Chương 21: Lời tiên tri của Atene
Ngày
kế tiếp, sau buổi trải nghiệm ly kỳ biến sắt thành vàng, một nghi lễ lớn đã diễn
ra trong Điện Thờ, theo chúng tôi hiểu, là “lễ cúng trận”. Chúng tôi không tham
dự, nhưng buổi tối vẫn ăn cùng nhau như bình thường. Ayesha thay đổi tâm trạng
liên tục trong bữa ăn, từ ủ rũ tới vui cười.
“Chàng
biết không,” nàng nói, “hôm nay ta là Nhà Tiên Tri, những kẻ ngu ngốc của Ngọn
Núi kia đã gửi thầy thuốc tới hỏi Hesea cuộc chiến sẽ thế nào và ai trong số họ
có thể bị giết, bên nào thắng. Còn ta – ta không thể nói cho họ, mà chỉ tung hứng
bằng lời nói, vì thế họ có thể hiểu như họ muốn. Ta không biết cuộc chiến sẽ thế
nào, vì ta sẽ chỉ đạo nó, nhưng tương lai – a! ta không biết gì hơn ngươi đâu,
Holly ạ, thật đáng buồn. Đối với ta, quá khứ và hiện tại tắm trong ánh sáng phản
xạ từ bức tường tối đen – tương lai.”
Sau
đó nàng trở nên ấp úng, cuối cùng nhìn lên với vẻ khẩn cầu, nói với Leo –
“Chàng không nghe lời cầu xin của ta ở lại đây chờ đợi vài ngày sao, hay đi săn
cũng được? Hãy làm thế đi, ta sẽ ở lại với chàng, và để Holly cùng Oros chỉ huy
các Bộ Lạc trong cuộc chiến nhỏ này.”
“Tôi
không thể,” Leo trả lời, phẫn nộ run lên, vì kế hoạch của nàng là gửi tôi vào
trận chiến, trong khi cậu an toàn chờ trong ngôi đền, biến cậu từ một người đàn
ông can đảm thành kẻ hấp tấp, dù cậu không chấp nhận nổi giả thuyết này, nhưng
vẫn muốn chiến đấu vì lợi ích riêng, nên đã hoàn toàn tức giận.
“Ta
nói rồi, Ayesha, ta sẽ không ở lại,” cậu lặp lại; “hơn nữa, nếu nàng để ta ở
đây, ta sẽ tìm cách xuống núi một mình, và gia nhập cuộc chiến.”
“Thế
thì đi thôi,” nàng trả lời, và hãy ngẩng cao đầu của chàng lên. Không, không phải,
người yêu dấu của ta, là đầu của ta, của ta.”
Sau
đó, phản ứng thật kỳ lạ, nàng trở thành cô gái vui vẻ, cười nhiều hơn trước
đây, và kể cho chúng tôi nhiều chuyện từ xa xưa trong quá khứ, nhưng không có
câu chuyện nào buồn hay bi kịch. Thật kì lạ khi ngồi nghe nàng nói về nhân dân,
một hai người nổi tiếng trong lịch sử, và nhiều người khác chưa bao giờ được
nghe nói đến, đã từng đặt chân trên trái đất này và nàng quen từ hơn hai nghìn
năm trước. Nhưng nàng kể cho chúng tôi các giai thoại về tình yêu và sự căm
ghét của họ, sức mạnh và điểm yếu của họ, tất cả đều rất xúc động với những
hình ảnh châm biếm hài hước, minh họa sự hư ảo vô tận của mục tiêu và khát vọng
của con người.
Cuối
cùng cuộc nói chuyện của nàng sâu sắc và cá nhân hơn. Nàng kể về những cuộc tìm
kiếm chân lý; đau lòng thế nào vì sự thông thái, nàng khám phá ra các tôn giáo
vào thời của nàng và từ chối chúng; làm sao nàng tới thuyết giảng ở Jerusalem
và bị các học giả ném đá. Nàng đã lang thang trở lại Ả Rập như thế nào, bị dân
tộc nàng từ chối với tư cách một nhà cải cách, du lịch tới Ai Cập, tại cung điện
của Pharaoh thời đó, gặp một phù thủy nổi tiếng, nửa lang băm, nửa con người,
vì nàng đã lo xa trước đó, chúng ta nên gọi là ‘ông đồng’, đã dạy nàng thủ thuật
của ông ta tốt đến mức nàng nhanh chóng làm thầy ông ta và buộc ông ta phải
tuân theo nàng.
Rồi
như thể không muốn tiết lộ quá nhiều, đột nhiên câu chuyện của Ayesha chuyển từ
Ai Cập đến Kôr. Nàng nói với Leo về hành trình cậu tới đó, một kẻ lang thang
tên là Kallikrates, bị đám người hoang dã săn đuổi và dẫn theo Amenartas người
Ai Cập, người mà nàng dường như đã biết và căm ghét từ hồi còn ở đất nước của
nàng, và nàng đã chơi đùa họ thế nào. Đúng, nàng còn kể cả về bữa tối ba người
bọn họ cùng nhau ăn trước khi họ bắt đầu khám phá Cung Điện của Sự Sống, về lời
tiên tri xấu xa Amenartas mang dòng máu hoàng tộc đã tiên đoán về hành trình của
bọn họ.
