CHƯƠNG 15
Ayesha Phán Xử
Thứ kế tiếp tôi
nhớ được là mở mắt và nhận ra thân ảnh của Job, giờ đã thực sự phục hồi sau khi
bị sốt rét tấn công. Anh ta đang đứng trên dải sáng gay gắt mà không gian bên
ngoài chiếu vào trước động, rũ quần áo tôi như một cách giặt rũ tạm thời, việc
anh ta không thể làm vì không có bàn chải, rồi sau đó gấp chúng gọn gàng và đặt
chúng vào chân giường đá. Làm xong, anh ta lấy bộ đồ du lịch của tôi ra khỏi
chiếc túi Gladstone, mở nó ra sẵn cho tôi dùng. Đầu tiên anh ta đặt nó phía
chân giường, rồi e sợ tôi có thể hất nó ra, tôi cho là thế, anh ta đặt nó trên
một tấm da báo trên sàn, đứng lui xuống một hai bước để quan sát hiệu quả.
Không hài lòng, vì thế anh ta đóng cái túi, kéo nó đến cuối, để nó lại chân giường,
đặt bộ đồ du lịch trên đó. Tiếp theo anh ta nhìn những cái chậu đầy nước, là những
chiếc máy giặt của chúng tôi. “A!” Tôi nghe thấy anh ta lẩm bẩm, “Không có nước
nóng ở nơi hoang dã này. Mình cho là những kẻ nghèo khổ này chỉ dùng nó để luộc
nhau,” và anh ta thở dài sâu sắc.
“Chuyện gì thế,
Job?” Tôi nói.
“Xin thứ lỗi,
thưa ngài,” Anh ta nói, lại chạm vào mái tóc. “Tôi nghĩ ngài đang ngủ, thưa
ngài; Tôi chắc ngài có vẻ như ngài muốn. Khi nhìn thấy ngài, người ta có lẽ
nghĩ ngài đã có một đêm như ngài muốn.”
Tôi chỉ rên rỉ
thay cho trả lời. Thực vậy, tôi đã có một đêm ở đây, mà tôi không bao giờ hy vọng
có lại lần nữa.
“Ngài Leo thế
nào rồi, Job?”
“Vẫn như vậy,
thưa ngài. Nếu cậu ấy không được chữa sớm, cậu ấy sẽ chết mất, thưa ngài; tất cả
chỉ có thế; dù tôi phải nói rằng, cô Ustane hoang dã kia đã làm hết sức vì cậu ấy,
gần như một người Thiên Chúa giáo đã được rửa tội. Cô ấy luôn xoay quanh chăm
sóc cậu ấy, nếu tôi mạo hiểm can thiệp, trông cô ta thật khủng khiếp; tóc cô ấy
như dựng đứng, cô ấy nguyền rủa và chửi thề một cách vô giáo dục – ít nhất tôi
nghĩ cô ta đang nguyền rủa, nếu nhìn từ dáng vẻ bề ngoài của cô ta.”
“Thế cậu làm gì
rồi?”
“Tôi đã chào cô ấy
và nói, ‘Này người phụ nữ trẻ, vị trí của cô tôi hoàn toàn không hiểu và không
nhận ra. Hãy để tôi nói cho cô, tôi có bổn phận phục vụ chủ nhân của tôi khi
không còn khả năng vì bệnh tật, tôi sẽ phục vụ đến khi tôi cũng không còn khả
năng.’ Nhưng cô ta không thèm để ý, chứ không chỉ nguyền rủa và chửi thề như
trước đó. Tối qua cô ấy để tay dưới chiếc áo mặc đêm của cô ấy, lấy ra một con
dao cong lưỡi, thế là tôi lôi ra khẩu súng lục của tôi, chúng tôi đi vòng quanh
nhau cho đến khi cô ấy bật cười. Đó không phải cách cư xử tốt đẹp mà một người
Thiên Chúa giáo phải làm với một kẻ hoang dã, dù cô ta xinh đẹp đến đâu, mà đó
là thứ người ta nghĩ là rất ngu ngốc. (Job đặt trọng tâm vào “ngu ngốc”) Đến một
nơi thế này tìm kiếm những thứ không ai cho là sẽ tìm thấy, đó là một bản án với
chúng ta, thưa ngài – quan điểm của tôi là thế; còn với tôi, tôi cho rằng bản
án chưa thực hiện được một nửa, khi nó thực hiện xong, chúng ta cũng sẽ xong đời,
và dừng lại trong những hang động hoang sơ đầy bóng ma và xác chết này suốt đời.
Giờ thưa ngài, tôi phải đi xem nước dùng của Ngài Leo, nếu con mèo hoang đó đưa
cho; và có lẽ ngài cũng muốn dậy chứ, thưa ngài, vì đã quá chín giờ rồi.”
Câu nói của Job
không phải lời chào mừng đúng đắn cho người trải qua một đêm như tôi; hơn thế,
nó có sức nặng của sự thật. Lấy một ví dụ trong đó, dường như hoàn toàn bất khả
thi nếu chúng tôi muốn trốn thoát khỏi nơi này. Giả sử Leo phục hồi, giả sử Bà ấy cho chúng tôi đi – dù cực kỳ đáng
ngờ - và giả sử bà ta không “thổi bay”
chúng tôi vì một khoảnh khắc tức giận nào đó, và giả sử chúng tôi không bị người
Amahagger đặt chậu nung nóng, chúng tôi cũng hoàn toàn không thể tìm được đường
đi trong mạng lưới đầm lầy trải rộng hết điểm này đến điểm khác hàng dặm trường,
tạo nên một pháo đài mạnh mẽ không thể vượt qua được bao quanh các hộ gia đình
Amahagger, nó mạnh hơn bất kỳ thứ gì từng được con người xây dựng và thiết kế.
Không, chỉ có một việc để làm – đối mặt với nó; nói theo cách của tôi, tôi chủ
động quan tâm đến toàn bộ câu chuyện kỳ lạ này, như tôi vẫn đang quan tâm, bất
chấp trạng thái thần kinh đang bị suy nhược, tôi vẫn không đòi hỏi gì hơn, thậm
chí phải trả giá bằng mạng sống của bản thân cho tính tò mò. Ai lại không bị
lôi cuốn về mặt sinh lý để có thể chịu đựng nghiên cứu một nhân vật như Ayesha
khi cơ hội đang hiện ra thế này cơ chứ? Theo đuổi kinh hãi cộng với đam mê, bên
cạnh đó, tôi buộc phải khiến mình tỉnh táo như ban ngày, bản thân bà ta có sức
thu hút mà tôi không thể quên được. Không chỉ cảnh tượng hãi hùng tôi đã chứng
kiến suốt đêm đưa tôi đến kết luận đó; than ôi! Tôi phải thừa nhận, nó không chỉ
đảo điên trong đầu tôi từ đó đến giờ.
Sau khi mặc quần
áo, tôi đi ăn, đúng hơn là tới phòng ướp xác ăn vài món, như trước đó những cô
gái câm mang đến cho tôi. Ăn xong, tôi tới xem Leo khốn khổ, người đã hoàn toàn
phát điên, không còn nhận ra tôi nữa. Tôi hỏi Ustane xem cô ấy nghĩ cậu ấy sẽ
thế nào; nhưng cô ấy chỉ lắc đầu và bắt đầu khóc. Rõ ràng hy vọng của cô ấy rất
nhỏ; và tôi quyết định, nếu có thể, tôi muốn đưa Bà ấy tới nhìn xem cậu ấy. Chắc chắn bà ta có thể cứu được cậu ấy nếu
bà ta lựa chọn thế - dù sao bà ta đã nói bà ta có thể. Khi tôi trong phòng,
Billali đi vào, và cũng lắc đầu.
“Hắn ta sẽ chết
tối nay,” ông ta nói.
“Chúa không cho
phép điều đó, thưa cha,” Tôi trả lời, rồi quay đi với trái tim nặng trĩu.
“Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh đã
ra lệnh gặp ngươi, Khỉ Đầu Chó à,” ông già nói ngay khi chúng tôi đi ra khỏi tấm
rèm; “nhưng con trai yêu quí của ta, cẩn thận hơn vào. Hôm qua ta chắc chắn
trong lòng rằng Bà ấy muốn làm ngươi
nổ tan khi ngươi không bò vào bằng bụng trước mặt bà ấy. Giờ bà ấy đang ngồi
trong khán phòng lớn để phán xét những kẻ đã đánh ngươi và con Sư Tử. Đi nào,
con trai; nhanh chóng tới thôi.”
Tôi quay lại đi
theo ông ta xuống lối đi nhỏ, khi chúng tôi tới động lớn trung tâm, có nhiều
người Amahagger, một số khoác áo choàng, một số chỉ mặc đồ da báo đơn giản,
đang vội vã đi vào. Chúng tôi trộn lẫn với đám đông, bước vào hang động khổng lồ
và thực sự gần như vô tận đó. Những bức tường của nó đều được điêu khắc công
phu, cứ mỗi hai mươi bước chân hoặc lối đi như vậy lại mở ra một góc bên phải,
Billali nói với tôi, nó dẫn đến các ngôi mộ được đào rỗng dưới lớp đá bởi “tộc
người từng sống trước đây”. Ông ta bảo, bây giờ không ai đến thăm những ngôi mộ
đó nữa; tôi thấy tim mình vui sướng khi nghĩ về những cơ hội nghiên cứu đồ cổ
đang mở ra trước mắt.
Cuối cùng chúng
tôi đến phần đầu hang động, nơi có một bệ đá gần như giống với cái mà chúng tôi
bị tấn công điên cuồng, mẫu vật chứng minh cho tôi thấy rằng những bệ đá đó từng
được dùng như bàn thờ, có lẽ để cử hành các nghi lễ tôn giáo, đặc biệt hơn, là
các nghi thức kết nối với việc chôn cất người chết. Một bên của bệ đá là những
lối đi nhỏ, Billali bảo tôi, chúng dẫn tới các hang động đầy người chết khác.
“Thật thế đấy,” ông ta nói thêm, “cả ngọn núi này toàn người chết, gần như tất
cả bọn họ đều hoàn hảo.”
Trước bệ tập
trung một lượng lớn người cả nam lẫn nữ, đang đứng nhìn chằm chằm theo kiểu ảm
đạm đặc thù của họ, điều có thể khiến Mark Tapley giảm sự khốn khổ của ông ta
khoảng năm phút. Trên bệ đặt một chiếc ghế gỗ thô dát ngà voi, chỗ ngồi bằng sợi
cỏ, bệ chân tạo từ tấm gỗ gắn vào khung ghế.
Bỗng nhiên có tiếng
kêu “Hiya! Hiya!” (“Bà ấy! Bà ấy!”),
sau đó toàn bộ đám đông khán giả lập tức phủ phục trên mặt đất, nằm im như thể
bị chết tập thể, để lại mình tôi đứng đó như một người sống sót đơn độc sau thảm
họa. Một hàng dài binh sĩ xuất hiện từ lối đi sang bên trái, rồi tự dịch chuyển
sang bên phía kia bệ đá. Một dãy đàn ông câm điếc theo sau, rồi tới những phụ nữ
câm điếc mang đèn, một thân ảnh da trắng cao cao, quấn từ đầu đến chân, tôi nhận
ra đó là Bà ấy. Bà ấy lên bệ và ngồi
xuống ghế, nói với tôi bằng tiếng Hy Lạp, tôi cho là vì bà ấy không muốn những
người kia hiểu bà ấy nói gì.
“Lại đây,
Holly,” bà ấy nói, “ngồi dưới chân ta, và xem ta phán xử những kẻ muốn giết
ngươi. Hãy tha thứ cho ta nếu tiếng Hy Lạp của ta như kẻ khập khiễng; đã quá
lâu từ khi ta nghe âm thanh ngôn ngữ đó đến mức lưỡi ta cứng lại, và không uốn
lưỡi đúng cách.”
Tôi cúi đầu, lên
bệ và ngồi dưới chân bà ấy.
“Ngươi ngủ thế
nào, Holly của ta?” bà ấy hỏi.
“Tôi ngủ không tốt
lắm, Ayesha!” Tôi trả lời thật, thầm sợ hãi có lẽ bà ấy đã biết tôi đi qua lúc
nửa đêm.
“Vậy à,” bà ta mỉm
cười nói; “Ta cũng vậy, không ngủ ngon. Đêm qua ta đã có những giấc mơ, và ta
nghĩ ngươi đã gọi chúng đến, ôi Holly.”
“Người mơ thấy
gì, Ayesha?” Tôi vô tư hỏi.
“Ta mơ thấy,” bà
ta trả lời nhanh, “một người ta căm ghét và một người ta yêu thương,” sau đó bỏ
qua cuộc đối thoại, bà ta nói với đội trưởng bảo vệ của mình bằng tiếng Ả Rập:
“Hãy mang đám người kia tới đây.”
Viên đội trưởng
cúi thấp, vì người bảo vệ và người hầu của bà ấy không phải phủ phục xuống đất
nhưng vẫn phải đứng đó, hắn đi với thuộc hạ xuống lối đi nhỏ bên phải.
Sau đó im lặng. Bà ấy ngả đầu quấn băng trên tay và chìm
trong suy tư, trong khi đám đông trước mặt tiếp tục phủ phục bằng bụng, chỉ điểu
chỉnh cái đầu một chút để nhìn được chúng tôi bằng một mắt. Dường như Nữ Hoàng
của họ hiếm khi xuất hiện công khai đến mức họ sẵn sàng chấp nhận trải qua sự bất
tiện này, thậm chỉ cả những rủi ro nghiêm trọng hơn, để có cơ hội nhìn thấy bà ấy,
hay đúng hơn là bộ đồ bọc ngoài của bà ấy, vì không người sống nào ở đây trừ
tôi từng nhìn thấy mặt bà ta. Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy nhấp nhô ánh
sáng, và nghe tiếng bước chân dọc theo lối đi, dẫn đầu bởi người bảo vệ, theo
sau là những kẻ sống sót trong đám người suýt giết chúng tôi, khoảng hơn hai
mươi tên, trên mặt chúng, biểu cảm buồn rầu tự nhiên tranh đấu với vẻ khủng bố
rõ ràng hài hòa với trái tim hoang dã của chúng. Chúng xếp thành hàng trước bệ,
lẽ ra phải nằm bò xuống sàn hang như đám khản giả, nhưng Bà ấy bảo họ dừng lại.
“Không,” bà ấy
nói bằng giọng rất nhẹ nhàng, “đứng lên; ta cầu nguyện để các ngươi đứng. Không
chừng lúc các ngươi mệt vì bị kéo ra sẽ chóng đến thôi,” bà ta cười du dương.
Tôi thấy vẻ sợ sệt
kinh hãi chạy dọc theo hàng của đám khốn xấu xa đó, tôi rất tiếc cho chúng. Có
lẽ hai hay ba phút trôi qua trước khi điều gì đó trong lành xảy ra, lúc đó Bà ấy đang cử động cái đầu – tất nhiên,
chúng tôi không thể nhìn thấy mắt bà ấy – chậm rãi và cẩn thận kiểm tra từng
tên phạm tội. Cuối cùng bà ta nói với tôi bằng giọng ôn hòa và thận trọng.
“Vị khách của
ta, ngươi có nhận ra những người này không?”
“Có, thưa Nữ
Hoàng, gần như tất cả bọn họ,” Tôi nói và thấy chúng khó chịu với tôi khi tôi bảo
thế.
“Thế thì hãy nói
cho ta, về đám người kia, câu chuyện mà ta đã nghe.”
Được yêu cầu,
trong vài lời, tôi đã kể câu chuyện về lễ ăn thịt người và nỗ lực tra tấn người
đầy tớ khốn khổ của chúng tôi. Câu chuyện nhận được sự im lặng hoàn toàn từ cả
kẻ bị kết tội, khán thính giả, và cả Bà ấy.
Khi tôi nói xong, Ayesha gọi tên Billali, ông già nâng đầu lên, nhưng không đứng
dậy, xác nhận câu chuyện. Không còn bằng chứng nào khác.
“Các ngươi đã
nghe thấy rồi đấy,” Bà ấy nói bằng giọng
rõ ràng và lạnh lẽo, rất khác giọng lúc bình thường – quả thực, một trong những
điều đáng chú ý nhất về con người kỳ lạ này là giọng nói bà ta tự thân nó có sức
mạnh kỳ diệu phù hợp với tâm trạng tại thời điểm đó. “Các ngươi muốn nói gì, những
đứa con nổi loạn, tại sao không nên trút thù hận lên các ngươi?”
Phút chốc không
có câu trả lời, nhưng cuối cùng một tên trong đám người, tên đó ngực rộng, đẹp
trai, trung tuổi, có những đường nét như trạm khắc và đôi mắt như diều hâu, nói
rằng, mệnh lệnh mà chúng nhận được là không làm hại người da trắng; chứ không
nói gì tới người đầy tớ da đen, vì thế bị một người phụ nữ giờ đã chết thúc giục,
chúng tiến hành đặt chậu nung nóng anh ta theo phong tục cổ xưa đầy tôn kính của
đất nước này, tất nhiên là để ăn thịt anh ta. Đối với cuộc tấn công bất ngờ vào
chúng tôi, đó là do sự tức giận đột ngột, chúng vô cùng hối tiếc chuyện này. Hắn
kết thúc bằng cách khiêm tốn cầu xin cho bọn chúng được trục xuất vào đầm lầy,
sống chết tùy ý; nhưng tôi thấy trên mặt hắn viết rằng, có rất ít hy vọng được
thương xót.
Rồi tới một khoảng
lặng, sự im lặng rộng lớn nhất ngự trị toàn bộ khung cảnh, chiếu sáng bởi những
ngọn đèn nhấp nháy trải ra những mảnh sáng tối trên tường đá, kỳ lạ như những
gì tôi từng thấy trên mảnh đất xấu xa này. Trên nền đất trước bệ đá là bóng
dáng như xác chết của các khán giả, những hàng dài của họ biến mất trong nền tối.
Trước những khán giả đang nằm phủ phục này là những kẻ làm điều xấu, đang cố gắng
che phủ sự khủng bố tự nhiên của chúng bằng vẻ can đảm lãnh đạm. Bên phải và
trái, những người bảo vệ đứng im lặng, khoác áo choàng trắng và trang bị vũ khí
là giáo lớn và dao găm, những người đàn ông và đàn bà câm đang xem bằng ánh mắt
không quá tò mò. Rồi, ngồi trên ghế trước tất cả, tôi ngồi dưới chân, là người
phụ nữ da trắng che mặt, người mà vẻ đẹp và sức mạnh kỳ diệu của bà ấy dường
như tỏa sáng như hào quang, hay đúng hơn như một quầng sáng từ những tia sáng vô
hình. Tôi chưa bao giờ thấy dáng vẻ che mặt của bà ấy lại khủng khiếp như lúc
này, bà ấy tự tập hợp sức mạnh để báo thù.
Cuối cùng giờ
phút đó đã đến.
“Lũ chó má rắn rết
kia,” Bà ấy bắt đầu với giọng trầm thấp tụ hợp dần dần sức mạnh tới khi nó ngân
vang cả không gian. “Những kẻ ăn thịt người kia, các ngươi đã phạm hai điều. Thứ
nhất, các ngươi đã tấn công những người lạ này, những người da trắng, và muốn
giết người đầy tớ của họ, vì thế các người đáng nhận một cái chết đơn độc.
Nhưng không phải chỉ có thế. Các ngươi dám làm trái lời ta. Ta đã không gửi lời
tới các ngươi qua Billali, người đầy tớ của ta, cha của các ngươi ư? Ta không
truyền lệnh bảo các ngươi tiếp đãi trọng thị những người lạ này ư, những người
các ngươi cố giết chết, nếu không mạnh mẽ và can đảm, đã có thể bị giết hại tàn
nhẫn rồi? Các ngươi không được dạy dỗ từ bé rằng luật lệ của Bà ấy là luật không bao giờ thay đổi, kẻ
nào phá vỡ nó dù nhiều hay ít đều sẽ phải chết ư? Lời nhẹ nhất của ta không phải
là luật lệ ư? Cha các ngươi không dạy các ngươi điều này ngay từ khi các ngươi
còn bé ư? Các ngươi không biết rằng ta có thể ra lệnh những hang động to lớn
này rơi đè lên các ngươi, hay khiến mặt trời dừng cuộc hành trình, hay hi vọng
ta biến hóa, làm cho lời ta nặng nhẹ theo ý các ngươi ư? Các ngươi biết rồi đấy,
các ngươi là Những Kẻ Tội Lỗi. Nhưng các ngươi đều là quỉ dữ - quỉ dữ tới tận
xương tủy – Tội lỗi thổi các ngươi lên như suối nước mùa xuân. Không phải ta,
mà chính là hàng thế hệ các ngươi đã ngừng tồn tại vì các ngươi đã dùng cách thức
xấu xa như quỉ dữ để hủy diệt lẫn nhau. Giờ đây, vì các ngươi đã làm việc đó,
vì các ngươi đã tấn công những vị khách của ta tới chết, và hơn thế, vì các
ngươi dám không tuân lệnh ta, đây là phán xét mà ta dành cho các ngươi. Các
ngươi sẽ bị đưa tới hang tra tấn, [*] và được trao cho những tên đao phủ, tới
lúc mặt trời lặn ngày mai, tên nào còn sống sẽ bị giết, giống như các ngươi đã
giết người đầy tớ của vị khách của ta.”
[*] “Hang tra tấn” – về sau tôi mới biết nơi kinh hãi này, cũng là một
truyền thuyết từ người tiền sử từng sống ở Kôr. Đồ vật duy nhất trong hang là
những khối đá được sắp xếp ở nhiều vị trí để thuận lợi cho việc tra tấn. Nhiều khối
đá làm từ tảng đá xốp, bị nhuộm tối nhờ máu của các nạn nhân từ xa xưa ngấm
trên chúng. Giữa hang là chỗ đặt một cái lò, có khoang để nung nóng cái chậu đã
đi vào sử sách. Nhưng thứ kinh hãi nhất trong hang này là trên mỗi khối đá đều
có tranh khắc minh họa hành động tra tấn tương ứng được áp dụng. Những bức điêu
khắc này khủng khiếp đến mức tôi sẽ không cố mô tả chúng khiến người đọc đau
lòng. – L.H.H.
Bà ấy dừng lại,
tiếng thì thầm kinh dị yếu ớt lan khắp hang động. Đối với các nạn nhân, ngay
khi nhận thức đầy đủ sự ghê gớm trong hình phạt dành cho mình, vẻ cam chịu rời
bỏ họ, họ lăn lộn trên mặt đất, kêu khóc và van xin lòng thương xót một cách
ghê sợ. Tôi cũng quay lại phía Ayesha, cầu xin bà ấy tha cho họ, hay ít nhất xử
lý tính mạng của họ theo cách ít kinh hãi hơn. Nhưng bà ấy cứng rắn cương quyết
thi hành nó.
“Holly của ta,”
Bà ấy nói bằng tiếng Hy Lạp, nói thật, dù tôi luôn được coi là một học giả tài
ba về ngôn ngữ, tốt hơn rất nhiều người, tôi vẫn thấy cách nói đó thật khó
nghe, chính do biến đổi lúc hạ giọng. Tất nhiên Ayesha nói giọng đương thời của
bà ấy, trong khi chúng ta chỉ có những hướng dẫn về giọng truyền thống và giọng
hiện đại để phát âm chính xác. “Holly của ta, không thể được. Nếu ta thể hiện sự
thương xót với lũ sói này, mạng sống của các ngươi sẽ không an toàn giữa đám
người này dù một ngày. Ngươi không hiểu chúng. Chúng là hùm beo hớp máu, thậm
chí ngay cả bây giờ chúng cũng thèm khát mạng sống các ngươi. Ngươi nghĩ ta thống
trị tộc người này thế nào? Ta có một đội vệ sĩ tuân theo lệnh ta, nhưng đó không
phải bằng sức mạnh, mà bằng khủng bố. Đế chế của ta hình thành từ trí tưởng tượng.
Trong mỗi thế hệ có lẽ ta đều làm như ta đang làm bây giờ, giết một đám người bằng
tra tấn. Đừng cho là ta độc ác, hay đang trả thù cái gì thấp kém như vậy. Có lợi
gì với ta khi trả thù như vậy? Holly ạ, những ai sống lâu không có đam mê cứu vớt
những gì họ đã thu lợi được từ nó đâu. Dù có vẻ như ta đã phẫn nộ mà giết
chúng, hay do tâm trạng ta đi quá xa, nhưng thực sự không phải thế. Ngươi thấy
mây bay trên trời trôi đi vô định như thế nào không, sau chúng là gió lớn quét
theo con đường nào, chúng cũng phải đi theo đường đó. Với ta cũng vậy, Holly ạ.
Tâm trạng hay mọi thay đổi của ta là mây, có vẻ thay đổi thất thường; nhưng sau
chúng, gió lớn thổi là mục đích của ta. Không, đám người này phải chết; chết
như ta đã nói.” Rồi đột nhiên quay về phía đội trưởng bảo vệ:
“Theo lời ta, thực
hiện đi!”
CHƯƠNG 16
Những ngôi mộ ở Kôr
Sau khi đám tù
nhân bị dẫn đi, Ayesha vẫy tay, đám khán giả quay lại và bắt đầu bò xuống dưới
hang như bầy cừu tan tác. Khi họ cách một khoảng khá xa so với bệ đá, họ đứng
lên và bước đi, bỏ lại Nữ Hoàng và tôi, ngoại trừ những người câm và vài người
bảo vệ bên cạnh, còn lại đi theo đám người bị kết án. Cho rằng đây là một cơ hội
tốt, tôi đề nghị Bà ấy tới xem Leo, kể
cho bà ấy nghe tình trạng nghiêm trọng của cậu ấy; nhưng bà ta không muốn, và bảo
rằng cậu ấy chắc chắn không thể chết trước đêm nay, vì người ta chưa bao giờ chết
vì sốt rét trừ lúc đêm xuống hay bình minh. Bà ấy cũng nói tốt hơn là để căn bệnh
tự tiêu hết năng lực của nó càng nhiều càng tốt trước khi bà ta chữa. Tiếp
theo, tôi đứng dậy rời đi khi bà ấy mời tôi đi theo, vì bà ta muốn nói chuyện với
tôi và chỉ cho tôi các kỳ quan hang động.
Tôi đã tham gia
quá nhiều vào cái mạng đầy lôi cuốn chết người của bà ta để có thể nói Không,
dù tôi muốn thế, nhưng tôi đã không làm vậy. Bà ấy đứng lên rời khỏi ghế, ra hiệu
với những người câm, đi xuống bệ đá. Theo sau bốn cô gái cầm đèn, xếp thành hai
người đi trước và hai người đi sau chúng tôi, còn những người khác đi xa, đám vệ
sĩ cũng vậy.
“Bây giờ,” bà ta
nói, “ngươi muốn xem vài kì quan nơi đây chứ, Holly? Hãy nhìn cái hang lớn kia.
Ngươi từng thấy cái nào giống thế chưa? Có nhiều cái như nó, được đào bằng bàn
tay của tộc người đã chết từng sống ở đây, trong một thành phố trên đồng bằng.
Đó là một dân tộc vĩ đại và tuyệt vời, những con người của Kôr, nhưng giống như
người Ai Cập, họ nghĩ nhiều về người chết hơn người sống. Ngươi nghĩ cần bao
nhiêu người làm việc trong bao nhiêu năm để đào được cái hang này và tất cả các
khu trưng bày quanh đây?”
“Hàng chục nghìn
năm,” Tôi trả lời.
“Đúng vậy,
Holly. Dân tộc này là một tộc người cổ xuất hiện trước cả người Ai Cập. Ta có
thể đọc được bản chữ khắc của họ một chút, và tìm ra chìa khóa – ngươi nhìn
đây, đây là một trong những hang động cuối cùng họ đào,” quay lại khối đá phía
sau lưng, bà ấy ra hiệu những người câm mang đèn lên. Khắc trên bệ đá là hình một
ông già ngồi trên ghế, với cây gậy ngà trong tay. Đập vào mắt tôi là dáng vẻ của
ông ấy, cực kỳ giống người được vẽ trong cảnh ướp xác tại căn phòng chúng tôi
hay dùng bữa. Cái ghế giống y như cái của Ayesha đã ngồi phán xử, dưới nó là đoạn
văn tự khắc lên ngắn gọn theo kiểu ký tự kỳ lạ tôi đã nói, nhưng tôi không nhớ
nhiều để minh họa. Nó giống tiếng Trung Quốc hơn bất kỳ ngôn ngữ nào tôi biết.
Dãy ký tự này Ayesha đã tìm hiểu được, hơi khó khăn và do dự, bà ấy đọc to và dịch.
Nó như sau:
“Vào năm 4259 kể
từ lúc thành lập Thành Phố của đế chế Kôr hang động này (hay nơi chôn cất) hoàn
thành bởi Tisno, Vua của Kôr, nơi đây nhân dân và nô lệ của họ đã lao động suốt
ba thế hệ, là ngôi mộ cho các công dân có thứ hạng sẽ tới sau này của họ. Trên
thiên đường Thượng Đế sẽ phù hộ cho công việc của họ, để Tisno yên ngủ, vương
triều hùng mạnh, giống như những chân dung được khắc ở trên, ngủ một giấc yên
bình và hạnh phúc tới ngày thức tỉnh, [*] và giấc ngủ của các đầy tớ của ngài
cũng vậy, những người thuộc chủng tộc của ngài, những kẻ đứng lên theo ngài, sẽ
cúi đầu thấp hơn.”
[*] Câu này rất đáng chú ý, dường như chỉ ra niềm tin về một nhà nước
trong tương lai. – Biên tập viên.
“Ngươi thấy
chưa, Holly,” bà ấy nói, “dân tộc này đã tạo nên thành phố mà tro tàn của nó vẫn
còn làm chướng ngại vật cho đồng bằng phía xa kia từ bốn nghìn năm trước khi
các hang này hoàn thành. Nhưng lần đầu tiên ta nhìn thấy chúng là hai nghìn năm
trước đây, cảnh cũng như bây giờ. Thế nên hãy nghĩ mà xem, thành phố này đã bao
nhiêu tuổi đời! Giờ đi theo ta, ta sẽ chỉ cho ngươi dân tộc vĩ đại này đã ngã
xuống kiểu gì khi thời điểm sụp đổ của nó tới,” và bà ấy dẫn đường xuống giữa
hang, dừng tại một chỗ có hòn đá tròn đặt ở đó trong cái hố lớn do con người
đào trên mặt sàn, đặt khít chính xác như những tấm sắt đặt khít khoảng không
gian bên dưới vỉa hè London chứa than tiếp tế. “Ngươi nhìn này,” bà ấy nói.
“Hãy nói cho ta đó là gì?”
“Không, tôi
không biết,” Tôi trả lời; bà ấy đi qua đó tới cạnh bên tay trái của hang (phía
trước là lối vào ra chính) rồi ra hiệu cho những người câm mang đèn đến. Trên
tường có sơn gì đó màu đỏ với các ký tự tương tự các ký tự trong bức điêu khắc
về Tisno – Vua của Kôr. Đoạn văn tự này bà ấy cũng dịch cho tôi, màu đỏ vẫn
tươi mới đủ để hiện ra hình dáng từng con chữ. Nó như sau:
“Ta, Junis, linh
mục của Đền Thờ Lớn của Kôr, viết điều này lên đá trong nơi chôn cất vào năm
4803 kể từ lúc thành lập Kôr. Kôr đã sụp đổ! Không còn nghi lễ hùng mạnh trong
khán đường lớn nữa, nó không còn thống trị thế giới nữa, các hải đội sẽ đi ra
ngoài giao thương với thế giới. Kôr đã sụp đổ! Những công việc phi thường và tất
cả những thành phố của Kôr, tất cả các hải cảng nó xây dựng và các kênh đào nó
thực hiện, đều cho sói, cú và thiên nga hoang, và đám man rợ đến sau này. Hai
mươi lăm tuần trăng trước, một đám mây đã bao phủ Kôr, và hàng trăm thành phố của
Kôr, cả vùng ngoài đám mây, bệnh dịch hạch tới giết chết người dân, cả già lẫn
trẻ, người này tới người kia, không thương tiếc. Từng người một chuyển thành
màu đen và chết đi – người trẻ và người già, người giàu và người nghèo, đàn ông
và đàn bà, hoàng tử và nô lệ. Dịch hạch giết và giết, không ngừng ngày đêm, những
ai thoát khỏi dịch hạch đều bị chết bởi nạn đói. Trẻ con ở Kôr không còn được bảo
quản theo nghi thức cổ nữa, vì quá nhiều người chết, do đó họ bị ném vào hố lớn
trong hang, rồi tới hố trên sàn hang. Cuối cùng, những tàn dư còn lại của dân tộc
vĩ đại này, ánh sáng của toàn thế giới, đã đi tới bờ biển và lên tàu đi về
phương bắc; còn giờ đây tôi, linh mục Junis, người viết điều này, là người cuối
cùng sống sót còn lại của thành phố vĩ đại này, còn ai nữa chưa rời đi ở các
thành phố khác tôi không biết. Tôi viết điều này trong lòng đau đớn trước khi
tôi chết, vì Đế Chế Kôr không còn nữa, và vì không còn gì để thờ phụng trong
ngôi đền, tất cả các cung điện đều trống rỗng, các hoàng tử, thuyền trưởng,
thương nhân đều đã biến mất khỏi mặt đất.”
Tôi ngạc nhiên
thở dài – việc sụp đổ hoàn toàn được mô tả trong dòng chữ nguệch ngoạc thô lỗ
này quá mạnh mẽ. Thật khủng khiếp khi nghĩ về người sống sót đơn độc của dân tộc
hùng mạnh này đang ghi lại số phận của nó trước khi ông ta cũng đi vào bóng tối.
Người đàn ông già nua đó phải cảm thấy điều gì trong sự cô đơn khủng khiếp, dưới
ánh sáng một ngọn đèn yếu ớt chiếu vào không gian u ám nhỏ bé, trong vài dòng
ngắn gọn ông ấy đã vẽ lại lịch sử cái chết của quốc gia mình trên vách hang?
Đúng là chủ đề cho nhà luân lý học, hay họa sĩ, hay thật ra là cho bất kỳ ai có
thể tư duy!
“Chẳng nhẽ điều
đó không xảy ra với ngươi sao, Holly,” Ayesha nói, đặt tay lên vai tôi, “những
người của dân tộc này đi thuyền về phương Bắc có lẽ là tổ phụ của những người
Ai Cập đầu tiên chăng?”
“Không, tôi
không biết,” Tôi nói; “thế giới có lẽ rất già nua.”
“Già nua ư? Phải,
nó thực sự đã già nua. Thời đại này tới thời đại khác đều có các quốc gia, những
quốc gia giàu mạnh, nghệ thuật uyên bác, rồi cũng xuất hiện và ra đi, rồi bị
quên lãng, vì thế không còn ký ức nào về chúng lưu lại. Nhưng đất nước này là một
trong số đó; vì Thời gian đã ăn mòn các tác phẩm của con người, thực ra trừ khi
người ta đào được các hang động như dân tộc Kôr, biển sau đó có lẽ sẽ nuốt chửng
chúng, hoặc động đất chôn vùi chúng trong đó. Ai biết cái gì đã từng tồn tại
trên mặt đất, hay cái gì sẽ tồn tại? Không có điều gì mới dưới mặt trời, người
Do Thái khôn ngoan đã viết thế từ rất lâu trước đây. Ta nghĩ dân tộc này chưa
hoàn toàn bị hủy diệt. Một vài người còn lại trong các thành phố khác, vì các
thành phố của họ rất đông người. Nhưng đám người man rợ từ phía nam, hay không
chừng cả dân tộc của ta, người Ả Rập, đã trừng phạt họ, lấy phụ nữ của họ làm vợ,
chủng tộc người Amahagger bây giờ là đứa con hoang của những người con xứ Kôr hùng
mạnh, sinh sống trong mồ với xương cốt ông cha họ. [*] Nhưng ta không biết: ai
có thể biết được? Con người của ta không thể xuyên qua màn đêm của Thời Gian. Họ
là một dân tộc vĩ đại. Họ chinh phục cho đến khi không còn gì để chinh phục,
sau đó họ định cư dễ dàng trong các bức tường núi đá, với đám đầy tớ nam và nữ,
đám hát rong, những nhà điêu khắc, và đám thê thiếp của họ, giao dịch và cãi
vã, ăn uống và săn bắn, ngủ và vui vẻ tới khi thời khắc của họ tới. Nhưng hãy tới
đây, ta sẽ chỉ cho ngươi cái hố lớn trong hang động mà đoạn văn tự kia nói đến.
Mắt ngươi sẽ không bao giờ chứng kiến một cảnh nào khác như thế nữa đâu.”
[*] Tên của chủng tộc Amahagger dường như chỉ ra rằng có sự pha trộn các
chủng tộc gây tò mò giống như điều có lẽ đã dễ dàng xảy ra với người hàng xóm
Zambesi. Tiền tố “Ama” chỉ người Zulu và các chủng tộc thân thích nói chung, biểu
thị “dân tộc”, còn “hagger” là một từ Ả Rập có nghĩa là đá. – Biên tập viên.
Tôi đi theo bà ấy
tới một lối đi bên cạnh ra khỏi hang chính, rồi đi xuống rất nhiều bước, dọc
theo một trục ngầm diện tích đá không ít hơn sáu mươi feet, được thông gió bằng
vết khoan chạy thẳng lên trên, tôi không biết chỗ nào. Lối đi kết thúc đột ngột,
bà ấy dừng lại và bảo những người câm giơ đèn lên, như bà ấy tiên đoán, tôi thấy
một cảnh mà tôi không muốn nhìn lại. Chúng tôi đang đứng trước một cái hố khổng
lồ, đúng ra là đứng trên bờ vực của nó, vì nó còn đi xuống sâu hơn nữa – tôi không
biết bao nhiêu – so với chỗ chúng tôi đứng, bên lề là một bức tường đá thấp.
Tôi có thể nhận thấy xa hơn, cái hố có kích thước bằng không gian dưới mái vòm nhà
thờ Thánh Paul ở London, khi những cây đèn chiếu tới, tôi không thấy gì ngoài một
nhà mồ mênh mông, đầy đủ hàng nghìn xương người, chất đống như một kim tự tháp
khổng lồ trắng bóng, do các cơ thể tươi trôi xuống từ đỉnh khi bị ném từ trên
xuống. Tôi không thể tưởng tượng còn gì kinh khủng hơn đống hài cốt lộn xộn của
một dân tộc đã ra đi, điều khiến nó đáng sợ hơn là trong không khí khô, một số
lượng đáng kể thi thể chỉ đơn giản bị sấy khô, lớp da vẫn còn trên đó, giờ đã gắn
chặt vào mỗi vị trí tương ứng, nhìn chằm chằm vào người bên ngoài núi cốt trắng
chúng tôi, trông như biếm họa hình người kỳ quặc khủng khiếp. Tôi bật kêu trong
kinh ngạc, những âm thanh vọng lại từ tiếng kêu của tôi rung động cả không gian
hình vòm, quấy rầy một hộp sọ đã thăng bằng chính xác nhiều ngàn năm gần đỉnh đống
xương. Nó rơi xuống như chạy, vui vẻ vọt tới chỗ chúng tôi, tất nhiên mang theo
một trận tuyết lở của xương cốt sau đó, tới khi toàn bộ cái hố đều chuyển động,
như thể các bộ xương thức dậy chào đón chúng tôi.
“Đi thôi,” Tôi
nói, “Tôi nhìn đủ rồi. Đó là thi thể những người đã chết vì căn bệnh đó phải
không?” Tôi hỏi thêm khi chúng tôi quay đầu.
“Phải. Dân tộc Kôr
từng ướp xác họ, như người Ai Cập đã làm, nhưng nghệ thuật ướp xác của họ tốt
hơn của người Ai Cập, vì trong khi người Ai Cập mổ bụng và hút não, người Kôr chỉ
tiêm chất dịch vào tĩnh mạch là đã đạt được mọi thứ. Nhưng dừng lại đã, ngươi sẽ
thấy,” bà ấy ngẫu nhiên dừng ở một trong các cửa ra vào nhỏ mở ra lối đi dọc
theo con đường chúng tôi đang đi trên đó, ra hiệu cho những người câm chiếu
sáng cho chúng tôi. Chúng tôi đi vào một phòng nhỏ giống căn phòng tôi ngủ ở điểm
dừng chân đầu tiên, chỉ có điều, trong đó thay vì một, có tới hai ghế băng đá
dài hay còn gọi là giường ngủ. Trên băng ghế là các cơ thể được phủ vải lanh
vàng, [*] bụi mịn nguyên chất tụ đầy trên xác theo năm tháng, nhưng không giống
những gì lẽ ra phải thế, vì trong các hang sâu này không có chất liệu nào biến
thành bụi. Cạnh những cơ thể trên kệ đá và sàn mộ là nhiều bình lọ có họa tiết,
nhưng tôi thấy rất ít đồ trang sức hay vũ khí trong những căn hầm thế này.
[*] Toàn bộ vải lanh người Amahagger mặc đều lấy từ mộ, có sắc vàng đặc
trưng. Tuy nhiên chúng được giặt rất sạch, và có thể tẩy trắng lại lần nữa, tạo
thành màu trắng tuyết như cũ, là loại vải lanh mềm nhất và tốt nhất tôi từng thấy.
– L.H.H.
“Cầm tấm vải đó
lên, Holly,” Ayesha nói, nhưng khi tôi đưa tay ra làm thế, tôi rụt tay trở lại.
Giống như phạm thượng, nói thật, tôi kinh ngạc trước sự trang nghiêm oai vệ của
nơi này, đang hiện hữu trước chúng tôi. Buồn cười vì nỗi sợ hãi của tôi, bà ấy
cầm nó lên, rồi phát hiện ra những tấm vải khác tốt hơn nằm phủ trên những hình
hài trên ghế đá. Bà ấy cũng bỏ chúng lại, rồi lần đầu tiên trong hàng nghìn năm
qua đôi mắt sống động nhìn vào gương mặt người chết lạnh lẽo. Đó là một phụ nữ;
cô ta có lẽ khoảng ba mươi lăm tuổi, hoặc ít hơn một chút, chắc chắn rất xinh đẹp.
Ngay cả bây giờ những đường nét yên bình rõ ràng, nhấn bằng đôi lông mày tinh tế
và hàng mi dài phản chiếu bóng ánh đèn trên gương mặt trắng ngà vô cùng đẹp đẽ.
Khoác áo choàng trắng, mái tóc xanh đen xõa xuống, cô ấy ngủ giấc ngủ dài cuối
cùng, trên một cánh tay là gương mặt áp vào ngực cô ấy, một đứa trẻ nằm đó. Khung
cảnh thật ngọt ngào, dù kinh khủng – tôi không hề xấu hổ thú nhận điều đó – tôi
khó mà cầm được nước mắt. Nó đưa tôi trở lại biên giới mờ nhạt của thời gian, tới
mái nhà hạnh phúc của Đế Chế Kôr đã chết, nơi đó người phụ nữ xinh đẹp, cám dỗ
này sống và chết, chết đi mang theo người cô ấy sinh ra theo cô ấy vào nấm mồ.
Họ đã ở đây trước chúng tôi, người mẹ và đứa trẻ, những ký ức trắng xóa về câu
chuyện nhân bản đã bị quên lãng nói lên một cách hùng hồn, chạm tới tận trái
tim, hơn bất kỳ điều gì ghi lại về cuộc đời họ. Tôi để mảnh vải niệm trở lại một
cách cung kính, thở dài cho những đóa hoa đẹp đẽ, mang ý nghĩa Vĩnh Hằng, chỉ nở
rộ trong nấm mồ, tôi quay lại cơ thể đối diện, nhẹ nhàng vén mạng che lên. Đó
là một người đàn ông đời trước, bộ râu dài muối tiêu, cũng khoác áo choàng trắng,
có lẽ là chồng người phụ nữ, người đã sống cùng cô ấy nhiều năm, cuối cùng cũng
đi tới giấc ngủ một lần nữa vì những gì thánh thiện đẹp đẽ bên cạnh cô ấy.
Chúng tôi rời nơi đó và vào những chỗ khác.
Quá dài dòng nếu mô tả những thứ tôi nhìn thấy. Mỗi người đều có nơi cư ngụ của
mình, vì hơn năm trăm năm đã trôi qua từ lúc hang động hoàn thành tới khi chủng
tộc đó bị hủy diệt, rõ ràng đủ để lấp đầy các hầm mộ này, không đếm hết được, tất
cả dường như không bị xáo trộn từ ngày họ đặt chân tới đây. Tôi có thể viết đầy
một cuốn sách để mô tả về chúng, nhưng làm vậy chỉ có thể lặp lại những gì tôi
đã nói, vô số lần.
Hầu hết các cơ
thể đều được đối xử như tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, hoàn hảo như ngày họ chết
hàng nghìn năm trước. Không gì tới làm tổn thương họ trong yên lặng sâu thẳm của
đá: họ đều vượt ngoài tầm với của nóng lạnh và ẩm ướt, các loại thuốc tạo hương
thơm đã bão hòa rõ ràng đã thực sự kéo dài vĩnh viễn hiệu quả của nó. Tuy nhiên
đây đó, chúng tôi thấy một ngoại lệ trong đó, dù xác thịt nhìn bề ngoài trông
khá tốt, nếu chạm vào nó sẽ rơi ra, chứng tỏ thực tế rằng, hình hài đó là một đống
bụi. Ayesha nói với tôi, điều đó phát sinh từ những cơ thể đặc biệt, do sự vội
vàng khi chôn cất hay những nguyên nhân khác, được ngâm trong chất bảo quản, [*]
thay cho việc tiêm vào trong cơ thể.
[*] Ayesha sau đó chỉ cho tôi thấy cái cây mà lá của nó dùng để sản xuất
chất bảo quản cổ xưa này. Đó là một loại cây bụi thấp, ngày nay sinh trưởng
tươi tốt trên sườn núi, chính xác là sườn dẫn lên các bức tường đá. Lá của nó
dài và hẹp, màu xanh sống động, nhưng đổi thành màu đỏ tươi sáng trong mùa thu,
bề ngoài không khác cây nguyệt quế. Chúng có ít mùi khi xanh, nhưng nếu luộc
chín, mùi thơm rất mạnh tỏa ra từ nó khiến ai cũng khó mà chịu nổi. Tuy nhiên,
hỗn hợp tốt nhất được làm từ rễ, trong dân tộc Kôr có một đạo luật, Ayesha đã
chỉ cho tôi nó được ám chỉ tới trên một vài bản văn tự, rằng, sẽ thi thành hình
phạt nặng nề đau đớn để không ai ở dưới một cấp bậc nhất định được ướp xác bằng
thuốc chiết xuất từ rễ cây. Mục đích và hiệu quả của luật này, tất nhiên để đảm
bảo loài cây này không bị tiêu diệt. Việc buôn bán lá và rễ của cây này do
Chính Phủ độc quyền, nhờ đó các đời Vua của Kôr thu được một phần lớn lợi nhuận.
– L.H.H.
Tuy nhiên với
ngôi mộ cuối cùng chúng tôi tới thăm, tôi phải nói một lời, vì những gì nó nói
lên nỗi thương cảm con người còn hùng hồn hơn những ngôi mộ trước đó. Nó có hai
người cư ngụ, họ nằm bên nhau trên kệ đơn. Tôi rút vải niệm và ở đó, siết chặt
lấy trái tim, là một người đàn ông trẻ và một cô gái đương thì rực rỡ. Đầu cô
gái nằm trong cánh tay chàng trai, đôi môi chàng trai ấn lên trán cô gái. Tôi mở
tấm áo choàng vải lanh của chàng trai, phía tim anh ta có vết thương từ dao
găm, dưới ngực người phụ nữ cũng có một nhát đâm tàn nhẫn như thế, nó lấy đi
sinh mạng cô ấy. Ở tảng đá phía trên có dòng chữ chỉ ba từ. Ayesha dịch nó. Đó
là “Cưới bằng Cái Chết”.
Chuyện đời của
hai người này thế nào, những con người, sự thật, sống và chết rất đẹp đẽ, không
bị chia lìa?
Tôi nhắm mắt, tưởng
tượng, mang theo luồng suy tư, phi tàu con thoi nhanh chóng ngược trở lại các
thời đại, dệt một bức tranh vào bóng tối thật chân thực sống động tới từng chi
tiết đến nỗi có lúc tôi đã nghĩ tôi đã chiến thắng Quá Khứ, đôi mắt linh hồn
tôi đã xuyên qua bí ẩn của Thời Gian.
Dường như tôi thấy
hình bóng cô gái xinh đẹp này – mái tóc vàng chảy xuống lấp lánh trên nền vải
tuyết trắng, bộ ngực còn trắng hơn cả áo khoác, mập mờ trong ánh sáng trang sức
vàng. Tôi dường như thấy cái động lớn đầy chiến binh, râu quai nón, mặc giáp,
trên bệ đá sáng trưng nơi Ayesha đã ngồi phán xử, một người đàn ông đứng đó,
khoác áo choàng bao quanh bởi những biểu tượng quan tư tế. Trên hang, một người
mặc áo màu tía đi tới, trước và sau ông ta là những người hát rong và tì nữ
xinh đẹp, đang hát bài hát đám cưới. Một cô gái mặc đồ trắng đứng trước điện thờ,
xinh đẹp hơn cả người xinh đẹp nhất ở đó – tinh khiết hơn đóa bạch hoa, lạnh lẽo
hơn sương giá lấp lánh nơi trái tim. Nhưng khi người đàn ông tới gần, cô ấy
rùng mình. Rồi ngoài dự đoán, trong đám đông xuất hiện một người trẻ tuổi tóc
đen, đưa tay về phía cô gái đã quên mất từ lâu, hôn lên khuôn mặt nhợt nhạt của
cô ấy, nơi máu bắn ra như ánh bình minh đỏ rực trên bầu trời yên tĩnh. Tiếp
theo ồn ào và hỗn loạn, một ánh gương lóe lên, họ lôi người thanh niên khỏi tay
cô ấy, đâm anh ta, nhưng cô ấy kêu lên, giật lấy con dao găm từ thắt lưng chàng
trai, hướng nó vào bộ ngực tuyết trắng, ngôi nhà của trái tim, rồi cô ngã xuống,
những âm thanh kêu khóc, than thở vang lên, khung cảnh lộng lẫy cuộn ra khỏi phạm
vi tầm nhìn của tôi, một lần nữa quá khứ đóng cuốn sách của nó lại.
Người đọc hãy
tha thứ cho mơ mộng xâm lấn vào câu chuyện thực tế. Nhưng với tôi, đó như bản gốc
– tôi thấy câu chuyện rất rõ ràng trong phút chốc, như thể nó đang hiện hữu; hơn
nữa, ai nói phần nào là thực, quá khứ, hiện tại, hoặc phần nào là bịa đặt trong
tưởng tượng? Điều gì là tưởng tượng? Có lẽ đó là bóng dáng của sự thật vô hình,
có lẽ đó chỉ là suy nghĩ trong lòng.
Trong khoảnh khắc
toàn bộ trôi qua não tôi, còn Bà ấy
nói với tôi.
“Than ôi con người,”
Ayesha che mặt nói khi bà ấy cuộn lại tấm vải trên xác hai người yêu nhau, giọng
nói bà ấy trang trọng, ly kì, tương đối khớp với giấc mơ tôi từng mơ: “đi tới nấm
mồ, để quên lãng che đi nấm mồ, cuối cùng tất cả chúng ta đều phải tới đó thôi!
Ôi, ta đã sống quá lâu rồi. Đối với ta, Holly ạ, hàng nghìn nối hàng nghìn năm
nữa; rồi hàng nghìn năm sau ngươi đi qua cánh cửa và lạc mất trong sương mù, một
ngày nào đó khi bình minh tới ta sẽ chết, giống như ngươi và những người này.
Thế thì cái gì cần dùng để ta sống lâu hơn chút nữa, cách xa cái chết nhờ kiến
thức ta thu được từ Tự Nhiên, vì cuối cùng ta cũng phải chết? Khoảng cách mười
ngàn năm, hay mười lần mười ngàn năm trong lịch sử thời gian là gì? Không là gì
cả - nó như sương mù cuộn lại trong ánh mặt trời; nó chạy trốn như một giấc ngủ
hay một hơi thở của Linh Hồn Vĩnh Cửu. Than ôi con người! Chắc chắn nó sẽ đuổi
kịp chúng ta, và chúng ta sẽ phải ngủ. Chắc chắn chúng ta cũng lại thức dậy và
sống lại, rồi lại ngủ tiếp, cứ thế và cứ thế, xuyên qua nhiều triều đại, không
gian, và thời gian, từ niên đại này tới nhiên đại khác, tới khi thế giới chết hết,
và các thế giới bên ngoài thế giới này chết hết, không còn gì sống sót ngoài
Linh Hồn – đó là Sự Sống. Nhưng vì hai chúng ta và vì những người chết này, kết
cục của các kết cục sẽ là Sự Sống, hay sẽ là Cái Chết? Nhưng Cái Chết là Màn
Đêm của Sự Sống, ra khỏi đêm tối, Ngày Mai lại tái sinh, rồi Màn Đêm lại sinh
ra lần nữa. Chỉ khi nào Ngày và Đêm, Sự Sống và Cái Chết, đều kết thúc và bị nuốt
chửng trong những gì nó sinh ra, số phận của chúng ta sẽ ra sao, Holly? Ai có
thể nhìn xa hơn nữa? Không, thậm chí ngay cả ta!”
Rồi giọng điệu
và cách thức đột ngột thay đổi.
“Ngươi đã thấy đủ
chưa, khách lạ, hay ta sẽ chỉ cho ngươi thêm những kỳ quan mộ chí trong khán
phòng cung điện của ta? Nếu muốn, ta có thể dẫn ngươi tới chỗ Tisno, vị Vua
hùng mạnh và dũng cảm nhất của Kôr, các hang động này đã hoàn thành vào thời của
ông ta, giờ ông ta nằm trong nơi lộng lẫy như chế nhạo hư vô, chào đón bóng tối
trống rỗng của quá khứ đang sùng kính thứ hư ảo đã khắc sâu của ông ta!”
“Tôi đã xem đủ rồi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi trả lời.
“Trái tim tôi đang choáng ngợp trước sức mạnh Thần Chết hiển hiện. Loài người rất
yếu đuối và dễ bị tan nát bởi cảm giác đồng hành chờ đợi thời khắc kết thúc. Vì
thế hãy dẫn dắt tôi, Ayesha!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét