi đến đó từ đâu trong các vị trí trước đó? Điều gì cần thiết để đạt được nó? Sau đó hãy quay ngược lại lúc bắt đầu. Bằng cách làm việc ngược, chúng ta có thể nhìn dễ dàng hơn cách thức và liệu cái gì đó có làm việc không. Một ví dụ của điều này là các nghiên cứu ngược về bệnh dịch. Các nhà nghiên cứu một căn bệnh sẽ làm việc ngược trở lại để xem các điều kiện đi kèm với nó trước đó là gì.

“Chúng ta cần kỷ luật trong trường học.”
Hậu quả là gì nếu câu này sai? Quay câu phát biểu này ngược lại và sẽ thấy đối lập với nó còn tệ hơn. Hậu quả là gì? Không thể tin được hay tiêu cực? Giả sử không có kỷ luật trong trường học, liệu có thể có nhiều hành vi chúng ta không muốn hơn không?
Khi chúng ta tin mình đang đánh giá đúng, chúng ta nên xem xét điều gì có thể gây ra cái đối lập với tiên đoán của chúng ta – những cái chúng ta không muốn xảy ra. Giả sử chúng ta đánh giá một nhân cách và kết luận rằng cá nhân có nhân cách tốt và chúng ta muốn bước vào một mối quan hệ. Hãy hỏi: Điều gì có thể phá hủy mối quan hệ này? Điều gì khiến tôi đánh giá sai nhân cách?
Những ứng dụng khác của tư duy ngược là: Nghiên cứu bằng chứng ám chỉ cái đối lập với thứ bình thường và hỏi “tại sao”. Sử dụng các qui tắc “tiêu cực” – hãy nói với mọi người rằng họ không thể làm. Thực hành cách tư duy cơ sở “không” – bắt đầu với một tờ giấy trắng và hỏi: Nếu chúng ta không làm việc chúng ta đã làm, chúng ta có thể đạt được mục tiêu bằng cách nào tốt nhất?
Chương tiếp theo về rủi ro hay xác suất thua lỗ, mất mát. Nếu chúng ta để đầu vào miệng sư tử, chúng ta không nên ngạc nhiên nếu bị cắn.


Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Bằng chứng


CHÍN


BẰNG CHỨNG


Tin vào lời đề nghị khi không có chỗ cho nó thành sự thật là điều không ai muốn.
-          Bertrand Russell

Bằng chứng giúp chúng ta chứng minh điều gì có thể xảy ra hay có thể đúng hoặc sai. Bằng chứng đến từ thực tế, quan sát, kinh nghiệm, so sánh, và thí nghiệm.

Các phương pháp khoa học
Thực tế, có 2 thứ: khoa học và quan điểm; thứ đầu sinh ra tri thức, thứ sau thiếu tri thức.
-          Hippocrates

Tôi có thể làm thí nghiệm nào để tìm ra điều này?
Năm 1986, tàu vũ trụ con thoi Challenger bị nổ khi phóng lên, giết chết toàn bộ các phi hành gia trên khoang. Sau thảm họa, NASA đã xem xét lại và Richard Feynman cho thấy tên lửa tăng cường nhiên liệu không an toàn khi nhiệt độ lạnh. Nhiệt độ lúc cất cánh là 32 F. Trong suốt quá trình phóng, các rung lắc khiến các khớp tên lửa di chuyển. Trong các khớp tên lửa, có các vòng cao su hình chữ O được dùng trong một giai đoạn then chốt trong hệ thống phân phối nhiên liệu của tàu con thoi.
Richard Feynman đã làm một thí nghiệm đơn giản với vòng cao su hình chữ O từ tên lửa của Challenger. Ông bóp những chiếc vòng trong một kẹp chữ C và nhúng chúng vào một cốc nước đá (32F) và thấy cao su không nở ra. Vì cao su không có khả năng phục hồi ở 32F, vòng chữ O không thể điền đầy khe hở giữa các khớp tăng cường của tên lửa đang mở rộng. Kết quả gây ra vụ nổ giữa bộ tăng cường và tàu con thoi.
Điều này cũng minh họa, một thí nghiệm không phải làm phức tạp.
Hãy làm những gì các nhà khoa học làm: chiến đấu vì tính khách quan. Các nhà khoa học cố gắng mô tả thế giới như nó vốn thế, chứ không phải như họ muốn nó như thế. Họ tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi “tại sao” và “thế nào”, cố gắng tiên đoán hiện tượng và các qui trình tự nhiên bằng cách sử dụng các phương pháp ngay thẳng khoa học. Adam Smith đã nói trong cuốn An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nation (Điều tra đặc trưng và nguyên nhân của tài sản quốc gia): “Khoa học là liều thuốc giải độc vĩ đại cho độc dược của lòng nhiệt tình và sự mê tín.”
Qui trình khoa học gồm các bước sau (tất nhiên, thử và sai, may mắn và trực giác cũng là vấn đề - các nhà khoa học sử dụng bất kỳ phương pháp nào giúp họ giải quyết được vấn đề):
Bài toán, vấn đề hoặc quan sát – Chúng ta cố gắng tìm ra một cái gì đó. Chúng ta có một bài toán hoặc chúng ta quan sát một hiện tượng và tự hỏi chuyện gì đã xảy ra và tại sao (vấn để ở đây là chuyện gì đã xảy ra).
Đoán tại sao – Chúng ta cố tìm một lời giải khả thi hoặc một giải thích (một giả thuyết cái gì đó tại sao xảy ra và xảy ra như thế nào) có thể được chứng minh hoặc bị phản bác bằng cách thử nghiệm nó qua thí nghiệm hoặc quan sát. Có lẽ vài qui tắc hoặc mô hình có thể giải quyết bài toán hoặc giải thích được quan sát của chúng ta. Phỏng đoán của chúng ta phải có khả năng đo được và thống nhất với tự nhiên và bằng chứng được chứng minh.
Tiên đoán hậu quả - Chúng ta làm việc với những hậu quả logic của phỏng đoán của chúng ta và nhìn xem cái gì có thể được ám chỉ nếu phỏng đoán của chúng ta đúng.
Thử nghiệm – “Nếu tôi làm điều này, chuyện gì sẽ xảy ra?” Khả năng thử nghiệm được là then chốt. Chúng ta so sánh các hậu quả ám chỉ từ phỏng đoán của mình bằng thí nghiệm, bằng chứng, và quan sát. Chúng ta lặp lại thí nghiệm trước lỗi, gian lận, trùng hợp ngẫu nhiên và biến đổi trong hoàn cảnh hoặc môi trường. Chúng ta thông báo các kết quả của mình một cách trung thực. Càng nhiều bằng chứng xác nhận phỏng đoán của chúng ta, phỏng đoán càng có khả năng đúng. Nếu phỏng đoán bất đồng với thí nghiệm hoặc bằng chứng, nó là sai. Như Richard Feynman nói:
Phỏng đoán của bạn đẹp đẽ thế nào không tạo nên bất kỳ điều gì khác biệt. Cũng không tạo nên bất kỳ điều gì khác biệt khi bạn thông minh đến mức nào, khi ai là người phỏng đoán, hoặc khi tên bạn là gì – nếu nó khác với thí nghiệm, nó là sai.
Darwin nhận ra rằng để một quan sát được ứng dụng, nó phải được thử nghiệm cho hoặc trước một lý thuyết, giả thuyết hay mô hình (nếu chúng ta không “đoán tại sao”, có thể không có thí nghiệm nào vì thử nghiệm không có gì để chỉ dẫn cho nó). Trên tàu HMS Beagle, trong một bức thư gửi cho bạn mình Henry Fawcett, Darwin viết:
Khoảng 30 năm trước có nhiều tranh luận rằng các nhà địa chất học chỉ phải quan sát và không được đặt ra giả thuyết; và tôi vẫn nhớ rõ ai đó nói rằng với tốc độ này một người bình thường cũng có thể đi vào hố sỏi, đếm các viên sỏi và mô tả màu sắc. Thật kì lạ biết bao khi ai đó không nên nhìn nhận rằng toàn bộ quan sát phải ủng hộ hoặc chống lại một quan điểm nào đó nếu nó thuộc về bất kỳ ngành nào.
Chúng ta không chỉ quan sát một hành vi nào đó; chúng ta quan sát với mục đích trong đầu hoặc trong ánh sáng của một học thuyết nào đó, hoặc với nền tảng về một điều quan trọng cần tìm kiếm. Tương tự khi chúng ta tìm kiếm thông tin. Charles Munger nói:
… bạn phải có ý tưởng về lý do tại sao bạn tìm kiếm thông tin. Đừng đọc các báo cáo hằng năm theo cách Francis Bacon bảo bạn làm khoa học… trong đó bạn chỉ thu thập những dữ liệu vô hạn [một số lớn dữ liệu] và rồi chỉ sau đó thôi bạn cố gắng làm cho nó có ý nghĩa. Bạn phải bắt đầu với những ý tưởng thực tế. Sau đó bạn phải nhìn xem những điều bạn đang nhìn thấy có khớp với cấu trúc mà bạn nghĩ là cơ bản không.
Dao cạo của Occam là nguyên lý cống hiến bởi nhà logic học thế kỷ 14 William of Occam: “Các thực thể không nên bị nhân lên không cần thiết.” Nếu chúng ta đối mặt với hai lời giải thích khả thi cho cùng một tiên đoán, cái dựa trên số lượng ít nhất các giả thiết không thể chứng minh sẽ được ưu tiên hơn, cho đến khi nhiều bằng chứng hơn xuất hiện. Occam không loại trừ các lời giải thích khác. Albert Einstein chú thích: “Các lý thuyết nên càng đơn giản càng tốt, nhưng đừng đơn giản hơn.”

Tìm bằng chứng từ quá khứ
Nhìn quá khứ đoán tương lai.
-          Khổng Tử

John đang suy nghĩ về việc thuê một quản lý mới. Ghi chép quá khứ của quản lý hiện tại có vấn đề gì chăng?
Warren Buffett nói:
Đánh giá tốt nhất chúng ta có thể làm về khả năng quản lý không được phụ thuộc vào những gì người ta nói, mà đơn giản là những gì bản ghi chép thể hiện. Tại Berkshire Hathaway, khi chúng tôi mua một doanh nghiệp, chúng tôi thường giữ lại bất kỳ ai đã và đang vận hành nó, vì vậy chúng tôi có một con số trung bình. Hãy lấy trường hợp của bà B. người đang quản lý Trung tâm Nội thất của chúng tôi. Hơn 50 năm qua, chúng tôi nhìn thấy bà ấy lấy $500 đưa nó vào vụ kinh doanh tạo ra $18 triệu trước thuế. Vì vậy chúng tôi biết bà ấy là người có khả năng… Rõ ràng, bài học ở đây là các bản ghi chép quá khứ là chỉ dẫn đơn lẻ tốt nhất.
Rồi sau đó bạn bước vào vấn đề với con ngựa 14 tuổi. Chúng tôi nói với bạn hãy mua The Daily Racing Form (hình thức đua ngựa hằng ngày) và thấy con ngựa đó thắng trận Kentucky Derby khi 4 tuổi. Dựa trên thành tích quá khứ, bạn biết rằng điều đó thật là địa ngục đối với một con ngựa. Nhưng giờ nó 14 tuổi và hầu như không thể di chuyển. Vì thế bạn phải tự hỏi, “Liệu có vấn đề gì về bản ghi quá khứ khiến nó trở thành một chỉ dẫn tồi khi tiên đoán tương lai?”
Các câu hỏi sau giúp chúng ta quyết định liệu bằng chứng quá khứ có đại diện cho tương lai hay không:
Quan sát: Hành vi quá khứ/hiện tại vẫn sẽ tiếp tục? Nó có thể tiếp tục trong bao lâu nữa?
Giải thích: Tại sao nó đã xảy ra trong quá khứ hoặc tại sao nó xảy ra bây giờ? Nó đã xảy ra như thế nào? Chúng ta phải hiểu các lý do tại sao kết quả quá khứ xảy ra. Các yếu tố chính là gì? Nó đòi hỏi chúng ta hiểu phương trình – các biến số then chốt tham gia và các quan hệ của chúng. Hãy bắt đầu bằng một giả thuyết. Hãy so sánh các hậu quả ẩn chứa trong lời lý giải nguyên nhân với bằng chứng phù hợp - ủng hộ và chống lại.
Tiên đoán: Bằng chứng quá khứ/hiện tại có khả năng tiên đoán (đại diện) như thế nào đối với thứ có khả năng xảy ra trong tương lai? Hãy chắc chắn bằng chứng không phải ngẫu nhiên. Cái làm việc trong quá khứ có thể là kết quả của ngẫu nhiên.
Nối tiếp và thay đổi: Điều gì cần có để các bản ghi quá khứ/hiện tại tiếp tục hoặc để đạt được mục tiêu (nhìn lại vào phương trình)? Cái gì phải xảy ra? Cái gì không phải xảy ra? Những lực nào có thể thay đổi nó hoặc gây ra cái ta không muốn? Khả năng bao nhiêu? Thuốc giải độc cho những gì ta không muốn xảy ra?
Chắc chắn và hậu quả: Tôi có bao nhiêu chắc chắn? Sự kiện đơn lẻ nào tôi cá là nó phải xảy ra hoặc không xảy ra? Hậu quả là gì nếu sai?

Làm sai lệch và Phản chứng
Tất cả các ý kiến thường thức của chúng ta luôn luôn nên rộng mở cho những lời chỉ trích.
-          Karl Popper (nhà triết học người Áo – Anh, 1902 – 1994)

Các kết quả khoa học luôn luôn có một xác suất đi kèm với nó. Ngày mai sẽ mang đến những bằng chứng mới. Thay vì kiểm tra lại phát biểu, đôi khi tốt hơn là chứng minh nó sai. Một mẩu bằng chứng đơn lẻ được ưu tiên trong phát biểu không chứng minh được sự thật của nó – nó chỉ hỗ trợ sự thật. Nhưng một mẩu bằng chứng chống lại nó sẽ cho thấy nó sai. Albert Einstein nói: “Không phải nhiều thí nghiệm có thể chứng minh tôi đúng; nhưng chỉ một thí nghiệm có thể chứng minh tôi sai.”

“Tất cả thiên nga đều trắng.”
Chúng ta kiểm nghiệm câu phát biểu này thế nào? Chúng ta có thể mở mắt, đi ra ngoài tìm những con thiên nga không trắng. Nếu chúng ta tìm thấy một con thiên nga không trắng, chúng ta đã bác bỏ câu phát biểu trên. Chúng ta càng tìm thấy nhiều thiên nga trắng, câu phát biểu trên càng được hỗ trợ. Nhưng nó không được chứng minh. Một con thiên nga đen thôi và câu phát biểu trên bị loại bỏ.

“Vũ trụ không nhiều hơn 10,000 năm tuổi.”
Thí nghiệm nào chúng ta có thể tiến hành để khiến câu phát biểu trên sai? Chúng ta có thể tìm kiếm trên bầu trời và quan sát các vì sao cách chúng ta vài triệu năm ánh sáng. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang nhìn thấy chúng khi chúng ở vài triệu năm trước.

“Phương pháp điều trị bệnh này thật tốt. Tôi đã được chữa khỏi.” “So sánh với cái gì?”
Chúng ta có thể kiểm tra việc chữa khỏi là do phương pháp điều trị, người bán thuốc tốt, sức mạnh của lời đề nghị hay sự tưởng tượng của bệnh nhân không? Để giảm lỗi và thiên kiến, các nghiên cứu y tế sử dụng một nghiên cứu đối chứng cặp giả dược mù, ngẫu nhiên hóa. Các đối tượng nghiên cứu ngẫu nhiên chia thành hai nhóm phù hợp với nhau về tuổi tác, tình trạng thể chất và các yếu tố khác. Một nhóm nhận được phương pháp điều trị này và nhóm kia dùng giả dược. Cả các đối tượng nghiên cứu và các nhà nghiên cứu đều không biết ai nhận được phương pháp nào. Sau đó, các nhà nghiên cứu so sánh hiệu ứng.

“Không có rủi ro nào khi sử dụng thuốc này.”
Không có bằng chứng về tổn hại (hay lợi ích), điều này không giống như bằng chứng cho cái gì đó an toàn (hay có hại). Chỉ an toàn (hay có hại) dựa trên những gì chúng ta biết cho đến nay. So sánh khảo cổ học – chỉ vì cái gì đó đã không được tìm ra không có nghĩa là nó sẽ không được tìm ra.
Hãy phản bác lại các ý tưởng. Charles Darwin luôn nhìn vào khả năng ông có thể sai:
Trong nhiều năm, tôi cũng có theo đuổi qui tắc vàng, gọi tên như vậy, vì bất cứ khi nào một mẫu thực tế được công bố, một quan sát mới hoặc ý nghĩ xuất hiện trong tôi, đối lập với các kết quả nói chung của tôi, tôi liền ghi lại nó chính xác cùng lúc đó: vì bằng kinh nghiệm tôi đã thấy rằng những mẫu thực tế và suy nghĩ như vậy thường nhanh chóng ra khỏi bộ nhớ hơn những thứ ưu ái khác. Làm chủ thói quen này, rất ít phản đối sinh ra chống lại quan điểm của tôi mà ít nhất tôi không nhận biết hay nỗ lực trả lời được…
Tôi nghĩ rằng tôi trở nên có kỹ năng hơn một chút trong phỏng đoán các giải thích đúng đắn và phát minh ra các thử nghiệm; nhưng điều này chắc có lẽ là kết quả của thực hành, và của một kho kiến thức rộng lớn. Tôi đã gặp nhiều khó khăn chưa bao giờ gặp khi tự diễn đạt rõ ràng và chính xác; và khó khăn này khiến tôi mất nhiều thời gian; nhưng nó có lợi thế bù lại khi buộc tôi nghĩ lâu hơn và chăm chú hơn về từng câu, do đó tôi được dẫn dắt để nhìn ra lỗi trong lập luận và trong các quan sát của chính tôi hay của người khác.

“Vì có nhiều bằng chứng xác thực giải thích của tôi, tôi phải đúng.”
Không nhất thiết, cùng bằng chứng đó có thể xác thực cả những giải thích khác. Hãy tìm kiếm bằng chứng phản bác lại giải thích của bạn.
Đừng dùng thời gian cho những ý tưởng đã bị bác bỏ hoặc những thứ không thể bác bỏ. Hãy hỏi: Thử nghiệm nào có thể bác bỏ điều đó? Ví dụ, ai đó nói với chúng ta rằng có sự sống trên hành tinh Zeta. Điều đó không thể thử nghiệm. Không có nghĩa là không có sự sống trên hành tinh này. Chỉ có nghĩa là không có cách nào chúng ta có thể kiểm tra nó ngay hôm nay.
Các lý thuyết dựa trên quan sát có ưu tiên cao hơn những lý thuyết đơn độc vì quan sát có thể bác bỏ các giả thuyết. Galileo Galilei đặt cơ sở cho các lý thuyết của ông dựa trên các quan sát trong cuộc tranh luận liệu mặt trời có quay quanh trái đất không.
Hãy tham gia tự phê bình. Hãy đặt câu hỏi cho các giả thuyết của bạn. Hãy giải thích cái đối lập với niềm tin của bạn. Hãy hỏi: Giả sử tôi sai, làm sao tôi biết điều đó? Tại sao một lý thuyết đối lập có thể đúng? Giả sử câu trả lời của tôi đúng, điều gì có thể khiến tôi thay đổi suy nghĩ? Sau đó, hãy tìm kiếm bằng chứng.
Chúng ta thường không nhìn vào điểm yếu của bản thân và do đó không tạo động lực để cải thiện. Vì vậy, hãy khuyến khích đúng người đưa ra các phản hồi mang tính xây dựng để giúp chúng ta cải thiện.
Hãy nhìn ngược lại và đo xem bạn đã làm ngược lại các lập luận ban đầu của mình như thế nào. Hãy tìm ra lỗi sớm và sửa chúng nhanh chóng trước khi chúng gây tác hại.
Công cụ tiếp theo buộc chúng ta phải khách quan. Charles Munger nói về cách tư duy ngược:
Thói quen trí óc của việc tư duy ngược buộc phải khách quan – vì một trong những con đường để bạn nghĩ về một thứ ngược lại là bạn lấy giả thuyết ban đầu và nói “Hãy thử bác bỏ nó.”
Đó không phải thứ mà hầu hết mọi người đều làm với giả thuyết ban đầu của mình. Họ cố gắng xác nhận nó. Đó là một xu hướng tự động trong tâm lý – thường gọi là “thiên kiến kết luận đầu tiên”. Nhưng đó chỉ là một xu hướng. Bạn có thể tự đào tạo mình tránh xa xu hướng đó tới mức độ bền bỉ. Bạn chỉ liên tục lấy giả thiết của mình và cố gắng bác bỏ nó.
         

Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Định lượng


TÁM


ĐỊNH LƯỢNG


Nói có nghĩa, là nói bằng con số. Thật vô dụng khi nói quốc gia này lớn. - Lớn bao nhiêu? Thật vô dụng khi nói radium đáng sợ, - Đáng sợ thế nào?
-          Alfred North Whitehead (trích từ Aims of Education (Mục tiêu của giáo dục))

Hầu hết các khía cạnh trong đời sống của chúng ta đều phụ thuộc vào năng lực định lượng và hiểu biết các mô hình mẫu, các quan hệ, tỷ lệ, hay độ lớn. Toán học để làm gì? Nó giúp chúng ta xây dựng các kết quả, và đánh giá khi nào những thứ này có nghĩa. Và toán học là ổn định. Hai cộng hai bằng bốn là đúng từ 1 triệu năm trước và sẽ đúng cả 1 triệu năm sau nữa.
Khi chúng ta dịch cái gì đó thành các con số, chúng ta có thể so sánh. Chúng ta có thể đánh giá một quyết định thông minh hay không thế nào nếu chúng ta không thể đo được nó theo một thước đo tương ứng quan trọng?
Vài thứ không thể đo được chính xác, vì thế ước lượng một khoảng là lựa chọn tốt nhất.
“Đúng nhờ làm tròn tốt hơn sai một cách chính xác.” J.M. Keynes nói vậy. Đừng quá chú tâm vào cái có thể đếm được và đừng xem nhẹ cái không thể. Nhận thức tính cụ thể sai – thường chúng ta tin rằng dữ liệu dựa trên các con số có nhiều chữ số sau dấu phẩy sẽ chính xác hơn chỉ toàn từ ngữ. Charles Munger nói:
Bạn có một hệ thống phức tạp, nó ném ra nhiều con số tuyệt vời cho phép bạn đo vài yếu tố. Nhưng có những yếu tố khác quan trọng khủng khiếp và bạn không thể tính ra số cho chúng một cách chính xác. Bạn biết chúng quan trọng nhưng bạn không có các con số. Vâng, mọi người đều quá nghiêm trọng chuyện có thể tính toán được không, vì đó là kỹ thuật họ được dạy trong trường, mà không lẫn lộn với chuyện “khó mà đo được” - có thể chuyện này còn quan trọng hơn.
Hãy minh họa tầm quan trọng của lượng hóa với các ví dụ từ việc kinh doanh và đầu tư trên toàn thế giới.

Bao nhiêu vốn cần để tạo ra một đô la trong dòng tiền?
Lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) tạo nên sự khác biệt? Giả sử hai vụ kinh doanh – X và Y – sinh ra cùng một doanh thu tiền mặt như nhau $10 triệu và tỷ lệ tăng trưởng bền vững là 5%. Sự khác biệt nằm ở bao nhiêu vốn họ dùng để tạo ra doanh thu này. X cần $100 triệu và Y cần $40 triệu. Có nghĩa là lợi nhuận trên vốn đầu tư  ROI của họ là 10% và 25%. Cũng có nghĩa là họ khác biệt trong dòng tiền tự do (sau khi tái đầu tư) hoặc tiền mặt có thể chia. X sinh ra $5 triệu và Y sinh ra $8 triệu. Lợi nhuận trên vốn đầu tư tạo ra sự khác biệt trong giá trị.

X
Y
Vốn đầu tư
100
40
Dòng tiền tự do
10
10
Vốn tái đầu tư
-5
-2
Lợi nhuận trên vốn tái đầu tư
10%
25%
Dòng tiền có sẵn để phân bổ
5
8
Giá trị khi tỷ lệ chiết khấu 10%
100 (5/(0.1-0.05))
160

Warren Buffett mô tả những thương vụ kinh doanh nào tốt nhất để sở hữu:
Bỏ câu hỏi về giá sang một bên, thương vụ kinh doanh tốt nhất để sở hữu là thương vụ có thể thuê được số lượng lớn vốn tăng dần với tỷ lệ hoàn vốn cao trong một khoảng thời gian đủ rộng. Vụ kinh doanh tệ nhất để sở hữu là cái phải, hoặc sẽ, làm điều ngược lại – thuê liên tục được một lượng vốn có thể còn lớn hơn thế với tỷ lệ hoàn vốn rất thấp.

Doanh thu cao hơn sẽ gây gấn tượng với chúng ta?
Warren Buffett đưa ra một ví dụ từ một trong các công ty con của Berkshire:
Trong khi việc tăng doanh thu từ $8 triệu tới $72 triệu nghe có vẻ khinh khủng – thông thường – bạn không nên tự động giả thiết điều đó cho một tình huống. Trước tiên, bạn phải chắc chắn rằng doanh thu không bị giảm trong năm cơ sở. Nếu thay vào đó chúng bền vững với vốn thuê, một điểm quan trọng hơn phải được kiểm tra: bao nhiêu vốn thêm vào để tạo ra lợi nhuận thêm vào?
Chúng ta cần hiểu chuyện gì đằng sau các con số. Warren Buffett nói rằng, “lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ban đầu” là “thước đo phù hợp nhất cho hiệu quả quản lý một năm cụ thể”. Ứng dụng đã nói của thước đo đó, tuy nhiên, đòi hỏi hiểu rõ nhiều yếu tố, bao gồm chính sách kế toán, giá trị ghi sổ của tài sản, đòn bẩy tài chính, và các điều kiện công nghiệp.”
Chúng ta không thể kỳ vọng thu được lợi nhuận trên đầu tư theo thời gian cao hơn nghiệp vụ kinh doanh cơ bản sinh ra trên vốn đầu tư theo thời gian. Charles Munger nói:
Trong dài hạn, thật khó để một cổ phiếu kiếm được lợi nhuận nhiều hơn một việc kinh doanh cơ bản kiếm được. Nếu việc kinh doanh kiếm 6% trên vốn trong 40 năm và bạn duy trì nó 40 năm, bạn sẽ không tạo nên khác biệt so với 6% lợi nhuận – thậm chí nếu bạn mua nguyên gốc với tỷ lệ chiết khấu lớn – Ngược lại, nếu việc kinh doanh kiếm 18% lợi nhuận trên vốn trong 20 hay 30 năm, thậm chí nếu bạn trả một cái giá có vẻ rất đắt, bạn cũng sẽ kết thúc với kết quả tốt đẹp.
Số ít công ty có thể quản lý, theo giai đoạn 10 hoặc 20 năm, để duy trì lợi nhuận cao khoảng 20% hoặc hơn trên vốn đầu tư trong khi tái đầu tư toàn bộ hoặc phần lớn doanh thu của họ. Những thay đổi trong phạm vi cạnh tranh, thói quen người mua, và môi trường hầu hết sẽ tạo ra sự chắc chắn.
Warren Buffett tiết lộ giới hạn của tăng trưởng doanh thu và các tiên đoán ngạo mạn sẽ dẫn đến hành vi ngu ngốc như thế nào:
Hãy kiểm tra bản ghi của 200 công ty có doanh thu cao nhất từ 1970 hoặc 1980 và phân loại có bao nhiêu công ty đã làm tăng doanh thu trên cổ phần (EPS) lên 15% hằng năm kể từ ngày đó. Bạn sẽ thấy rằng chỉ có một bàn tay. Tôi cược với bạn một con số tổng rất cụ thể rằng có ít hơn 10 trong số 200 công ty có lợi nhuận cao nhất đó trong năm 2000 sẽ đạt được 15% tăng trưởng hằng năm về EPS trong 20 năm kế tiếp.
Ông tiếp tục:
Cuối cùng, hãy nghi ngờ những công ty gióng trống khua chiêng cho các mục tiêu doanh thu và kỳ vọng tăng trưởng. Hiếm có doanh nghiệp nào vận hành trong một môi trường yên tĩnh, không gây ngạc nhiên, và doanh thu đơn giản không tiến lên suôn sẻ (trừ khi, tất nhiên, nằm trong danh sách mời chào của các ngân hàng đầu tư).
Charlie và tôi không chỉ không biết hôm nay việc kinh doanh của chúng tôi sẽ kiếm được bao nhiêu năm tới – chúng tôi thậm chí không biết chúng sẽ thu được trong quí tới là bao nhiêu. Chúng tôi nghi ngờ các CEO suốt ngày tuyên bố họ biết tương lai – và chúng tôi trở nên hết sức hoài nghi nếu họ đạt được mục tiêu đã tuyên bố. Các nhà quản lý luôn luôn hứa hẹn “tạo ra các con số” đến lúc nào đó sẽ bị dụ dỗ dựng nên các con số.

Bỗng nhiên cầu giảm và cạnh tranh về giá nổi lên.
 Thay đổi trong tốc độ tăng trưởng làm thay đổi giá trị kinh doanh như thế nào? Giá trị kinh doanh là một chức năng của khối lượng và thời điểm của dòng tiền trong tương lai. Nếu dòng tiền giảm và/hoặc không xuất hiện trong tương lai, giá trị kinh doanh sẽ giảm.
Warren Buffett minh họa việc định giá phải thay đổi như thế nào khi các kỳ vọng tăng trưởng bị sửa lại:
Vài năm trước, sự khôn ngoan thông thường cho rằng các tài sản báo chí, truyền hình hay tạp chí có thể tăng doanh thu vĩnh viễn mức 6% hằng năm và có thể làm thế mà không cần thuê thêm vốn, vì lý do đó, chi phí khấu hao có thể được làm tròn khớp với các chi phí vốn và các yêu cầu về vốn làm việc có thể nhỏ đi. Như vậy, doanh thu báo cáo (trước khi trích khấu hao tài sản vô hình) cũng là doanh thu tự do có thể chia, có nghĩa là quyền sở hữu một tài sản truyền thông có thể được hiểu giống như việc sở hữu một bộ hiệu lực vĩnh viễn có tăng trưởng 6% một năm. Lại nói tiếp, tỷ lệ chiết khấu 10% được dùng để xác định giá trị hiện tại của dòng doanh thu đó. Ai đó sau đó có thể tính toán rằng thích hợp trả một con số khổng lồ $25 triệu cho một tài sản mà doanh thu sau thuế hiện tại của nó chỉ $1 triệu [1/0.1-0.06].
Bây giờ hãy thay đổi giả thiết và cầu nguyện rằng $1 triệu đại diện cho “sức mạnh doanh thu thông thường” và doanh thu đó sẽ dao động quanh con số này theo chu kỳ. Mẫu “dao động xung quanh” hàm ý sâu xa là nhiều doanh nghiệp nhất, dòng thu nhập của chúng chỉ tăng trưởng nếu chủ sở hữu của chúng chắc chắn cam kết chi nhiều vốn hơn (thường ở dưới dạng doanh thu giữ lại). Với các giả thiết đã bị sửa lại, $1 triệu doanh thu, được chiết khấu cùng mức 10%, dịch thành giá trị $10 triệu. Như vậy sự thay đổi dường như khiêm tốn trong các giả thiết làm giảm định giá tài sản tới 10 lần doanh thu sau thuế.

Chúng ta trả cùng một giá cho một doanh nghiệp được tài trợ bằng nợ giống như cho một doanh nghiệp không nợ chứ?
Giả sử Mary đang quan tâm đến việc mua một cửa hàng nội thất. Việc kinh doanh này ổn định không có tăng trưởng, dòng tiền tự do 15 và được tài trợ 75 vốn chủ sở hữu. Mức giá 100 (15/0.15) sẽ cho cô ấy 15% lợi nhuận. Nợ có tạo ra sự khác biệt? Có, người bán sau đó có thể kiếm được một khoản phụ trội bằng cách đòn bẩy việc kinh doanh trước khi bán nó. Nếu người bán tài trợ lại việc kinh doanh với 50 nợ (và doanh nghiệp có thể vay với lãi suất 6%) và thu hồi 50 như phần lời, thu nhập sau lãi suất là 12 (15-3). Sau đó nếu Mary mua cửa hàng mức 80 (12/0.15), người bán có thể kiếm thêm một khoản 30 (50+80-100) mà không cần bất kỳ thay đổi gì trong vận hành hoạt động kinh doanh bên dưới.
Thay vào đó Mary nên giả thiết cô ấy thu mua được doanh nghiệp không nợ và điều chỉnh nợ là 50 và trả 50 (15/0.15-50). Cô ấy cũng nên sửa lại (thêm vào giá) khoản tiền mặt vượt trội – tiền mặt hay tài sản tiền mặt không cần dùng để dẫn dắt việc kinh doanh.
Cùng kiểu lý luận như khi chúng ta mua một ngôi nhà. Nếu chẳng hạn chúng ta mua một ngôi nhà giá $500,000 và lấy $200,000 từ tiền tiết kiệm của chúng ta, thế chấp phần còn lại hay $300,000, giá của căn nhà vẫn là $500,000.

“Sức mạnh tổng hợp chúng tôi mong đợi từ việc sát nhập không bao giờ được vật chất hóa. Chúng chỉ là ảo tưởng.”
Đừng quên định lượng các hậu quả khi tiến hành các vụ thu mua. Hãy lấy báo cáo lỗ lãi và bản cân đối kế toán của công ty thu mua và công ty đích. Hãy tính toán chuyện gì xảy ra với khối lượng, giá, chi phí và vốn đầu tư khi các công ty kết hợp lại, cân nhắc hậu quả và các biến đổi hành vi của nhân viên, nhà cung cấp, khách hàng, và đối thủ cạnh tranh. Giá trị kinh doanh thay đổi như thế nào? Hãy thực tế. Các nghiên cứu cho thấy hầu hết các vụ sát nhập đều thất bại trong việc tạo giá trị cho các chủ sở hữu của công ty thu mua. Lý do chính là người mua đã trả quá nhiều cho sức mạnh hợp nhất không có thật.
“Tuy nhiên, còn một điều nữa, hãy chắc chắn,” Warren Buffett nói, “Nếu CEO nhiệt tình với một vụ thu mua ngu ngốc nào đó, cả nhân viên nội bộ và các cố vấn bên ngoài của ông ta sẽ mang đến bất kỳ kế hoạch nào cần thiết để biện minh cho lập trường của ông ấy. Chỉ trong chuyện cổ tích về hoàng đế mới dám nói ông ta đang cởi truồng.”

John đọc báo. Một công ty thông báo hợp đồng $10 triệu và vốn hóa thị trường của nó nhảy lên $1 tỷ.
Điều đó có ý nghĩa gì không? Nếu chúng ta giả thiết hợp đồng sinh ra biên lợi nhuận 15%, mức tăng giá trị thị trường ám chỉ trong đó là $1.5 triệu. Và ngay cả một dự án có biên lợi nhuận cao cũng có thể thất bại nếu nó đòi hỏi nhiều vốn và nhân lực.

Nếu giá trị hiện tại của các doanh nghiệp khác nhau là như nhau, thời điểm của cổ tức có gây ra vấn đề không?
Giả sử có 2 doanh nghiệp khác nhau X và Y – với cổ tức được dự đoán như dưới đây. Sau 5 năm hai công ty này đều đóng cửa.
Năm
1
2
3
4
5
Cổ tức từ X
10
10
10
10
10
Cổ tức từ Y
0
0
0
0
61

Toàn bộ tiền mặt do X sinh ra đều được chia hằng năm cho các chủ sở hữu của nó. Dòng tiền tự do Y sinh ra được tái đầu tư và không trả đến tận 5 năm sau. Giả sử chúng ta muốn lợi nhuận 10%, giá trị hiện tại của các cổ tức của X và Y tương ứng đều bằng nhau và khoảng 38. Nhưng giả thiết rằng ta có thể tái đầu tư cổ tức từ X với mức 10%, như vậy ta sẽ có 61 sau 5 năm. Cũng giả thiết rằng Y có thể tái đầu tư dòng tiền tại các mức tỷ lệ trên khiến thu được cổ tức là 61 sau 5 năm. Nhưng trong cả hai trường hợp, tương lai có thể biến đổi khác so với kỳ vọng. Môi trường kinh doanh có thể thay đổi và cạnh tranh gia tăng khiến cổ tức của X và Y sẽ khác với những gì ta kỳ vọng. Tính toán của chúng ta càng dựa vào các dòng tiền trong tương lai xa, càng nhiều cơ hội cho những sự kiện không mong muốn xảy ra, và lợi nhuận kỳ vọng của chúng ta càng không chắc chắn.

Hãy làm toán!
Chúng ta có thể làm một bài tập đơn giản để kiểm tra lợi nhuận có thể thu được từ việc đầu tư vào một công ty và nếu định giá thị trường của nó có ý nghĩa. Hãy chỉ nghĩ về những ngầm hiểu của toán học.
Dưới đây là vài ví dụ trong đó chúng ta đã phớt lờ cổ tức và quyền chọn (trong thực thế, chúng ta cần tính toán rõ ràng các quyền chọn và chắc chắn rằng kế toán của công ty phản ánh thực tế và hiệu quả hoạt động thực). Hãy nghĩ về một cổ phiếu như một phần của việc kinh doanh và ghi nhớ rằng những biến đổi nhỏ trong giả thiết có thể biến đổi giá trị đáng kể.
John đang nghĩ về việc mua 1,000 cổ phần của cổ phiếu nhà sản xuất kem đã niêm yết với giá thị trường $1 tỷ và không nợ hay trái vụ ngoại bảng. John nên biện luận thế nào?

Tỷ lệ hồi vốn hằng năm tôi dự đoán là bao nhiêu?
John nhắm vào giá trị tương lai, và do đó so sánh giá trị đó với giá trị thị trường hiện tại $1 tỷ. Tỷ lệ hoàn vốn hằng năm anh ấy ám chỉ là gì? Giá đã trả sẽ cho anh ấy đầy đủ lợi nhuận chứ?
Doanh nghiệp có doanh thu tiền mặt ban đầu (doanh thu + giá trị hao mòn của lợi thế thương mại) $40 triệu và tốc độ tăng trưởng của doanh thu tiền mặt trung bình hằng năm giả thiết là 10% trong 10 năm. Điều này dịch thành $104 triệu doanh thu tiền mặt trong năm thứ 10. Giả sử thị trường trả trung bình 15 cho loại hình kinh doanh này. Nó ám chỉ giá trị thị trường $1.56 tỷ vào năm thứ 10. Nếu John so sánh con số này với giá trị thị trường hiện tại, lợi nhuận hằng năm ngụ ý là 4.5%. John so sánh lợi nhuận này với lợi nhuận từ các cơ hội đầu tư có sẵn khác. Một vụ kinh doanh có lẽ có một bản ghi theo dõi lớn, nhưng nếu toán học không làm việc, hãy tránh xa nó ra.

Kịch bản nào để đạt được tỷ lệ hoàn vốn 15% hằng năm?
Nhà sản xuất kem phải kiếm bao nhiêu để sinh ra tỷ lệ hoàn vốn 15% hằng năm cho John? Nếu giá trị thị trường hiện tại ở mức 15%, điều đó ám chỉ gì và hợp lý không?
Giá trị thị trường hiện tại của $1 tỷ và lợi nhuận hằng năm 15% ngụ ý giá trị thị trường là $4 tỷ vào năm thứ 10. Đó là những gì $1 tỷ sẽ tăng lên trong 10 năm tới nếu tăng trường 15% một năm. Hệ số nhân trung bình 15 ám chỉ doanh thu tiền mặt $270 triệu trong năm thứ 10. Điều này dịch sang tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm trong doanh thu tiền mặt là 21% (từ cơ sở $40 triệu). Biên lợi nhuận 15% ngụ ý khối lượng hàng bán là $1.8 tỷ năm thứ 10. Anh ấy có thể tiếp tục với lượng hàng bán trong tương lai, số người dùng và sử dụng, thị phần, v.v…
Sau đó John hỏi: Cái gì tạo ra giá trị tương lai này? Điều đó ngụ ý gì trong các con số hôm nay? Có hợp lý khi quan tâm đến bằng chứng ghi chép theo dõi của tăng trưởng, doanh thu, biên lợi nhuận, tăng trưởng qui mô thị trường, thị phần, lợi thế cạnh tranh, v.v…? Yếu tố nào tác động lớn nhất tới doanh thu tiền mặt trong tương lai và giá trị? Sức mạnh nào có thể thay đổi kịch bản này? Công ty có thể đánh mất lợi thế như thế nào?

Nếu công ty không tạo ra tiền hôm nay, dòng tiền tự do nào trong tương lai nói lên giá trị thị trường của nó nếu tôi muốn lợi nhuận 10%?
Giữa cuộc bùng nổ Internet, Warren Buffett đã nói:
Khi chúng tôi mua một cổ phiếu, chúng tôi luôn nghĩ đang mua toàn bộ doanh nghiệp vì nó cho phép chúng tôi suy nghĩ như một doanh nhân chứ không phải một nhà đầu cơ cổ phiếu. Vì thế hãy chỉ lấy công ty có viễn cảnh sáng lạn, trả cho bạn bây giờ không gì ngoài việc bạn mua nó tại mức định giá $500 tỷ… Ví dụ, hãy giả thiết rằng sẽ chỉ trễ 1 năm trước khi doanh nghiệp bắt đầu trả cho chúng ta, và bạn muốn nhận lợi nhuận 10%. Nếu bạn đã trả $500 tỷ, thì tiền mặt $55 tỷ là khối lượng nó sẽ phải có khả năng đưa ra cho bạn năm này qua năm khác. Để làm điều đó, nó phải kiếm được có lẽ $80 tỷ hoặc gần con số đó, trước thuế. Hãy nhìn vô số các doanh nghiệp trên thế giới và tìm xem có bao nhiêu đang kiếm được $80 tỷ trước thuế - hoặc $70 tỷ hoặc $60 hoặc $50 hoặc $40 hay thậm chí $30 tỷ. Bạn sẽ chẳng thấy cái nào.
Một doanh nghiệp dù bán móng tay hay trang thiết bị viễn thông, nếu nhiều tiền đi ra hơn đi vào, trên cơ sở giá trị hiện tại, sẽ vô giá trị. Như Warren Buffett nói, “Giá trị bị phá hủy, không được tạo ra, bằng những việc kinh doanh mất tiền theo vòng đời của nó, dù việc định giá tạm thời nó có thể cao thế nào đi chăng nữa.”
Ông tiếp tục:
Có rất nhiều điều kỳ diệu trong ngắn hạn khi tăng P/E nhiều lần và những trò chơi người ta chơi với kế toán v.v… Nhưng cuối cùng, bạn không thể nhận nhiều từ doanh nghiệp - giữa bây giờ và khi nó kết thúc - so với doanh nghiệp kiếm ra. Thực tế bạn sẽ làm gì đó ít phụ thuộc hơn vào những người quản lý kinh doanh của bạn, tiền chi cho an ninh có thường xuyên không, và bao nhiêu bạn trả cho người quản lý dinh doanh v.v…