“Phải,”
Ayesha nói, “đó là một đêm yên tĩnh như đêm nay, bữa ăn giống bữa ăn này của
chúng ta, và Leo, cũng không bị thay đổi quá nhiều, ngoại trừ chàng không có
râu và trẻ hơn, ngồi cạnh ta. Nơi ngươi ngồi, Holly, là Amenartas mang dòng máu
hoàng gia, một phụ nữ rất xinh đẹp; đúng, thậm chí còn xinh đẹp hơn cả ta trước
khi nhúng mình trong Tinh Chất, cũng có khả năng biết trước, dù không biết ta
đã trưởng thành. Ngay từ lần đầu tiên chúng ta đã ghét nhau, ghét hơn cả bây giờ
nhiều, khi nàng ta đoán được ta đang tìm kiếm chàng như thế nào, người yêu của
nàng ta, Leo ạ; vì chàng không bao giờ là chồng nàng ta, chàng đã chạy trốn quá
nhanh khỏi hôn nhân. Nàng ta biết cuộc chiến giữa chúng ta đã bắt đầu từ rất xa
xưa, kéo dài hàng thế kỷ và nhiều thế hệ, kết cục là, cả hai chúng ta đều không
làm hại nhau, mà cả hai đều phạm tội vì tranh giành chàng, người được định mệnh
chỉ định là hòn nam châm trong lòng chúng ta. Rồi Amenartas nói – ‘Than ôi! Trước
mắt ta, Kallikrates, rượu trong cốc chàng biến thành máu, còn dao trong tay
ngươi, O con gái của Yarab’ – vì nàng ta gọi ta như thế - ‘dính đầy máu đỏ. Phải,
và nơi này là một nấm mồ, còn chàng, hỡi O Kallikrates, sẽ ngủ ở đây, chứ không
phải nàng ta, kẻ giết chàng, nụ hôn của hơi thở sự sống lên đôi môi lạnh giá của
chàng.’”
“Quả
thực đúng như đã đoán,” Ayesha trầm ngâm nói thêm, “vì ta đã giết chàng ở Cung
Điện của Sự Sống đó, đúng, ta đã giết chàng trong cơn cuồng nộ vì chàng không
muốn, hay không thể hiểu biến đổi đã xảy ra trên người ta, và co rúm lại trước
nhan sắc của ta như con dơi bị mù trước vẻ huy hoàng của ngọn lửa, che đi gương
mặt chàng dưới mái tóc sẫm màu của nàng ta – tại sao, giờ là chuyện gì thế,
Oros? Ta không bao giờ có thể thoát khỏi ngươi, dù chỉ một giờ thôi ư?”
“Thưa
O Hes, một văn bản đến từ Khania Atene,” vị linh mục nói cùng với cái cúi chào
khẩn nài.
“Phá
niêm phong và đọc lên,” nàng trả lời bất cẩn. “Không chừng cô ta đã thấy ăn năn
vì sự điên rồ của mình và muốn qui phục.”
Rồi
ông ấy đọc.
“Gửi tới Hesea của Học Viện trên Ngọn Núi,
còn được biết đến với tên Ayesha trên trần thế, và trong cung điện của Thế Giới
Đã Mất nơi người từng lang thang tới, như ‘Vì Sao sa’.”
“Cái
tên khá đẹp, không nghi ngờ gì,” Ayesha ngắt lời; “a! nhưng Atene, sẽ khiến các
vì sao mọc lại – thậm chí từ Âm Phủ. Đọc tiếp đi, Oros.”
“Chào mừng O Ayesha. Ngươi đã quá già, đã
thu được nhiều sự thông thái từ hàng thế kỷ qua, cùng những quyền năng khác, điều
đó khiến bản thân ngươi dường như xinh đẹp trong mắt những người đàn ông mù
quáng vì các thủ thuật của ngươi. Nhưng một thứ ngươi thiếu mà ta có – nhìn thấy
những chuyện sắp xảy ra. Ngươi biết đấy, O Ayesha, ta và bác ta, nhà tiên tri
vĩ đại, đã tìm được những cuốn sách thần thánh để biết điều gì được viết trong
đó về cuộc chiến tranh này.
Nó viết rằng: - Đối với ta, cái chết, và ta
rất vui vì điều đó. Đối với ngươi, một ngọn giáo đâm ra từ chính tay ngươi. Đối
với mảnh đất Kaloon, máu và đổ nát sinh ra từ chính ngươi!
Atene,
Khania của Kaloon.”
Ayesha
im lặng lắng nghe, nhưng môi nàng không run sợ, má cũng không tái đi. Nàng kiêu
hãnh nói với Oros – “Hãy nói với sứ giả của Atene rằng ta đã nhận được thông điệp
của cô ta, và sẽ trả lời nó, mặt đối mặt với cô ta trong cung điện Kaloon. Đi
đi, linh mục, đừng làm phiền ta nữa.”
Khi
Oros đi rồi, nàng quay lại chúng tôi và nói – “Câu chuyện xưa của ta thật phù hợp
với giờ phút này, vì giống như Amenartas đã tiên đoán điều xấu, Atene giờ cũng
tiên đoán điều xấu như thế, Amenartas và Atene là một. Đúng, cứ để thanh giáo
rơi xuống, nếu nó phải rơi, ta sẽ không ngần ngại điều đó, ai biết được cuối
cùng ta lại thắng chứ. Có lẽ Khania nghĩ muốn đe dọa ta bằng lời dối trá xảo
quyệt, nhưng nếu cô ta đúng, thì chắc chắn, hỡi tình yêu của ta, mọi chuyện sẽ vẫn
tốt đẹp với chúng ta thôi, vì không ai thoát khỏi định mệnh, không ai có thể kiếm
lợi từ sự đoàn kết của chúng ta, điều được tạo nên từ vũ trụ chúng ta sinh ra,
không bao giờ.”
Nàng
dừng lại một lúc rồi tiếp tục bằng tư tưởng và hình ảnh thơ ca bất chợt bùng nổ.
“Ta
nói cho chàng biết, Leo, ngoài vài nhầm lẫn sống chết của chúng ta, chưa có mệnh
lệnh nào được ban ra. Đằng sau mặt nạ tàn ác là con mắt dịu dàng của Lòng
Thương Xót; những sai trái của thế giới thô thiển và xoắn xít này là tia lửa
nóng chói mắt từ thanh gươm lẽ phải của Công Lý tinh khiết, vĩnh hằng. Những kiếp
số nặng nề chúng ta thấy và biết chỉ là những kết nối trên sợi xích vàng đeo vào
chúng ta cho an toàn tới nơi trú ẩn; bước từng bước đau đớn, chúng ta sẽ trèo
lên cung điện hoan lạc đã được chia phần. Vì thế ta không sợ gì nữa, không chiến
đấu chống lại những gì sẽ phải xảy ra. Vì chúng ta là những hạt giống có cánh
được cơn gió định mệnh thổi xuống và biến đổi khu vườn ta sẽ lớn lên, làm đầy
không gian may mắn bằng hương thơm bất tử của đóa hoa nở rộ.”
“Giờ
hãy rời đi, Leo, ngủ một lát, vì chúng ta sẽ lên đường lúc bình minh.”
Giữa
trưa hôm sau, chúng tôi xuống sườn núi cùng đội quân của các Bộ Lạc, những người
đàn ông khốc liệt và man rợ. Đội do thám đã đi trước chúng tôi, rồi tới thân
hình to lớn của kỵ binh trên những con ngựa gầy, còn bên phải, bên trái và phía
sau, bộ binh hành quân theo từng đoàn, mỗi đoàn nằm dưới sự chỉ huy của vị thủ
lĩnh.
Ayesha,
giờ đã che mặt – vì nàng không muốn lộ nhan sắc trước những người hoang dã này
– cưỡi trên con ngựa trắng có hình dáng và tốc độ vô song giữa đám người - ngựa.
Leo và tôi đi cùng nàng, Leo trên con ngựa đen của Khan, còn tôi trên một con
ngựa khác tương tự nó, béo hơn một chút. Bên chúng tôi là đội bảo về gồm các tu
sĩ nam được vũ trang và một đoàn lính chọn lọc, trong đó có cả những người thợ
săn Leo đã từng cứu mạng khỏi cơn thịnh nộ của Ayesha, giờ nàng đang gắn chặt
bên người cậu.
Chúng
tôi rất hớn hở, toàn bộ chúng tôi, vì trong không khí mát lạnh cuối thu tràn ngập
ánh mặt trời, nỗi sợ hãi và lời tiên tri đã ám ảnh chúng tôi trong tăm tối,
cùng những hang động đỏ lửa, tất cả đều bị lãng quên. Hơn nữa, tiếng bước chân
của hàng nghìn người được vũ trang và sự phấn kích của trận chiến sắp tới làm
thần kinh chúng tôi hồi hộp.
Đã
nhiều ngày rồi, giờ tôi mới thấy Leo thật mạnh mẽ và vui vẻ. Gần đây cậu hơi gầy
và nhợt nhạt, có lẽ do những nguyên nhân tôi đã đoán ra, nhưng giờ má cậu đỏ hồng
và mắt cậu sáng lấp lánh trở lại. Ayesha dường như cũng vui vẻ, vì tâm trạng của
người phụ nữ kỳ lạ này thay đổi như Mẹ Tự Nhiên, cũng biến đổi như phong cảnh
dưới ánh mặt trời hay bóng tối. Lúc nàng là trưa và lúc sau lại là đêm tối; giờ
là bình minh, chốc lại hoàng hôn, đi và đến trong đôi mắt xanh thẳm của nàng
như hơi nước tỏa ra trên nền trời mùa hạ, gương mặt ngọt ngào của nàng thay đổi
và lung linh như nước vỡ ra lung linh dưới các vì sao rực rỡ.
“Quá
lâu rồi,” nàng nói cùng tiếng cười nhỏ, “ta đã đóng cửa ở trong lòng núi ảm đạm
quá lâu rồi, chỉ có người câm, người hoang dã hay các linh mục u sầu tụng kinh
bên cạnh; giờ ta rất vui khi thấy lại thế giới. Tuyết trên kia đẹp biết bao, và
những sườn nâu bên dưới nữa, cả đồng bằng rộng lớn trải dài ra tận những ngọn đồi
giáp ranh kia! Mặt trời huy hoàng làm sao, vĩnh hằng như chính ta; không khí
hăng hái như trên thiên đường mới ngọt ngào làm sao.”
“Tin
ta đi, Leo, đã hơn hai mươi thế kỷ đi qua kể từ lúc ta ngồi trên một con chiến
mã, nhưng giờ chàng thấy đấy, ta vẫn chưa quên cách cưỡi ngựa, dù con vật này
không hợp với người Ả Rập giống như hồi ta cưỡi trên các sa mạc rộng lớn của Ả
Rập. Ôi! Ta nhớ lại bên cha mình, ta phi nước đại xông vào trận chiến chống bọn
cướp Bedouins, và chính tay ta đã phi giáo vào tên thủ lĩnh của chúng, khiến hắn
kêu khóc xin thương xót. Một ngày nào đó, ta sẽ kể cho chàng nghe về cha ta, và
ta là người ông yêu thương, dù chúng ta cách nhau rất xa, ta vẫn giữ hồi ức
thân thương về ông và mong chờ cuộc gặp gỡ của chúng ta.”
“Nhìn
kìa, đằng kia là đầu hẻm núi nơi tên phù thủy thờ mèo sống, hắn từng muốn giết
cả hai người vì chàng, Leo, đã ném con vật thân thiết của hắn vào đống lửa. Thật
kỳ lạ, nhưng vài bộ lạc trên Ngọn Núi và những vùng đất bên dưới đều tôn mèo là
thần của họ. Ta nghĩ Rassen ban đầu, vị tướng của Alexander, hẳn phải mang
phong tục đó tới đây từ Ai Cập. Ta có thể kể cho chàng nghe rất nhiều về
Alexander người Macedonia, vì ông ấy gần như cùng thời với ta, khi lần gần nhất
ta được sinh ra trên thế gian này, vẫn còn âm vang tiếng tăm các hành động vĩ đại
của ông ấy.”
“Chính
Rassen là người đã thay thế tục lệ thờ lửa từ thời nguyên thủy trên Ngọn Núi có
các cột trụ rực lửa chiếu sáng Điện Thờ như công trình bất hủ bằng tục lệ thờ
thần Hes, hay Isis, đúng ra đã pha trộn hai tục lệ đó thành một. Chắc chắn
trong số các linh mục trong đội quân của ông có một số người Pashto hay người
Sekket đội Mèo trên đầu, và họ mang tôn giáo thần bí này theo, ngày nay nó đã bị
suy giảm thành lời tiên tri bói toán thô tục của các thầy phù thủy man rợ. Thực
ra ta lờ mờ nhớ là nó như vậy, vì ta là Hesea đầu tiên của Đền Thờ này, hành
quân tới đây cùng tướng quân Rassen, một người họ hàng của ta.”
Giờ
cả Leo và tôi đều nhìn nàng băn khoăn, vì tôi có thể thấy nàng đang quan sát
chúng tôi qua mạng che. Nhưng thông thường, tôi là người hay bị nàng quở trách,
vì Leo có thể nghĩ và làm những gì cậu muốn mà vẫn thoát khỏi sự tức giận của
nàng.
“Ngươi,
Holly,” nàng nói nhanh, “ngươi có đầu óc hay cãi vặt và nghi ngờ, nhớ những gì
ta đã nói đấy, còn giờ ngươi đang tin ta nói dối ngươi.”
Tôi
phản đối vì chỉ đang nghĩ đến sự biến đổi khác biệt rõ ràng giữa hai lời nói.
“Đừng
chơi chữ,” nàng trả lời; “trong lòng ngươi đang viết rằng ta là một kẻ nói dối,
và ta thấy thật đau lòng. Ngươi biết đấy, tên đàn ông ngu ngốc kia, khi ta nói
Alexander người Macedonia sống trước ta, ta muốn nói tới trước kiếp này của ta.
Trong kiếp sống trước đó, dù ta tồn tại lâu hơn ông ta ba mươi năm, nhưng chúng
ta sinh ra cùng mùa hè, ta biết rõ ông ta, vì ta là Nhà Tiên Tri ông ta tham vấn
nhiều nhất về các cuộc chiến của mình, nhờ sự thông thái của ta, ông ta đã có
được bao chiến công. Sau đó chúng ta tranh cãi, rồi ta bỏ ông ta và đi theo
Rassen. Từ ngày đó, ngôi sao sáng Alexander bắt đầu suy tàn.” Lúc này Leo phát ra
âm thanh như tiếng huýt sáo. Trong nỗi đau lòng vì đã thấu hiểu, dội lại những
lời chỉ trích và hồi ức về câu chuyện kỳ lạ của sư trụ trì Kou-en đang dâng lên
trong tôi, tôi hỏi nhanh – “Ayesha, người cũng nhớ rõ mọi chuyện xảy ra trong
kiếp trước ư?”
“Không,
không rõ lắm,” nàng trầm mặc trả lời, “chỉ những sự kiện lớn thôi, và những sự
kiện ta đóng vai trò chính được khám phá ra nhờ nghiên cứu những thứ thần bí
ngươi gọi là ảo cảnh hay phép màu. Chẳng hạn, Holly, ta hồi tưởng lại và biết
ngươi cũng sống ở kiếp đó. Thực ra ta hình như đã nhìn thấy một nhà triết học xấu
xí khoác chiếc áo choàng bẩn thỉu đang uống rượu và bàn học thuật với người
khác, họ đang tranh cãi với Alexander cho tới lúc ông ta nổi giận và khiến người
đó bị trục xuất hay chết đuối: ta quên rồi.”
“Tôi
nghĩ mình không phải là Diogenes chứ?” Tôi chua chát hỏi, nghi ngờ không phải
Ayesha đang tự gây cười bằng cách lừa tôi đấy chứ.
“Không,”
nàng nghiêm trang đáp, “Ta không nghĩ đó là tên ngươi. Diogenes ngươi nói là một
người nổi tiếng hơn, một người thực tế với sự thông thái khó hiểu; hơn nữa, ông
ta không uống rượu. Ta nhớ rất ít về kiếp sống đó, nhưng thực ra không nhiều người
theo Phật Giáo, ta đã nghiên cứu giáo lý của nó, còn ngươi, Holly, lúc đó đã
nói với ta về nó rất nhiều. Có lẽ chúng ta đã không phù hợp với nó. Ta vẫn nhớ
rằng Thung Lũng Xương Người, nơi ta tìm thấy chàng, Leo của ta, là nơi xảy ra
cuộc chiến vĩ đại giữa các linh mục thờ Lửa cùng chư hầu, các Bộ Lạc trên Ngọn
Núi, và đội quân của Rassen được dân tộc Kaloon trợ giúp. Vì giữa nơi này và Ngọn
Núi, từ xa xưa cũng như bây giờ, luôn có sự thù địch, từ đó tới hiện tại, lịch
sử vẫn chưa lặp lại.”
“Như
vậy nàng chính là người dẫn đường của chúng tôi,” Leo nói, sắc bén nhìn nàng.
“Đúng
vậy, Leo, còn ai vào đây nữa? dù không hay lắm khi chàng không biết ta đang ở
dưới lớp vải niệm đó. Ta có ý định chờ đợi và đón chào chàng trong Điện Thờ,
nhưng khi ta biết cuối cùng cả hai người đã chạy trốn khỏi Atene và đã tới gần,
ta không thể kiềm chế bản thân được nữa, nên đã tới trong hình hài xấu xí.
Đúng, ta đã bên chàng lúc ở bờ sông, dù chàng không thấy ta, và ở đó che chở
cho chàng khỏi nguy hiểm.”
“Leo,
ta khao khát được thấy chàng và chắc chắn trái tim chàng không hề thay đổi, dù lúc
đó chàng có lẽ không nghe thấy giọng nói hay nhìn thấy gương mặt của ta, người
khiến chàng chịu số phận trải qua bao thử thách đau đớn. Ta cũng khao khát học
hỏi từ Holly sự thông thái có thể nhìn xuyên qua lớp ngụy trang của ta, làm sao
ông ấy tới gần sự thật. Vì lý do đó, ta đã cho phép ông ấy nhìn thấy ta lấy lọn
tóc ra khỏi chiếc túi da trước ngực chàng và nghe ta than khóc với chàng trong
ngôi nhà nghỉ chân đó. Đúng, chàng đã không đoán ra vì quá ốm yếu, nhưng chàng,
chàng biết ta – trong giấc ngủ - biết ta như chính bản thân ta đang hiện hữu,
chứ không phải như bản thân ta thể hiện bên ngoài, đúng thế,” nàng nhẹ nhàng
nói thêm, “và nói những lời ngọt ngào mà ta vẫn còn nhớ rõ.”
“Thế
là dưới tấm vải liệm là khuôn mặt của chính nàng,” Leo hỏi lại, vì cậu rất tò
mò trước điểm đó, “chính là gương mặt đáng yêu ta nhìn thấy hôm nay ư?”
“Có
lẽ thế - như chàng mong muốn,” nàng lạnh lẽo trả lời; “đó cũng là linh hồn, vấn
đề không như vẻ bề ngoài, dù con người nghĩ khác khi mù quáng. Không chừng
gương mặt ta giống như trái tim chàng tạo nên, hay ý chí của ta thể hiện ra nó
trước cái nhìn và sở thích của những người chứng kiến. Nhưng nghe đã! Nhóm
trinh sát đã tới.”
Khi
Ayesha nói, một tiếng la hét từ xa đã vọng lại trong gió, hiện giờ, chúng tôi
đã nhìn thấy một đám kỵ binh đã chậm rãi trở lại trên tuyến đầu. Nhưng chỉ được
báo rằng, những người tham gia giao tranh của Atene đã hoàn toàn rút lui. Quả
thật, một tù nhân họ bắt được, đang bị các tu sĩ tra hỏi, đã thú nhận ngay rằng
Khania không có ý định gặp chúng tôi trên Ngọn Núi thiêng. Cô ấy yêu cầu đưa cuộc
chiến sang bờ sông xa hơn, vì phòng thủ, có dòng nước chúng tôi phải lội qua, một
quyết định thể hiện phán đoán quân sự khá tốt.
Vì
thế ngày hôm nay không đánh nhau.
Toàn
bộ buổi chiều hôm đó, chúng tôi xuống sườn Ngọn Núi, nhanh hơn nhiều so với lúc
trèo lên sau cuộc tháo chạy rất dài từ thành phố Kaloon. Trước hoàng hôn, chúng
tôi tới vùng đất cắm trại sẵn, một bình nguyên rộng và dốc, điểm cuối của nó là
Thung Lung Xương Người, nơi nhiều ngày trước chúng tôi đã gặp người dẫn đường
thần bí. Tuy nhiên chúng tôi không đi qua đường hầm bí mật trong núi mà nàng đã
dẫn chúng tôi đi, con đường ngắn nhất phải vài dặm, như Ayesha vừa nói cho
chúng tôi, vì đường đó không phù hợp hành quân.
Rẽ
về bên trái, chúng tôi khoanh tròn một số đỉnh không thể trèo qua được mà có đường
hầm chạy qua phía dưới, cuối cùng tới gò một khe tối, chúng tôi có thể yên tâm
ngủ an toàn vì tránh được sự tấn công vào ban đêm.
Lều
của Ayesha được dựng ở đó, nhưng vì đó là cái duy nhất, Leo và tôi cùng đội bảo
vệ đóng trại ngoài trời giữa vài tảng đá cách đó mấy trăm thước. Khi nàng thấy
buộc phải làm thế, Ayesha rất tức giận và nói những lời gay gắt với vị thủ lĩnh
chịu trách nhiệm về lương thực và quân trang, dù người đàn ông khốn khổ đó
không biết gì về lều.
Nàng
cũng đổ lỗi cho Oros, người đã ngoan ngoãn trả lời rằng ông ta nghĩ chúng tôi hẳn
đã quen với chiến tranh và gian khổ. Nhưng nói chung nàng tức giận với chính bản
thân đã quên đi chi tiết này, cho đến khi Leo cười phật ý bảo nàng ngừng lại,
nàng tiếp tục đề nghị chúng tôi nên ngủ trong lều, vì nàng không sợ sự khắc
nghiệt của giá lạnh vùng núi.
Cuối
cùng, chúng tôi cùng nhau ăn tối ngoài trời, đúng hơn là Leo và tôi ăn tối, vì
có các vệ sĩ xung quanh nên Ayesha không thể nâng che mặt lên.
Tối
đó Ayesha bị phiền nhiễu và không thoải mái, như thể có những nỗi sợ mới khiến
nàng không vượt qua được đả kích. Cuối cùng, có vẻ nàng đã chinh phục được
chúng bằng nỗ lực ý chí và bảo, nàng dự định đi ngủ để thư giãn tâm hồn; tôi
nghĩ, chỉ vị trí đó thôi của nàng cũng đã cần nghỉ ngơi rồi. Lời cuối nàng nói
với chúng tôi là – “Các người cũng ngủ đi, hãy ngủ ngon, nhưng đừng kinh ngạc
nhé, Leo của ta, nếu ta triệu hai người trong đêm, vì trong giấc ngủ, ta có thể
tìm được những tư vấn mới và cần nói cho các ngươi trước khi chúng ta tháo trại
lúc bình minh.”
Rồi
chúng tôi chia tay, nhưng than ôi! Nếu chúng tôi có thể phỏng đoán được dù chút
ít việc ba chúng tôi sẽ gặp lại nhau thế nào và ở đâu.
Chúng
tôi mệt mỏi và nhanh chóng buồn ngủ bên đống lửa trại, vì biết cả đội quân sẽ bảo
vệ chúng tôi, chúng tôi không sợ. Tôi nhớ đang quan sát những vì sao sáng lấp
lánh trên vòm trời mênh mông bên trên tới lúc chúng mờ nhạt dần trong ánh trăng
tinh khiết đang lên, giờ quá khứ của nàng đã phần nào đầy đủ, rồi nghe thấy Leo
lẩm bẩm mê ngủ dưới tấm chăn lông rằng Ayesha đã hoàn toàn đúng, rằng thật dễ
chịu khi lại sống trong không gian thông thoáng, vì cậu đã chán hang động rồi.
Sau
đó tôi không biết gì nữa cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng hô hiệu lệnh của một
lính gác phía xa, rồi dừng một lúc, tiếng hô hiệu lệnh thứ hai của sĩ quan
trong đội bảo vệ của chính chúng tôi. Dừng một lúc nữa, một linh mục đứng cúi
chào trước chúng tôi, ánh sáng nhấp nháy của đống lửa chơi đùa trên cái đầu trọc
và gương mặt của ông ấy, tôi đã nhận ra.
“Ta”
– ông ấy nói một cái tên rất quen với tôi, nhưng tôi đã quên mất – “được gửi tới,
chủ nhân của ta, Oros, đã ra lệnh cho ta nói rằng, Hesea muốn nói chuyện với cả
hai người ngay lập tức.”
Giờ
Leo đã ngồi dậy ngáp dài và hỏi có chuyện gì. Tôi kể lại cho cậu, cậu ấy nói muốn
Ayesha nên chờ tới sáng đã, rồi lại nói thêm – “Được rồi, chả giúp gì được đâu.
Đi thôi, bác Horace,” rồi cậu đứng dậy đi theo sứ giả.
Vị
linh mục lại cúi chào và nói – “Lệnh của Hesea rằng các ngài nên mang theo vũ
khí và người bảo vệ.”
“Gì
cơ,” Leo càu nhàu, “để bảo vệ chúng tôi khi đi bộ một đoạn dài một trăm thước
giữa lòng một đội quân ư?”
“Hesea,”
người đàn ông giải thích, “đã rời khỏi lều, người đang ở hẻm núi đằng kia,
nghiên cứu đường tiến quân.”
“Làm
sao ông biết điều đó?” tôi hỏi.
“Ta
không biết điều đó,” ông ta đáp. “Oros nói với ta như thế, vậy thôi, còn Hesea
ra lệnh cho các ngài mang theo người bảo vệ vì người đang ở một mình.”
“Nàng
điên sao,” Leo thét lên, “sao lại lang thang tới chỗ như vậy lúc nửa đêm chứ?
Được rồi, thế mới giống nàng.”
Tôi
cũng nghĩ thế mới giống nàng, người không làm những việc người khác có thể làm
được, nhưng tôi vẫn do dự. Tôi nhớ Ayesha đã bảo nàng có thể sẽ gọi chúng tôi tới;
tôi cũng chắc nếu bị lừa, chúng tôi hẳn không được yêu cầu mang theo đội hộ tống.
Vì thế chúng tôi gọi đội bảo vệ - có mười hai người – mang theo gươm giáo và bắt
đầu lên đường.
Chúng
tôi bị hai hàng lính gác chặn lại, và tôi nhận ra khi chúng tôi nói mật khẩu đội
quân cảnh cuối cùng cho họ, tất nhiên họ nhận ra chúng tôi và trông rất kinh ngạc.
Nếu họ vẫn nghi ngờ, họ sẽ không dám biểu hiện như thế. Vì vậy chúng tôi tiếp tục
đi.
Giờ
chúng tôi bắt đầu đi xuống rìa khe núi bằng lối đi rất dốc, mà vị linh mục dẫn
đường có vẻ quen thuộc một cách kỳ lạ, vì ông ta đi xuống như thể đó là bậc
thang nhà mình vậy.
“Đưa
chúng ta tới một nơi xa lạ vào ban đêm,” Leo nghi ngờ nói, khi đó chúng tôi đã
gần chân khe núi và thủ lĩnh đội bảo vệ, người thợ săn râu đỏ to lớn liên quan
tới vụ con báo tuyết cũng lẩm bẩm vài lời khiển trách. Trong lúc tôi đang cố
nghe những gì anh ta nói, đột nhiên một
bóng trắng đi bộ trên mảnh đất dưới ánh trăng ở chân khe núi, chúng tôi thấy đó
chính là thân ảnh che mặt của Ayesha. Vị thủ lĩnh cũng nhìn thấy nàng nên hài
lòng nói – “Hes! Hes!”
“Nhìn
nàng kìa,” Leo càu nhàu, “vẫn đi dạo trong cái lỗ ma ám đó như thể nó là công
viên Hyde Park ấy;” và cậu chạy tới đó.
Thân
ảnh đó quay lại và ra hiệu cho chúng tôi đi theo khi nàng trượt lên trước, tìm
đường qua những bộ xương rải rác trong lòng nham thạch của khe núi. Rồi nàng tiếp
tục đi vào bóng tối của vách núi đối diện mà ánh trăng không chạm tới. Giờ đang
mùa mưa, dòng suối chảy xuống lối đi xuyên qua đá từ hàng thế kỷ, đá dăm trải rộng
khắp tầng nham thạch của khe núi, vì thế nhiều xương cốt hầu như hoàn toàn bị
chôn vùi trong cát.
Tôi
nhận ra khi đi vào bóng tối, những bộ xương này nhiều hơn bình thường, vì hai
bên tôi thấy toàn răng trắng của hộp sọ, hoặc xương sườn và xương đùi. Không
nghi ngờ gì nữa, tôi tự nghĩ, lối đi này là đường dẫn tới đồng bằng bên trên,
trong trận chiến quá khứ, đánh nhau rất tàn khốc và vô số người bị giết.
Ayesha
dừng lại ở đó và trầm ngâm nhìn lối đi rải đầy đá ngổn ngang, như thể đang hồi
tưởng về cách vượt qua lối đi hôm đó. Giờ chúng tôi tới gần nàng, vị linh mục dẫn
đường đi sau cùng đội bảo vệ, để chúng tôi đi trước một mình, vì họ không dám
tiếp cận Hesea khi chưa được ra lệnh. Leo đi trước tôi, có lẽ khoảng bảy hay
tám thước, và tôi nghe thấy cậu nói – “Tại sao nàng lại mạo hiểm tới những nơi
thế này ban đêm, Ayesha, trừ khi không gì có thể làm hại nàng đúng không?”
Nàng
không trả lời, chỉ quay lại và mở rộng vòng tay, rồi lại hạ xuống. Trong khi
tôi đang tự hỏi dấu hiệu này của nàng có ý nghĩa gì, thì từ trong bóng tối, một
âm thanh lạ lùng xôn xao vang tới.
Tôi
nhìn, than ôi! Khắp nơi các bộ xương đều nhô lên trên lòng cát. Tôi thấy những
cái sọ trắng xóa, xương tay và chân lấp lánh, cả những chiếc xương sườn rỗng. Đội
quân bị tiêu diệt khi xưa đã sống lại, nhìn kìa! Tay họ là bóng ma của giáo
mác.
Tất
nhiên tôi biết ngay đó là màn thể hiện quyền năng thần bí của Ayesha, khiến
nàng kéo chúng tôi khỏi giường ngủ để chứng kiến. Nhưng tôi thừa nhận mình rất
sợ hãi. Ngay cả lúc táo bạo nhất của con người, trừ trường hợp mê tín, có lẽ
cũng xin được lượng thứ vì thần kinh bị cảnh tượng này đốn ngã, giống như khi
đang đứng trong nhà thờ lúc nửa đêm, đột nhiên mọi mặt người chết đều mọc lên từ
nấm mồ. Xung quanh chúng tôi cũng rộng hơn và kỳ lạ hơn những nơi chôn cất ở thế
giới văn minh.
“Đây
là phép thuật mới của nàng à?” Leo kêu lên bằng giọng sợ hãi và tức giận. Nhưng
Ayesha không trả lời. Tôi nghe tiếng ồn phía sau và nhìn quanh. Các bộ xương đã
mọc lên quanh đội bảo vệ của chúng tôi, những kẻ khốn khổ đang tê liệt vì kinh
hoàng, ném hết cả vũ khí xuống đất và ngã khụy, một số quì xuống. Giờ những con
ma bắt đầu dùng giáo đâm vào họ, tôi thấy họ lăn xuống sau những cú đánh. Thân ảnh
che mạng trước mặt tôi chỉ tay vào Leo và nói – “Bắt lấy chàng, như ta ra lệnh,
không được làm hại chàng!”
Tôi
biết giọng nói này; đó là của Atene!
Đã
quá muộn, tôi mới hiểu ra cái bẫy chúng tôi đã bị rơi vào.
“Đồ
phản bội!” Tôi bắt đầu kêu lên, trước khi lời nói thoát khỏi đôi môi tôi, một bộ
xương có dáng hình rất đặc biệt buộc tôi im lặng bằng cú đánh tàn bạo vào đầu.
Nhưng dù tôi không thể nói được nữa, các giác quan của tôi vẫn còn tỉnh táo đôi
chút. Tôi thấy Leo đang điên cuồng đánh lại một số người đang cố kéo cậu xuống,
thật dữ dội, thực ra nỗ lực đáng sợ của cậu làm máu trào ra miệng từ ống phổi.
Những
gì nhìn và nghe thấy làm tôi thất bại, nghĩ thế là hết, tôi ngã xuống và không
nhớ gì nữa.
Tôi
không biết tại sao tôi không bị giết chết ngay, trừ khi trong lúc vội vã, đám
lính cải trang nghĩ tôi đã chết, hoặc có lẽ tôi cũng được tha mạng. Ít ra,
ngoài cú đánh vào đầu, tôi không bị chấn thương nào cả.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham