CHƯƠNG 17
Cân bằng lại
Trong vài phút, đi theo ánh đèn của những người câm vẫn kiên
trì giơ ra từ cơ thể như người giữ nước trong một cái bình, có dáng vẻ trôi nổi
trong bóng tối, chúng tôi tới một cầu thang dẫn vào phòng khách của Bà ấy, nơi Billali bò vào bằng bốn cẳng
ngày hôm trước. Tôi muốn cáo biệt Nữ Hoàng ở đây, nhưng bà ấy không muốn.
“Không,” bà ấy nói, “hãy vào với ta, Holly, hãy trò chuyện
với ta. Nghĩ mà xem, Holly: hai nghìn năm qua ta không nói được gì với đám nô
lệ những suy nghĩ của chính ta, dù suy nghĩ làm người ta khôn ngoan hơn, nhiều
bí mật trở nên rõ ràng, ta vẫn mệt mỏi vì suy nghĩ của chính mình, rồi trở nên
chán ghét xã hội của chính mình, chắc chắn thức ăn ký ức đưa cho có vị cay đắng
hơn, chỉ bằng hàm răng hy vọng, chúng ta có thể chịu đựng được cay đắng đó.
Giờ, dù suy nghĩ của ngươi tươi xanh dịu dàng, như thời thanh xuân, nhưng đó là
của một bộ não biết tư duy, thực sự ngươi đã gọi tâm trí ta trở lại như vài nhà
triết học xa xưa ta từng tranh cãi với họ ở Athens, rồi ở Becca của Ả Rập, vì
ngươi có cùng không khí tìm tòi và cái nhìn bụi bặm, như thể ngươi đã từng trải
qua những tháng ngày đó nhờ đọc văn tự Hy Lạp còn lưu lại, rồi bị bụi bẩn của
những văn tự đó nhuốm đen. Vì thế hãy vén rèm lên, ngồi đây cạnh ta, chúng ta
sẽ ăn trái cây và nói về những chuyện vui vẻ. Nhìn này, ta sẽ tháo che mặt
trước ngươi. Ngươi đã mang điều đó đến cho chính ngươi, Holly; ta đã cảnh báo
ngươi rõ ràng – và ngươi sẽ cho rằng ta rất xinh đẹp như các nhà triết học xa
xưa đó từng làm. Thật xấu hổ cho họ, hãy quên triết lý của họ đi!”
Rồi bà ấy đứng lên lắc những tấm vải trắng khỏi người không
một chút khó nhọc, trở nên tỏa sáng lộng lẫy như con rắn lấp lánh khi lột da; dán
đôi mắt tuyệt đẹp vào tôi – chết người hơn cả đôi mắt của Thần Rắn Basilisk –
vẻ đẹp đó đâm xuyên qua tôi, gửi theo tiếng cười nhẹ vang trong không gian như
chuông bạc.
Một tâm trạng mới mẻ về bà ấy, và sắc màu trí tuệ của bà ấy
dường như biến đổi theo đó. Không còn bị tàn phá vì tra tấn và hận thù như tôi
thấy khi bà ấy nguyền rủa đối thủ đã chết trên những ngọn lửa bập bùng, không
còn vẻ khủng khiếp băng giá như trong phòng phán xử, không còn vẻ giàu có, ảm
đạm và lộng lẫy như tấm áo Bạo Chúa trong nơi cư ngụ của Tử Thần. Không, tâm
trạng của bà ấy bây giờ là của Nữ Thần Aphrodité đang ca khúc khải hoàn. Sự
sống – rạng rỡ, ngây ngất, tuyệt vời – dường như tuôn chảy từ bà ấy và tràn ra
xung quanh bà ấy. Bà ấy cười và thở dài nhẹ nhàng, ném một cái liếc nhìn nhanh.
Bà lắc bộ tóc nặng nề, mùi nước hoa tràn đầy nơi đây; bà đu đưa bàn chân nhỏ
đeo dép trên sàn, ngân nga một giai điệu Hy Lạp cổ. Tất cả uy nghi đã biến mất,
hay ẩn nấp và nhấp nháy yếu ớt qua đôi mắt đang cười của bà ấy, như sáng bừng
lên dưới ánh mặt trời. Bà ấy cởi bỏ vẻ khủng bố bốc lửa, sức mạnh phán xử lạnh
lùng đã thực thi xong, và vẻ buồn bã khôn khéo từ nấm mồ - cởi bỏ và đặt chúng
phía sau bà ấy, như tấm vải niệm trắng bà ấy đang mặc, giờ đã hóa thân thành vẻ
nữ tính đáng yêu hấp dẫn, trở nên hoàn hảo hơn – theo cách lý trí hơn – so với
người phụ nữ trước kia.
“Vậy nên, Holly của ta, hãy ngồi đây, nơi ngươi có thể thấy
ta. Đó là theo mong muốn của chính ngươi, nhớ rằng – ta nói lại, đừng đổ lỗi
cho ta nếu ngươi hao mòn vì đau khổ trong lòng tới mức muốn chết trước khi đôi
mắt tò mò của ngươi dán lên ta. Đây, ngồi đi, và hãy nói cho ta, thật ra ta rất
muốn được khen ngợi – hãy nói cho ta, ta không đẹp sao? Không, đừng vội vàng;
hãy cân nhấc điều này; hãy lấy ví dụ từng đặc điểm một, đừng quên dáng hình ta,
bàn tay, chân, tóc ta, làn da trắng của ta, rồi hãy nói thực với ta, ngươi từng
thấy một phụ nữ nào, mà một phần nhỏ vẻ đẹp của cô ta, đường cong của lông mi
hay hình dáng vỏ tai chẳng hạn, ngời sáng hơn vẻ đẹp của ta? Giờ, cái eo của ta
đây! Không chừng ngươi nghĩ nó quá rộng, nhưng thật sự không phải thế; con rắn
vàng này quá lớn, không thể che dấu nó đi được. Đó là một con rắn to, thật phát
ốm khi buộc nó quanh eo. Nhưng nhìn này, đưa tay cho ta – đúng vậy – giờ quấn
chúng quanh ta, như thế đó, dùng lực một chút, ngón tay ngươi chạm vào đó,
Holly ạ.”
Tôi không thể chịu nổi nữa. Tôi là một người đàn ông, còn bà
ấy còn hơn cả một phụ nữ. Chúa mới biết bà ta là gì – Tôi không làm! Nhưng sau
đó tôi vẫn khụy gối trước bà ấy, nói cho bà ấy bằng thứ ngôn ngữ pha trộn buồn
bã – vì có những lúc suy nghĩ rối bời – rằng tôi tôn thờ bà ấy như chưa người
phụ nữ nào được tôn thờ, tôi muốn đưa tâm hồn bất tử của tôi kết hôn cùng bà ấy,
lúc đó chắc chắn tôi muốn làm vậy, và quả thực, bất kỳ người đàn ông nào cũng
đều muốn làm vậy, hay tất cả các loại đàn ông đều cuộn quanh một người. Bà ấy
thoáng ngạc nhiên, rồi bắt đầu cười, rồi vỗ tay trong vui sướng.
“Ôi, quá sớm, Holly ạ!” bà ấy nói. “Ta tự hỏi cần bao nhiêu
phút để khiến ngươi quì gối. Ta không còn nhìn thấy người đàn ông nào quì gối
trước ta bao ngày qua, hãy tin ta, với trái tim phụ nữ, cảnh này rất ngọt ngào,
sự khôn ngoan và thời gian không lấy mất niềm vui đáng yêu đó – thứ là quyền
lợi duy nhất của giới chúng ta.”
“Ngươi muốn gì? – ngươi muốn gì? Ngươi không biết đang làm
gì đâu. Ta đã không nói cho ngươi rằng ta không phải dành cho ngươi ư? Ta yêu
một người, còn ngươi không phải người đó. Ôi, Holly, với sự thông thái của
ngươi – và với cách thức ngươi thể hiện sự thông thái – ngươi là một tên ngốc
theo đuổi điên rồ. Ngươi muốn nhìn vào mắt ta – ngươi muốn hôn ta! Phải, nếu
điều đó làm ngươi vui, hãy nhìn đi,” bà ấy cong người về phía tôi, dán đôi đồng
tử tròn tối đen đầy cảm xúc vào mắt tôi; “ôi, hãy hôn đi, nếu ngươi muốn, vì,
cảm ơn những điều đã mang đến, những nụ hôn không để lại dấu vết, trừ nơi trái
tim. Nhưng nếu ngươi hôn, ta đảm bảo ngươi sẽ bị ăn thịt khi trái tim ngập tràn
tình yêu với ta, và sẽ chết!” và bà ấy gập người hơn nữa về phía tôi tới khi
mái tóc mềm mại chạm vào trán tôi, hơi thở thơm tho của bà ấy chơi đùa trên
gương mặt tôi, làm tôi mờ nhạt và yếu ớt. Rồi bỗng nhiên, ngay lúc tôi dang tay
ôm, bà ấy đứng thẳng dậy, thay đổi nhanh chóng lướt qua bà ấy. Bà ấy vươn tay,
để lên đầu tôi, với tôi dường như có gì đó tuôn trào đông lạnh tôi lại, khiến
tôi quay lại cảm xúc bình thường, với tri thức về phép tắc và đức hạnh nội tại.
“Đủ rồi đấy kẻ điên rồ bừa bãi này,” bà ấy nghiêm khắc nói.
“Nghe này, Holly. Ngươi là một người đàn ông tốt và lương thiện, ta sẵn
lòng tha cho ngươi; nhưng ôi! Với phụ nữ
thật khó thương xót. Ta đã nói ta không phải dành cho ngươi, do đó hãy để suy
nghĩ của ngươi về ta trôi đi như làn gió thoảng, cát bụi tưởng tượng sẽ lại
nhấn chìm nó vào sâu thẳm – phải, ngươi có thể sẽ tuyệt vọng. Ngươi không biết
ta, Holly. Ngươi không trông thấy ta mười tiếng đồng hồ qua khi đam mê chiếm
giữ con người ta, ngươi đã chùn bước trước ta trong sợ hãi và run rẩy. Ta có
nhiều tâm trạng, như nước trong bình này, ta nghĩ nhiều thứ; nhưng chúng đều
trôi đi, Holly ạ; chúng trôi đi và bị quên lãng. Chỉ có nước vẫn là nước, và ta
vẫn là ta, thứ làm cho nước biến thành nó, thứ làm cho ta biến thành ta, cũng
không thể làm cho bản tính của ta bị thay đổi. Thế nên đừng để ý đến những gì
ta có vẻ như thế, hãy hiểu ngươi không thể biết ta là gì. Nếu ngươi lại làm ta
phiền muộn, ta sẽ che dấu bản thân, và ngươi sẽ không thấy mặt ta nữa.”
Tôi đứng dậy, ngồi xuống chiếc giường đầy gối cạnh bà ấy, run
rẩy trong cảm xúc, dù đam mê điên cuồng thoáng chốc đã rời bỏ tôi, như lá cây
vẫn còn run rẩy, dù cơn gió khuấy động chúng đã biến mất. Tôi không dám nói với
bà ấy tôi đã thấy bà ấy trong tâm trạng sâu sắc như dưới địa ngục, lẩm bẩm thần
chú trước ngọn lửa trong nấm mồ.
“Được rồi,” bà ấy tiếp tục, “giờ hãy ăn chút hoa quả; hãy
tin ta, đó là thức ăn thực sự duy nhất cho con người. Ôi, hãy nói cho ta triết
lý của Đấng Cứu Thế người Do Thái, người đến sau ta, người ngươi nói giờ đang
thống trị Rome, Hy Lạp và Ai Cập, và cả những đám người man rợ. Ngài hẳn phải
dạy một triết lý kỳ lạ, vì vào thời của ta, các dân tộc đều không cần gì các
triết lý của chúng ta. Tiêu khiển, dục vọng, say sưa, máu và thép lạnh, hàng
đống người tụ tập trong trận chiến – đó là qui tắc trong tín ngưỡng của họ.”
Giờ tôi đã phục hồi một chút, cảm thấy hơi xấu hổ về phút
yếu đuối tôi bị lừa dối, tôi cố hết sức trình bầy với bà ấy giáo lý Thiên Chúa
Giáo, tuy nhiên, ngoại trừ quan niệm của chúng ta về Thiên Đường và Địa Ngục,
tôi thấy bà ấy không chú ý lắm, mối quan tâm của bà ấy hướng về Người Đàn Ông
đã dạy những điều đó. Tôi cũng nói với bà ấy rằng, trong tộc người của bà ấy,
người Ả Rập, còn có một nhà tiên tri khác, Mohammed, đã sáng tạo và rao giảng
một đức tin mới, giờ có hàng triệu người trung thành đi theo.
“A!” bà ấy nói; “Ta biết rồi – hai tôn giáo mới! Ta biết có
rất nhiều thứ như vậy, không nghi ngờ gì nữa, đã có nhiều tôn giáo hơn kể từ
khi ta biết đến những việc bên ngoài hang động Kôr. Loài người từng hỏi trời
xanh kia còn có thể nhìn thấy gì nằm sau chúng. Cuối cùng thật khủng khiếp, lại
là một dạng thức ích kỷ tinh vi hơn – nó sinh ra các tôn giáo. Holly của ta,
dấu hiệu tiêu chuẩn, mỗi tôn giáo đều ra tuyên bố về tương lai cho những người
đi theo; hay ít ra đều hướng thiện. Quỉ dữ xấu xa chỉ dành cho kẻ vô giáo dục,
những kẻ không có tín ngưỡng gì trong đó; nhìn vào ánh sáng các tín hữu thật sự
thờ phụng, như cá thấy sao, rất mờ nhạt. Các tôn giáo đến rồi đi, các nền văn
minh đến rồi đi, không gì kéo dài mãi ngoài thế giới và bản thể tự nhiên của
con người. À! Nếu con người có thể thấy hi vọng từ đó hay không – họ vẫn phải
cứu rỗi chính mình! Họ ở đó, trong hơi thở của sự sống và tri thức về thiện ác,
tốt xấu. Thế nên hãy để họ xây dựng và đứng lên, đừng ném đi bản thân trước
hình ảnh Đức Chúa vô danh nào đó, hóa thân như bản thể nghèo khổ của họ, nhưng
với bộ não lớn hơn để nghĩ về điều ác, và tay dài hơn để thực hiện nó.”
Tôi tự nghĩ, lập luận như thế dù có cũ kỹ đến thế nào, thực
ra vẫn là một trong những phẩm chất tuần hoàn trong tranh luận thần học, phê
phán của bà ấy nghe giống những gì tôi nghe thấy ở thế kỷ mười chín, hay những
nơi khác hơn là ở khu hang động Kôr, dù sao tôi hoàn toàn phản đối, nhưng tôi
không quan tâm tới việc cố tranh luận với bà ấy. Ban đầu, tâm trí tôi quá mệt
mỏi với mọi thứ cảm xúc tôi đã trải qua, sau đó tôi cảm thấy tệ hơn. Thật là
mệt mỏi khi tranh cãi với một người theo chủ nghĩa duy vật bình thường, người
đang liệng các con số thống kê và các mẫu vật địa chất vào đầu bạn, trong khi
bạn chỉ đấm lại anh ta một cách suy kiệt và theo bản năng cùng đức tin, than
ôi! Vì vậy những rắc rối của chúng ta có xu hướng tan chảy trong than hồng.
Không may mắn làm sao, tôi sao mà chống lại người có bộ não sắc bén siêu nhiên,
có hai nghìn năm trải nghiệm, bên cạnh là những bí mật của Tự Nhiên bà ta đã
khống chế được! Cảm thấy bà ấy muốn chuyển biến tôi hơn là tôi có thể chuyển
biến được bà ấy, tôi nghĩ tốt nhất nên bỏ qua vấn đề này, vì thế ngồi im lặng.
Từ đó nhiều khi tôi hơi hối tiếc vì đã làm vậy, tôi đã mất đi cơ hội duy nhất
có thể ghi nhớ và tìm hiểu chắc chắn những gì Ayesha thực sự tin tưởng, và
“triết lý” của bà ấy là gì.
“Được rồi, Holly của ta,” bà ấy tiếp tục, “dân tộc ta đã tìm
thấy một nhà tiên tri, ngươi nói có phải là một nhà tiên tri giả không, vì ông
ta không phải dân tộc của ngươi, quả thực, ta nghi ngờ không phải. Ngược lại
trong thời của ta, người Ả Rập chúng ta có nhiều vị thần. Có thần Allât, Saba,
Chủ Nhân của Thiên Đường, Al Uzza, và thần đá Manah, người làm máu nạn nhân
chảy ra, còn có thần Wadd và Sawâ, thần Yaghûth Sư Tử của cư dân vùng Yaman,
thần Yäûk Ngựa của Morad, thần Nasr Đại Bàng của Hamyar; ôi chao, còn nhiều
nữa. Thật điên rồ, đáng xấu hổ và điên rồ! Khi ta thông thái hơn và nói những
điều này, chắc chắn họ muốn giết ta với danh nghĩa vị thần bị sỉ nhục của họ.
Phải, đã từng thế; - nhưng, Holly ạ, ngươi đã mệt mỏi với ta rồi sao, ngươi
ngồi im lặng thế? Hay ngươi sợ ta không dạy ngươi triết lý của ta? – vì ta có
triết lý riêng. Một thầy giáo sao lại không có triết lý của chính mình cơ chứ?
Nếu ngươi làm phật ý ta quá nhiều, hãy cẩn thận! Vì ta sẽ dạy ngươi, ngươi sẽ
tuân theo kỷ luật của ta, cả hai chúng ta sẽ tìm ra đức tin để nuốt chửng tất
cả kẻ khác. Thật là người đàn ông thiếu đức tin! Nhưng nửa giờ qua kể từ lúc
ngươi quì gối – tư thế đó không phù hợp với ngươi, Holly – thề rằng ngươi đã
yêu ta. Chúng ta sẽ làm gì đây? – Không, không được. Ta sẽ đi xem người trẻ
kia, con Sư Tử, như người già Billali gọi hắn, người đến cùng ngươi và đang rất
ốm yếu. Bệnh sốt rét giờ phải hoạt động hết rồi, nếu hắn ta sắp chết, ta sẽ
cứu. Đừng sợ, Holly của ta, ta sẽ không sử dụng phép thuật. Ta không nói với
ngươi rằng không có gì gọi là phép thuật sao, chỉ có thứ để thấu hiểu và ứng
dụng các sức mạnh trong Tự Nhiên thôi? Giờ đi thôi, hiện tại, ta đã làm sẵn
thuốc, ta sẽ đi theo ngươi.” [*]
[*] Ayesha là một nhà hóa học
vĩ đại, thực ra hóa học có vẻ là trò giải trí duy nhất và nghề nghiệp của bà
ấy. Bà ấy có một trong các hang động được trang bị như một phòng thí nghiệm, dù
các thiết bị thô sơ, kết quả bà ấy thu được rõ ràng trong câu chuyện này, đủ để
gây ngạc nhiên. – L.H.H.
Rôi tôi đi, tìm thấy Job và Ustane trong trạng thái đau buồn
vô hạn, thông báo rằng Leo đang hấp hối, họ đã tìm tôi khắp nơi. Tôi chạy tới
bên giường, liếc nhìn cậu ấy: cậu ấy rõ ràng đang chết. Cậu ấy vô thức, thở
nặng nhọc, môi run rẩy, mỗi lần rùng mình rung động cả khung người. Tôi có đủ
kiến thức y học để biết rằng trong một giờ nữa thôi, cậu ấy sẽ ngoài tầm trợ
giúp của nhân thế - có lẽ chỉ còn năm phút. Tôi nguyền rủa sự ích kỷ và điên rồ
của mình biết bao, nó khiến tôi nán lại bên Ayesha trong khi cậu bé thân yêu
của tôi đang nằm chết! Than ôi! Ánh mắt của phụ nữ chiếu xuống dìm chúng ta tới
nơi của quỉ dữ dễ dàng biết bao! Tôi thật là một tên khốn xấu xa! Thực tế tôi
hầu như không nghĩ gì về Leo suốt nửa giờ trước, người đàn ông này hai mươi năm
qua là bạn đồng hành thân thương nhất của tôi, mối quan tâm chính trong khi tôi
còn hiện hữu. Giờ có lẽ đã quá muộn!
Tôi siết chặt tay và
nhìn quanh. Ustane đang ngồi bên giường, trong đôi mắt cô ấy cháy lên ánh sáng
tuyệt vọng đến trì độn. Job khóc sưng vù mắt – tôi rất tiếc tôi không thể đặt
tên nỗi đau của anh ấy bằng từ nào khéo léo hơn – đang ở trong góc. Nhìn mắt
tôi dán vào mình, anh ta đi ra ngoài mang nỗi đau vào lối đi nhỏ. Rõ ràng hy
vọng duy nhất nằm ở Ayesha. Bà ấy, một mình bà ấy – quả thật trừ khi bà ấy là
kẻ mạo danh, điều tôi không tin được – có thể cứu cậu ấy. Tôi muốn đi cầu xin
bà ấy đến. Nhưng khi tôi vừa bắt đầu định làm vậy, Job đi như bay vào phòng,
tóc anh ta dựng lên cùng vẻ khủng bố.
“Ôi, Chúa phù hộ chúng ta, thưa ngài!” anh ta tuôn ra lời
thì thầm kinh sợ, “đằng kia có một cái xác đang trượt xuống lối đi!”
Tôi bối rối một lúc, nhưng tất nhiên hiện tại, tôi nhận ra
anh ta hẳn đã thấy Ayesha, được bao phủ trong lớp vải như vải niệm, đánh lừa
bằng vẻ êm ái nhấp nhô kỳ lạ của bước chân khiến người ta tin rằng bà ấy là một
bóng ma trắng đang lượn về phía anh ta. Thật vậy, lúc đó câu hỏi đã được giải
quyết, vì bản thân Ayesha đã ở trong căn phòng này rồi, chứ không còn ở hang
động. Job quay lại, nhìn thấy hình dáng bị bọc quanh của bà ấy, co quắp rít lên
“Nó đến rồi kìa!” rồi nhảy vào góc, dán chặt mặt vào tường, còn Ustane, đoán đó
hẳn phải là sự hiện diện kinh hãi của ai đó, tự phủ phục xuống.
“Người đến thật đúng lúc, Ayesha,” Tôi nói, “vì cậu bé của
tôi đang nằm chờ chết.”
“Vậy à,” bà ấy nói nhẹ nhàng; “hắn ta sẽ không chết, không
sao đâu, vì ta có thể mang hắn trở lại cuộc đời, Holly của ta. Người kia là
người hầu của ngươi sao, có kiểu người hầu chào đón người lạ ở đất nước ngươi
thế này sao?”
“Cậu ấy sợ hãi trước y phục của người – Nó có không khí như
chết chóc,” Tôi trả lời.
Bà ấy cười.
“Còn cô gái kia? À, giờ ta biết rồi. Cô ta là người ngươi đã
nói với ta. Được, ra lệnh cho bọn họ rời khỏi chúng ta, rồi chúng ta sẽ xem con
Sư Tử ốm yếu này của ngươi. Ta không thích đám thuộc hạ nhận được sự thông thái
của ta.”
Tôi đành bảo Ustane bằng tiếng Ả Rập và Job bằng tiếng Anh
để cả hai người họ rời căn phòng; mệnh lệnh sau được sẵn sàng tuân theo, và rất
vui lòng tuân theo, vì anh ta không thể nào khuất phục được nỗi sợ hãi của bản
thân. Nhưng Ustane thì ngược lại.
“Bà ấy muốn gì?”
cô ấy thì thào, bị nỗi sợ hãi vị Nữ Hoàng kinh khủng này và nỗi lo lắng cho Leo
ngăn ra. “Người vợ có quyền gần bên chồng khi anh ấy chết. Không, ta sẽ không
đi, chủ nhân của ta, Khỉ Đầu Chó.”
“Tại sao người phụ nữ đó không rời khỏi chúng ta, Holly?”
Ayesha từ góc kia hang động hỏi, bà ấy đang kiểm tra qua loa các bức điêu khắc
trên tường.
“Cô ấy không muốn rời Leo,” Tôi trả lời, không biết phải nói
thế nào. Ayesha đi vòng quanh, rồi chỉ vào cô gái Ustane, nói một từ, chỉ một
từ, nhưng vừa đủ âm điệu và trọng lượng.
“Đi!”
Thế là Ustane bò qua bà ấy bằng tay và đầu gối, rồi đi ra.
“Ngươi thấy đấy, Holly của ta,” Ayesha mỉm cười nói, “Ta cần
phải cho những người này bài học để tuân lệnh. Cô gái đó gần như không tuân
lệnh ta, nhưng cô ta đã không học được sáng nay ta đã đối xử với những kẻ không
vâng lời như thế nào. Được, cô ta đã đi rồi; giờ hãy để ta xem người thanh
niên,” bà ấy lướt về chiếc giường Leo nằm, mặt cậu ấy quay vào bóng tối phía
bức tường.
“Hắn ta có dáng vẻ cao quí,” bà ta nói, khi cong người về
phía cậu để xem mặt.
Giây tiếp theo thân thể cao cao yểu điệu của bà ấy lảo đảo
bật lại, như thể bà ấy vừa bị bắn hay bị đâm, lảo đảo tới lúc bà ấy đập vào
tường động, rồi đôi môi bật ra tiếng thét khủng khiếp và kinh hoàng nhất mà tôi
từng nghe trong đời.
“Chuyện gì thế, Ayesha?” Tôi kêu khóc. “Cậu ấy đã chết ư?”
Bà ta quay lại, nhảy về phía tôi như một con hổ cái.
“Ngươi, tên chó má!” bà ấy nói, trong tiếng thì thào khủng
khiếp, nghe như tiếng rít của một con rắn, “Tại sao ngươi dấu ta?” Bà ta giơ
tay, tôi nghĩ bà ta sắp sửa giết tôi.
“Gì cơ?” Tôi thốt lên trong nỗi khiếp sợ sống động nhất; “Gì
cơ?”
“A!” bà ta nói, “không chừng ngươi cũng không biết. Nghe
đây, Holly của ta, nghe đây: nằm đây – nằm đây là Kallikrates đã mất của ta.
Kallikrates, cuối cùng chàng đã trở lại với ta, ta biết chàng sẽ trở lại mà, ta
biết chàng sẽ trở lại;” bà ấy bắt đầu khóc rồi cười, nói chúng làm cho bản thân
bà ấy trở nên giống những phụ nữ khác, buồn bã một chút, thì thầm “Kallikrates,
Kallikrates!”
“Vớ vẩn,” Tôi tự nghĩ, nhưng tôi không muốn nói điều đó;
thực ra lúc này tôi đang nghĩ về tính mạng Leo, nên quên đi mọi thứ lo lắng
khác. Điều tôi sợ hãi bây giờ là cậu ấy có chết khi bà ta vẫn còn “đang có thái
độ kỳ quặc” không.
“Trừ khi người có thể giúp được cậu ấy, Ayesha,” Tôi xen vào
nhắc nhở, “nếu không Kallikrates của người sẽ sớm đi xa khỏi lời kêu gọi của
người. Chắc chắn cậu ấy sẽ chết ngay bây giờ đấy.”
“Đúng,” bà ta nói, và bắt đầu hành động. “Ôi, tại sao ta lại
không tới trước! Ta mất bình tĩnh rồi – tay ta run rẩy, thậm chí chính bản thân
ta cũng vậy – nó rất dễ. Đây, ngươi, Holly, hãy lấy cái lọ này,” bà ta đưa ra
một lọ gốm nhỏ từ nếp vải, “hãy rót chất lỏng trong đó xuống cổ họng chàng. Nó
sẽ chữa khỏi cho chàng nếu chàng chưa chết. Nhanh lên, giờ hãy nhanh lên! Người
ấy chết rồi!”
Tôi liếc nhìn cậu ấy; đúng thế thật, Leo đang vật lộn với tử
thần. Tôi thấy gương mặt khốn khổ của cậu ấy chuyển sang tái mét, nghe thấy hơi
thở bắt đầu khò khè trong cổ họng cậu. Cái lọ được đậy bằng một mẩu gỗ nhỏ. Tôi
tháo nó bằng răng, một giọt chất lỏng rơi vào lưỡi tôi. Nó có vị ngọt, sau một
giây khiến đầu óc tôi như đang bơi, sương mù tụ quanh mắt tôi, nhưng thật hạnh
phúc hiệu ứng đã trôi qua thật nhanh chóng như khi nó phát sinh.
Khi tôi tới bên Leo, cậu ấy rõ ràng đang tắt thở - cái đầu
vàng của cậu đang chậm rãi chuyển động từ bên này sang bên kia, miệng cậu hơi
mở. Tôi bảo Ayesha giữ đầu cậu, khi cô ấy làm thế, dù người phụ nữ này đang run
rẩy từ đầu đến chân, như lá liễu hay một con ngựa giật mình. Rồi, buộc miệng mở
lớn hơn chút nữa, tôi rót chất trong lọ vào miệng cậu ấy. Ngay lập tức một hơi
nhỏ bốc lên từ đó, giống như phản ứng với axit nitric, cảnh này không làm hy
vọng của tôi tăng lên, hiệu quả điều trị đã đủ yếu rồi.
Tuy nhiên có một điều chắc chắn, cái chết đau đớn đã dừng
lại – thoạt tiên tôi nghĩ vì cậu ấy đã rời xa mọi đau đớn, vượt qua con sông
kinh hãi rồi. Gương mặt cậu trở nên xanh xao tái mét, nhịp tim của cậu, trước
đây khá yếu, dường như chết hoàn toàn – chỉ còn mí mắt vẫn giật giật một chút.
Tôi nghi ngờ nhìn Ayesha, cái đầu quấn băng của bà ấy trở lại vẻ kích động như
khi quay cuồng khắp căn phòng. Bà ấy vẫn giữ đầu Leo, với gương mặt nhợt nhạt
như của cậu ấy, nhìn nét mặt đó với vẻ lo âu khắc khoải mà tôi chưa từng thấy
trước đây. Rõ ràng bà ấy không biết cậu ấy sẽ sống hay chết. Năm phút chậm rãi
trôi qua và tôi thấy bà ấy đang từ bỏ hy vọng; gương mặt trái xoan đáng yêu của
bà ấy như chìm xuống, trông mỏng hơn dưới áp lực đau đớn về tinh thần như cây
bút chì vẽ những đường đen trên hốc mắt. Đôi môi vốn đỏ như san hô, giờ đã trắng
như mặt Leo, run rẩy đáng thương. Thật sốc khi nhìn bà ấy: thậm chí ngay trong
nỗi đau của riêng mình, tôi cũng cảm nhận thấy nỗi đau của bà ấy.
“Quá muộn ư?” Tôi giật mình.
Bà ấy giấu mặt trong bàn tay, không trả lời, còn tôi quay
đi. Nhưng lúc đó, tôi nghe thấy một hơi thở sâu, nhìn xuống nhận thấy một đường
màu sáng bò trên mặt Leo, rồi một đường nữa, một đường nữa, đúng là kỳ tích của
kỳ tích, người đàn ông chúng tôi nghĩ đã chết đang sống lại.
“Người xem,” Tôi thì thào.
“Ta thấy rồi,” bà ấy khàn khàn giọng trả lời. “Chàng đã được
cứu. Ta nghĩ chúng ta quá muộn – một khoảnh khắc thôi – một chút nữa thôi –
chàng đã ra đi!” rồi nước mắt bà ấy tuôn như lũ, khóc nức nở như thể trái tím
bà đã vỡ, nhưng trông dễ thương hơn bất kỳ việc gì bà ấy đã làm. Cuối cùng bà
ấy ngừng lại.
“Hãy tha thứ cho ta, Holly của ta – hãy tha thứ cho sự yếu
đuối của ta,” bà ấy nói. “Ngươi thấy đấy, cuối cùng ta vẫn là một phụ nữ.”
“Hãy nghĩ đi – giờ hãy nghĩ
về nó! Sáng nay ngươi nói về nơi đau khổ mà tôn giáo mới của ngươi lập ra.
Ngươi gọi nó là Địa Ngục hay Thần Hades (Diêm Vương) – nơi tinh chất của sự
sống tồn tại và bảo lưu ký ức của một cá nhân, nơi mọi tội lỗi và sai lầm đều
bị trừng phạt, những đam mê không được thỏa mãn và những điều khủng bố không
chứng cớ trong tâm trí cũng sẽ bị chế nhạo, ám ảnh, giễu cợt, và vắt kiệt trái
tim vĩnh viễn trong vô vọng. Thế thì ta đã sống hai nghìn năm – suốt từ sáu hay
sáu mươi thế hệ, như ngươi nghĩ về thời gian – trong Địa Ngục, ngươi đã gọi thế
- bị tra tấn bằng ký ức của một tội phạm, tra tấn ngày đêm trong mong muốn chưa
bao giờ được thực hiện – không người đồng hành, không thoải mái, không có cái
chết, chỉ có đầm lầy dẫn tới con đường thê lương với chút ánh sáng của Hy Vọng,
dù chúng nhấp nháy đây đó, giờ đã tỏa sáng mạnh mẽ, không, như kinh nghiệm mách
bảo ta, một ngày nào đó ta sẽ được giải thoát.”
“Hãy tiếp tục nghĩ về nó,
Holly, ngươi từng nghe thấy câu chuyện nào như thế chưa, hay từng thấy một cảnh
nào như thế, không, thậm chí nếu ta cho ngươi mười nghìn năm cuộc đời – ngươi sẽ
phải trả giá nếu ngươi muốn thế - hãy nghĩ mà xem: cuối cùng giờ phút giải
thoát của ta đã đến – chàng, người ta tìm kiếm và chờ đợi qua bao thế hệ - lúc
này chàng đã tới tìm ta, vì ta biết chàng sẽ đến, vì sự thông thái của ta không
thể sai lầm, dù ta không biết khi nào và như thế nào. Ta thật ngu dốt! Trí tuệ
của ta nhỏ bé biết bao, sức mạnh của ta yếu đuối biết bao! Chàng nằm đó hàng
giờ tới chết, mà ta không cảm thấy gì – Ta đã đợi chàng hai nghìn năm – Ta
không biết điều đó. Rồi cuối cùng ta đã gặp được chàng, than ôi, cơ hội của ta
suýt biến mất trong chân tơ kẽ tóc, vì chàng đã thực sự trong miệng tử thần,
không có sức mạnh nào của ta thấy điều đó. Nếu chàng chết, chắc hẳn phải được
sống lại dưới Địa Ngục một lần nữa – và một lần nữa ta phải đối mặt với hàng
thế kỷ mệt mỏi, chờ đợi, chờ đợi tới lúc thời gian mang người ta yêu trả lại
cho ta. Ngươi đã cho chàng uống thuốc, năm phút lê thê trước khi ta biết được
chàng sống hay chết, ta nói cho ngươi, sáu mươi thế hệ đã qua không dài như năm
phút đó. Nhưng cuối cùng chúng đã trôi qua, chàng vẫn không có dấu hiệu nào, ta
biết nếu thuốc không có tác dụng, như những gì ta biết, nó sẽ hoàn toàn không
có tác dụng nữa. Thế thì chàng sẽ lại chết một lần nữa, mọi tra tấn của năm
tháng sẽ tụ tập lại trong một ngọn giáo độc, cứ thế xuyên qua ta, vì ta lại mất
Kallikrates một lần nữa! Xong rồi, than ôi! Chàng đã thở dài, than ôi! Chàng đã
sống, và ta biết chàng sẽ sống, vì chưa ai chết khi uống thuốc này cả. Giờ hãy
nghĩ đi, Holly của ta – hãy nghĩ về điều kì diệu này! Chàng sẽ ngủ mười hai giờ
và sốt rét sẽ rời bỏ chàng!”
Bà ấy dừng lại, đặt bàn tay lên cái đầu vàng ươm
của cậu ấy, rồi gập người xuống hôn lên trán cậu, bỏ đi vẻ dịu dàng tự phụ đẹp
đẽ, cảnh đó như cứa vào trái tim tôi – vì tôi ghen!Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham